(Dialogues concerning Natural Religion)
David Hume
Tóm lược
Trò chuyện giữa Demea,
Cleanthes và Philo bắt đầu với một câu hỏi liên quan với giáo dục: khi nào là tốt
nhất để bắt đầu việc dạy gót học cho những sinh viên? Demea biện luận rằng chỉ
nên đem dạy gót học cho một trí tuệ trưởng thành: một sinh viên đầu tiên
học lôgích học, đạo đức học và vật lý học, và chỉ sau đó họ mới quay sang môn gót
học. Ông có hai lý do để chọn thứ
tự này hơn. Thứ nhất, bằng việc học hỏi những môn học nền tảng này
trước đã, não thức của sinh viên sẽ được
đào luyện và sẵn sàng với môn học khó nhất trong tất cả là gót học. Thứ hai, và quan trọng hơn trong
nội dung của Đàm thoại, ông muốn sinh viên nhận ra những giới hạn nghiêm
trọng của triết học. Ông hy vọng họ sẽ thấy những nhà triết học hiếm khi đưa ra
kết luận chắc chắn như thế nào, ngay cả những nhà tư tưởng uyên bác nhất cũng
thường xuyên đưa ra những lý thuyết phi lý như thế nào, và lý trí của con người
có thể không đáng tin cậy như thế nào. Bằng phơi ra những điểm yếu này, Demea bảo đảm
rằng sinh viên của ông không trở nên quá kiêu ngạo đến mức nghĩ rằng chỉ có lý trí mới có thể
thách thức những tín ngưỡng tôn giáo.
Động
lực thứ hai này của Demea rất giống với quan điểm của người
theo thuyết duy tín – ý tưởng cho rằng lòng tin tôn giáo, chứ không phải
lý trí, là nền tảng thích hợp cho tín ngưỡng tôn giáo. Philo nhanh
chóng nhận ra đề tài này và mở rộng thêm, nhấn mạnh lý trí của con người thực sự yếu đuối và
không đáng tin cậy như thế nào. Ông lập luận rằng việc nhận ra giới hạn của lý
trí là cần thiết để có lòng mộ đạo thực sự. Ông cho rằng nếu lý trí quá mong
manh và không chắc chắn, thì thật không khôn ngoan khi dựa vào nó để giải quyết những vấn đề sâu xa
như gót học.
Dĩ nhiên, Cleanthes kinh
hoảng khi
hai người bạn ông đều đề nghị đặt lòng tin tôn giáo trên
sự hoài nghi triết học hơn là trên lý trí. Ông dành phần còn lại của chương này
để cố gắng vạch trần sự hoài nghi của Philo như không
chân thực. Philo đáp lại bằng liên tục
sửa đổi lập trường hoài nghi của ông vào thành những hình thức
ngày càng tinh tế hơn. Ban đầu, có vẻ như Philo
tuyên bố rằng chúng ta không thể thực sự tin tưởng được vào bất cứ gì. Sau đó,
Cleanthes hỏi, hỏi liệu Philo có định sẽ ra về bằng cửa ra vào
hay cửa sổ? – ngụ ý rằng nếu Philo thực sự hoài nghi về những luật của tự nhiên, thì
ông cũng có thể bỏ qua trọng lực và nhảy ra ngoài!
Philo
nói với Cleanthes rằng đã mô tả sai lập trường hoài nghi của ông. Philo tin vào những gì lý trí bảo
ông tin, nhưng ông cân nhắc tin tưởng của ông với bằng chứng. Trong
những lĩnh vực chúng ta có nhiều kinh nghiệm và bằng chứng và như thế dựa những
kết luận của chúng ta trên nhiều bằng chứng đó (những lĩnh vực như đời sống
hàng ngày, đạo đức, chính trị, thương mại, hay ngay cả việc nhảy qua cửa sổ),
Philo giải thích, chúng ta có thể tin tưởng vững mạnh vào kết luận của chúng ta
. Nhưng khi nói đến
những đề tài vốn chúng ta không có kinh nghiệm trực tiếp, như sự hình thành của
thế giới, hay bản chất của Gót, chúng ta không có cơ sở nào để biện minh thuận
hợp lý trí cho bất kỳ kết luận nào của chúng ta. Thay vì tuyên bố cực đoan rằng
chúng ta không thể tin bất cứ gì, Philo thực sự đưa ra tuyên bố khiêm tốn hơn
nhiều, rằng chúng ta chỉ nên tin vào những gì chúng ta có bằng chứng tốt để
tin, và chúng ta chỉ có bằng chứng như
vậy trong những lĩnh vực chúng
ta có kinh nghiệm trực tiếp.
Tuy nhiên, Cleanthes không hài lòng với tuyên bố hoài
nghi dù khiêm tốn này. Ông cho thấy rằng Philo và những đồng bạn hoài nghi của
Philo dường như không có khó khăn nào trong việc khi đưa ra những kết luận khi
đi đến những khoa học suy đoán [1].
Chẳng hạn, họ dường như tin tưởng vào những kết luận do Newton, Copernicus và
Galileo đưa ra,
dù những kết luận này liên quan đến những đề tài rất xa lạ với kinh nghiệm hàng
ngày của chúng ta. Ông tuyên bố, đó là tiên kiến thuần túy, đã ngăn
cản họ, không
cho dùng phương
pháp lý luận tương tự này trong
gót học. Nếu lý trí của con người đủ tốt để biện minh cho những
giả thuyết khoa học, nói cách khác, thì nó cũng
đủ tốt để biện minh cho những
lý thuyết gót học. Ông kết luận bằng khẳng định rằng thực sự không có khác biệt
giữa một người hoài nghi và một người không-tin-có-gót.
Philo biện hộ cho mình, phản lại
tuyên bố về thuyết không-tin-có-gót, sau khi xác định tin tưởng vững mạnh của
ông vào sự hiện hữu của
Gót. Tuy nhiên, ông cho thấy rằng những tổ chức tôn giáo (những hội nhà thờ)
thực sự có vẻ như đong đưa quan điểm của họ về thuyết hoài nghi: họ chấp nhận
thuyết hoài nghi bất cứ khi nào lý trí dường như đe dọa quyền lực của họ, nhưng họ
ôm lấy
lý trí khi nó trở thành cách duy nhất để duy trì ảnh hưởng của họ.
PHẦN I.
D 1.1, KS 130
Sau khi tôi nhập vào
nhóm, với những người tôi thấy đang ngồi trong phòng sách của Cleanthes, Demea
đã nói vài lời khen ngợi với Cleanthes, về sự chăm sóc chu đáo, vốn ông này đã
nhận lãnh trong việc giáo
dục cho tôi, và về sự bền chí và kiên định không mệt mỏi của ông trong tất cả
những tử tế thân thiện của ông. Cha của Pamphilus, ông nói, đã là người
bạn thân của bạn: Đứa con trai là học trò của bạn, và quả thực có thể xem như
con nuôi của bạn; chúng tôi đã thẩm
định những công sức ông đã dành trong việc truyền đạt cho
Pamphilus mọi ngành hữu ích của văn học và khoa học. Bạn thì không thiếu
xót, tôi tin chắc, trong thận trọng hơn trong cần mẫn nhiệt tình. Do đó,
tôi sẽ chia xẻ với bạn một châm ngôn vốn tôi đã tuân theo về phần những con cái
của riêng tôi, để tôi
có thể biết nó hợp ý với thực hành của bạn được đến đâu. Phương pháp tôi
đi theo trong việc giáo dục của chúng thành lập trên câu nói của một người xưa,
“rằng những sinh viên của triết học đầu tiên phải học Lôgích, sau đến Đạo
đức học, Vật lý học kế tiếp, cuối cùng tất cả là Bản chất của những gót” [2]
Khoa học này về Gót học Tự nhiên [3],
theo như người này, là sâu xa và tối tăm khó hiểu nhất so với bất kỳ ngành học
nào, đòi hỏi sự phán đoán chín chắn nhất trong những sinh viên của nó; và
không gì nhưng chỉ
một tinh thần, đã được giàu có với tất cả những khoa học khác, có thể an toàn
được ủy thác với nó.
D 1,2, KS 130-1
Bạn có đợi quá lâu không, Philo nói, trong
việc dạy con cái bạn những nguyên tắc của tôn giáo? Trong toàn bộ tiến
trình giáo dục của chúng, liệu có nguy
cơ chúng sẽ sao nhãng hay gạt bỏ cả
thảy những ý kiến vốn chúng đã
nghe rất ít không? Nó thì chỉ như một ngành
khoa học, Demea trả lời, là đối tượng cho lý luận và tranh luận của con người,
khiến tôi tạm hoãn lại sự học hỏi về Gót học Tự nhiên. Để thêm
vào tinh thần của chúng lòng kính tín sớm hơn thường lệ, là quan tâm chính của
tôi; và bằng qui tắc và chỉ dẫn liên tục, và tôi cũng hy vọng, bằng làm
gương thí dụ, tôi in sâu vào những não thức mềm mỏng của chúng một sự tôn kính, thành thói quen với tất cả
những nguyên tắc của tôn giáo. Trong khi chúng học mỗi khoa học khác, tôi
vẫn nhận xét về sự không chắc chắn của mỗi phần, những tranh chấp muôn thuở của
con người, sự tối nghĩa của tất cả triết học, và những kết luận kỳ lạ, lố bịch,
vốn một số những thiên tài lớn nhất đã rút ra từ những nguyên lý của chỉ đơn
thuần lý trí con người. Sau khi đã thuần hóa tinh thần của chúng với một
sự khuất phục và sự khiêm tốn-về-mình thích ứng, tôi thội không còn bất kỳ khó
khăn nào của việc mở ra cho chúng những bí ẩn lớn nhất của tôn giáo, cũng không
bị nắm giữ, bởi bất kỳ nguy hiểm nào từ sự kiêu ngạo hợm hĩnh đó của triết học,
vốn có thể dẫn chúng đến phủ nhận những học thuyết và ý kiến đã thành lập vững
chắc và lâu dài nhất.
D 1.3, KS 131-2
Cẩn trọng của bạn, Philo
nói, trong việc pha thêm hương vị vào
não thức con cái bạn với lòng kính tín sớm sủa, thì chắc chắn rất hợp
lý; và không nhiều hơn là cần thiết, trong thời thế tục và không tôn giáo
này. Nhưng những gì tôi khâm phục chủ yếu trong chương trình của bạn về
giáo dục là phương pháp của bạn về việc rút lấy ưu điểm từ chính những nguyên
lý của triết học và học hỏi, bằng việc gây hứng khởi tự hào và tự giải quyết,
vốn trong mọi thời, chúng thường đã thấy là hết sức phá hoại với những nguyên
tắc của tôn giáo. Thật vậy, người thông tục, chúng ta có thể nhận xét,
những người không quen biết với khoa học và sự thăm
dò sâu xa, sau khi quan
sát những tranh luận bất tận của giới có học, đều có
chung một khinh miệt hoàn toàn dành cho Triết
học; và trở nên gắn bó
chặt chẽ hơn với những tin tưởng cơ bản của
Gót học, vốn họ đã được dạy. Những ai kia, những người đi vào một chút
trong học hỏi và thăm dò, tìm thấy nhiều những xuất hiện của bằng chứng mới
nhất và phi thường nhất trong những học thuyết, nghĩ không gì quá khó khăn cho
lý trí con người; và tự phụ phá vỡ qua tất cả hàng rào, xúc phạm những
chốn linh thiêng sâu thẳm nhất của đền thờ. Nhưng tôi hy vọng rằng, Cleanthes sẽ đồng ý với
tôi, sau khi chúng ta đã buông bỏ sự dốt nát, phương thuốc chắc chắn nhất, có
chỉ một thuận lợi còn lại để ngăn chặn tự do thế tục này. Hãy
để những nguyên tắc của Demea được cải tiến và vun trồng: Hãy để chúng ta trở
nên thấu đáo thiết thực và hợp lý về sự yếu đuối, mù quáng và những giới hạn
chật hẹp của lý trí con người: Hãy để chúng ta đúng cách cân nhắc tính không
chắc chắn và những mâu thuẫn vô tận của nó, ngay cả trong những đối tượng của
đời sống và thực hành thông thường: Hãy để những sai lầm và những lừa dối của
chính những giác quan chúng ta đặt trước chúng ta; những khó khăn không
thể vượt qua, vốn dính chặt vào chính những ý tưởng đầu tiên về vật chất, nhân
và quả, sự kéo dài [4],
không gian, thời gian, chuyển động; và trong vắn tắt, tất cả những gì liên
quan đến kích thước, số lượng và tỷ lệ, đối tượng của lĩnh vực duy nhất có sự
chắc chắn thực sự, vốn có thể khẳng
định hợp lý bất kỳ sự chắc chắn thực sự hay bằng chứng có thể chứng minh nào. Khi
những đề tài này được trưng bày dưới ánh sáng đầy đủ của chúng, như chúng được
một vài triết gia và hầu hết tất cả những những nhà gót học trưng bày; Ai
có thể còn giữ
được
tin tưởng như vậy trong khả
năng yếu ớt này của lý trí để chú ý về
phần liên quan đến những xác quyết của nó trong những điểm quá cao với, quá tối
tăm khó hiểu, quá xa rời với đời sống và kinh nghiệm thông thường? Khi sự
kết hợp mạch lạc của những phần của một viên đá, hay ngay cả sự hợp
phần đó của những phần, làm cho nó mở rộng
trong không gian; khi những đối tượng
quen thuộc này, tôi nói, đều như thế không thể giải thích được, và chứa đựng
những trường hợp rất không nhất quán và
mâu thuẫn; với sự bảo đảm nào chúng ta có thể quyết định liên quan đến
nguồn gốc của những thế giới, hay theo dõi lịch sử của chúng từ vô tận đến vô
cùng?
D 1.4, KS 132
Trong khi Philo nói những
lời này, tôi có thể trông thấy một mỉm cười trên nét mặt của cả Demea và
Cleanthes. Mỉm cười đó của Demea dường như hàm ý một sự hài lòng không che giấu trong những học thuyết đã
đưa ra: Nhưng trong nét mặt của Cleanthes, tôi có thể nhận ra một tế nhị; như thể ông
nhận thấy một vài giễu cợt hay mỉa mai ngầm trong
những lý luận của Philo.
D 1,5, KS 132
Vậy thì, Philo, Cleanthes
nói, bạn đề nghị dựng
lòng tin tôn giáo trên sự hoài nghi triết học; và bạn nghĩ rằng, nếu tính
chắc chắn hay bằng chứng bị đuổi ra khỏi mọi đối tượng khác của nghiên cứu, sẽ tất cả rút lui về những
học thuyết gót học này, và ở đó có được một sức mạnh và thẩm quyền vượt
trội. Nhưng liệu sự hoài nghi của bạn có tuyệt đối và chân thành như bạn
tuyên bố hay không, sau
cùng chúng
ta sẽ biết, khi
hội họp
của chúng ta kết thúc: khi đó chúng ta sẽ thấy, liệu bạn
có ra
về bằng
cửa lớn hay cửa sổ; và liệu bạn có thực sự hoài nghi rằng cơ thể bạn có trọng
lực hay có thể bị thương khi rơi xuống, theo
như ý kiến phổ thông, suy ra từ những giác quan lừa dối và kinh nghiệm còn lừa
dối hơn của chúng ta. Và
cân nhắc này, Demea, tôi nghĩ, có thể, công bằng dùng để giảm bớt ác ý của
chúng ta với phái khôi hài này của những người hoài nghi. Nếu họ trước sau
hoàn toàn chân thực, họ sẽ không còn làm rắc
rối thế giới với những nghi ngờ, những cãi bướng và những tranh luận của họ:
Nếu họ chỉ trong đùa cợt, có lẽ, họ là những những người khôi hài kém cỏi, nhưng
họ không bao giờ có thể là rất nguy hiểm, dù với
trật tự xã hội, hay với
triết học, hay với tôn giáo.
D 1.6, KS 132-3
Trong thực tế, Philo, ông
nói tiếp, điều xem dường chắc chắn, rằng mặc dù một người, trong một cao hứng
của khôi hài, sau sự suy ngẫm cực độ về nhiều những mâu thuẫn và bất toàn của
lý trí con người, có thể hoàn toàn từ bỏ tất cả tin tưởng và quan điểm; nhưng người
này không thể nào kiên trì trong sự hoài nghi hoàn
toàn này, hay thể hiện nó
trong hành vi của người này lấy một vài
giờ. Những đối tượng bên
ngoài đè nặng trên người này: Những đam
mê níu kéo người này: ưu sầu triết học của người này không lâu sẽ tan biến; và ngay cả
kìm nén mạnh mẽ tột
bực trên tính khí riêng của người này, trong bất kỳ thời gian nào, sẽ không có
khả năng để duy trì được vẻ
ngoài kém cỏi của sự hoài nghi. Và vì lý do gì lại phải tự áp đặt một kìm nén mạnh mẽ như
vậy? Đây là một điểm, trong đó sẽ là không thể nào cho người này có thể tự
hài lòng, trước sau với những nguyên lý hoài nghi của người này: Như thế khiến
trên toàn bộ, không gì có thể là lố bịch hơn những
nguyên lý của những người phái Pyrrho thời cổ; nếu trong thực tế, họ đã cố
gắng, như đã tỏ ra,
để mở rộng từ đầu đến cuối, cùng một thuyết hoài nghi, vốn họ đã học được từ
những tuyên bố của những trường phái của họ, và vốn họ đã phải chịu tù hãm
với chúng.
D 1.7, KS 133
Trong cái nhìn này, hiện ra
có một
sự giống nhau lớn giữa những trường phái của những người Stoics và những người
Pyrrho, [5]
mặc dù những đối lập vĩnh
viễn: và cả hai có vẻ đều dựng trên châm ngôn sai lầm này, rằng những gì một
người người đôi khi có thể thực hiện, và trong một vài trường hợp nhất định,
người ấy có thể luôn luôn thực hiện được và trong mọi trường hợp. Khi não
thức, theo những suy ngẫm của phái Stoics, được nâng lên cao trong một nhiệt tình cao cả của đức hạnh, và được tác động với bất kỳ loại nào
của danh dự hay lợi ích hay hạnh phúc của công chúng, đau đớn cơ
thể và khổ sở tột
cùng sẽ không thể thắng được một ý thức cao như vậy về trách nhiệm; và
điều này có thể, có lẽ, bằng phương sách của nó, ngay cả để mỉm
cười và hân hoan giữa
những cực hình. Nếu sự việc này đôi
khi xảy ra trong kinh nghiệm và
trong thực
tại, có thể là một triết gia, trong trường phái của người này, hay
ngay cả trong riêng tư biệt lập của
người này, dần đưa người này, rất nhiều hơn nữa, đến một nhiệt tình như vậy, và
hỗ trợ trong tưởng tượng sự đau đớn kịch liệt nhất, hay biến cố thảm khốc nhất,
vốn người này có thể mường tượng được. Nhưng làm thế nào người này sẽ hỗ
trợ chính sự nhiệt tình này? Kiên định trong
não thức của người này dịu đi, và không thể gọi trở lại
khi mong muốn: Những sự xao
nhãng lôi kéo ông khỏi con đường của mình: Những bất hạnh tấn công không báo
trước: Và từng bước một, nhà triết học chìm xuống cùng lớp
với giới bình
dân tầm thường. [6]
D 1.8, KS 133-4
Tôi thừa nhận
sự so sánh những người Stoics và những người Hoài nghi của bạn, Philo trả
lời. Nhưng đồng thời bạn có thể nhận xét rằng mặc dù trong học thuyết
Stoics, tinh thần không thể hỗ
trợ những bay bổng cao nhất của triết học, nhưng ngay cả khi nó chìm xuống thấp
hơn, nó vẫn giữ lại phần nào khuynh hướng trước đây của nó; và những ảnh
hưởng của lý luận của Stoic sẽ xuất hiện trong hành vi trong đời sống thường
ngày của
người này, và qua toàn bộ đặc tính chung của những hành động của người này.
Những trường phái triết học thời cổ, đặc biệt là của ZENO, đã tạo ra những thí
dụ về đức hạnh và sự kiên định, vốn xem dường đáng kinh ngạc cho đến thời hiện
tại.
Tất cả Trí tuệ vô ích và Triết
học sai lầm.
Tuy nhiên, với một phép
thuật dễ chịu có thể quyến rũ
Đau đớn, trong một lúc, hay
thống khổ và kích động
Hy vọng lừa dối, hay vũ
trang ngực sắt đá không lay chuyển
Với kiên nhẫn cứng đầu, như
với thép dày ba lớp.[7]
Tương tự như vậy, nếu một
người chính mìn đã
quen thuộc với
những cân nhắc hoài nghi trên sự không
chắc chắn và những giới hạn chật hẹp của lý trí, người này sẽ không hoàn toàn
quên chúng khi chuyển suy ngẫm của ông sang
những đề tài khác; nhưng trong tất cả những nguyên lý triết học và lý luận
của người này, tôi không dám nói, trong hành vi ứng xử thông thường, sẽ tìm thấy người này khác với những
người không bao giờ thành lập được bất kỳ ý kiến riêng nào về vấn đề, hay khác
với người có
tình cảm thuận lợi hơn về lý trí của
con người.
D 1.9, KS 134
Cho dù bất kỳ một người có
thể đẩy những nguyên lý suy đoán
của thuyết hoài nghi xa đến đâu, tôi nhìn nhận, người này phải hành động và sống và
trò chuyện, giống như những người khác; và với ứng xử này, người này không buộc phải đem cho bất kỳ lý do nào khác,
ngoài sự cần thiết tuyệt đối vốn
phải chịu trong khi
làm như vậy. Nếu
người này mang những luận đoán của người này xa
hơn sự cần thiết này giới hạn người
này, và những triết lý, hay về
những đề tài tự nhiên hay đạo đức, người này bị một thích thú và hài lòng nhất
định nào đó lôi cuốn,
vốn người này tìm thấy trong việc tự đặt mình theo cách thức đó. Bên
cạnh đó, người này cân nhắc rằng mọi người, ngay cả trong đời sống thông
thường, đều bị triết lý này giới hạn ít nhiều; rằng từ tuổi thơ
sớm nhất của chúng ta, chúng ta tạo những
tiến bộ liên tục trong việc hình thành những nguyên tắc tổng quát hơn về ứng xử
và lý luận; rằng chúng ta
càng có nhiều kinh nghiệm và lý trí mạnh mẽ hơn thì chúng ta luôn đưa ra những
nguyên tắc tổng quát và toàn diện hơn, và
rằng những gì chúng ta gọi là triết học thì không gì khác ngoài một hoạt động thường xuyên hơn và có phương pháp hơn của
cùng loại (suy
nghĩ hay lý
luận tổng quát mọi
người thường tham dự một
cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày). Để
triết lý về những đề tài như vậy về cơ bản không có gì khác với lý luận về đời
sống thông thường; và chúng ta chỉ có thể mong đợi sự ổn định lớn hơn, nếu
không phải là sự thực lớn hơn, từ triết lý của chúng ta, trên lý
do của phương
pháp tiến hành của nó thì chính xác hơn và cẩn thận tỉ mỉ hơn.
D 1.10, KS 134-5
Nhưng khi chúng ta nhìn xa
hơn những những vấn đề, quan tâm và kinh nghiệm hàng ngày của con người và
những thuộc tính của những vật thể
xung quanh: Khi chúng ta mở rộng những luận đoán của chúng
ta vào trong hai cõi vĩnh
cửu, trước và sau trạng thái hiện tại của những sự vật việc; vào trong sự
sáng tạo và sự hình thành của vũ trụ; sự là-có và những
thuộc tính của những tinh thần; những quyền năng và
những hoạt động của một tinh thần phổ quát, là-có với không khởi đầu và
không chấm dứt; toàn năng, toàn tri, bất biến, vô hạn và không thể
hiểu được: chúng ta phải
hoàn toàn loại bỏ ngay cả khuynh hướng hoài nghi nhỏ nhất để không cảm thấy lo
lắng rằng chúng ta đã vượt quá những khả năng chúng
ta. Cho đến chừng nào chúng ta còn giới hạn những luận đoán của chúng ta
với thương mại, hay
đạo đức, hay chính trị, hay phê bình, chúng ta thực hiện những kêu gọi, mỗi
khoảnh khắc, với phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức
thông thường [8] và kinh nghiệm,
vốn làm vững mạnh những kết luận triết lý của chúng ta, và loại bỏ (ít nhất là
một phần) sự nghi ngờ, vốn chúng ta đem dùng rất đúng mực nhìn về phần mỗi lý
luận, vốn là rất tinh tế và đãi lọc. Nhưng trong những lý luận gót học,
chúng ta không có lợi điểm này; trong khi đồng thời chúng ta được dùng
trên những đối tượng, chúng ta phải là nhạy cảm, vốn chúng đều quá lớn cho việc
nắm bắt của chúng ta và của tất cả những gì khác, đòi hỏi hầu hết để là quen
thuộc với sự thấu hiểu của chúng ta. Chúng ta giống như những người nước
ngoài trong một xứ sở xa lạ, với những người này mọi sự vật việc phải xem đáng
nghi ngờ, và là những người trong nguy hiểm mỗi khoảnh khắc của việc vi phạm
luật pháp và phong tục của dân ở đây, với họ những người này sống và trò
chuyện. Chúng ta không biết xa đến đâu chúng ta phải tin cậy những phương
pháp lập luận thông thường của chúng ta trong một chủ đề loại như thế; vì
ngay cả trong đời sống thông thường và trong lĩnh vực đó, vốn là thuận hợp đặc
biệt với chúng, chúng ta không thể giải thích về chúng,và chúng ta hoàn toàn bị
thúc đẩy bởi một loại bản năng hay cần thiết khi chúng ta dùng chúng.
D 1.11, KS 135-6
Tất cả những người hoài
nghi kỳ vọng, rằng nếu lý trí được suy xét trong một cái nhìn trừu tượng, nó
cung cấp những luận chứng không thể đánh bại chống lại
chính nó, [9] và
rằng chúng ta có thể không bao giờ giữ lại được bất kỳ xác quyết hay bảo đảm
nào, về bất kỳ đề tài nào,
đã không phải là những lý luận hoài nghi quá tinh tế và đãi lọc, nhưng chúng
đều không có khả năng để cân bằng với những luận chứng vững chắc và tự nhiên
hơn, xuất phát từ những giác quan và kinh nghiệm. Nhưng là điều hiển
nhiên, khi nào những luận chứng của chúng ta mất đi lợi thế này và phát triển
không kềm hãm vượt ra ngoài đời sống thông thường, rằng sự hoài nghi tinh tế
nhất sẽ xảy ra trên một vị trí vững chắc với chúng, và có khả năng để chống lại
và cân bằng chúng. Nghi ngờ này không có trọng lượng hơn luận chứng
kia. Não thức phải trong hồi hộp căng thẳng giữa chúng; và nó là
chính sự hồi hộp căng thẳng, hay cân bằng đó, vốn là sự chiến thắng của thuyết
hoài nghi. [10]
D 1.12, KS 136
Nhưng tôi quan sát,
Cleanthes nói, liên quan với bạn, Philo, và tất cả những người hoài nghi suy
đoán, rằng học thuyết và thực hành của bạn cũng nhiều biến thái trong những
điểm tối tăm khó hiểu nhất của lý thuyết như
trong ứng xử của đời sống thông thường. Bất cứ nơi nào bằng chứng xuất
hiện, bạn tuân giữ nó,
bất chấp sự hoài nghi khoác ngoài của
bạn; và tôi cũng có thể quan sát một vài học phái của bạn thì cũng
dứt khoát như những người đó, những người
đưa ra những
tuyên bố chắc chắn và tự tin quả quyết hơn. Trong thực tại, không phải
một người sẽ là không lố bịch buồn cười, người đã không thành thật để phủ nhận
sự khám phá của Newton về hiện tượng kỳ diệu của cầu vồng, vì sự giải thích đó
cho một mổ xẻ chi li của những tia sáng; một đề tài, đúng ra, quá tinh tế
cho sự hiểu biết của con người? Và bạn sẽ nói gì với một ai, người không
có gì đặc biệt gì để phản đối những lập luận của Copernicus và Galilæo về
chuyển động của trái đất, sẽ giữ lại sự
đồng ý của người này,
trên nguyên lý tổng
quát đó. Rằng
những đề tài này cũng quá
vĩ đại
và xa vời để được giải thích bởi lý trí hẹp hòi và sai lầm của loài người?
D 1.13, KS 136-7
Quả thật, có một loại
thuyết hoài nghi thô thiển và thiếu hiểu biết, như bạn đã quan sát rõ, vốn cho
người thông tục một tiên kiến tổng quát phản lại những gì họ không hiểu được
dễ dàng, và khiến họ gạt bỏ mọi nguyên lý,vốn đòi hỏi việc lý luận phức tạp để
chứng minh và thành lập nó. Loại này của hoài nghi thì tai hại với kiến
thức,nhưng không với tôn giáo; vì chúng ta thấy rằng, những ai là người
tuyên bố tin theo lớn nhất của nó, thường thường cho đồng ý của họ, không chỉ
với những sự thực lớn lao của Thuyết Tin-Có-Gót [11], và gót học tự nhiên, nhưng
ngay cả với những giáo điều phi lý nhất, vốn một mê tín
truyền thống đã đưa dến cho họ. Họ
tin tưởng vững chắc vào những phù thủy; dù họ sẽ không tin và cũng không chú ý đến
ngay cả những chân lý toán học đơn giản nhất của Euclid. Nhưng
những hoài nghi tinh tế và triết học rơi vào một sự không nhất quán của một bản
chất đối nghịch. Họ đẩy những nghiên cứu của họ vào trong những góc tối
tăm khó hiểu nhất của khoa học; và sự đồng ý của họ đi them họ trong mọi
bước, tương xứng với bằng chứng họ gặp. Họ ngay cả đã bị buộc phải nhìn
nhận, rằng những đối tượng tối tăm khó hiểu và xa xôi nhất là những đối tượng,
vốn được triết học giải thích tốt nhất. Ánh sáng được mổ xẻ trong
thực tại: Hệ thống thực sự của những thiên thể được khám phá và xác định. Nhưng việc nuôi dưỡng cơ thể bằng thức ăn vẫn là một điều
bí ẩn không thể giải thích được: Sự kết hợp của những phần của vật chất vẫn còn
không thể hiểu được. Do đó, những người hoài nghi này trong mọi vấn đề, buộc
phả xem xét từng bằng chứng cụ thể riêng biệt, và tỷ lệ đồng ý của họ với mức
độ chính xác của bằng chứng xảy ra. Đây
là thực hành của họ trong tất cả những khoa học tự nhiên, toán học, đạo đức học
và chính trị học. Và tại sao không cũng giống thế, tôi hỏi, trong gót học
và tôn giáo? Tại sao những kết luận thuộc bản chất này phải một mình bị
bác bỏ dựa trên giả định tổng quát về sự thiếu sót của lý trí con người, với
không bất kỳ thảo luận đặc biệt nào về bằng chứng? Không phải một xử sự
không cân bằng
như vậy là một bằng chứng rõ ràng của tiên kiến và tình cảm hay sao?
D 1.14, KS 137
Những giác quan của chúng
ta, bạn nói, là lừa dối, sự hiểu biết của chúng ta sai lầm, những ý tưởng của
chúng ta ngay cả về những đối tượng quen thuộc nhất, như không gian (mở rộng),
thời gian (kéo dài)
và chuyển động, đầy những phi lý
và những mâu thuẫn. Bạn thách thức tôi giải quyết những khó khăn, hay hòa
giải những mâu thuẫn vốn bạn tìm thấy trong
chúng. Tôi không có khả năng gánh
vác một dự án lớn lao như vậy: Tôi không
có thì giờ rảnh cho nó:
Tôi nhận thấy nó là thừa thãi. Hành vi của riêng bạn, trong mọi trường
hợp, bác bỏ những nguyên tắc của bạn; và cho thấy sự tin cậy vững chắc vào
tất cả những châm
ngôn đã được thừa nhận về khoa học, đạo đức, sự thận trọng và hành vi ứng xử. [12]
D 1.15, KS 137
Tôi sẽ không bao giờ đồng ý
với một ý kiến gay
gắt như vậy của một
người viết nổi
tiếng [13],
người nói rằng những người hoài nghi không là một phái của những
nhà triết học: họ chỉ là một phái của những người nói dối. Tuy nhiên, tôi
có thể xác nhận (tôi hy vọng, không xúc phạm) rằng họ là một phái của những
người thich nói đùa, hay những người thích tụ họp. Nhưng về phần tôi, bất
cứ khi nào tôi thấy chính mình nghiêng sang cười đùa vui vẻ, và tiêu khiển, tôi chắc chắn sẽ chọn giải
trí của tôi thuộc một tính chất
ít bối
rối và kém tối
tăm khó hiểu hơn. Một hài kịch, một tiểu thuyết, hay nhiều nhất là một câu
chuyện, có vẻ là một giải trí tự nhiên hơn những khúc mắc và những trừu tượng
siêu hình loại như vậy.
D 1.16, KS 137-8
Người hoài nghi sẽ làm một
phân biệt vô ích giữa khoa học và đời sống thông thường, hay giữa một khoa học
này với một khoa học khác. Những biện luận, được dùng trong tất cả, nếu chính
đáng, đều có cùng một
bản chất tương tự, và có cùng
một sức mạnh và bằng chứng. Hay nếu có bất kỳ khác biệt nào giữa chúng, sự ưu
thắng hoàn toàn nằm về phía của gót học và tôn giáo tự nhiên. Nhiều nguyên
lý của cơ học đã thành lập trên lý luận rất tối tăm khó hiểu; thế nhưng
không có người nào, người có bất kỳ những kỳ vọng nào với khoa học, ngay cả
người hoài
nghi suy đoán, lại duy
trì nghi ngờ dù tối
thiểu về chúng.
Hệ thống Copernican chứa đựng nghịch lý đáng ngạc nhiên nhất, và trái ngược
nhất với những khái niệm tự nhiên của chúng ta, với những gì xuất
hiện bên ngoài,
và với chính những tri giác của chúng ta: thế nhưng ngay cả những nhà chăn
chiên và những quan tòa của
những tòa
án dị giáo Kitô bây giờ đều buộc phải
rút lại sự phản đối của họ với nó. Philo,
một người có kiến thức sâu rộng và tư
tưởng phóng khoáng như
vậy, có thực sự nên nuôi dưỡng
những nghi ngờ mơ hồ và không phân biệt, hỗn tạp về những giả thuyết tôn giáo
không? vốn chúng được
thành lập trên những luận chứng đơn giản và hiển nhiên nhất, và trừ khi mọi người cố tình tạo ra những trở ngại, thì
nó tự nhiên dễ dàng được chấp nhận với não thức con người?
D 1.17, KS 138-9
Và ở đây, chúng ta có thể lưu ý nhận xét, ông nói tiếp, quay sang Demea,
một trường hợp khá lạ lùng đáng chú
ý trong lịch sử khoa
học. Sau sự kết hợp của triết học với tôn giáo phổ thông, khi đạo
Kitô đầu tiên được thiết
lập, không có gì thường thấy hơn, giữa
tất cả những thày giảng tôn giáo, là đưa ra những
tuyên bố phản bác lý
trí, chống lại
những tri giác, chống lại
mọi nguyên lý, vốn đơn
thuần lấy từ sự khảo cứu và thăm dò của con người. Tất cả những đề tài của
Academy thời cổ [14] đã
được những nhà chăn chiên khai mở hội nhà thờ Kitô [15] tiếp
nhận; và từ đó đã quảng bá trong nhiều
thời đại, trong mọi trường học và bục giảng, trong mọi phần của vương quốc
Kitô. Những người Phản Thệ, đã chấp nhận cùng những nguyên tắc lý luận, hay
đúng hơn là những lời tuyên bố; và tất cả những ca ngợi về sự xuất sắc của lòng tin tôn giáo chắc
chắn sẽ được xen kẽ với một số châm biếm nghiêm khắc chống lại lý trí tự nhiên. Một
thày chăn
chiên cấp cao nổi tiếng của hội nhà thờ Catô Rôma cũng vậy [16],
một người có học thức uyên bác, đã viết một thuyết minh về đạo Kitô, cũng là
tác giả của một chuyên luận, trong đó
chứa tất cả những phản bác và
chỉ trích những “lý sự cùn” của thuyết Pyrros táo bạo và kiên định
nhất. Locke dường như đã là người Kitô đầu tiên, người đã công khai liều
lĩnh khẳng định, rằng lòng tin tôn giáo thì không
gì nhưng chỉ như một
loại của lý trí,
rằng tôn giáo đã chỉ như một
nhánh của triết học, và rằng một chuỗi gồm những luận chứng, tương tự với những
luận chứng vốn đã thiết lập bất kỳ sự thực nào trong đạo đức học, chính trị
học, hay vật lý học, luôn luôn đã được dùng trong việc khám phá tất cả những
nguyên tắc của gót học, cả tự
nhiên và vén-lên-cho-thấy huyền bí. [17]
Việc Bayle [18] và những nhà tư tưởng
tự do khác – những cá nhân nổi loạn chống lại thẩm quyền, đặc biệt là những chuẩn
mực tôn giáo và xã hội, và thường theo đuổi sự tự do khỏi sự kiềm chế đạo đức –
đã hiểu sai quan điểm của những vị bố đạo đầu
tiên của hội nhà thờ và
những người Phản Thệ đầu tiên, đã chỉ
giúp truyền bá quan điểm được cân nhắc kỹ lưỡng hơn của Locke. Kết quả là, giờ
đây, gần như tất cả những người tự nhận là triết gia hay nhà
tư tưởng duy lý đều công khai thừa nhận rằng thuyết không tin có gót và thuyết hoài
nghi gần như là một. Và vì rõ ràng là không ai thực sự chân thành khi họ tự
nhận là người hoài nghi, tôi có hy
vọng mong manh
rằng cũng có rất ít người thực sự tự nhận là người không tin có gót.
D 1.18, KS 139
Bạn không nhớ sao, Philo,
câu nói rất hay của Lord Bacon nói về đề
tài này sao? Cleanthes trả lời,
rằng một chút triết lý làm một người là người không-tin-có-gót:
nhưng nhưng rất nhiều
triết lý lại hoán cải người này trở lại với tôn giáo Đó
cũng là
một nhận xét cũng rất sáng suốt
Philo nói. Nhưng những gì tôi nghĩ
đến thì trong một đoạn văn khác,
trong đó, sau khi nhắc đến kẻ ngu
dại của David [19], người
nói trong thâm tâm mình rằng không có Gót, nhà triết học vĩ đại này nhận xét,
rằng những người không-tin-có-gót ngày nay có gấp đôi phần ngu dại: vì họ đều
không chỉ hài lòng để nói trong thâm tâm họ rằng không có Gót, nhưng họ cũng
thốt ra sự nghịch đạo đó với môi lưỡi họ, và do đó phạm tội bất cẩn và khinh
xuất gấp bội. Mặc dù những người như vậy có thể thực sự chân thành, tôi
không nghĩ họ có thể được coi là quá đáng sợ.
D 1.19, KS 139-40
Nhưng mặc dù bạn sẽ xếp tôi
vào hạng những người ngu dại này, tôi không thể giữ không nói ra một nhận xét, vốn xảy ra
với tôi từ lịch sử của tư tưởng hoài nghi tôn giáo và phi tôn giáo, bạn đã trao
đổi nó với chúng tôi. Dường như với tôi, có những triệu chứng mạnh mẽ của thuật kiếm chác của nghề làm thày chăn chiên trong toàn
bộ tiến trình của công việc
này. Trong những thời đại ngu muội, chẳng hạn như những người theo sau sự
giải thể của những trường phái cổ xưa, những thày chăn chiên nhận thấy
rằng Thuyết Không-tin-có-gót, Thuyết Tin-Gót-Không-Nhúng-Tay [20], hay tư tưởng khác biệt
nào với giáo điều chính thống Kitô dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ có thể tiến
hành từ việc đặt câu hỏi về những quan điểm đã tiếp nhận, và từ tin tưởng,
rằng lý trí con người đã là ngang hàng với
mọi sự vật việc. Giáo dục khi đó đã có một ảnh hưởng lớn lao trêm não thức
của con người, và đã gần như tương đương về sức mạnh với những nêu lên của giác quan và sự hiểu
biết thông thường, qua đó người hoài nghi kiên quyết nhất cũng phải
để chính mình tuân theo. Nhưng
ngày nay, khi ảnh hưởng của giáo dục thì suy giảm rất nhiều và con người, từ
một thương mại mở rộng hơn của thế giới, đã học để so sánh những nguyên tắc phổ
biến của những quốc gia và những thời đại khác nhau, những nhà gót học khôn
ngoan của chúng ta đã thay đổi toàn bộ hệ thống triết học của họ, và nói ngôn
ngữ của những trường phái Stoic, Plato, và Aristotle, không phải ngôn ngữ của
trường phái Pyrros và Academy Hoài nghi. Nếu chúng ta không tin tưởng lý
trí của con người, bây giờ chúng ta không có nguyên tắc nào khác để dẫn chúng
ta vào trong tôn giáo. Như vậy, những người hoài nghi trong một
thời đại, những người giáo điều trong một
thời đại khác; bất cứ hệ thống nào phù hợp nhất với mục đích của những quý
ông giáo sĩ tôn kính
này, trong việc đem lại
cho họ một uy thế cao hơn loài người, họ chắc chắn sẽ khiến nó
thành nguyên tắc yêu thích của họ, và giáo lý đã thiết lập.
D 1,20, KS 140
Đó là rất tự nhiên,
Cleanthes nói, cho con người để ôm lấy những nguyên tắc đó, qua đó họ thấy
chúng có thể bảo vệ hay nhất những học thuyết của họ; chúng ta cũng không cần
phải gọi đến một hỗ trợ nào về nghề chăn chiên để
giải thích cho một mưu chước hợp cảnh hợp tình
với thực tế như vậy. Và chắc chắn, không có gì có thể cung cấp một giả định
mạnh mẽ hơn rằng bất kỳ tập hợp những nguyên tắc nào là đúng và nên được chấp
nhận hơn là để lưu ý nhận xét, rằng chúng có khuynh hướng xác
nhận hay củng
cố tôn giáo chân chính, và dùng để làm
bối rối, làm bẽ mặt ‘những cãi vặt’
của những người Không-tin-có-gót, những người chối bỏ ràng buộc xã hội và
đạo đức, và những Người Tự Do Tư
Tưởng trong tất cả những nhóm hay trường
phái tư tưởng khác nhau [21]
Lê
Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai
(Mar/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] speculative sciences: Trong Hume, đặc biệt trong A Treatise of Human
Nature, “khoa học suy đoán” dùng chỉ những ngành học liên quan đến lý luận thuần
túy và kiến thức lý thuyết, trái ngược với những ngành học dựa trên đời sống thực tế
hoặc nghiên cứu thực nghiệm. Điều này phù hợp với sự phân chia kiến thức cổ
điển thành suy đoán (lý thuyết) và thực tiễn (đạo đức, chính trị hoặc
kỹ thuật). Theo Hume, khoa học suy đoán gồm logic, toán học và siêu hình học, nhưng
ông rất hoài nghi về ngành cuối cùng. Ông thường chỉ trích suy đoán siêu hình
là không chắc chắn và tách biệt khỏi kinh nghiệm, thay vào đó ủng hộ cách tiếp
cận kiến thức dựa trên kinh nghiệm, thực nghiệm. Điều này đặc biệt rõ ràng
trong đoạn văn nổi tiếng của ông ở cuối Enquiry Concerning Human
Understanding, trong đó ông gợi ý rằng những sách về siêu hình học và suy
đoán kinh viện nên “bị thiêu rụi” nếu chúng không chứa lý luận về số lượng
(toán học) hoặc lý luận thực nghiệm về những vấn đề thực tế (khoa học).
[2] [Chrysippus apud Plut. de repug. Stoicorum] > ghi chú trong văn bản
của Hume, có nghĩa là câu châm ngôn cổ xưa về thứ tự nghiên cứu triết học
(Logic, Đạo đức, Vật lý và cuối cùng là gót học tự nhiên) được cho là của Chrysippus, một
triết gia Stoics nổi tiếng, như được Plutarch trích dẫn trong De
Repugnantiis Stoicorum (Về những mâu thuẫn của những người Stoics).
[3] The Nature of the Gods: Bản chất của những vị gót liên
quan đến lý thuyết hóa gót học về những thuộc tính, sự hiện hữu và hoạt động
của những hữu thể linh thiêng, một đề tài chính
trong triết học thời cổ, đặc biệt là trong số những người theo thuyết Stoics, thuyết Epicurus và thuyết Plato. De
Natura Deorum (Về bản chất của những vị Gót) của Cicero trình bày những
tranh luận giữa những trường phái triết học khác nhau về quan niệm của họ về
tính chất thần thánh. Natural
Theology: Gót
học tự nhiên nhắc
đến việc nghiên cứu về Gót, và những thuộc tính thần thánh qua lý trí và quan sát của thế giới tự nhiên, thay vì qua sự
vén lên cho thấy huyền bí, hay những văn bản tôn giáo. Nó nhằm mục đích hiểu sự hiện hữu và bản chất của Gót bằng những luận chứng logic, bằng
chứng thực nghiệm và lý luận triết học.
Trong tư tưởng của Hume, Gót Học Tự Nhiên (luận chứng duy lý về sự tồn tại của Gót) và Tôn Giáo Tự Nhiên ( phát triển lịch sử của tin tưởng tôn giáo) không chỉ khác biệt nhưng còn xung đột nhau, một bên thúc đẩy sự biện minh duy lý cho tin tưởng vào Gót, trong khi bên kia cho rằng tin tưởng tôn giáo loại như thế, xuất phát từ tâm lý và tình cảm con người, nhưng không từ lý trí. Tôn giáo tự nhiên của Hume (từ Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo) cho rằng tôn giáo phát sinh từ tâm lý con người – sợ hãi, ngu dốt và nhân cách hóa những thần linh – chứ không phải lý trí. Điều này trực tiếp thách thức Gót học tự nhiên, vốn cho rằng sự tìm hiểu qua lý trí có thể dẫn đến kiến thức về Gót. Trong những Đàm thoại này, Hume chỉ trích Gót học tự nhiên, biện luận rằng ngay cả những luận chứng mạnh nhất của nó (ví dụ: Luận chứng thiết kế) cũng không cung cấp được vững chắn. Điều này phù hợp với Tôn giáo tự nhiên của ông, coi tin tưởng là một hiện tượng cảm xúc và văn hóa hơn là một sản phẩm của bằng chứng duy lý. Do đó, trong khuôn khổ tư tưởng của Hume, Gót học tự nhiên và Tôn giáo tự nhiên đối lập nhau – một bên tuyên bố biện minh cho tin tưởng qua lý trí, trong khi bên kia cho rằng tin tưởng xuất hiện phi lý từ bản chất con người.
[4] “extension” sự kéo dài : chỉ tính chất chiếm ngụ trong không gian, một khái niệm cơ bản trong siêu
hình học và triết học nhận thức.
[5] Pyrrhonism: tên gọi một trường phái của
thuyết hoài nghi, được đồng nhất (mặc dù không chắc chắn) với Pyrrho người
thành Elis (khoảng năm 370 – c. 272 TCN), người được cho (qua học trò của ông
là Timon người thành Phlius ) đã có tuyên bố rằng mọi sự vật việc đều là không
thể xác định được và theo đó đã đình chỉ phán đoán về thực tại của sự vật – đặc
biệt là không biết chúng thực sự là tốt hay xấu. Sau cái chết của Timon, trường
phái Pyrrho không hoạt động nữa, cho đến khi được Aenesidemus (thế kỷ I TCN)
hồi sinh. Aenesidemus chủ trương rằng không thể chấp nhận, hoặc để khẳng định, hoặc để phủ định rằng bất cứ một
gì thì thực sự là trường hợp đã xảy ra, và đặc biệt là khẳng định, cùng với
những người phái hoài nghi của trường Academy (Academic Skeptics,
sau-Plato), rằng một số sự vật việc thực sự không thể hiểu được. Thay vào đó,
phái Skeptic (viết hoa biểu thị những người theo thuyết
Pyrrho, những người đã dùng thuật ngữ, nghĩa đen là ‘người hỏi thăm dò/tìm
hiểu’, như một trong những tên gọi cho trường phái của họ) sẽ chỉ đồng ý rằng
mọi sự vật việc, không hơn
không kém, là trường hợp
xảy ra, hoặc chỉ như thế trong một số trường hợp nhất định, và không trong những trường hợp
khác. Thuyết hoài nghi của Aenesidemus mang hình thức của nhấn mạnh trên sự bất đồng giữa người thường và
những nhà lý thuyết về bản chất của sự vật, và sự kiện là mọi sự vật việc xuất
hiện khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau (những cách khác nhau để làm
điều này đã được hệ thống hóa thành Mười Phương Thức Của Thuyết Hoài
Nghi); kết quả có nghĩa là đình chỉ phán đoán về những vấn đề như vậy, điều
này sẽ dẫn đến sự tĩnh lặng của não thức. Do đó, ‘Thuyết hoài nghi’ biểu thị
một quan điểm triết học cụ thể, không chỉ đơn giản, như cách dùng thời nay, để chỉ bất kỳ một triết gia nào có khuynh hướng
nghi ngờ. những người theo thuyết Pyrrho sau này, đặc biệt là Agrippa (thê kỷ 2
CN), đã cải tiến phương pháp của thuyết hoài nghi và tập trung vào việc làm suy
yếu khái niệm tiêu chuẩn (nghĩa là chống lại Thuyết hoài nghi) mang tính giáo
điều – không có phương cách nguyên tắc nào để giải quyết những tranh luận như
vậy mà không chỉ cần đến đơn thuần khẳng định trong hình thức chuỗi thoái lùi
vô tận, hoặc chạy vòng
quanh. Chúng ta nhờ Sextus Empiricus (nổi tiếng trong khoảng 200-300 CN) đã
giải thích đầy đủ nhất về lập luận của trường phái Pyrrho và rõ ràng nhất về
thái độ của những người trường phái này. Trước những tranh luận bất tận,
phái Skeptic dè dặt giữ phán quyết; nhưng điều này không làm
đời sống thành không thể được cho họ, vì họ vẫn sẽ phản ứng với cách mọi sự vật
việc diễn ra như chúng xuất hiện, mặc dù không tin trong bất kỳ ý nghĩa mạnh mẽ
nào rằng mọi sự vật việc thực sự là như dạng ngoài xuất hiện của chúng . Hơn
nữa, khi người phái Pyrrho mô tả những trạng thái tình cảm của họ, họ làm như
vậy một cách phi giáo điều – và những khẩu hiệu của phái Skeptic (‘Tôi
không xác định gì cả’, ‘không gì thì thấu hiểu được’, v.v.) đều là để được hiểu
theo cách tương tự, như chỉ đơn thuần thuật lại một trạng thái của não thức và
không diễn tả một xác định.
Stoicism là một trong những phong trào triết học mới của
thời kỳ Hellas. Tên gọi bắt nguồn từ ‘mái hiên’ (sta poikilê) ở chỗ hội
họp công cộng (Agora) ở thành Athens, nơi những người trong trường phái
tụ họp và tổ chức những bài giảng của họ. Không còn giữ được một tác phẩm trọn
vẹn nào của bất kỳ một ai trong ba người đứng đầu trường phái Stoic:
‘người sáng lập’, Zeno người thành Citium ở Cyprus (344–262 TCN),
Cleanthes (mất 232 TCN) hay Chrysippus (mất khoản 206 TCN). Chrysippus đặc biệt
viết nhiều, hơn 165 tác phẩm, nhưng chỉ còn lại những mảnh rời những tác phẩm
của ông. những tác phẩm trọn vẹn duy nhất của những triết gia trường
phái Stoic chúng ta có được là những tác phẩm của những người viết
sau, trong thời đế quốc Rome, Seneca (4 TCN – 65 CN), Epictetus (khoảng 55–135)
và Hoàng đế Marcus Aurelius (121–180) và những tác phẩm này về cơ bản tập trung
vào đạo đức học.
Tư tưởng triết học của phái
Stoics do Zeno người thành Citium sáng lập, khoảng năm 300 TCN và được ông và
những người kế tục phát triển thành trường phái triết học có ảnh hưởng nhất của
thời đại Hellas. Nó nhìn thế giới như được thẩm thấu lý tính và được thần linh
quy hoạch, như một tổ chức tốt nhất có thể có được. Tốt lành và hạnh phúc về
đạo đức đều có thể đạt được, nếu có, bằng cách tái tạo lý tính hoàn hảo đó
trong chính con người, và bằng việc tìm ra và đóng vai trò được giao của mỗi
người trong sơ đồ vũ trụ của những sự vật. Tư tươmg ban đầu của phái này nhìn
thế giới như một cơ thể sinh vật tốt đẹp lý tưởng, có hồn lý trí của nó điều
khiển nó, cho những gì tốt nhất. Bất kỳ ấn tượng nào về sự không hoàn hảo đều
phát sinh từ việc nhìn nhầm lẫn những phần của nó trong cô lập (gồm cả bản thân
chúng ta) như thể người ta cân nhắc lợi ích của một bàn chân tách biệt với nhu
cầu của toàn cơ thể.
Toàn bộ chuỗi những sự kiện vũ
trụ được định sẵn từng chi tiết. Là chuỗi tốt nhất có thể có được, nó được lập
lại giống hệt nhau từ giai đoạn thế giới này sang giai đoạn tiếp theo, với mỗi
giai đoạn kết thúc bằng một sự bùng nổ, sau đó là sự đổi mới vũ trụ. Tuy nhiên,
quan hệ nhân quả của ‘số phận’ không đoạt ưu tiên, không dành trước trách nhiệm
của cá nhân chúng ta về hành động của chúng ta. những hành động này vẫn nằm
trong khả năng của chúng ta, bởi vì chúng ta, chứ không phải hoàn cảnh bên
ngoài, là những nguyên nhân chính của chúng, và theo một ý hướng thích hợp nào
đó, chúng ta có thể làm khác đi, mặc dù đã định trước rằng chúng ta sẽ không
làm. Tư tưởng trường phái Stoics phát triển mạnh mẽ trong thời cổ Hellas và
Rome. Nó là một trong những triết lý cao thượng nhất của văn minh phương Tây.
Trong việc thúc giục sự tham gia vào những công việc của con người, những nhà
Stois luôn tin rằng mục tiêu của tất cả những thăm dò là để đem cho một phương
thức ứng xử được đặc trưng bằng sự an tĩnh của tinh thần và sự vững chắc của
giá trị đạo đức.
[6] plebeian
[7] John Milton. Paradise Lost (Book II, lines 565–569).
[8] common sense: phán
đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường
Trong Hume, common sense: dùng
để chỉ sự hiểu biết cơ bản, hàng ngày hoặc phán đoán thực tiễn mọi người dựa
vào trong đời sống hàng ngày của họ. Nó không nhất thiết là một khái niệm trừu
tượng hay triết học cao, nhưng là lý luận trực giác, tự nhiên cho phép mọi người
điều hướng thế giới một cách hiệu quả. Với Hume, phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường hướng dẫn chúng ta đưa ra quyết định hợp lý trong
những lĩnh vực như thương mại, chính trị và đạo đức. Đó là một loại phán đoán
lý luận không đòi hỏi phải phân tích phức tạp nhưng dựa trên những gì có vẻ hiển
nhiên hoặc tự nhiên đối với hầu hết mọi người. Trong tác phẩm của ông, Hume đối
chiếu lý luận phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức
thông thường duy nghiệm với
lý luận trừu tượng, suy đoán hơn (như những lập luận gót học), cho rằng trong
khi hiểu biết thực tiễn dựa trên kinh
nghiệm thường có thể dẫn đến
kết luận đáng tin cậy trong những vấn đề hàng ngày, thì nó lại kém tin cậy hơn
khi giải quyết những câu hỏi phức tạp hoặc siêu hình hơn, nơi sự hoài nghi thì
phù hợp hơn.
[9] “furnishes
invincible arguments against itself”: Hume nhấn
mạnh một nghịch lý trong lý trí: khi được xem xét một cách trừu tượng, lý trí
dường như tạo ra những lập luận làm suy mức độ tin cậy của chính nó. Đây là đi
lem ma về hoài nghi: nếu lý trí chứng minh rằng nó không đáng tin cậy, thì
chúng ta không thể tin tưởng vào những kết luận của nó, gồm cả kết luận rằng lý
trí không đáng tin cậy!
[10] “the
triumph of scepticism”:Thuyết hoài nghi cuối cùng hướng đến mục
tiêu đạt được những gì Hume
gọi là “chiến thắng của thuyết hoài nghi”, chỉ trạng thái chờ đợi, tạm hoãn,
khi những lập luận đối lập phản bác lẫn nhau, không lập luận nào là kết luận và
não thức vẫn
chưa quyết định. Hume cho rằng thuyết hoài nghi “chiến thắng” không bằng chứng minh bất cứ gì một cách chắc
chắn, nhưng bằng
giữ cho lý trí ở trạng thái nghi ngờ và trung lập, khi không có tin tưởng nào có trọng lượng hơn tin tưởng khác.
[11] Theism: Thuyết
Tin-Có-Gót [xem những bản dich khác của tôi – Atheism: Thuyết Không-tin-có-gót; Deism:
Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay; Theism: Thuyết Tin-có-gót hay
rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay ]
[12] Hume lập luận rằng những người hoài nghi cấp tiến
tự mâu thuẫn với chính mình qua hành động của họ. Ngay cả khi họ tuyên bố rằng
nhận thức, lý trí và kiến thức là không đáng tin cậy, hành vi hàng ngày của
họ cho thấy sự tin tưởng vững chắc vào những nguyên tắc của phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường.
Thí dụ, một người hoài nghi có thể lập luận rằng những giác quan của chúng ta
thì lừa dối và chúng ta không thể tin tưởng chúng – nhưng trong thực tế, họ vẫn dựa vào những
giác quan của mình để điều hướng thế giới, tránh nguy hiểm và đưa ra quyết
định. Tương tự như vậy, họ có thể đặt câu hỏi về những nguyên tắc đạo đức nhưng
vẫn hành động như thể đạo đức, sự thận trọng và những chuẩn mực xã hội là quan
trọng. Tóm lại, Hume cho thấy ở đây,
rằng thuyết hoài nghi thì không thực tế – không ai thực sự
sống theo nó.
[13] [L’Art de penser.] La
Logique ou l’art de penser, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Logic
Port-Royal, là bản văn về logic có ảnh hưởng nhất từ Aristotle đến cuối thế
kỷ XIX. những tác giả là Antoine Arnauld và Pierre Nicole, những nhà triết học
và gót học liên hệ với Tu viện Port-Royal. Bản in đầu tiên xuất hiện năm 1662.
[14] the ancient Academics (Plato)
[15] the Fathers = những ông bố đạo (những tín đồ xưng tụng là những
“giáo phụ)” những nhà gót học Kitô thời sơ khởi có ảnh hưởng sâu rộng với giáo
lý của hội nhà thờ Kitô.
[16] [Mons. Huet.]
Pierre-Daniel Huet (1630–1721) người hoài nghi đạo Kitô cuối cùng trong dòng của
Michel Eyquem de Montaigne và Pierre Charron. Traité Philosophique của
Huet xuất bản lần đầu tiên vào năm 1723, nhanh chóng được dịch sang những tiếng
England, Italy, Germany, và Latin và được nghiên cứu trong suốt thế kỷ thứ mười
tám. David Hume đã đọc nó và cũng như nhiều người khác, cảm thấy thích thú khi
tác giả là một người hoàn toàn hoài nghi và cũng là một thày chăn chiên uyên
bác. Đóng góp của Huet trong việc thảo luận hoài nghi về thời kỳ này nhấn mạnh
lời giải thích của ông về cách người hoài nghi có thể đối phó với những tình
huống bình thường của con người. Huet nói, “Triết lý là một chuyện, sống là
chuyện khác”. Sau đó, ông cho thấy rằng người hoài nghi, giống như mọi người
khác, sống theo phong tục và thói quen trong khi đồng thời nghi ngờ rằng có thể
có bất kỳ sự biện minh nào. Ở cuối quyển 1, phần 4 của A Treatise of
Human Nature (1737), Hume đưa ra giải thích khá giống với Huet.
[17] John Locke, trong Essay Concerning Human Understanding và trong những
tác phẩm của ông về gót học, biện luận rằng tin tưởng tôn giáo và lòng tin tôn
giáo có thể được biện minh qua lý trí in his works on
theology,. Ông không tuyên bố
rằng tôn giáo chỉ là một nhánh của triết học, nhưng ông đã nêu lên rằng gót học
(nghiên cứu về Gót) có thể được nghiên cứu giải quyết qua tiến trình tìm hiểu
duy lý, giống như những lĩnh vực kiến thức khác.
Đặc biệt, Locke tin rằng: (a) Lòng tin tôn giáo và
Lý trí: Theo quan điểm của Locke, lòng tin tôn giáo không đối lập với lý trí mà
thay vào đó là một loại lý trí. Ông lập luận rằng lòng tin tôn giáo dựa trên
bằng chứng, mặc dù nó có thể liên quan đến lòng tin tôn giáo vào những điều
vượt ra ngoài kinh nghiệm của con người hoặc bằng chứng thực nghiệm, chẳng hạn
như sự tồn tại của Gót hoặc sự thực của sự vén lên cho
thấy huyền bí. (a) Tôn giáo tự nhiên và sự vén lên cho thấy
huyền bí: Locke tin rằng có một tôn giáo “tự nhiên” có thể được khám phá qua lý
trí, chẳng hạn như sự tồn tại của Gót và những nguyên tắc đạo đức. Kiến thức về
Gót này có thể có được qua việc quan sát thế giới và phản ánh hợp lý. Ông cũng
thừa nhận vai trò của sự vén lên cho thấy huyền bí thiêng liêng (như Kinh
thánh), đối với ông, điều này phải phù hợp với lý trí. (c) Khoan dung tôn giáo:
Trong Letter Concerning Toleration /Bức thư liên quan đến khoan dung, Locke lập luận cho sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước và sự quan trọng của việc cho phép
những cá nhân theo đuổi tin tưởng tôn giáo của riêng họ, miễn là những tin
tưởng này không gây hại cho người khác. Ông tin rằng lý trí ủng hộ ý tưởng về
sự khoan dung tôn giáo và lòng tin tôn giáo không thể bị ép buộc. Vì vậy, về cơ
bản, Locke lập luận rằng lòng tin tôn giáo tôn giáo, đặc biệt là đạo Kitô , có thể được biện minh và hiểu
một cách hợp lý, và rằng nó không hoàn toàn tách biệt với triết học hoặc lý
trí. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì rằng lý trí có giới hạn của nó, đặc biệt là khi
nói đến những vấn đề về tôn giáo được tiết lộ vượt ra ngoài phạm vi của bằng
chứng thực nghiệm.
[18] Pierre Bayle (1647–1706) thuộc
nhóm Huguenot (những người Phản thệ bị những người Catô đàn áp, ở France), đã
sống tị nạn tôn giáo ở Holland.
Pierre Bayle là một triết gia người Pháp nổi tiếng
với thuyết hoài nghi và sự ủng hộ cho sự khoan dung tôn giáo. Trong Dictionnaire
Historique et Critique, ông đã chỉ trích giáo điều tôn giáo và đặt câu hỏi
về khả năng biết được những chân lý tôn giáo tuyệt đối. Ông nhấn mạnh lý trí
hơn truyền thống trong lòng tin tôn giáo, chỉ ra những mâu thuẫn trong những
văn bản và giáo lý tôn giáo. Bayle ủng hộ sự khoan dung tôn giáo, lập luận rằng
chỉ riêng lý trí không thể giải quyết được những tranh chấp tôn giáo, vì vậy
mọi người nên có quyền tự do theo đuổi tin tưởng của riêng mình mà không bị đàn
áp. Ông chịu ảnh hưởng của thuyết Pyrrhon một thuyết hoài nghi đặt câu hỏi về
sự chắc chắn, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo. thuyết hoài nghi của ông
về kiến thức tuyệt đối, đặc biệt là trong tôn giáo, đã ảnh hưởng đến những
nhà tư tưởng Khai sáng sau này, định hình nên thuyết thế tục hiện đại và phong
trào hướng tới việc đặt câu hỏi về thẩm quyền tôn giáo.
[19] “Kẻ ngu
dại của David,” ám chỉ Psalm 14:1 trong Kinh thánh: “Kẻ
ngu dại đã nói trong lòng rằng, Không có Gót.” (KJV). Câu này theo truyền thống
cho là của Vua David. Thuật ngữ này chỉ một nhân vật điển hình tượng trưng, không phải
một cá nhân lịch sử cụ thể
nào.
[20] Atheism: Thuyết Không-tin-có-gót; Deism:
Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay; Theism: Thuyết Tin-có-gót hay
rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay
[21] Libertines: những người từ chối những ràng buộc về mặt xã hội và
đạo đức, đặc biệt là trong tôn giáo và tình dục.
Thuyết tự do là sự xác tín rằng
người ta phải được giải phóng khỏi những ràng buộc về đạo đức để được tự do
thực sự. Nếu muốn thực sự thành một người tự chủ, người ta phải tránh những
ràng buộc, quy tắc đạo đức dưới bất kỳ hình thức nào. Quan điểm triết học này
đã đạt được nhiều ảnh hưởng trong thế kỷ 17 và 18
Freethinkers: những cá nhân dựa trên lý trí và bằng chứng, từ chối giáo điều và truyền thống. Người có tư tưởng tự do: qua việc hình thành ý kiến và tin tưởng của riêng họ, đặc biệt là về tôn giáo hay chính trị, thay vì chỉ chấp nhận những gì được tin tưởng và giảng dạy chính thức hay phổ thông những người này biện luận rằng lý trí có thể đạt đến một chân lý vốn đã bị làm thành mâu thuẫn, tối tăm hay bị bóp méo bởi những thuyết chính thức của những tổ chức tôn giáo, vốn tuyên bố có được sự thực qua sự vén lên cho thấy của thần linh và hậu quả là những tổ chức này có quyền buộc mọi người trong xã hội phải đồng ý tất cả với những giáo điều họ giảng dạy. Theo nghĩa hạn chế hơn, những người suy nghĩ tự do là những nhà triết học và khoa học thế kỷ 17, 18 và 19, ví dụ như Anthony Collins, (1676–1729), Lord Shaftesbury (1671–1713), Denis Diderot, Thomas Paine, Charles Darwin, và Herbert Spencer, người cho rằng những giảng dạy của đạo Kitô – như có trong sách Thánh, trong những luận thuyết đã được chấp thuận của những nhà gót học, và trong những tuyên bố của những hội nhà thờ khác nhau – là một trở ngại cho sự tiến bộ của khoa học và khai sáng đạo đức. Để đạt được tiến bộ khoa học mong muốn và cải thiện nhiều tệ nạn xã hội khác nhau, họ nhấn mạnh rằng nhà khoa học và nhà triết học cần được tự do trong suy nghĩ của họ và được giải phóng khỏi những giới hạn do chính quyền tôn giáo áp đặt. Ở France, những người cho rằng thái độ này được gọi là libres penseurs, libertins, esprits forts, hay franc-penants; ở Germany, là Freigeister hay Freidenker.