Dạ Tư
& A Memory
Đây là hai bài thơ, một Tàu một Tây, cách nhau hơn nghìn năm, nhưng chung một tình cảm: nhớ quê hương
Thơ Tàu:
Lý Bạch – khách lữ, nhìn trăng nhớ nhà. Bài này rất nổi tiếng, có hai câu cuối bất hủ:
Dạ Tư
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Lý Bạch (701-602)
Dịch:
Trước hết tôi dịch thành tứ tuyệt, mong giữ phần nào chất Đường thi. Sau dịch thành lục bát và song thất lục bát cho thành Việt thi:
4 chữ:
Trước giường ánh sáng chiếu
Ngờ đất bốc hơi sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
6/8:
Ánh trăng lan đến trước giường,
Tưởng đâu hơi đất thành sương dâng mờ.
Ngẩng đầu nguyệt sáng như tờ,
Cúi đầu quê cũ giấc mơ nặng lòng
7-7/6/8:
Trăng buông sáng đến trước giường
Tỉnh giấc ngỡ hơi đất bốc sương
Trên cao vằng vặc vầng gương
Soi lòng quặn nỗi cố hương cúi đầụ
B.
Thơ Tây:
William Allingham, người Irish, do sinh kế nên sống ở England . Dù chỉ cách một eo biển, nhưng lòng nhớ quê vẫn muôn trùng.
Bài Memory này làm tên ông được lưu mãi đến naỵ
A Memory
Four ducks on a pond,
A grass-bank beyond,
A blue sky of spring,
White clouds on the wing;
What a little thing
To remember for years-
To remember with tears!
William Allingham (1824 – 1889)
Dịch
Kỷ Niệm
Bốn con vịt trong ao
Bờ xa cỏ lao xao
Trời xuân màu xanh thẳm
Mây trắng bồng bềnh cao
Ôi những điều vụn nhỏ
Bao năm mãi nôn nao
Lệ nhớ vẫn nghẹn ngào
C.
Cả hai bài đều ngắn, giản di.
Bài của Lý, nửa đêm tỉnh giấc, nhìn trăng nhớ quê, tình dễ cảm, cảnh huống dễ chia sẻ. Nên đọc lần đầu, lúc rất nhỏ tuổi, thấy hay ngay, dịch cũng dễ.
Bài của Allingham, Những kỷ niêm riêng tư, con vịt lội trong ao, mây trắng, trời xanh,.. Có thể là vẩn vơ với người này, nhưng là vô cùng với người kiạ. Đọc trên ghế nhà trường, thở còn thơ, chưa thấy haỵ. Mãi sau này, ngẫm nghĩ ở những cõi xa quê, mới thấm thía.
Đôi lần, trên đường thiên lý, tôi lại thấy mây trắng, trời xanh, trên một ao “quê” (Tây) bồng bềnh những những con vịt ngẩn ngơ.
Lê Dọn Bàn