Tuesday, March 4, 2025

Hume – Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (02)

Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên

(Dialogues concerning Natural Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )





PHẦN I.

 

Tóm lược

 

Trò chuyện giữa Demea, Cleanthes và Philo bắt đầu với một câu hỏi liên quan với giáo dục: khi nào là tốt nhất để bắt đầu việc dạy gót học cho những sinh viên? Demea biện luận rằng chỉ nên đem dạy gót học cho một trí tuệ trưởng thành: một sinh viên đầu tiên học lôgích học, đạo đức học và vật lý học, và chỉ sau đó họ mới quay sang môn gót học. Ông có hai lý do để chọn thứ tự này hơn. Thứ nhất, bằng việc học hỏi những môn học nền tảng này trước đã, não thức của sinh viên sẽ được đào luyện và sẵn sàng với môn học khó nhất trong tất cả là gót học. Thứ hai, và quan trọng hơn trong nội dung của Đàm thoại, ông muốn sinh viên nhận ra những giới hạn nghiêm trọng của triết học. Ông hy vọng họ sẽ thấy những nhà triết học hiếm khi đưa ra kết luận chắc chắn như thế nào, ngay cả những nhà tư tưởng uyên bác nhất cũng thường xuyên đưa ra những lý thuyết phi lý như thế nào, và lý trí của con người có thể không đáng tin cậy như thế nào. Bằng phơi ra những điểm yếu này, Demea bảo đảm rằng sinh viên của ông không trở nên quá kiêu ngạo đến mức nghĩ rằng chỉ có lý trí mới có thể thách thức những tín ngưỡng tôn giáo.

 

Động lực thứ hai này của Demea rất giống với quan điểm của người theo thuyết duy tín – ý tưởng cho rằng lòng tin tôn giáo, chứ không phải lý trí, là nền tảng thích hợp cho tín ngưỡng tôn giáo. Philo nhanh chóng nhận ra đề tài này và mở rộng thêm, nhấn mạnh lý trí của con người thực sự yếu đuối và không đáng tin cậy như thế nào. Ông lập luận rằng việc nhận ra giới hạn của lý trí là cần thiết để có lòng mộ đạo thực sự. Ông cho rằng nếu lý trí quá mong manh và không chắc chắn, thì thật không khôn ngoan khi dựa vào nó để giải quyết những vấn đề sâu xa như gót học.

 

Dĩ nhiên, Cleanthes kinh hoảng khi hai người bạn ông đều đề nghị đặt lòng tin tôn giáo trên sự hoài nghi triết học hơn là trên lý trí. Ông dành phần còn lại của chương này để cố gắng vạch trần sự hoài nghi của Philo như không chân thực. Philo đáp lại bằng liên tục sửa đổi lập trường hoài nghi của ông vào thành những hình thức ngày càng tinh tế hơn. Ban đầu, có vẻ như Philo tuyên bố rằng chúng ta không thể thực sự tin tưởng được vào bất cứ gì. Sau đó, Cleanthes hỏi, hỏi liệu Philo có định sẽ ra về bằng cửa ra vào hay cửa sổ? – ngụ ý rằng nếu Philo thực sự hoài nghi về những luật của tự nhiên, thì ông cũng có thể bỏ qua trọng lực và nhảy ra ngoài!

 

Philo nói với Cleanthes rằng đã mô tả sai lập trường hoài nghi của ông. Philo tin vào những gì lý trí bảo ông tin, nhưng ông cân nhắc tin tưởng của ông với bằng chứng. Trong những lĩnh vực chúng ta có nhiều kinh nghiệm và bằng chứng và như thế dựa những kết luận của chúng ta trên nhiều bằng chứng đó (những lĩnh vực như đời sống hàng ngày, đạo đức, chính trị, thương mại, hay ngay cả việc nhảy qua cửa sổ), Philo giải thích, chúng ta có thể tin tưởng vững mạnh vào kết luận của chúng ta . Nhưng khi nói đến những đề tài vốn chúng ta không có kinh nghiệm trực tiếp, như sự hình thành của thế giới, hay bản chất của Gót, chúng ta không có cơ sở nào để biện minh thuận hợp lý trí cho bất kỳ kết luận nào của chúng ta. Thay vì tuyên bố cực đoan rằng chúng ta không thể tin bất cứ gì, Philo thực sự đưa ra tuyên bố khiêm tốn hơn nhiều, rằng chúng ta chỉ nên tin vào những gì chúng ta có bằng chứng tốt để tin, và chúng ta chỉ có bằng chứng như vậy trong những lĩnh vực chúng ta có kinh nghiệm trực tiếp.

Tuy nhiên, Cleanthes không hài lòng với tuyên bố hoài nghi dù khiêm tốn này. Ông cho thấy rằng Philo và những đồng bạn hoài nghi của Philo dường như không có khó khăn nào trong việc khi đưa ra những kết luận khi đi đến những khoa học suy đoán [1]. Chẳng hạn, họ dường như tin tưởng vào những kết luận do Newton, Copernicus và Galileo đưa ra, dù những kết luận này liên quan đến những đề tài rất xa lạ với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Ông tuyên bố, đó là tiên kiến ​​thuần túy, đã ngăn cản họ, không cho dùng phương pháp lý luận tương tự này trong gót học. Nếu lý trí của con người đủ tốt để biện minh cho những giả thuyết khoa học, nói cách khác, thì nó cũng đủ tốt để biện minh cho những lý thuyết gót học. Ông kết luận bằng khẳng định rằng thực sự không có khác biệt giữa một người hoài nghi và một người không-tin-có-gót.

 

Philo biện hộ cho mình, phản lại tuyên bố về thuyết không-tin-có-gót, sau khi xác định tin tưởng vững mạnh của ông vào sự hiện hữu của Gót. Tuy nhiên, ông cho thấy rằng những tổ chức tôn giáo (những hội nhà thờ) thực sự có vẻ như đong đưa quan điểm của họ về thuyết hoài nghi: họ chấp nhận thuyết hoài nghi bất cứ khi nào lý trí dường như đe dọa quyền lực của họ, nhưng họ ôm lấy lý trí khi nó trở thành cách duy nhất để duy trì ảnh hưởng của họ.

 

PHẦN I.

 

D 1.1, KS 130

Sau khi tôi nhập vào nhóm, với những người tôi thấy đang ngồi trong phòng sách của Cleanthes, Demea đã nói vài lời khen ngợi với Cleanthes, về sự chăm sóc chu đáo, vốn ông này đã nhận lãnh trong việc giáo dục cho tôi, và về sự bền chí và kiên định không mệt mỏi của ông trong tất cả những tử tế thân thiện của ông. Cha của Pamphilus, ông nói, đã là người bạn thân của bạn: Đứa con trai là học trò của bạn, và quả thực có thể xem như con nuôi của bạn; chúng tôi đã thẩm định những công sức ông đã dành trong việc truyền đạt cho Pamphilus mọi ngành hữu ích của văn học và khoa học. Bạn thì không thiếu xót, tôi tin chắc, trong thận trọng hơn trong cần mẫn nhiệt tình. Do đó, tôi sẽ chia xẻ với bạn một châm ngôn vốn tôi đã tuân theo về phần những con cái của riêng tôi, để tôi có thể biết nó hợp ý với thực hành của bạn được đến đâu. Phương pháp tôi đi theo trong việc giáo dục của chúng thành lập trên câu nói của một người xưa, “rằng những sinh viên của triết học đầu tiên phải học Lôgích, sau đến Đạo đức học, Vật lý học kế tiếp, cuối cùng tất cả là Bản chất của những gót” [2] Khoa học này về Gót học Tự nhiên [3], theo như người này, là sâu xa và tối tăm khó hiểu nhất so với bất kỳ ngành học nào, đòi hỏi sự phán đoán chín chắn nhất trong những sinh viên của nó; và không gì nhưng chỉ một tinh thần, đã được giàu có với tất cả những khoa học khác, có thể an toàn được ủy thác với nó.

 

D 1,2, KS 130-1

Bạn có đợi quá lâu không, Philo nói, trong việc dạy con cái bạn những nguyên tắc của tôn giáo? Trong toàn bộ tiến trình giáo dục của chúng, liệu có nguy cơ chúng sẽ sao nhãng hay gạt bỏ cả thảy những ý kiến ​​vốn chúng đã nghe rất ít không? Nó thì chỉ như một ngành khoa học, Demea trả lời, là đối tượng cho lý luận và tranh luận của con người, khiến tôi tạm hoãn lại sự học hỏi về Gót học Tự nhiên. Để thêm vào tinh thần của chúng lòng kính tín sớm hơn thường lệ, là quan tâm chính của tôi; và bằng qui tắc và chỉ dẫn liên tục, và tôi cũng hy vọng, bằng làm gương thí dụ, tôi in sâu vào những não thức mềm mỏng của chúng một sự tôn kính, thành thói quen với tất cả những nguyên tắc của tôn giáo. Trong khi chúng học mỗi khoa học khác, tôi vẫn nhận xét về sự không chắc chắn của mỗi phần, những tranh chấp muôn thuở của con người, sự tối nghĩa của tất cả triết học, và những kết luận kỳ lạ, lố bịch, vốn một số những thiên tài lớn nhất đã rút ra từ những nguyên lý của chỉ đơn thuần lý trí con người. Sau khi đã thuần hóa tinh thần của chúng với một sự khuất phục và sự khiêm tốn-về-mình thích ứng, tôi thội không còn bất kỳ khó khăn nào của việc mở ra cho chúng những bí ẩn lớn nhất của tôn giáo, cũng không bị nắm giữ, bởi bất kỳ nguy hiểm nào từ sự kiêu ngạo hợm hĩnh đó của triết học, vốn có thể dẫn chúng đến phủ nhận những học thuyết và ý kiến đã thành lập vững chắc và lâu dài nhất.

 

D 1.3, KS 131-2

Cẩn trọng của bạn, Philo nói, trong việc pha thêm hương vị vào não thức con cái bạn với lòng kính tín sớm sủa, thì chắc chắn rất hợp lý; và không nhiều hơn là cần thiết, trong thời thế tục và không tôn giáo này. Nhưng những gì tôi khâm phục chủ yếu trong chương trình của bạn về giáo dục là phương pháp của bạn về việc rút lấy ưu điểm từ chính những nguyên lý của triết học và học hỏi, bằng việc gây hứng khởi tự hào và tự giải quyết, vốn trong mọi thời, chúng thường đã thấy là hết sức phá hoại với những nguyên tắc của tôn giáo. Thật vậy, người thông tục, chúng ta có thể nhận xét, những người không quen biết với khoa học và sự thăm dò sâu xa, sau khi quan sát những tranh luận bất tận của giới có học, đều có chung một khinh miệt hoàn toàn dành cho Triết học; và trở nên gắn bó chặt chẽ hơn với những tin tưởng cơ bản của Gót học, vốn họ đã được dạy. Những ai kia, những người đi vào một chút trong học hỏi và thăm dò, tìm thấy nhiều những xuất hiện của bằng chứng mới nhất và phi thường nhất trong những học thuyết, nghĩ không gì quá khó khăn cho lý trí con người; và tự phụ phá vỡ qua tất cả hàng rào, xúc phạm những chốn linh thiêng sâu thẳm nhất của đền thờ. Nhưng tôi hy vọng rằng, Cleanthes sẽ đồng ý với tôi, sau khi chúng ta đã buông bỏ sự dốt nát, phương thuốc chắc chắn nhất, có chỉ một thuận lợi còn lại để ngăn chặn tự do thế tục này. Hãy để những nguyên tắc của Demea được cải tiến và vun trồng: Hãy để chúng ta trở nên thấu đáo thiết thực và hợp lý về sự yếu đuối, mù quáng và những giới hạn chật hẹp của lý trí con người: Hãy để chúng ta đúng cách cân nhắc tính không chắc chắn và những mâu thuẫn vô tận của nó, ngay cả trong những đối tượng của đời sống và thực hành thông thường: Hãy để những sai lầm và những lừa dối của chính những giác quan chúng ta đặt trước chúng ta; những khó khăn không thể vượt qua, vốn dính chặt vào chính những ý tưởng đầu tiên về vật chất, nhân và quả, sự kéo dài [4], không gian, thời gian, chuyển động; và trong vắn tắt, tất cả những gì liên quan đến kích thước, số lượng và tỷ lệ, đối tượng của lĩnh vực duy nhất có sự chắc chắn thực sự, vốn có thể khẳng định hợp lý bất kỳ sự chắc chắn thực sự hay bằng chứng có thể chứng minh nào. Khi những đề tài này được trưng bày dưới ánh sáng đầy đủ của chúng, như chúng được một vài triết gia và hầu hết tất cả những những nhà gót học trưng bày; Ai có thể còn giữ được tin tưởng như vậy trong khả năng yếu ớt này của lý trí để chú ý về phần liên quan đến những xác quyết của nó trong những điểm quá cao với, quá tối tăm khó hiểu, quá xa rời với đời sống và kinh nghiệm thông thường? Khi sự kết hợp mạch lạc của những phần của một viên đá, hay ngay cả sự hợp phần đó của những phần, làm cho nó mở rộng trong không gian; khi những đối tượng quen thuộc này, tôi nói, đều như thế không thể giải thích được, và chứa đựng những trường hợp rất không nhất quán và mâu thuẫn; với sự bảo đảm nào chúng ta có thể quyết định liên quan đến nguồn gốc của những thế giới, hay theo dõi lịch sử của chúng từ vô tận đến vô cùng?

 

D 1.4, KS 132

Trong khi Philo nói những lời này, tôi có thể trông thấy một mỉm cười trên nét mặt của cả Demea và Cleanthes. Mỉm cười đó của Demea dường như hàm ý một sự hài lòng không che giấu trong những học thuyết đã đưa ra: Nhưng trong nét mặt của Cleanthes, tôi có thể nhận ra một tế nhị; như thể ông nhận thấy một vài giễu cợt hay mỉa mai ngầm trong những lý luận của Philo.

 

D 1,5, KS 132

Vậy thì, Philo, Cleanthes nói, bạn đề nghị dựng lòng tin tôn giáo trên sự hoài nghi triết học; và bạn nghĩ rằng, nếu tính chắc chắn hay bằng chứng bị đuổi ra khỏi mọi đối tượng khác của nghiên cứu, sẽ tất cả rút lui về những học thuyết gót học này, và ở đó có được một sức mạnh và thẩm quyền vượt trội. Nhưng liệu sự hoài nghi của bạn có tuyệt đối và chân thành như bạn tuyên bố hay không, sau cùng chúng ta sẽ biết, khi hội họp của chúng ta kết thúc: khi đó chúng ta sẽ thấy, liệu bạn có ra về bằng cửa lớn hay cửa sổ; và liệu bạn có thực sự hoài nghi rằng cơ thể bạn có trọng lực hay có thể bị thương khi rơi xuống, theo như ý kiến ​​phổ thông, suy ra từ những giác quan lừa dối và kinh nghiệm còn lừa dối hơn của chúng ta. Và cân nhắc này, Demea, tôi nghĩ, có thể, công bằng dùng để giảm bớt ác ý của chúng ta với phái khôi hài này của những người hoài nghi. Nếu họ trước sau hoàn toàn chân thực, họ sẽ không còn làm rắc rối thế giới với những nghi ngờ, những cãi bướng và những tranh luận của họ: Nếu họ chỉ trong đùa cợt, có lẽ, họ là những những người khôi hài kém cỏi, nhưng họ không bao giờ có thể là rất nguy hiểm, dù với trật tự xã hội, hay với triết học, hay với tôn giáo.

 

D 1.6, KS 132-3

Trong thực tế, Philo, ông nói tiếp, điều xem dường chắc chắn, rằng mặc dù một người, trong một cao hứng của khôi hài, sau sự suy ngẫm cực độ về nhiều những mâu thuẫn và bất toàn của lý trí con người, có thể hoàn toàn từ bỏ tất cả tin tưởng và quan điểm; nhưng người này không thể nào kiên trì trong sự hoài nghi hoàn toàn này, hay thể hiện nó trong hành vi của người này lấy một vài giờ. Những đối tượng bên ngoài đè nặng trên người này: Những đam mê níu kéo người này: ưu sầu triết học của người này không lâu sẽ tan biến; và ngay cả kìm nén mạnh mẽ tột bực trên tính khí riêng của người này, trong bất kỳ thời gian nào, sẽ không có khả năng để duy trì được vẻ ngoài kém cỏi của sự hoài nghi. Và vì lý do gì lại phải tự áp đặt một kìm nén mạnh mẽ như vậy? Đây là một điểm, trong đó sẽ là không thể nào cho người này có thể tự hài lòng, trước sau với những nguyên lý hoài nghi của người này: Như thế khiến trên toàn bộ, không gì có thể là lố bịch hơn những nguyên lý của những người phái Pyrrho thời cổ; nếu trong thực tế, họ đã cố gắng, như đã tỏ ra, để mở rộng từ đầu đến cuối, cùng một thuyết hoài nghi, vốn họ đã học được từ những tuyên bố của những trường phái của họ, và vốn họ đã phải chịu tù hãm với chúng.

 

D 1.7, KS 133

Trong cái nhìn này, hiện ra có một sự giống nhau lớn giữa những trường phái của những người Stoics và những người Pyrrho, [5] mặc dù những đối lập vĩnh viễn: và cả hai có vẻ đều dựng trên châm ngôn sai lầm này, rằng những gì một người người đôi khi có thể thực hiện, và trong một vài trường hợp nhất định, người ấy có thể luôn luôn thực hiện được và trong mọi trường hợp. Khi não thức, theo những suy ngẫm của phái Stoics, được nâng lên cao trong một nhiệt tình cao cả của đức hạnh, và được tác động với bất kỳ loại nào của danh dự hay lợi ích hay hạnh phúc của công chúng, đau đớn cơ thể và khổ sở tột cùng sẽ không thể thắng được một ý thức cao như vậy về trách nhiệm; và điều này có thể, có lẽ, bằng phương sách của nó, ngay cả để mỉm cười và hân hoan giữa những cực hình. Nếu sự việc này đôi khi xảy ra trong kinh nghiệm và trong thực tại, có thể là một triết gia, trong trường phái của người này, hay ngay cả trong riêng tư biệt lập của người này, dần đưa người này, rất nhiều hơn nữa, đến một nhiệt tình như vậy, và hỗ trợ trong tưởng tượng sự đau đớn kịch liệt nhất, hay biến cố thảm khốc nhất, vốn người này có thể mường tượng được. Nhưng làm thế nào người này sẽ hỗ trợ chính sự nhiệt tình này? Kiên định trong não thức của người này dịu đi, và không thể gọi trở lại khi mong muốn: Những sự xao nhãng lôi kéo ông khỏi con đường của mình: Những bất hạnh tấn công không báo trước: Và từng bước một, nhà triết học chìm xuống cùng lớp với giới bình dân tầm thường. [6]

 

D 1.8, KS 133-4

Tôi thừa nhận sự so sánh những người Stoics và những người Hoài nghi của bạn, Philo trả lời. Nhưng đồng thời bạn có thể nhận xét rằng mặc dù trong học thuyết Stoics, tinh thần không thể hỗ trợ những bay bổng cao nhất của triết học, nhưng ngay cả khi nó chìm xuống thấp hơn, nó vẫn giữ lại phần nào khuynh hướng trước đây của nó; và những ảnh hưởng của lý luận của Stoic sẽ xuất hiện trong hành vi trong đời sống thường ngày của người này, và qua toàn bộ đặc tính chung của những hành động của người này. Những trường phái triết học thời cổ, đặc biệt là của ZENO, đã tạo ra những thí dụ về đức hạnh và sự kiên định, vốn xem dường đáng kinh ngạc cho đến thời hiện tại.

 

Tất cả Trí tuệ vô ích và Triết học sai lầm.

Tuy nhiên, với một phép thuật dễ chịu có thể quyến rũ

Đau đớn, trong một lúc, hay thống khổ và kích động

Hy vọng lừa dối, hay vũ trang ngực sắt đá không lay chuyển

Với kiên nhẫn cứng đầu, như với thép dày ba lớp.[7]

 

Tương tự như vậy, nếu một người chính mìn đã quen thuộc với những cân nhắc hoài nghi trên sự không chắc chắn và những giới hạn chật hẹp của lý trí, người này sẽ không hoàn toàn quên chúng khi chuyển suy ngẫm của ông sang những đề tài khác; nhưng trong tất cả những nguyên lý triết học và lý luận của người này, tôi không dám nói, trong hành vi ứng xử thông thường, sẽ tìm thấy người này khác với những người không bao giờ thành lập được bất kỳ ý kiến riêng ​​nào về vấn đề, hay khác với người có tình cảm thuận lợi hơn về lý trí của con người.

 

D 1.9, KS 134

Chobất kỳ một người có thể đẩy những nguyên lý suy đoán của thuyết hoài nghi xa đến đâu, tôi nhìn nhận, người này phải hành động và sống và trò chuyện, giống như những người khác; và với ứng xử này, người này không buộc phải đem cho bất kỳ lý do nào khác, ngoài sự cần thiết tuyệt đối vốn phải chịu trong khi làm như vậy. Nếu người này mang những luận đoán của người này xa hơn sự cần thiết này giới hạn người này, và những triết lý, hay về những đề tài tự nhiên hay đạo đức, người này bị một thích thú và hài lòng nhất định nào đó lôi cuốn, vốn người này tìm thấy trong việc tự đặt mình theo cách thức đó. Bên cạnh đó, người này cân nhắc rằng mọi người, ngay cả trong đời sống thông thường, đều bị triết lý này giới hạn ít nhiều; rằng từ tuổi thơ sớm nhất của chúng ta, chúng ta tạo những tiến bộ liên tục trong việc hình thành những nguyên tắc tổng quát hơn về ứng xử và lý luận; rằng chúng ta càng có nhiều kinh nghiệm và lý trí mạnh mẽ hơn thì chúng ta luôn đưa ra những nguyên tắc tổng quát và toàn diện hơn, và rằng những gì chúng ta gọi là triết học thì không gì khác ngoài một hoạt động thường xuyên hơn và có phương pháp hơn của cùng loại (suy nghĩ hay lý luận tổng quát mọi người thường tham dự một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày). Để triết lý về những đề tài như vậy về cơ bản không có gì khác với lý luận về đời sống thông thường; và chúng ta chỉ có thể mong đợi sự ổn định lớn hơn, nếu không phải là sự thực lớn hơn, từ triết lý của chúng ta, trên lý do của phương pháp tiến hành của nó thì chính xác hơn và cẩn thận tỉ mỉ hơn.

 

D 1.10, KS 134-5

Nhưng khi chúng ta nhìn xa hơn những những vấn đề, quan tâm và kinh nghiệm hàng ngày của con người và những thuộc tính của những vật thể xung quanh: Khi chúng ta mở rộng những luận đoán của chúng ta vào trong hai cõi vĩnh cửu, trước và sau trạng thái hiện tại của những sự vật việc; vào trong sự sáng tạo và sự hình thành của vũ trụ; sự là-có và những thuộc tính của những tinh thần; những quyền năng và những hoạt động của một tinh thần phổ quát, là-có với không khởi đầu và không chấm dứttoàn năng, toàn tri, bất biến, vô hạn và không thể hiểu được: chúng ta phải hoàn toàn loại bỏ ngay cả khuynh hướng hoài nghi nhỏ nhất để không cảm thấy lo lắng rằng chúng ta đã vượt quá những khả năng chúng ta. Cho đến chừng nào chúng ta còn giới hạn những luận đoán của chúng ta với thương mại, hay đạo đức, hay chính trị, hay phê bình, chúng ta thực hiện những kêu gọi, mỗi khoảnh khắc, với phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường [8] và kinh nghiệm, vốn làm vững mạnh những kết luận triết lý của chúng ta, và loại bỏ (ít nhất là một phần) sự nghi ngờ, vốn chúng ta đem dùng rất đúng mực nhìn về phần mỗi lý luận, vốn là rất tinh tế và đãi lọc. Nhưng trong những lý luận gót học, chúng ta không có lợi điểm này; trong khi đồng thời chúng ta được dùng trên những đối tượng, chúng ta phải là nhạy cảm, vốn chúng đều quá lớn cho việc nắm bắt của chúng ta và của tất cả những gì khác, đòi hỏi hầu hết để là quen thuộc với sự thấu hiểu của chúng ta. Chúng ta giống như những người nước ngoài trong một xứ sở xa lạ, với những người này mọi sự vật việc phải xem đáng nghi ngờ, và là những người trong nguy hiểm mỗi khoảnh khắc của việc vi phạm luật pháp và phong tục của dân ở đây, với họ những người này sống và trò chuyện. Chúng ta không biết xa đến đâu chúng ta phải tin cậy những phương pháp lập luận thông thường của chúng ta trong một chủ đề loại như thế; vì ngay cả trong đời sống thông thường và trong lĩnh vực đó, vốn là thuận hợp đặc biệt với chúng, chúng ta không thể giải thích về chúng,và chúng ta hoàn toàn bị thúc đẩy bởi một loại bản năng hay cần thiết khi chúng ta dùng chúng.

 

D 1.11, KS 135-6

Tất cả những người hoài nghi kỳ vọng, rằng nếu lý trí được suy xét trong một cái nhìn trừu tượng, nó cung cấp những luận chứng không thể đánh bại chống lại chính nó, [9] và rằng chúng ta có thể không bao giờ giữ lại được bất kỳ xác quyết hay bảo đảm nào, về bất kỳ đề tài nào, đã không phải là những lý luận hoài nghi quá tinh tế và đãi lọc, nhưng chúng đều không có khả năng để cân bằng với những luận chứng vững chắc và tự nhiên hơn, xuất phát từ những giác quan và kinh nghiệm. Nhưng là điều hiển nhiên, khi nào những luận chứng của chúng ta mất đi lợi thế này và phát triển không kềm hãm vượt ra ngoài đời sống thông thường, rằng sự hoài nghi tinh tế nhất sẽ xảy ra trên một vị trí vững chắc với chúng, và có khả năng để chống lại và cân bằng chúng. Nghi ngờ này không có trọng lượng hơn luận chứng kia. Não thức phải trong hồi hộp căng thẳng giữa chúng; và nó là chính sự hồi hộp căng thẳng, hay cân bằng đó, vốn là sự chiến thắng của thuyết hoài nghi. [10]

 

D 1.12, KS 136

Nhưng tôi quan sát, Cleanthes nói, liên quan với bạn, Philo, và tất cả những người hoài nghi suy đoán, rằng học thuyết và thực hành của bạn cũng nhiều biến thái trong những điểm tối tăm khó hiểu nhất của lý thuyết như trong ứng xử của đời sống thông thường. Bất cứ nơi nào bằng chứng xuất hiện, bạn tuân giữ nó, bất chấp sự hoài nghi khoác ngoài của bạn; và tôi cũng có thể quan sát một vài học phái của bạn thì cũng dứt khoát như những người đó, những người đưa ra những tuyên bố chắc chắn và tự tin quả quyết hơn. Trong thực tại, không phải một người sẽ là không lố bịch buồn cười, người đã không thành thật để phủ nhận sự khám phá của Newton về hiện tượng kỳ diệu của cầu vồng, vì sự giải thích đó cho một mổ xẻ chi li của những tia sáng; một đề tài, đúng ra, quá tinh tế cho sự hiểu biết của con người? Và bạn sẽ nói gì với một ai, người không có gì đặc biệt gì để phản đối những lập luận của Copernicus và Galilæo về chuyển động của trái đất, sẽ giữ lại sự đồng ý của người này, trên nguyên lý tổng quát đó. Rằng những đề tài này cũng quá vĩ đại và xa vời để được giải thích bởi lý trí hẹp hòi và sai lầm của loài người?

 

D 1.13, KS 136-7

Quả thật, có một loại thuyết hoài nghi thô thiển và thiếu hiểu biết, như bạn đã quan sát rõ, vốn cho người thông tục một tiên kiến ​​tổng quát phản lại những gì họ không hiểu được dễ dàng, và khiến họ gạt bỏ mọi nguyên lý,vốn đòi hỏi việc lý luận phức tạp để chứng minh và thành lập nó. Loại này của hoài nghi thì tai hại với kiến ​​thức,nhưng không với tôn giáo; vì chúng ta thấy rằng, những ai là người tuyên bố tin theo lớn nhất của nó, thường thường cho đồng ý của họ, không chỉ với những sự thực lớn lao của Thuyết Tin-Có-Gót [11], và gót học tự nhiên, nhưng ngay cả với những giáo điều phi nhất, vốn một mê tín truyền thống đã đưa dến cho họ. Họ tin tưởng vững chắc vào những phù thủy; dù họ sẽ không tin và cũng không chú ý đến ngay cả những chân lý toán học đơn giản nhất của ​​Euclid. Nhưng những hoài nghi tinh tế và triết học rơi vào một sự không nhất quán của một bản chất đối nghịch. Họ đẩy những nghiên cứu của họ vào trong những góc tối tăm khó hiểu nhất của khoa học; và sự đồng ý của họ đi them họ trong mọi bước, tương xứng với bằng chứng họ gặp. Họ ngay cả đã bị buộc phải nhìn nhận, rằng những đối tượng tối tăm khó hiểu và xa xôi nhất là những đối tượng, vốn được triết học giải thích tốt nhất. Ánh sáng được mổ xẻ trong thực tại: Hệ thống thực sự của những thiên thể được khám phá và xác định. Nhưng việc nuôi dưỡng cơ thể bằng thức ăn vẫn là một điều bí ẩn không thể giải thích được: Sự kết hợp của những phần của vật chất vẫn còn không thể hiểu được. Do đó, những người hoài nghi này trong mọi vấn đề, buộc phả xem xét từng bằng chứng cụ thể riêng biệt, và tỷ lệ đồng ý của họ với mức độ chính xác của bằng chứng xảy ra. Đây là thực hành của họ trong tất cả những khoa học tự nhiên, toán học, đạo đức học và chính trị học. Và tại sao không cũng giống thế, tôi hỏi, trong gót học và tôn giáo? Tại sao những kết luận thuộc bản chất này phải một mình bị bác bỏ dựa trên giả định tổng quát về sự thiếu sót của lý trí con người, với không bất kỳ thảo luận đặc biệt nào về bằng chứng? Không phải một xử sự không cân bằng như vậy là một bằng chứng rõ ràng của tiên kiến ​​và tình cảm hay sao?

 

D 1.14, KS 137

Những giác quan của chúng ta, bạn nói, là lừa dối, sự hiểu biết của chúng ta sai lầm, những ý tưởng của chúng ta ngay cả về những đối tượng quen thuộc nhất, như không gian (mở rộng), thời gian (kéo dài) và chuyển động, đầy những phi lý và những mâu thuẫn. Bạn thách thức tôi giải quyết những khó khăn, hay hòa giải những mâu thuẫn vốn bạn tìm thấy trong chúng. Tôi không có khả năng gánh vác một dự án lớn lao như vậy: Tôi không có thì giờ rảnh cho nó: Tôi nhận thấy nó là thừa thãi. Hành vi của riêng bạn, trong mọi trường hợp, bác bỏ những nguyên tắc của bạn; và cho thấy sự tin cậy vững chắc vào tất cả những châm ngôn đã được thừa nhận về khoa học, đạo đức, sự thận trọng và hành vi ứng xử. [12]

 

D 1.15, KS 137

Tôi sẽ không bao giờ đồng ý với một ý kiến ​​ gay gắt như vậy của một người viết nổi tiếng [13], người nói rằng những người hoài nghi không một phái của những nhà triết học: họ chỉ là một phái của những người nói dối. Tuy nhiên, tôi có thể xác nhận (tôi hy vọng, không xúc phạm) rằng họ là một phái của những người thich nói đùa, hay những người thích tụ họp. Nhưng về phần tôi, bất cứ khi nào tôi thấy chính mình nghiêng sang cười đùa vui vẻ, và tiêu khiển, tôi chắc chắn sẽ chọn giải trí của tôi thuộc một tính chất ít bối rối và kém tối tăm khó hiểu hơn. Một hài kịch, một tiểu thuyết, hay nhiều nhất là một câu chuyện, có vẻ là một giải trí tự nhiên hơn những khúc mắc và những trừu tượng siêu hình loại như vậy.

 

D 1.16, KS 137-8

Người hoài nghi sẽ làm một phân biệt vô ích giữa khoa học và đời sống thông thường, hay giữa một khoa học này với một khoa học khác. Những biện luận, được dùng trong tất cả, nếu chính đáng, đều có cùng một bản chất tương tự, và có cùng một sức mạnh và bằng chứng. Hay nếu có bất kỳ khác biệt nào giữa chúng, sự ưu thắng hoàn toàn nằm về phía của gót học và tôn giáo tự nhiên. Nhiều nguyên lý của cơ học đã thành lập trên lý luận rất tối tăm khó hiểu; thế nhưng không có người nào, người có bất kỳ những kỳ vọng nào với khoa học, ngay cả người hoài nghi suy đoán, lại duy trì nghi ngờ dù tối thiểu về chúng. Hệ thống Copernican chứa đựng nghịch lý đáng ngạc nhiên nhất, và trái ngược nhất với những khái niệm tự nhiên của chúng ta, với những gì xuất hiện bên ngoài, và với chính những tri giác của chúng ta: thế nhưng ngay cả những nhà chăn chiên và những quan tòa của những tòa án dị giáo Kitô bây giờ đều buộc phải rút lại sự phản đối của họ với nó. Philo, một người có kiến ​​thức sâu rộng và tư tưởng phóng khoáng như vậy, có thực sự nên nuôi dưỡng những nghi ngờ mơ hồ và không phân biệt, hỗn tạp về những giả thuyết tôn giáo không? vốn chúng được thành lập trên những luận chứng đơn giản và hiển nhiên nhất, và trừ khi mọi người cố tình tạo ra những trở ngại, thì nó tự nhiên dễ dàng được chấp nhận với não thức con người?

 

D 1.17, KS 138-9

Và ở đây, chúng ta có thể lưu ý nhận xét, ông nói tiếp, quay sang Demea, một trường hợp khá lạ lùng đáng chú ý trong lịch sử khoa học. Sau sự kết hợp của triết học với tôn giáo phổ thông, khi đạo Kitô đầu tiên được thiết lập, không có gì thường thấy hơn, giữa tất cả những thày giảng tôn giáo, là đưa ra những tuyên bố phản bác lý trí, chống lại những tri giác, chống lại mọi nguyên lý, vốn đơn thuần lấy từ sự khảo cứu và thăm dò của con người. Tất cả những đề tài của Academy thời cổ [14] đã được những nhà chăn chiên khai mở hội nhà thờ Kitô [15] tiếp nhận; và từ đó đã quảng bá trong nhiều thời đại, trong mọi trường học và bục giảng, trong mọi phần của vương quốc Kitô. Những người Phản Thệ, đã chấp nhận cùng những nguyên tắc lý luận, hay đúng hơn là những lời tuyên bố; và tất cả những ca ngợi về sự xuất sắc của lòng tin tôn giáo chắc chắn sẽ được xen kẽ với một số châm biếm nghiêm khắc chống lại lý trí tự nhiên. Một thày chăn chiên cấp cao nổi tiếng của hội nhà thờ Catô Rôma cũng vậy [16], một người có học thức uyên bác, đã viết một thuyết minh về đạo Kitô, cũng là tác giả của một chuyên luận, trong đó chứa tất cả những phản bác và chỉ trích những “lý sự cùn” của thuyết Pyrros táo bạo và kiên định nhất. Locke dường như đã là người Kitô đầu tiên, người đã công khai liều lĩnh khẳng định, rằng lòng tin tôn giáo thì không gì nhưng chỉ như một loại của lý trí, rằng tôn giáo đã chỉ như một nhánh của triết học, và rằng một chuỗi gồm những luận chứng, tương tự với những luận chứng vốn đã thiết lập bất kỳ sự thực nào trong đạo đức học, chính trị học, hay vật lý học, luôn luôn đã được dùng trong việc khám phá tất cả những nguyên tắc của gót học, cả tự nhiên và vén-lên-cho-thấy huyền bí. [17] Việc Bayle [18] và những nhà tư tưởng tự do khác – những cá nhân nổi loạn chống lại thẩm quyền, đặc biệt là những chuẩn mực tôn giáo và xã hội, và thường theo đuổi sự tự do khỏi sự kiềm chế đạo đức – đã hiểu sai quan điểm của những vị bố đạo đầu tiên của hội nhà thờ và những người Phản Thệ đầu tiên, đã chỉ giúp truyền bá quan điểm được cân nhắc kỹ lưỡng hơn của Locke. Kết quả là, giờ đây, gần như tất cả những người tự nhận là triết gia hay nhà tư tưởng duy lý đều công khai thừa nhận rằng thuyết không tin có gót và thuyết hoài nghi gần như là một. Và vì rõ ràng là không ai thực sự chân thành khi họ tự nhận là người hoài nghi, tôi có hy vọng mong manh rằng cũng có rất ít người thực sự tự nhận là người không tin có gót.

 

D 1.18, KS 139

Bạn không nhớ sao, Philo, câu nói rất hay của Lord Bacon nói về đề tài này sao? Cleanthes trả lời, rằng một chút triết lý làm một người là người không-tin-có-gót: nhưng nhưng rất nhiều triết lý lại hoán cải người này trở lại với tôn giáo Đó cũng là một nhận xét cũng rất sáng suốt Philo nói. Nhưng những gì tôi nghĩ đến thì trong một đoạn văn khác, trong đó, sau khi nhắc đến kẻ ngu dại của David [19], người nói trong thâm tâm mình rằng không có Gót, nhà triết học vĩ đại này nhận xét, rằng những người không-tin-có-gót ngày nay có gấp đôi phần ngu dại: vì họ đều không chỉ hài lòng để nói trong thâm tâm họ rằng không có Gót, nhưng họ cũng thốt ra sự nghịch đạo đó với môi lưỡi họ, và do đó phạm tội bất cẩn và khinh xuất gấp bội. Mặc dù những người như vậy có thể thực sự chân thành, tôi không nghĩ họ có thể được coi là quá đáng sợ.

 

D 1.19, KS 139-40

Nhưng mặc dù bạn sẽ xếp tôi vào hạng những người ngu dại này, tôi không thể giữ không nói ra một nhận xét, vốn xảy ra với tôi từ lịch sử của tư tưởng hoài nghi tôn giáo và phi tôn giáo, bạn đã trao đổi nó với chúng tôi. Dường như với tôi, có những triệu chứng mạnh mẽ của thuật kiếm chác của nghề làm thày chăn chiên trong toàn bộ tiến trình của công việc này. Trong những thời đại ngu muội, chẳng hạn như những người theo sau sự giải thể của những trường phái cổ xưa, những thày chăn chiên nhận thấy rằng Thuyết Không-tin-có-gótThuyết Tin-Gót-Không-Nhúng-Tay [20], hay tư tưởng khác biệt nào với giáo điều chính thống Kitô dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ có thể tiến hành từ việc đặt câu hỏi về những quan điểm đã tiếp ​​nhận, và từ tin tưởng, rằng lý trí con người đã là ngang hàng với mọi sự vật việc. Giáo dục khi đó đã có một ảnh hưởng lớn lao trêm não thức của con người, và đã gần như tương đương về sức mạnh với những nêu lên của giác quan và sự hiểu biết thông thường, qua đó người hoài nghi kiên quyết nhất cũng phải để chính mình tuân theo. Nhưng ngày nay, khi ảnh hưởng của giáo dục thì suy giảm rất nhiều và con người, từ một thương mại mở rộng hơn của thế giới, đã học để so sánh những nguyên tắc phổ biến của những quốc gia và những thời đại khác nhau, những nhà gót học khôn ngoan của chúng ta đã thay đổi toàn bộ hệ thống triết học của họ, và nói ngôn ngữ của những trường phái Stoic, Plato, và Aristotle, không phải ngôn ngữ của trường phái Pyrros và Academy Hoài nghi. Nếu chúng ta không tin tưởng lý trí của con người, bây giờ chúng ta không có nguyên tắc nào khác để dẫn chúng ta vào trong tôn giáo. Như vậy, những người hoài nghi trong một thời đại, những người giáo điều trong một thời đại khác; bất cứ hệ thống nào phù hợp nhất với mục đích của những quý ông giáotôn kính này, trong việc đem lại cho họ một uy thế cao hơn loài người, họ chắc chắn sẽ khiến nó thành nguyên tắc yêu thích của họ, và giáo lý đã thiết lập.

 

D 1,20, KS 140

Đó là rất tự nhiên, Cleanthes nói, cho con người để ôm lấy những nguyên tắc đó, qua đó họ thấy chúng có thể bảo vệ hay nhất những học thuyết của họ; chúng ta cũng không cần phải gọi đến một hỗ trợ nào về nghề chăn chiên để giải thích cho một mưu chước hợp cảnh hợp tình với thực tế như vậy. Và chắc chắn, không có gì có thể cung cấp một giả định mạnh mẽ hơn rằng bất kỳ tập hợp những nguyên tắc nào là đúng và nên được chấp nhận hơn là để lưu ý nhận xét, rằng chúng có khuynh hướng xác nhận hay củng cố tôn giáo chân chính, và dùng để làm bối rối, làm bẽ mặt ‘những cãi vặt’ của những người Không-tin-có-gót, những người chối bỏ ràng buộc xã hội và đạo đức, và những Người Tự Do Tư Tưởng trong tất cả những nhóm hay trường phái tư tưởng khác nhau [21]

 

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai

(Mar/2025)

(Còn tiếp...  )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 

 

 



[1] speculative sciences: Trong Hume, đặc biệt trong A Treatise of Human Nature, “khoa học suy đoán” dùng chỉ những ngành học liên quan đến lý luận thuần túy và kiến ​​thức lý thuyết, trái ngược với những ngành học dựa trên đời sống thực tế hoặc nghiên cứu thực nghiệm. Điều này phù hợp với sự phân chia kiến ​​thức cổ điển thành suy đoán (lý thuyết) và thực tiễn (đạo đức, chính trị hoặc kỹ thuật). Theo Hume, khoa học suy đoán gồm logic, toán học và siêu hình học, nhưng ông rất hoài nghi về ngành cuối cùng. Ông thường chỉ trích suy đoán siêu hình là không chắc chắn và tách biệt khỏi kinh nghiệm, thay vào đó ủng hộ cách tiếp cận kiến ​​thức dựa trên kinh nghiệm, thực nghiệm. Điều này đặc biệt rõ ràng trong đoạn văn nổi tiếng của ông ở cuối Enquiry Concerning Human Understanding, trong đó ông gợi ý rằng những sách về siêu hình học và suy đoán kinh viện nên “bị thiêu rụi” nếu chúng không chứa lý luận về số lượng (toán học) hoặc lý luận thực nghiệm về những vấn đề thực tế (khoa học).

[2] [Chrysippus apud Plut. de repug. Stoicorum] > ghi chú trong văn bản của Hume, có nghĩa là câu châm ngôn cổ xưa về thứ tự nghiên cứu triết học (Logic, Đạo đức, Vật lý và cuối cùng là gót học tự nhiên) được cho là của Chrysippus, một triết gia Stoics nổi tiếng, như được Plutarch trích dẫn trong De Repugnantiis Stoicorum (Về những mâu thuẫn của những người Stoics).

[3] The Nature of the Gods: Bản chất của những vị gót liên quan đến lý thuyết hóa gót học về những thuộc tính, sự hiện hữu và hoạt động của những hữu thể linh thiêng, một đề tài chính trong triết học thời cổ, đặc biệt là trong số những người theo thuyết Stoics, thuyết Epicurus và thuyết Plato. De Natura Deorum (Về bản chất của những vị Gót) của Cicero trình bày những tranh luận giữa những trường phái triết học khác nhau về quan niệm của họ về tính chất thần thánh. Natural Theology: Gót học tự nhiên nhắc đến việc nghiên cứu về Gót, và những thuộc tính thần thánh qua lý trí và quan sát của thế giới tự nhiên, thay vì qua sự vén lên cho thấy huyền bí, hay những văn bản tôn giáo. Nó nhằm mục đích hiểu sự hiện hữu và bản chất của Gót bằng những luận chứng logic, bằng chứng thực nghiệm và lý luận triết học.

Trong tư tưởng của Hume, Gót Học Tự Nhiên (luận chứng duy lý về sự tồn tại của Gót) và Tôn Giáo Tự Nhiên ( phát triển lịch sử của tin tưởng tôn giáo) không chỉ khác biệt nhưng còn xung đột nhau, một bên thúc đẩy sự biện minh duy lý cho tin tưởng vào Gót, trong khi bên kia cho rằng tin tưởng tôn giáo loại như thế, xuất phát từ tâm lý và tình cảm con người, nhưng không từ lý trí. Tôn giáo tự nhiên của Hume (từ Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo) cho rằng tôn giáo phát sinh từ tâm lý con người – sợ hãi, ngu dốt và nhân cách hóa những thần linh – chứ không phải lý trí. Điều này trực tiếp thách thức Gót học tự nhiên, vốn cho rằng sự tìm hiểu qua lý trí có thể dẫn đến kiến ​​thức về Gót. Trong những Đàm thoại này, Hume chỉ trích Gót học tự nhiên, biện luận rằng ngay cả những luận chứng mạnh nhất của nó (ví dụ: Luận chứng thiết kế) cũng không cung cấp được vững chắn. Điều này phù hợp với Tôn giáo tự nhiên của ông, coi tin tưởng là một hiện tượng cảm xúc và văn hóa hơn là một sản phẩm của bằng chứng duy lý. Do đó, trong khuôn khổ tư tưởng của Hume, Gót học tự nhiên và Tôn giáo tự nhiên đối lập nhau – một bên tuyên bố biện minh cho tin tưởng qua lý trí, trong khi bên kia cho rằng tin tưởng xuất hiện phi lý từ bản chất con người.

[4]extensionsự kéo dài : chỉ tính chất chiếm ngụ trong không gian, một khái niệm cơ bản trong siêu hình học và triết học nhận thức.

[5] Pyrrhonism: tên gọi một trường phái của thuyết hoài nghi, được đồng nhất (mặc dù không chắc chắn) với Pyrrho người thành Elis (khoảng năm 370 – c. 272 ​​TCN), người được cho (qua học trò của ông là Timon người thành Phlius ) đã có tuyên bố rằng mọi sự vật việc đều là không thể xác định được và theo đó đã đình chỉ phán đoán về thực tại của sự vật – đặc biệt là không biết chúng thực sự là tốt hay xấu. Sau cái chết của Timon, trường phái Pyrrho không hoạt động nữa, cho đến khi được Aenesidemus (thế kỷ I TCN) hồi sinh. Aenesidemus chủ trương rằng không thể chấp nhận, hoặc để khẳng định, hoặc để phủ định rằng bất cứ một gì thì thực sự là trường hợp đã xảy ra, và đặc biệt là khẳng định, cùng với những người phái hoài nghi của trường Academy (Academic Skeptics, sau-Plato), rằng một số sự vật việc thực sự không thể hiểu được. Thay vào đó, phái Skeptic (viết hoa biểu thị những người theo thuyết Pyrrho, những người đã dùng thuật ngữ, nghĩa đen là ‘người hỏi thăm dò/tìm hiểu’, như một trong những tên gọi cho trường phái của họ) sẽ chỉ đồng ý rằng mọi sự vật việc, không hơn không kém, là trường hợp xảy ra, hoặc chỉ như thế trong một số trường hợp nhất định, và không trong những trường hợp khác. Thuyết hoài nghi của Aenesidemus mang hình thức của nhấn mạnh trên sự bất đồng giữa người thường và những nhà lý thuyết về bản chất của sự vật, và sự kiện là mọi sự vật việc xuất hiện khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau (những cách khác nhau để làm điều này đã được hệ thống hóa thành Mười Phương Thức Của Thuyết Hoài Nghi); kết quả có nghĩa là đình chỉ phán đoán về những vấn đề như vậy, điều này sẽ dẫn đến sự tĩnh lặng của não thức. Do đó, ‘Thuyết hoài nghi’ biểu thị một quan điểm triết học cụ thể, không chỉ đơn giản, như cách dùng thời nay, để chỉ bất kỳ một triết gia nào có khuynh hướng nghi ngờ. những người theo thuyết Pyrrho sau này, đặc biệt là Agrippa (thê kỷ 2 CN), đã cải tiến phương pháp của thuyết hoài nghi và tập trung vào việc làm suy yếu khái niệm tiêu chuẩn (nghĩa là chống lại Thuyết hoài nghi) mang tính giáo điều – không có phương cách nguyên tắc nào để giải quyết những tranh luận như vậy mà không chỉ cần đến đơn thuần khẳng định trong hình thức chuỗi thoái lùi vô tận, hoặc chạy vòng quanh. Chúng ta nhờ Sextus Empiricus (nổi tiếng trong khoảng 200-300 CN) đã giải thích đầy đủ nhất về lập luận của trường phái Pyrrho và rõ ràng nhất về thái độ của những người trường phái này. Trước những tranh luận bất tận, phái Skeptic dè dặt giữ phán quyết; nhưng điều này không làm đời sống thành không thể được cho họ, vì họ vẫn sẽ phản ứng với cách mọi sự vật việc diễn ra như chúng xuất hiện, mặc dù không tin trong bất kỳ ý nghĩa mạnh mẽ nào rằng mọi sự vật việc thực sự là như dạng ngoài xuất hiện của chúng . Hơn nữa, khi người phái Pyrrho mô tả những trạng thái tình cảm của họ, họ làm như vậy một cách phi giáo điều – và những khẩu hiệu của phái Skeptic (‘Tôi không xác định gì cả’, ‘không gì thì thấu hiểu được’, v.v.) đều là để được hiểu theo cách tương tự, như chỉ đơn thuần thuật lại một trạng thái của não thức và không diễn tả một xác định.

Stoicism là một trong những phong trào triết học mới của thời kỳ Hellas. Tên gọi bắt nguồn từ ‘mái hiên’ (sta poikilê) ở chỗ hội họp công cộng (Agora) ở thành Athens, nơi những người trong trường phái tụ họp và tổ chức những bài giảng của họ. Không còn giữ được một tác phẩm trọn vẹn nào của bất kỳ một ai trong ba người đứng đầu trường phái Stoic: ‘người sáng lập’, Zeno người thành Citium ở Cyprus (344–262 TCN), Cleanthes (mất 232 TCN) hay Chrysippus (mất khoản 206 TCN). Chrysippus đặc biệt viết nhiều, hơn 165 tác phẩm, nhưng chỉ còn lại những mảnh rời những tác phẩm của ông. những tác phẩm trọn vẹn duy nhất của những triết gia trường phái Stoic chúng ta có được là những tác phẩm của những người viết sau, trong thời đế quốc Rome, Seneca (4 TCN – 65 CN), Epictetus (khoảng 55–135) và Hoàng đế Marcus Aurelius (121–180) và những tác phẩm này về cơ bản tập trung vào đạo đức học.

Tư tưởng triết học của phái Stoics do Zeno người thành Citium sáng lập, khoảng năm 300 TCN và được ông và những người kế tục phát triển thành trường phái triết học có ảnh hưởng nhất của thời đại Hellas. Nó nhìn thế giới như được thẩm thấu lý tính và được thần linh quy hoạch, như một tổ chức tốt nhất có thể có được. Tốt lành và hạnh phúc về đạo đức đều có thể đạt được, nếu có, bằng cách tái tạo lý tính hoàn hảo đó trong chính con người, và bằng việc tìm ra và đóng vai trò được giao của mỗi người trong sơ đồ vũ trụ của những sự vật. Tư tươmg ban đầu của phái này nhìn thế giới như một cơ thể sinh vật tốt đẹp lý tưởng, có hồn lý trí của nó điều khiển nó, cho những gì tốt nhất. Bất kỳ ấn tượng nào về sự không hoàn hảo đều phát sinh từ việc nhìn nhầm lẫn những phần của nó trong cô lập (gồm cả bản thân chúng ta) như thể người ta cân nhắc lợi ích của một bàn chân tách biệt với nhu cầu của toàn cơ thể.

Toàn bộ chuỗi những sự kiện vũ trụ được định sẵn từng chi tiết. Là chuỗi tốt nhất có thể có được, nó được lập lại giống hệt nhau từ giai đoạn thế giới này sang giai đoạn tiếp theo, với mỗi giai đoạn kết thúc bằng một sự bùng nổ, sau đó là sự đổi mới vũ trụ. Tuy nhiên, quan hệ nhân quả của ‘số phận’ không đoạt ưu tiên, không dành trước trách nhiệm của cá nhân chúng ta về hành động của chúng ta. những hành động này vẫn nằm trong khả năng của chúng ta, bởi vì chúng ta, chứ không phải hoàn cảnh bên ngoài, là những nguyên nhân chính của chúng, và theo một ý hướng thích hợp nào đó, chúng ta có thể làm khác đi, mặc dù đã định trước rằng chúng ta sẽ không làm. Tư tưởng trường phái Stoics phát triển mạnh mẽ trong thời cổ Hellas và Rome. Nó là một trong những triết lý cao thượng nhất của văn minh phương Tây. Trong việc thúc giục sự tham gia vào những công việc của con người, những nhà Stois luôn tin rằng mục tiêu của tất cả những thăm dò là để đem cho một phương thức ứng xử được đặc trưng bằng sự an tĩnh của tinh thần và sự vững chắc của giá trị đạo đức.

[6] plebeian

[7] John Milton. Paradise Lost (Book II, lines 565–569).

[8] common sense: phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường

Trong Hume, common sense: dùng để chỉ sự hiểu biết cơ bản, hàng ngày hoặc phán đoán thực tiễn mọi người dựa vào trong đời sống hàng ngày của họ. Nó không nhất thiết là một khái niệm trừu tượng hay triết học cao, nhưng là lý luận trực giác, tự nhiên cho phép mọi người điều hướng thế giới một cách hiệu quả. Với Hume, phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường hướng dẫn chúng ta đưa ra quyết định hợp lý trong những lĩnh vực như thương mại, chính trị và đạo đức. Đó là một loại phán đoán lý luận không đòi hỏi phải phân tích phức tạp nhưng dựa trên những gì có vẻ hiển nhiên hoặc tự nhiên đối với hầu hết mọi người. Trong tác phẩm của ông, Hume đối chiếu lý luận phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường duy nghiệm với lý luận trừu tượng, suy đoán hơn (như những lập luận gót học), cho rằng trong khi hiểu biết thực tiễn dựa trên kinh nghiệm thường có thể dẫn đến kết luận đáng tin cậy trong những vấn đề hàng ngày, thì nó lại kém tin cậy hơn khi giải quyết những câu hỏi phức tạp hoặc siêu hình hơn, nơi sự hoài nghi thì phù hợp hơn.

[9] “furnishes invincible arguments against itself”: Hume nhấn mạnh một nghịch lý trong lý trí: khi được xem xét một cách trừu tượng, lý trí dường như tạo ra những lập luận làm suy mức độ tin cậy của chính nó. Đây là đi lem ma về hoài nghi: nếu lý trí chứng minh rằng nó không đáng tin cậy, thì chúng ta không thể tin tưởng vào những kết luận của nó, gồm cả kết luận rằng lý trí không đáng tin cậy!

[10] the triumph of scepticism”:Thuyết hoài nghi cuối cùng hướng đến mục tiêu đạt được những Hume gọi là “chiến thắng của thuyết hoài nghi”, chỉ trạng thái chờ đợi, tạm hoãn, khi những lập luận đối lập phản bác lẫn nhau, không lập luận nào là kết luận và não thức vẫn chưa quyết định. Hume cho rằng thuyết hoài nghi “chiến thắng” không bằng chứng minh bất cứ gì một cách chắc chắn, nhưng bằng giữ cho lý trí ở trạng thái nghi ngờ và trung lập, khi không có tin tưởng nào có trọng lượng hơn tin tưởng khác.

[11] Theism: Thuyết Tin-Có-Gót [xem những bản dich khác của tôi – Atheism: Thuyết Không-tin-có-gótDeism: Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay; Theism: Thuyết Tin-có-gót hay rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay ]

[12] Hume lập luận rằng những người hoài nghi cấp tiến tự mâu thuẫn với chính mình qua hành động của họ. Ngay cả khi họ tuyên bố rằng nhận thức, lý trí và kiến ​​thức là không đáng tin cậy, hành vi hàng ngày của họ cho thấy sự tin tưởng vững chắc vào những nguyên tắc của phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường. Thí dụ, một người hoài nghi có thể lập luận rằng những giác quan của chúng ta thì lừa dối và chúng ta không thể tin tưởng chúng – nhưng trong thực tế, họ vẫn dựa vào những giác quan của mình để điều hướng thế giới, tránh nguy hiểm và đưa ra quyết định. Tương tự như vậy, họ có thể đặt câu hỏi về những nguyên tắc đạo đức nhưng vẫn hành động như thể đạo đức, sự thận trọng và những chuẩn mực xã hội là quan trọng. Tóm lại, Hume cho thấy ở đây, rằng thuyết hoài nghi thì không thực tế – không ai thực sự sống theo nó.

[13] [L’Art de penser.] La Logique ou l’art de penser, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Logic Port-Royal, là bản văn về logic có ảnh hưởng nhất từ Aristotle đến cuối thế kỷ XIX. những tác giả là Antoine Arnauld và Pierre Nicole, những nhà triết học và gót học liên hệ với Tu viện Port-Royal. Bản in đầu tiên xuất hiện năm 1662.

[14] the ancient Academics (Plato)

[15] the Fathers = những ông bố đạo (những tín đồ xưng tụng là những “giáo phụ)” những nhà gót học Kitô thời sơ khởi có ảnh hưởng sâu rộng với giáo lý của hội nhà thờ Kitô.

[16] [Mons. Huet.]

Pierre-Daniel Huet (1630–1721) người hoài nghi đạo Kitô cuối cùng trong dòng của Michel Eyquem de Montaigne và Pierre Charron. Traité Philosophique của Huet xuất bản lần đầu tiên vào năm 1723, nhanh chóng được dịch sang những tiếng England, Italy, Germany, và Latin và được nghiên cứu trong suốt thế kỷ thứ mười tám. David Hume đã đọc nó và cũng như nhiều người khác, cảm thấy thích thú khi tác giả là một người hoàn toàn hoài nghi và cũng là một thày chăn chiên uyên bác. Đóng góp của Huet trong việc thảo luận hoài nghi về thời kỳ này nhấn mạnh lời giải thích của ông về cách người hoài nghi có thể đối phó với những tình huống bình thường của con người. Huet nói, “Triết lý là một chuyện, sống là chuyện khác”. Sau đó, ông cho thấy rằng người hoài nghi, giống như mọi người khác, sống theo phong tục và thói quen trong khi đồng thời nghi ngờ rằng có thể có bất kỳ sự biện minh nào. Ở cuối quyển 1, phần 4 của A Treatise of Human Nature (1737), Hume đưa ra giải thích khá giống với Huet.

[17] John Locke, trong Essay Concerning Human Understanding trong những tác phẩm của ông về gót học, biện luận rằng tin tưởng tôn giáo và lòng tin tôn giáo có thể được biện minh qua lý trí in his works on theology,. Ông không tuyên bố rằng tôn giáo chỉ là một nhánh của triết học, nhưng ông đã nêu lên rằng gót học (nghiên cứu về Gót) có thể được nghiên cứu giải quyết qua tiến trình tìm hiểu duy lý, giống như những lĩnh vực kiến ​​thức khác.

Đặc biệt, Locke tin rằng: (a) Lòng tin tôn giáo và Lý trí: Theo quan điểm của Locke, lòng tin tôn giáo không đối lập với lý trí mà thay vào đó là một loại lý trí. Ông lập luận rằng lòng tin tôn giáo dựa trên bằng chứng, mặc dù nó có thể liên quan đến lòng tin tôn giáo vào những điều vượt ra ngoài kinh nghiệm của con người hoặc bằng chứng thực nghiệm, chẳng hạn như sự tồn tại của Gót hoặc sự thực của sự vén lên cho thấy huyền bí. (a) Tôn giáo tự nhiên và sự vén lên cho thấy huyền bí: Locke tin rằng có một tôn giáo “tự nhiên” có thể được khám phá qua lý trí, chẳng hạn như sự tồn tại của Gót và những nguyên tắc đạo đức. Kiến thức về Gót này có thể có được qua việc quan sát thế giới và phản ánh hợp lý. Ông cũng thừa nhận vai trò của sự vén lên cho thấy huyền bí thiêng liêng (như Kinh thánh), đối với ông, điều này phải phù hợp với lý trí. (c) Khoan dung tôn giáo: Trong Letter Concerning Toleration /Bức thư liên quan đến khoan dung, Locke lập luận cho sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước và sự quan trọng của việc cho phép những cá nhân theo đuổi tin tưởng tôn giáo của riêng họ, miễn là những tin tưởng này không gây hại cho người khác. Ông tin rằng lý trí ủng hộ ý tưởng về sự khoan dung tôn giáo và lòng tin tôn giáo không thể bị ép buộc. Vì vậy, về cơ bản, Locke lập luận rằng lòng tin tôn giáo tôn giáo, đặc biệt là đạo Ki, có thể được biện minh và hiểu một cách hợp lý, và rằng nó không hoàn toàn tách biệt với triết học hoặc lý trí. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì rằng lý trí có giới hạn của nó, đặc biệt là khi nói đến những vấn đề về tôn giáo được tiết lộ vượt ra ngoài phạm vi của bằng chứng thực nghiệm.

[18] Pierre Bayle (1647–1706) thuộc nhóm Huguenot (những người Phản thệ bị những người Catô đàn áp, ở France), đã sống tị nạn tôn giáo ở Holland.

Pierre Bayle là một triết gia người Pháp nổi tiếng với thuyết hoài nghi và sự ủng hộ cho sự khoan dung tôn giáo. Trong Dictionnaire Historique et Critique, ông đã chỉ trích giáo điều tôn giáo và đặt câu hỏi về khả năng biết được những chân lý tôn giáo tuyệt đối. Ông nhấn mạnh lý trí hơn truyền thống trong lòng tin tôn giáo, chỉ ra những mâu thuẫn trong những văn bản và giáo lý tôn giáo. Bayle ủng hộ sự khoan dung tôn giáo, lập luận rằng chỉ riêng lý trí không thể giải quyết được những tranh chấp tôn giáo, vì vậy mọi người nên có quyền tự do theo đuổi tin tưởng của riêng mình mà không bị đàn áp. Ông chịu ảnh hưởng của thuyết Pyrrhon một thuyết hoài nghi đặt câu hỏi về sự chắc chắn, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo. thuyết hoài nghi của ông về kiến ​​thức tuyệt đối, đặc biệt là trong tôn giáo, đã ảnh hưởng đến những nhà tư tưởng Khai sáng sau này, định hình nên thuyết thế tục hiện đại và phong trào hướng tới việc đặt câu hỏi về thẩm quyền tôn giáo.

[19] “Kẻ ngu dại của David,” ám chỉ Psalm 14:1 trong Kinh thánh: “Kẻ ngu dại đã nói trong lòng rằng, Không có Gót.” (KJV). Câu này theo truyền thống cho là của Vua David. Thuật ngữ này chỉ một nhân vật điển hình tượng trưng, không phải một cá nhân lịch sử cụ thể nào.

[20] Atheism: Thuyết Không-tin-có-gótDeism: Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay; Theism: Thuyết Tin-có-gót hay rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay

[21] Libertines: những người từ chối những ràng buộc về mặt xã hội và đạo đức, đặc biệt là trong tôn giáo và tình dục.

Thuyết tự do là sự xác tín rằng người ta phải được giải phóng khỏi những ràng buộc về đạo đức để được tự do thực sự. Nếu muốn thực sự thành một người tự chủ, người ta phải tránh những ràng buộc, quy tắc đạo đức dưới bất kỳ hình thức nào. Quan điểm triết học này đã đạt được nhiều ảnh hưởng trong thế kỷ 17 và 18

Freethinkers: những cá nhân dựa trên lý trí và bằng chứng, từ chối giáo điều và truyền thống. Người có tư tưởng tự do: qua việc hình thành ý kiến ​​và tin tưởng của riêng họ, đặc biệt là về tôn giáo hay chính trị, thay vì chỉ chấp nhận những gì được tin tưởng và giảng dạy chính thức hay phổ thông những người này biện luận rằng lý trí có thể đạt đến một chân lý vốn đã bị làm thành mâu thuẫn, tối tăm hay bị bóp méo bởi những thuyết chính thức của những tổ chức tôn giáo, vốn tuyên bố có được sự thực qua sự vén lên cho thấy của thần linh và hậu quả là những tổ chức này có quyền buộc mọi người trong xã hội phải đồng ý tất cả với những giáo điều họ giảng dạy. Theo nghĩa hạn chế hơn, những người suy nghĩ tự do là những nhà triết học và khoa học thế kỷ 17, 18 và 19, ví dụ như Anthony Collins, (1676–1729), Lord Shaftesbury (1671–1713), Denis Diderot, Thomas Paine, Charles Darwin, và Herbert Spencer, người cho rằng những giảng dạy của đạo Kitô – như có trong sách Thánh, trong những luận thuyết đã được chấp thuận của những nhà gót học, và trong những tuyên bố của những hội nhà thờ khác nhau – là một trở ngại cho sự tiến bộ của khoa học và khai sáng đạo đức. Để đạt được tiến bộ khoa học mong muốn và cải thiện nhiều tệ nạn xã hội khác nhau, họ nhấn mạnh rằng nhà khoa học và nhà triết học cần được tự do trong suy nghĩ của họ và được giải phóng khỏi những giới hạn do chính quyền tôn giáo áp đặt. Ở France, những người cho rằng thái độ này được gọi là libres penseurs, libertins, esprits forts, hay franc-penants; ở Germany, là Freigeister hay Freidenker.