Friday, November 21, 2008

đọc tạm Lý Bạch



Dạ Tư

Lý Bạch (701 – 762)








Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.


(Các chữ Tàu: Tư: ý nghĩ, suy nghĩ. Quang: sáng (nhân+lửa: người cầm lửa). Cử: nhấc lên, ngửng lên. Đê: cúi xuồng. Cố: quá khứ, về trước. Hương: vùng quê, làng.)

Nghĩa:
Nghĩ trong đêm Trước giường, có ánh sáng (trăng) chiếu, Tưởng là sương bốc trên mặt đất. Ngửng đầu nhìn vầng trăng sáng Cúi đầu, nhớ làng cũ.


Tạm dịch

Trước giường ánh sáng chiếu
Ngờ đất bốc hơi sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương



Trong ĐTTBT xếp ở phần ngũ ngôn luật thi


Bình:

Bài thơ vỡ lòng của những người học chữ Tàu bằng thơ Đường. Ngắn, giản dị. dễ hiểu. Bài thơ 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Tổng cộng có 20 chữ. Lý đã dùng các chữ “nguyệt” và “đầu” hai lần với cùng một nghĩa. Vậy chỉ còn 18 chữ. Sao lại được truyền tụng mãi?

1. Điệp tự:

Có phải là điệp tự không? Lý đã sử dụng điệp tự nhiều lần:

a. Bài Cổ phong: Đăng cao vọng tứ hải: Thiên địa hà man man (Lên cao nhìn bốn biển; Trời đất mênh mông chừng nào!)
b. Bài Tống Hữu Nhân: Huy thủ tự tư khứ, Tiêu tiêu ban mã minh (Bạn vẫy tay, ra đi từ đây; Con ngựa lìa đàn hí đau thương)
c. Bài Nghĩ cổ: Sinh giả vi quá khách; Tử giả vi qui nhân (Người sống là khách đi qua; Kẻ chết là khách trở về)

Trong (a) và (b) là tiếng đôi, điệp thanh, không phải điệp tự, chỉ có ở (c), Lý cố ý dùng điệp tự cho mạnh ý. Trong Dạ tư, các chữ nguyệtđầu đúng là điệp tự. Lý chắc không làm thơ với ý giữ niêm luật chặt chẽ, chỉ cốt đạt ý. Đó cũng là đặc điểm của thơ Đường, khác với thơ Tống, chữ đẹp mà ý sáo, về sau này.

2.
Ý rất đẹp, thư trung hữu hoạ. Bức tranh im lặng nhưng sống động: (chợt tỉnh giấc) thấy ánh sáng trước giường nằm… Lúc ấy, tưởng là sương do hơi đất bốc thành; Nhưng hướng lên cao, thấy vầng trăng sáng (lẻ loi); Cúi đầu, nhớ quê cũ…. Ý tại ngôn ngoại: Không nói nhiều về “tư cố hương”, chỉ nhắc đến, để mỗi người đọc tự đem tình riêng của mình vào: Bao nhiêu khách cô lữ tỉnh giấc giữa khuya, nhìn trăng, là có bấy nhiêu nỗi nhớ, khác nhau! Hai câu đầu: không ngủ, chợt tỉnh giấc giữa đêm, vì sao? Câu cuối cho biết là vì nỗi nhớ quê hương.

Cả bài là nỗi nhớ: - Nhớ không ngủ (câu 1) - nhớ quên không và thời gian (câu 2) - Trăng soi sáng (câu 3) - Vào lòng nhớ quê hương (câu 4) Hơn 14 thế kỷ trước, viết như thế nên sống mãi trong lòng người, dù có điệp tự.

Lý sống phóng túng, làm thơ cũng không khuôn sáo, khác với Đỗ và Bạch. Phải chăng giòng máu lạ trong người ông. Lý chỉ có một nửa giống Tàu, mẫu thân vốn người Tây Vực.

3.
 Chữ Tàu nghèo các danh từ trừu tượng, tổng quát. Có thể nào thay chữ nguyệt bằng chứ khác được không? Để diễn ý “trước giường thấy ” ánh sáng, lúc ấy còn không rõ là gì, còn “nghi” là sương. Phải viết là : sàng tiền khán "????" quang Trong tiếng Tàu, không có từ chỉ ánh sáng nói chung (la lumière, the light) nhưng chỉ có ánh sáng cụ thể đến từ một nguồn sáng: nhật quang, nguyệt quang, đăng quang, dạ quang, …

Chữ Tàu thiếu những danh từ có tính tổng quát hoá, trừu tượng hoá [1]; Bị trói buộc trong sự nghèo nàn này. Lý phải dùng chữ nguyệt quang.

Dùng như vậy là paradox vì ở câu hai Lý còn tưởng là hơi đất nghĩa là vẫn không biết là ánh sáng, và dĩ nhiên là không thể biết là ánh trăng - ánh sáng của trăng ở câu đầu.

Theo trình tự: Thấy ánh sáng + Ngỡ hơi đất, Nhìn trăng + biết ánh sáng của trăng. Nhưng vì không có chữ chỉ ánh sáng tự thân trong tiếng Tàu, nên Lý phải dùng “nguyệt quang” ngay ở câu đầu! Dù quang lúc đó chưa biết là đến từ nguyệt!

Cả bài thơ, toàn các từ cụ thể: giường, trăng, sương, …các động từ; cúi đầu, ngửng đầu, nhớ… Chỗ thành công của bài này là mở ra một khung trời cho người đọc đem chính nỗi nhớ của mình vào. Bài thơ để cho người đọc tham dự.


Lê Dọn Bàn


[1] Thí dụ, để chỉ sự toàn vẹn, tuỵệt đối (perfection) người Tàu dùng hai từ cụ thể: tròn, khép kín và đầy đến bờ, ghép vào nhau: viên mãn.
Thế nên, chúng ta nên tự hỏi - Nếu phải đi mượn chữ, sao không chọn chỗ giàu có hơn, hay về tận gốc.