Dialogues on Natural
Religion (bản in năm 1779)
David Hume
Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên. [1]
Dẫn Nhập
1
Con người
David Hume được nhìn nhận như một trong những triết
gia vĩ đại nhất
trong thế giới tiếng
Anh. Ông sinh ngày 26/04 năm
1711, trong một gia đình khá giả và mộ đạo, giáo phái Calvin, đạo Thệ Phản, tại Edinburgh,
Scotland. Là một trẻ có trí tuệ sớm phát triển, đã vào đại học Edinburgh
năm 12 tuổi (sớm hơn thường lệ hai năm). Ở đây, Hume đã cho thấy có hai
đam mê vốn sẽ hướng dẫn tất cả những nỗ lực hoạt động trong đời ông: tham vọng
thành công trong lĩnh vực học thuật tư tưởng và ác cảm với những tôn giáo có tổ
chức. Trong khi gia đình nghĩ rằng ông sẽ học luật, Hume thực sự thích đọc
những bản văn cổ điển (đặc biệt là của Cicero)
và nghiên cứu những ý tưởng triết học mới lạ, khác thông tục (đặc biệt là của
John Locke, George Berkeley và Isaac Newton). Hứng khởi từ những gì ông
đọc, Hume đã bắt đầu tự bận rộn với những suy ngẫm triết học của riêng ông. Những
điều này sớm thành mãnh liệt đến mức dẫn đến gần như một suy sụp thần kinh vào
năm 1729. Sợ có thể đi đến mất trí, Hume đã rời đại học đến Bristol, tìm và làm
việc trong một công ty thương mại. Tuy nhiên, trong vài tháng, Hume đã
thất vọng với giới
kinh doanh
và thấy không thể buông bỏ những theo đuổi tri thức. Ông sang France để
tiếp tục việc tự học, và trong khi sống bằng một khoản trợ cấp nhỏ của gia
đình, ông đã viết quyển Treatise on Human Nature. (Chuyên
Luận Về Bản Chất Con Người)
Năm 1737, Hume trở lại London để sắp xếp việc xuất bản
quyển sách đầu tiên này của ông. Mặc dù ngày nay chúng ta công nhận tác
phẩm này như công trình triết học lớn nhất của Hume, qua dư luận công chúng phản
ứng trong thế kỷ 18, cho thấy nó đã không
được đông đảo học giới đón nhận như thế. Nói như chính Hume đã thất vọng,
quyển sách “chết non ngay khi mực in vừa ráo.” Nội dung sâu xa tinh tế,
lập luận khúc triết và tư tưởng cách mạng ông xem dường ít người thời ấy thấu
hiểu, nên quyển sách đã không được rộng rãi học giới chú ý. Nhưng không
may, chỉ một phương diện của quyển sách lại được chú ý là lập trường chống tôn
giáo rõ rệt của nó. Mặc dù Hume đã loại bỏ phần công khai chống tôn giáo trong
quyển sách (sau này được xuất bản như luận văn “On Miracles” (Về những Phép
lạ)), quyển sách này tức thời đã mang về cho ông một sự nổi tiếng nguy hiểm của
thuyết không tin có Gót (vô thần).
Nản lòng nhưng không tuyệt vọng, Hume đã trở lại
Scotland và bắt đầu đưa những ý tưởng của ông vào một hình thức tin rằng sẽ
được tiếp nhận với nhiều chú ý hơn. Kết quả cố gắng này của ông là Essays Moral and Political (những Tiểu
luận về Đạo đức và Chính trị), xuất bản năm 1741 và 1749. Những quyển
này thành công đáng kể hơn so với tập Treatise. Khuyến khích
với thành công này, Hume tiếp tục nhào nặn những ý
tưởng của ông trong những hình thức dễ tiêu hóa hơn. Sau khi bị từ chối
ghế giáo sư ở đại học Edinburgh do tai tiếng
là người không tin có Gót của ông, và sau đó, ông làm việc một thời gian ngắn
như một người dạy học tại gia, và hai lần làm nhân viên trong những phái đoàn
của chính phủ England, Hume đã viết lại hai quyển đầu tiên của tập Treatise thành một quyển sách xuông xẻ hơn, dễ đọc hơn, xuất bản
năm 1748, tựa đề Enquiry Concerning Human Understanding (Thăm dò liên
quan đến sự hiểu biết của con người). Năm 1751, ông xuất bản Enquiry Concerning the Principle of Morals (Thăm
dò liên quan đến nguyên lý của đạo đức) vốn là một bản viết lại của
quyển thứ ba của tập Treatise. Mặc dù cả hai phổ biến
hơn Treatise, không quyển nào được nhận là bán rất
chạy. Năm 1752, Hume lần nữa bị từ chối một ghế giảng dạy đại học khác
(lần này ở Glasgow) cũng vì tiếng tăm của ông là một người có lập trường chống
tôn giáo.
Từ năm 1754, Hume bắt đầu đạt được danh tiếng mà ông
luôn mong mỏi. Đây là năm ông xuất bản phần đầu tiên trong sáu tập của
bộ Lịch sử England, nó mang đến cho ông vinh dự vững chắc như
là một ngôi sao sáng trong giới học
thuật Britain. Với thành công đáng mong ước của ông, những năm tháng
này trong đời của Hume sẽ yên bình nếu không vì danh tiếng lẫy lừng là một
người không-tin-có-gót. Việc xuất bản quyển Five Dissertations (Năm luận văn) của
ông đã bị ngăn cản do áp lực của William Warburton [2] ,
một người kích động phái Kitô giáo điều chính thống, và vào năm 1756, Hội Nhà
thờ Scotland đã có định chính thức rút ‘phép thông công’ với con người mà họ
gọi là “Kẻ vô tôn giáo vĩ đại”. May mắn cho Hume, ông có nhiều bạn bè
trong phe ôn hòa của hội nhà thờ và họ đã ngăn chặn dự định này.
Năm 1763, Hume được mời làm việc trong đoàn đại sứ
England tại France. Ông đã đến sống ở Paris, nơi ông trở thành một ‘anh
hùng trí thức’, được những nhân vật trong phong trào Khai sáng của France như
Diderot, D’Alembert và Bá tước d’Holbach [3] mến chuộng. (Nhân cách
vui vẻ và dễ dãi của Hume được nhiều người đương thời đề cao.) Hume phục vụ
trong một số chức vị khác của sứ quán trước khi về hưu, lui khỏi giới hành
chính năm 1767. Sau đó, ông về lại Scotland, nơi ông được tôn kính như một trong
những nhà lãnh đạo tư tưởng và văn hóa. Năm 1775, Hume mắc chứng ung thư
ruột và dù ông kiên quyết từ chối tin tưởng vào thế giới bên kia, ông vẫn vui
vẻ và tích cực khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra. Ông đã dành năm cuối
đời để chuẩn bị xuất bản quyển Dialogues Concerning Natural
Religion (Đàm thoại về tôn giáo tự nhiên) này. Thật
ra, ông đã viết xong tất cả Đàm thoại năm 1751 nhưng ngại ngần
trong việc xuất bản
chúng, vì những
lý do dễ hiểu. Gần chết, Hume tâm sự với Adam Smith (1723-1790), người bạn
thân của ông, rằng mục đích còn lại duy nhất của ông là để thấy đạo
Kitô bị đánh bại và rút lui khỏi thế giới. Ông mất năm 1776 và ba
năm sau đó, Dialogues Concerning Natural Religion đã
được người cháu ông cho xuất bản, năm 1779.
2.
Bối cảnh Lịch sử
Hume sinh ra trong thời Phong
trào Khai sáng hay Thời
của Lý trí, một thời kỳ khi có nhiều người viết ở Europe đã dùng khả năng
tinh thần duy lý để thăm dò tôn giáo, chính trị, và những vấn đề xã hội và đạo
đức. Tuy nhiên, Hume cũng sinh trưởng ở Britain, nơi vẫn chưa trở nên
hoàn toàn có tự do tư tưởng để suy nghĩ theo lập trường ngoài giáo điều Kitô,
đặc biệt về chính vấn đề tôn giáo, như ở lục địa Europe. Gần như tất cả
những suy nghĩ của ông có thể được coi là do hai động lực trong lịch sử của
thời này nhào nặn: phong trào tri thức khuyến khích ông đẩy những ý tưởng đến
những giới hạn lôgích của chúng, và văn hóa Kitô luôn báo động ông về sự nguy
hiểm khi đẩy quá xa như thế.
Hume là một triết gia lỗi lạc trong Phong trào
Khai sáng. Trong những câu hỏi về siêu hình học, tri thức học, đạo đức
học và tôn giáo học, ông đã không ngần ngại bất chấp sự khôn ngoan qui ước vẫn
có trong xã hội đương thời. Trong Treatise Concerning Human
Nature ông đã lay động chính nền tảng của tri thức học, và nhận
thức lẫn phán đoán thông thường của con người, vốn có đã hàng nghìn năm, bằng
thuyết phục chúng ta rằng không có biện minh nào cho những phán đoán của chúng
ta về nhân và quả: khi chúng ta thấy một quả ban chạm vào một quả ban khác và
sau đó thấy quả ban sau chuyển động, chẳng hạn,
chúng ta thực không có cơ sở lý trí nào để khẳng định rằng quả ban thứ nhất đã
là nguyên nhân khiến quả ban thứ hai chuyển động. Đúng hơn, chúng ta chờ
đợi quả ban thứ hai sẽ chuyển động khi bị quả ban thứ nhất chạm vào, theo thói
quen (nghĩa là vì chúng ta đã thấy những điều tương tự xảy ra nhiều lần trong
quá khứ và sau đó cho rằng chúng sẽ lại cũng xảy ra theo cùng cách tương
tự). Hume lập luận mặc dù chúng ta không có lý do dựa trên lý trí để trông
chờ sự chuyển động của quả ban thứ hai, chúng ta hãy tiếp tục nên làm như vậy,
vì tin tưởng đó là tự nhiên và cần thiết cho sự sống còn của chúng
ta. Tương tự như vậy, Hume lập luận rằng chúng ta không có cơ sở
duy lý nào cho tin tưởng của chúng ta vào một đấng sáng tạo vũ trụ nhân từ và
toàn thiện.
Trong khi những tuyên bố hoài nghi triệt để về tri
thức luận của Hume đã không được đón nhận tương xứng khi ông còn sống (một thế
kỷ sau đó, Kant mới đã ‘vấp’ vào chúng, và cho biết đã “thức dậy từ giấc ngủ
giáo điều an tĩnh của ông”), những tuyên bố hoài nghi tôn giáo của
Hume đã không được đương thời làm ngơ dễ dàng. Mặc dù đã có
những tranh luận gót học nổ ra ở England giữa những người theo thuyết
tin có gót không nhúng tay (deism) có phần duy lý hơn và những người
theo thuyết tin có gót chính thống (theism), nhưng vào thời đó luận
chứng phủ nhận sự hiện hữu của Gót, cho rằng Gót thì không là-có,
không có thực, đã là điều không thể được chấp nhận. Hume, do đó, đã phải kỹ
lưỡng ‘nhón chân từng bước’ quanh những ý kiến thực sự của ông. Ngay cả
trong công trình Đàm thoại về tôn giáo tự nhiên này, dù cho
phổ biến chỉ sau khi ông đã mất, Hume đã rất cẩn
thận để nhấn chìm những ý kiến của ông dưới nhiều lớp khéo léo của kỹ thuật
sáng tác văn chương: tác phẩm được viết như một đàm thoại với người phát ngôn
của tác giả, không xác định rõ rệt.
3.
Bối cảnh triết học
Học thuyết hoài nghi của Hume đã là kết quả của không chỉ sự gắn bó mạnh mẽ của
ông với lý tưởng của phong trào Khai sáng về quyền lực tối cao của lý
trí; nhưng nó cũng phần lớn là kết quả của sự gắn bó sâu chặt không
kém của ông với những nguyên tắc triết học của thuyết duy nghiệm của
England. Theo sau những bước của George Berkeley (cùng Hume và John Locke
là ba người đứng đầu trường phái Duy nghiệm ở England), Hume tin rằng tất cả
những khẳng định về thực tại đều bắt nguồn từ
kinh nghiệm. Trái ngược với những người theo trường phái Duy Trí, như Rene
Descartes và Nicolas Malebranche (cả hai đều có tác động với Hume), những người
tin rằng kiến thức về những nội dung của những sự kiện có thể đạt được qua
việc dùng khả năng lý trí của chúng ta, Hume cho rằng mọi nội dung của thực tại
đều chỉ được thiết lập trên cơ sở kinh nghiệm của chúng ta về thế
giới. (Nói cách khác, theo Hume, bạn không thể ngồi trong một ghế bành,
suy nghĩ cho thật sâu xa rồi mong đợi sẽ đưa ra được bất kỳ một kiến thức nào
về những nội dung của thực tại. Để đến được với kiến thức mới và có
thực chất, bạn phải đi vào trong thế giới và tìm hiểu.)
Trong việc thăm dò những khả năng của tri thức con
người, dù đó là kiến thức khoa học, kiến thức đạo đức hay kiếnthức tôn
giáo, với Hume câu hỏi liên quan luôn giống nhau: kinh nghiệm của
chúng ta về thế giới có cung cấp cho chúng ta đủ bằng chứng để đưa ra một suy
luận hợp lý cho kết luận liên quan hay không? Nếu kinh nghiệm không cung
cấp cho chúng ta đủ bằng chứng, thì những tin tưởng liên quan (ví dụ như tin
tường tôn giáo, trong trường hợp Đàm thoại này) thì biện minh
được và như thế là hợp lý, và nếu kinh nghiệm không cung cấp cho chúng ta đủ
bằng chứng, thì những tin tưởng liên quan không biện minh được và như
thế là không hợp lý. (Sự khẳng định rằng một tuyên xưng là hợp
lý nếu và chỉ khi nó được hỗ trợ bởi bằng chứng, thường được
gọi là thuyết minh chứng [4]. Cả
những người theo thuyết duy nghiệm và những người theo thuyết duy trí đều giống
nhau, đều tin tưởng vững chắc vào thuyết minh chứng)
Gắn bó tận tụy của Hume với thuyết duy nghiệm giải
thích cho trọng tâm thu hẹp của sự thăm dò tôn giáo của ông trong Đàm
thoại này. Xem dường như tùy tiện, vì trước nhiều những
luận chứng khác loại về sự hiện hữu của Gót đã dùng trong thời của Hume, ông
tập trung hầu như trọn vẹn vào chỉ một luận chứng loại như vậy, Luận
Chứng Thiết Kế. [5]
Đúng là luận chứng cụ thể này (nội dung với ý tưởng rằng – trật tự và đẹp đẽ
phức tạp thấy trong vũ trụ của chúng ta là bằng chứng của một nhà thiết
kế thông minh và nhân từ) đã nhận hưởng một thịnh hành đặc biệt trong
giai đoạn này, chủ yếu là nó đã được Isaac Newton tán thành, nhưng cũng còn có
những luận chứng thời thượng khác, như luận chứng về bản thể (tìm cách chứng
minh sự tồn tại của Gót từ chính bản chất của Ngài) và luận chứng về vũ trụ
(cho rằng Gót phải hiện hữu để giải thích cho sự hiện hữu của chúng
ta). Trọng tâm của Hume có ý nghĩa khi chúng ta thấy rằng luận chứng thiết
kế là duy nhất trong số này, như nó tìm cách đưa ra kết luận dựa trên bằng
chứng từ kinh nghiệm về thế giới. Chỉ có luận chứng thiết kế nhìn
thế giới và hỏi, “có đủ bằng chứng ở đây để biện minh cho tin tưởng của chúng
ta về một Gót toàn thiện và toàn năng không?”
Khi đi sâu vào việc thăm dò về lòng tin tôn giáo của
ông trong Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên này, Hume đưa vào ba
loại nhà tư tưởng của thế kỷ 18, mỗi người của mỗi loại có một nhân vật trong
đàm thoại đại diện. Trước hết, ông thảo luận về loại người sẽ tin vào luận
chứng thiết kế, người tin có gót thực nghiệm. Người tin có gót
theo kinh nghiệm tin rằng – bằng cách nhìn vào thế giới, chúng ta có thể hiểu
biết về sự hiện hữu và bản chất của Gót (gót thì là-có và Gót
thì toàn thiện, toàn năng). Nhà gót học theo kinh nghiệm nổi tiếng nhất
trong thời Hume là Isaac Newton, nhưng cũng có những người nổi tiếng khác của
lập trường này như nhà khoa học và gót học người Holland là
Bernard Nieuovent. Loại người thứ hai Hume thảo luận trong đàm thoại
này là người Kitô giáo điều chính thống, hay người theo thuyết Thuyết
duy tín, tin rằng vì nguồn lực trí tuệ của con người là quá yếu để dẫn
chúng ta đến bất kỳ sự thật nào, chúng ta nên từ bỏ lý trí và
chấp nhận sự thật về tin tưởng tôn
giáo (gọi là “lòng tin”, lòng tin tôn giáo) [6] . Người
theo thuyết Thuyết duy tín nổi tiếng thời ấy như
Montaigne và Pascal. Cuối cùng, Hume đưa ra người có lập trường hoài nghi,
người không hoàn toàn hài lòng với một nào trong những lựa chọn thay thế này.
Đó là một phần minh chứng cho sự xem xét công bằng và
thấu đáo của Hume với tất cả những lập trường này khiến những người trong cả ba
truyền thống triết học này đều đã tuyên bố Hume là người phát ngôn lớn nhất của
họ. Điều hầu như chắc chắn là những người với lập trường hoài nghi tôn
giáo là những người có chứng cớ tốt nhất để gọi Hume là một trong số họ (trước
sau không thể phủ nhận rằng chính ông đã đặt ra mô thức khuôn mẫu cho tất cả
những tấn công sau này vào tính (không) hợp lý của lòng tin tôn giáo), nhưng
những người theo thuyết Thuyết duy tín đã gần như gang
thép tuyên bố ông là tiếng nói lớn nhất bảo vệ giáo điều chính thống tôn
giáo. Nhà triết học người Đức J. G. Hamann, chẳng hạn, thuyết phục rằng
Hume đã đưa ra lập luận chặt chẽ nhất cho thuyết Thuyết duy tín, bằng chứng
minh rằng không có bằng chứng lý trí nào cho đạo Kitô (nên chỉ phải tin mà
thôi). Ông đã dịch những đoạn Đàm thoại này sang
tiếng Germany với hy vọng Immanual Kant sẽ đọc và trở thành
một người Kitô nghiêm chính. Nhà gót học người
Denmark Søren Kierkegaard [7],
người theo thuyết Thuyết duy tín Kitô quan trọng nhất của thế kỷ
XIX, cũng rất thán phục với cách của Hume giải thích về lập trường này.
4.
Ghi chú của người biên tập
Kiệt tác cuối cùng của Hume phần lớn đã viết trong những năm 1751-2, có vẻ như đã sửa lại khoảng 1757, và một lần nữa năm 1761,
với lần sửa đổi cuối cùng chỉ diễn ra năm 1776, khi ông đã rất gần với cái chết (thời gian của những
sửa đổi này được M.A. Stewart bàn luận kỹ lưỡng. [8] Đã được những bạn bè can ngăn đừng xuất bản một công trình nhiều tranh luận như vậy
đương khi còn sống, Hume đã dự định để lại bản thảo cho
một trong những người bạn thân nhất của ông, Adam Smith. Nhưng Smith rõ ràng ngại ngần với việc xuất bản, vì vậy, Hume sắp
chết đã quyết định giao nó cho William Strahan, người chủ nhà in và xuất bản
của ông, bằng một thêm-vào trong di chúc của ông, ghi ngày 7 tháng 8 năm 1776
(ông chết vào ngày 25 tháng 8): “tôi … giao lại những Bản thảo của tôi cho ông
William Strahan chăm sóc … Tôi mong muốn, rằng tập Những Đàm thoại về
Tôn giáo Tự nhiên của tôi có thể được in và xuất bản bất cứ lúc nào
trong vòng hai năm sau khi tôi chết; …Tôi cũng sắp xếp rằng, Những Đàm
thoại của tôi, vì bất kỳ nguyên nhân nào, nếu sẽ không được xuất bản trong vòng hai năm rưỡi sau
cái chết của tôi,
... Chủ quyền sẽ trả lại cho người cháu
tôi, David, người có nhiệm vụ, xuất bản chúng như yêu cầu cuối cùng của người
chú của mình, phải được cả Thế giới chấp
thuận “. Trong khi đó, ông đã yêu
cầu tạo ra hai bản sao, một trong hai bản đó được người cháu ông giữ, người
trong diễn tiến đã giữ bản thảo gốc vốn cuối cùng của người cháu này đã cho xuất bản nó, vào năm 1779. Bản văn, chúng tôi có ở đây, theo bản in 1779 đầu tiên
đó, với một số thay đổi tối thiểu về biên
tập trong đó, những lỗi có thể xác định
rõ ràng (sau
khi tham khảo
bản thảo trong những trường hợp tương ứng). [9]
Đặc biệt duy nhất trong số những tác phẩm triết học
lớn của Hume, chúng tôi vẫn có được toàn bộ bản thảo gốc, được The Royal Society của Edinburgh [10] bảo tồn và lưu trữ trong
Thư viện Quốc gia Scotland (chúng tôi rất biết ơn cả hai vì đã cung cấp những ảnh sao chụp tuyệt vời như vậy). Nó
được công bố lần đầu tiên trên trang web này [11] và
cung cấp những manh mối kích thích óc hiếu kỳ cho tìm hiểu về cả bố cục lẫn diễn giải của một tác phẩm, vốn hình thức đối thoại của nó
nhằm ngụy trang cho những ý định của Hume. Nó được chia thành 12 phần (sau một giới thiệu
ngắn), gồm ba nhân vật chính, và phần lớn gồm
một phân tích và thảo luận phê phán về Luận chứng Thiết kế, một
luận chứng phổ thông về sự hiện hữu của Gót, thời đó được rộng rãi coi là bằng
chứng quyết định dưys
khoát của thuyết
Tin-có-Gót (đạo Kitô). Giống
như trong Phần 11 của tập Thăm dò đầu
tiên [12], hình
thức đàm thoại này cho phép Hume thăm dò và bàn luận những ý kiến ‘nguy hiểm’, nhưng chính ông không phải
tỏ ra can dự hay gắn buộc với chúng, dẫn đến nhiều tranh luận về câu hỏi –
những nhân vật nào, hay cách kết hợp quan điểm nào của họ – là phản ảnh chính
xác nhất của lập trường của ông
Sau một ít những vào đầu, Phần 1 cung cấp một
thảo luận của thuyết hoài nghi vốn đem cho những thấu hiểu sâu xa có giá trị về
‘thuyết hoài nghi giảm nhẹ’ [13] vốn Hume đã đạt đến như lập trường kết luận của quyển Enquiry đầu
tiên của ông (E 12.24-34). Luận chứng Thiết kế được Cleanthes trình bày trong
Phần 2, người ủng hộ ‘thuyết tin-có-gót duy nghiệm’ (D 5.2), người gọi đến sự
tương đồng giữa vũ trụ phức tạp có trật tự và một cỗ máy phức tạp. Philo, –
‘người hoài nghi vô tư’ (D Intro.6), người thường được nghĩ là phát ngôn chính của
Hume, đã tiếp tục tấn công luận chứng này,
sau
khi phản đối
rằng sự tương tự được giả định thì quá xa vời, để có thể duy trì được bất kỳ suy diễn đáng tin
cậy nào (D 2.17-24). Nhân vật chính thứ ba, Demea, được giới thiệu như một tín đồ của ‘suy nghĩ
chính thống cứng rắn’ (D Intro.6), cùng với Philo tấn công thuyết nhân
hóa [14] của Cleanthes, nhưng chính
người này lại bị Cleanthes chỉ trích vì những khiếm khuyết (tệ hại) ngược lại của ‘thuyết huyền bí’, khi nhấn mạnh rằng Gót thì hoàn
toàn không thể hiểu được theo cách hiểu của con người, trở nên không thể phân biệt
được với thuyết
không-tin-có-gót (D 4.1-3).
Những phần 5 đến 8 đều hầu hết được tiếp tục với Philo
sáng tạo đưa ra rất nhiều những tương tự thay thế, qua đó ông đã hiệu quả chế
giễu Luận chứng Thiết kế của Cleanthes. Thay vì như một cỗ máy, đúng hơn vũ trụ
có thể được so sánh như một con tàu hay thành phố, không do một nhà thiết kế toàn hảo duy nhất nào tạo nên, nhưng do
một sự tiếp nối của nhiều người làm việc, có thể sai lầm, nhưng dần dần học kỹ năng của họ qua làm thử và chữa sai lầm (D
5.7-12). Trật tự phức tạp của nó, khác xa với của một chiếc đồng hồ hay của một
khung cửi dệt sợi (D 7.3), nhưng
giống nhiều hơn với của một động vật hay thực vật, vốn xuất phát từ tiến trình sinh sản
của sinh vật sống và truyền giống
hay
tăng trưởng
và phát triển của thực vật, thay vì thiết kế (D 6-7). Philo ngay cả còn gợi ý
làm sống lại “Giả thuyết cổ của Epicurus” (D 8.2), giải thích cho trật tự thấy
bên ngoài của vũ trụ nhìn về phần của những mô hình ổn định vốn phát sinh thuần
túy bởi ngẫu nhiên – nhiều người đọc Hume, đã thấy ở đây, một báo trước có thể
có về thuyết Tiến hóa của Darwin.
Trong Phần 9, Demea khuyên nên từ bỏ luận chứng a
posteriori của Cleathes để ủng hộ luận chứng a priori đơn
giản và siêu việt, vốn là một nhắc nhở mạnh
mẽ đến Samuel Clarke [15].
Giờ đây, đến lượt Cleathes tấn công, hiệu quả loại bỏ lập luận của Demea, trong
một tinh thần hoàn toàn Hume (so sánh D 9.5 với E 12.28). Phản ứng của Demea,
là thú nhận rằng tin tưởng của ông vào Gót thì không dựa trên lý luận nhưng
trên ‘một ý thức về sự đần độn và khốn khổ của ông... Chúng ta đều là
những sinh vật thảm thương cùng quẫn biết chừng nào! giữa những muôn vàn
tai ác của cuộc đời, chúng ta biết mong cầu vào đâu, không phải là tôn giáo ...
đã xoa dịu những khiếp hãi đó sao ...” (D 10,1). Philo bây giờ tiếp với
Demea trong sự nhấn mạnh vào những kinh hoàng của thế giới (Phần 11 và 12 cùng
nhau tạo thành một trong những thảo luận kinh điển về Luận chứng Tà Ác),
nhưng cuối cùng ông đẩy luận chứng vượt quá những ranh giới vốn Demea có trong
suy nghĩ, về phía rằng nếu có bất kỳ người sáng tạo nào thì có nhiều phần chắc
chắn là vị này thờ ơ, lãnh đạm về đạo đức (D 11.15) hay ngay cả là vô đạo đức
(D 11,16-17). Demea, rõ ràng bực tức vì việc chuyển biến này, ‘ngay sau
đó, lấy cớ này hay giả vờ khác, để rời khỏi nhóm” (D 11,21), để lại Cleanthes
và Philo đi đến kết thúc thảo luận trong phần 12 nổi tiếng phức tạp khó hiểu.
Khó hiểu nổi tiếng mọi người đều biết của Đàm thoại là
– hiểu thế nào ý nghĩa của sự đổi ngược
ý kiến rõ ràng của Philo, trong đó, sau khi đã chỉ trích rất
nặng nề về Luận chứng Thiết kế trong những phần trước, cuối cùng, tự ông đã ủng
hộ luận chứng (thí dụ D 12.2-4), và sau cùng chấp nhận trên cơ sở này “Rằng
nguyên nhân hay những nguyên nhân của trật tự trong vũ trụ có thể mang một vài
tương đồng xa xôi với trí thông minh của con người” (D 12,33), một đoạn
thường được biết là “sự thú tội của Philo”. Có nhiều chủ đề trong Phần 12
vốn có thể giúp để giải thích (hay giải thích cho mất đi) thiếu nhất quán trông
thấy này, thí dụ như đề nghị của Philo tại D 12.6-7 rằng mức độ tương tự giữa
não thức con người và não thức được giả định của thần thánh là một vấn đề về
mức độ, làm cho tranh luận giữa những người tin-có-gót và những người
không-tin-có-gót phần lớn là lời nói chữ nghĩa. Nếu đây thực sự là kết quả
cuối cùng của tranh luận – dường như được xác nhận bằng chú thích 11 của tác
giả (mặc dù điều đó liên quan đến “tranh chấp giữa người Hoài Nghi và những
người Giáo điều”, và không nhắc gì đến tôn giáo) – khi đó lời thú tội rõ ràng
về lòng tin tôn giáo của Philo thành ra hầu như không là gì cả. Tuy nhiên,
bày tỏ cởi mở của ông về ‘sự tôn kính với tôn giáo chân thực’. (D 12.9) có một
nghĩa lý trong đàm thoại, bằng việc cho tung ra một tấn công mãnh liệt, về mặt
ngược lại, vào những băng hoại đạo đức của ‘sự mê tín thô tục’ (D
12.11-21). Theo ông, ‘tôn giáo chân thực không có những hậu quả nguy hiểm
độc hại như vậy’ (D 12,23), nhưng người ta phải tự hỏi liệu sự kêu gọi của ông
với ‘tôn giáo chân thực’ ở đây chỉ là trưng bày bề ngoài cho có, một cách
để tránh sự kiểm duyệt và sự phủ nhân những quan điểm ông đang bày tỏ, bằng
cách có ý định bảo vệ một hình thức đạo đức của tôn giáo vốn được giả định thu
gọn ‘Thuyết Tin-Có-Gót Chân Chính’ (D 12.24), nhưng trong thực tế
nó lộ liễu với mọi người vì sự thiếu vắng của nó trong thế giới thực của thực
hành tôn giáo. Bức tranh không tâng bốc của Philo về tôn giáo phổ biến mô
tả nó như đạo đức đồi bại bằng ‘việc nuôi dưỡng những loại đức hạnh mới, bất
xứng và phù phiếm, có khuynh hướng để ‘làm suy yếu … sự gắn bó của con người
với động cơ tự nhiên về công lý và nhân ái’, và thúc đẩy đạo đức giả (D
12.16-17). Xa cách như thế với sự thành lập dựa trên lý trí, cơ sở tâm lý
của nó nằm trong sợ hãi và khốn khổ (D 12,25-30), và Philo lại nhấn mạnh sự
tương phản giữa sự mê tín thô tục đó và tôn giáo chân thực trừu tượng của ‘những
người theo ‘Thuyết
Tin-Có-Gót Triết Học’
(D 12.32) trước khi đưa ra xưng tội hơi ngạc nhiên của ông. Ông chấm dứt
với một ghi nhận ngay cả còn ngạc nhiên hơn, sau khi quan sát rằng vì lý trí
thì có khả năng để thiết lập không hơn một thuyết tin-có-gót giới hạn tối
thiểu, “Một người, từng trải với một cảm thức đúng về những bất toàn của lý trí
tự nhiên, sẽ bay đến chân lý được vén lên cho thấy huyền bí với sự hăng hái lớn
nhất ... Để là hoài nghi triết học, trong một con người trí thức, là bước đầu
tiên và thiết yếu nhất hướng tới thành một người tin tưởng Kitô, đúng đắn”(D
12,33).
Những ai quen thuộc với phủ nhận của Hume với loại
‘chân lý vén lên cho thấy huyền bí’, (thí dụ E 10.40) và việc ông rất thích
quay sang ‘việc dối trá trong gót học’ (như có lẽ đã cho thí dụ rõ ràng nhất
trong đoạn đầu và đoạn cuối của bài tiểu luận về Sự Bất Tử Của Hồn
Người của ông) cũng rất có thể cân nhắc rằng Philo thì được gán nhãn
hiệu không thành thật trong diễn đạt hoa mỹ cuối cùng của ông về Thuyết Thuyết duy tín kiên định [16]. Nhưng Philo không
phải là Hume, và do đó có thể là vai trò chủ định của ông là để miêu tả một thuyết
lòng tin tôn giáo hoài nghi chân chính trên mô hình của Pierre
Bayle. Thông điệp của Hume khi đó phải được đọc không trực tiếp từ những
gì Philo nói, nhưng từ những đàm thoại đã khéo léo xây dựng như một toàn
thể. Và đây là nơi mà giá trị của bản thảo còn giữ được của ông trở nên rõ
ràng nhất, cho phép chúng ta nhìn thấy một vài trong những giai đoạn, trong đó
việc xây dựng đã diễn ra khéo léo. [Với những ai muốn tìm hiểu thêm chi tiết, …
ở đây, tạm một minh họa tưởng cũng tạm đủ]
Nếu chúng ta đến trang 79 của bản thảo, ở phía bên
phải của (màn hình) bản sao chụp, bạn sẽ thấy bản văn in của Đàm thoại (như
trong bản in đầu tiên năm 1779) và ở phía bên trái, trang viết tay của
Hume. Nhiều dấu vết của sửa đổi và tẩy xóa hiện rõ ràng, và xuống khoảng
một nửa trang, một dấu “BB” chỉ một nơi để viết gài vào (ngay sau dòng “ông
được giả định chính đáng để gánh chịu một sự Tương đồng đáng kể?”). Bây
giờ nhìn lại bản văn ở phía bên trái của màn hình, chuyển dịch xuống cho đến khi
đến điểm tương ứng trong bản in, trong đó “BB” được đánh dấu màu xanh để chứng
tỏ nó là một ‘đầu nối’ sống. Bấm vào đầu nối (là dòng chữ màu xanh) này,
bây giờ bản thảo trang 87 được đưa lên ở bên trái của màn hình, cho thấy “BB”
chèn vào như được tự tay Hume đã viết thêm. những viết chèn ”AA”
(chứa chú thích 11 nêu trên) cũng trên trang này, nhưng hãy để ý hai đoạn này
xem chúng khác nhau thế nào. Lý do là phần thêm của BB, vốn kéo dài đến trang
cuối của bản thảo (bấm vào nút xem ‘trang tiếp’ ở phía trên, bên phải) đã được
thêm vào khi Hume sắp chết, và sự yếu ớt trong chữ viết tay của ông thì rất rõ
ràng. Những dòng viết quanh chỗ sang trang ở đây thì rất quan trọng:
“... Tôi hỏi [người (theo thuyết) Không-Tin-Có-Gót ], không biết có phải, từ sự
Đồng tình gắn kết mạch lạc và rõ ràng trong tất cả những phần của thế giới này,
không có được một mức độ nhất định của tương tự giữa tất cả những hoạt động của
Tự nhiên , trong mọi tình cảnh và trong mọi thời; không biết có phải sự
mục nát của một củ cải, giòng dõi của một con vật, và cấu trúc của tư tưởng con
người là không phải là những năng lượng vốn có lẽ mang một vài loại tương đồng
xa xôi với lẫn nhau: Đó là không thể nào người này có thể phủ nhận nó ... Sau
khi thu được thú nhận này, tôi đẩy người này thêm nữa, trong rút lui của người
này; và tôi hỏi người này, nếu không thể xảy ra, rằng Nguyên Lý vốn đầu
tiên đã sắp xếp, và vẫn duy trì trật tự trong vũ trụ này, không phải là cũng
mang một vài tương đồng xa xôi không thể mường tượng được với những tác
động khác của Thiên nhiên, và trong số phần còn lại của sự cai quản
qua tổ chức và trao đổi trực tiếp Não thức và Tư tưởng con người. Bất đắc
dĩ, đẫu ngại ngần đến đâu, người này phải đem cho sự chuẩn nhận của
mình. Lưu ý đoạn văn này (vốn Stewart gọi là ‘di chúc của Hume sắp chết
cho hậu thế’), trong khi cố gắng gây áp lực cho người không-tin-có-gót , trong
thực tế, nó dùng vào việc làm suy yếu hoàn toàn sức mạnh của ‘sự thú tội’ nổi
tiếng của Philo, nguyên nhân hay những nguyên nhân của trật tự trong vũ trụ có
thể, quả thực, mang một vài tương đồng xa xôi với trí thông minh của con người,
nhưng không hơn gì sự mục nát của một củ cải, và sự việc này rõ ràng không đưa
tới bất kỳ một Thuyết Tin-có-Gót xứng đáng nào như tên gọi
! Hơn nữa, đây là hai đoạn duy nhất trong tất cả những tác phẩm của Hume
dùng cụm từ tương đồng xa xôi, và chúng có cùng trọn câu ‘có thể
mang một vài tương đồng xa xôi’ – như thế, có vẻ như rất có nhiều xảy
ra là chúng chủ định được đọc cùng với nhau. Ở đây chúng ta có một thí dụ
tuyệt hảo về sự sáng tác thông minh của Hume, dấu một thông điệp trong chính
đoạn văn cuối cùng ông đã từng viết để đem xuất bản, do đó sau này nó có thể
được những người đọc sáng suốt tinh tường nhận ra và hiểu theo tương
ứng. Thông điệp đó là của Hume, nhưng rõ ràng không là của Philo, vì Philo
vẫn là một người ủng hộ Thuyết Đề Cao Lòng Tin Tôn Giáo của
Bayle [17], nhưng
bằng chứng mạnh mẽ này cho thấy rằng Hume gần gũi hơn với những gì chúng ta sẽ
gọi là người Không-Tin-Có-Gót.
Peter Millican
Những
Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên.
PHẦN GIỚI THIỆU
Tóm lược
Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên bắt đầu với một bàn
luận về chính hình thức đàm thoại. Người kể chuyện của chúng ta, Pamphilus, sắp
kể lại một đàm thoại hết sức thú vị ông đã có dịp nghe giữa Cleanthes, giáo sư
của ông, và Demea và Philo, hai người bạn của Cleanthes. Trước khi bắt đầu kể
lại cuộc bàn luận, Pamphilus ngẫm nghĩ một lúc về đề tài bàn luận, – sự
có thể có của tôn giáo tự nhiên (nghĩa là – một tôn giáo dựa trên lý
trí nhưng không dựa trên sự vén lên cho thấy huyền bí, như những tôn giáo
Abraham, có thể có được không?) – và cho rằng đề tài này thì rất phù hợp với
hình thức đàm thoại. Thông thường, ông nói, hình thức đàm thoại gây trở ngại
cho việc học hỏi thực sự bởi sự ngăn chặn thứ tự, ngắn gọn và chính xác. Tuy
nhiên, có ba loại đề tài vốn làm cho đàm thoại thì ưa chuông hơn một hình thức
thuần túy phân tích. Những gì thuộc phạm vi thực tế quá hiển nhiên vốn chúng
không thể tranh luận, nhưng quá quan trọng khiến chúng không thể được thảo luận
quá thường xuyên, đều tốt nhất là trong dạng đàm thoại vì theo cách đó chúng
trở nên thú vị hơn và có thể chịu được sự lặp lại liên tục. Cũng vậy, những câu
hỏi triết học vốn chúng quá khó khăn và tối tăm đến nỗi lý trí của con người
không có khả năng để trả lời chúng dứt khoát, nhưng sự quyến rũ của chúng với
của con người khiến khó có thể bỏ mặc chúng được, đều được giải quyết tốt nhất
trong dạng đàm thoại, vì hình thức này không đòi hỏi chúng ta phải đưa ra bất
kỳ câu trả lời dứt khoát nào, nhưng đúng hơn cho phép chúng ta tiếp tục khám
phá câu hỏi. Đề tài của tôn giáo tự nhiên, ông bảo chúng ta, có tất cả những
đặc điểm này. Không gì thì quá hiển nhiên trong phạm vi thực tế như Gót hiện
hữu; không gì thì quan trọng hơn ‘chân lý’ này; và không gì thì khó khăn để
thấu hiểu hơn bản chất của Gót (bao gồm những thuộc tính, những phán truyền và
kế hoạch bảo bọc dự phòng tương lai của ông). Hình thức đàm thoại khi đó, là
cách thức thích hợp duy nhất để dùng với đề tài này.
Sau giới thiệu này, Pamphilus bắt đầu kể lại trò
chuyện giữa ba học giả. Ba
nhân vật,
điều trở nên rõ ràng ngay từ
đầu, đại diện cho ba lập trường rất khác nhau về gót học. Cleanthes là một người tin-có-gót duy nghiệm;
nghĩa là, ông tin rằng có thể đi đến một hiểu
biết về sự hiện hữu và bản chất của Gót bằng suy diễn nó từ thế giới tự nhiên.
Nói cách khác, ông nghĩ rằng bằng cách nhìn vào thế giới, chúng ta có thể thu
thập bằng chứng vốn sẽ cho phép chúng ta chính đáng lấy ra những kết luận về Gót thì thực sự
giống những gì. Ông là người duy nhất, có
tin tưởng rõ ràng và cứng rắn tin
vào sự có thể có của tôn giáo tự nhiên (nghĩa là có thể đặt nền tảng của tin tưởng tôn giáo trong lý trí).
Demea, người theo đạo Kitô truyền thống, chính thống
có vẻ có tham vọng với ý tưởng về lòng tin tôn giáo dựa trên lý trí. Ông không
hoàn toàn chống lại ý tưởng, nhưng ông cũng không hoàn toàn thoải mái với nó.
Thêm nữa, ông đã được thuyết phục rằng nếu có bất kỳ nền tảng nào có thể có cho
niềm tin trong lý trí, thì đó không phải là qua loại lý luận thực nghiệm mà
Cleanthes thúc giục. Thay vào đó, bất kỳ nền tảng hợp lý nào cho lòng tin tôn
giáo sẽ đến từ những luận chứng tiên nghiệm nhất định và vững vàng vốn dùng lý trí thuần túy
để đi đến những kết luận không thể nghi ngờ. Ông dường như thực sự có cảm tình với thuyết thuyết Duy Tín,
vốn khẳng định rằng tin tưởng tôn
giáo không thể đặt cơ sở đặt trong lý trí, nhưng phải được đặt
nền tảng trong lòng tin tôn giáo thuần túy và không-lôgích.
Philo là nhân vật duy nhất, không có thấy có khuynh hướng ngả sang tôn giáo tự nhiên.
Philo, được Pamphilus giới thiệu với chúng ta như một người hoài nghi triết
học, rất kiên quyết trong tuyên bố của ông rằng
lý trí không thể đưa chúng ta đến một hiểu biết về bản chất của Gót. Đó là
những biện luận của Philo chống
lại thuyết tin-có-gót duy nghiệm của Cleanthes vốn gồm trong chủ đề chính của
Đối thoại.
PAMPHILUS VIẾT CHO HERMIPPUS. [18]
Đã từng được ghi nhận, Hermippus của tôi ơi, rằng mặc
dù những nhà triết học thời cổ đã truyền đạt hầu hết giảng dạy của họ trong
hình thức của đàm thoại, phương pháp soạn thảo này đã từng ít được thực hành
trong những thời sau, và hiếm khi đã thành công trong tay những ai, là người đã
thử nó. Luận chứng hợp thức và chính xác, quả thực, loại như bây giờ được
những người đặt những thăm dò triết
học mong đợi, theo tự nhiên ném một người vào trong cách thức có phương pháp và
mô phạm; ở đó người này có thể ngay lập tức, không sửa soạn, giải thích lập trường, vốn ông nhắm tới; và
từ đó tiến hành, không gián đoạn, để suy diễn những bằng chứng, vốn trên đó nó
được thiết lập. Để giãi bày một HỆ THỐNG trong trò chuyện hiếm khi xuất
hiện như tự nhiên; và trong khi những người viết đàm thoại mong muốn, bằng
khởi đi từ văn
phong trực tiếp
của sáng tác, để cho một không khí tự do hơn với thực hiện của người này, và tránh sự xuất hiện của Người
Viết và Người Đọc, ông thì có khuynh hướng chạy vào một bất tiện tệ hại hơn,
và truyền đạt hình ảnh của nhà Mô Phạm và người Học
Trò. Hay nếu ông tiếp tục sự bàn luận theo tinh thần tự nhiên của trò chuyện cởi mở tế nhị, bằng đưa vào nhiều đề tài khác loại
và giữ một cân bằng thích ứng giữa những người nói; Ông thường mất quá
nhiều thì giờ trong những chuẩn bị và những chuyển tiếp, khiến người đọc sẽ hiếm khi nghĩ mình được đền bù, bởi tất cả
những tao
nhã của đàm
thoại, cho thứ tự, ngắn gọn và chính xác vốn do
đó bị hy sinh.
D 0,2, KS 127
Tuy nhiên, có một số đề
tài, đặc
biệt phù hợp với
chúng, và nơi
nó vẫn được ưa chuộng hơn phương
pháp soạn thảo trực
tiếp và đơn giản.
D 0,3, KS 127
Bất kỳ điểm học thuyết nào, vốn quá rõ ràng,
khiến nó khó
có thể tranh luận,
nhưng đồng thời quá quan
trọng,
khiến nó không thể không nhấn mạnh thường xuyên, dường như đòi hỏi một phương pháp loại như vậy để
giải quyết nó; ở chỗ sự mới mẻ của cách thức có thể bù đắp cho sự tẻ nhạt của
đề tài, ở chỗ sự linh hoạt của trò chuyện có thể củng cố giáo huấn, và ở chỗ sự
phong phú đa dạng của quan
điểm, được trình
bày qua nhiều nhân vật và nhân cách khác nhau, có thể hiện ra không tẻ nhạt,
cũng không thừa thãi.
D 0,4, KS 128
Mặt khác, bất kỳ câu hỏi nào về triết học, vốn quá mơ hồ
và không chắc chắn, đến mức lý trí con người không thể đưa ra quyết định chắc chắn nào về nó; nếu như nó sẽ có được
giải quyết cách nào đi nữa; dường như sẽ tự nhiên dẫn chúng ta vào phong cách của đàm
thoại và trò chuyện. Những người hiểu lẽ phải có thể được để cho bất đồng,
ở chỗ không ai có thể hợp lý chắc chắn được: Những tình cảm đối lập, ngay cả
với không quả quyết bất kỳ nào, có thể tạo theo một cách nào đó, đàm thoại đưa chúng ta vào quan
hệ đồng hành về trí tuệ, và
hợp nhất hai thú vui lớn nhất và trong sáng nhất
của đời người, học hỏi và trò chuyện. được thích thú dễ chịu: và
nếu đề tài gợi tò mò tìm hiểu và thú.
D 0,5, KS 128
Mừng thay, những trường hợp này tất cả đều được thấy trong
đề tài TÔN GIÁO TỰ NHIÊN [19]. Có sự thật nào quá hiển nhiên, quá chắc chắn, như sư hiện hữu của một Gót [20],
vốn được nhìn nhận ngay cả trong những thời đại nhất, vốn những thiên tài học
thức nhất đã gắng sức với tham vọng tìm kiếm những bằng chứng
và những luận chứng mới cho nó? Sự thật nào quá đỗi quan trọng hơn sự thực này,
vốn là nền tảng cho tất cả hy vọng của chúng ta, nền móng chắc chắn nhất của
đạo đức, sự hỗ trợ bền vững nhất của xã hội và là nguyên lý độc nhất, vốn phải
không bao giờ được vắng mặt, dù khoảnh khắc, khỏi những nghĩ ngợi và suy tưởng
của chúng ta? Tuy nhiên, khi suy ngẫm về sự
thật hiển nhiên và quan trọng này; xảy ra những câu hỏi tối nghĩa nào,
liên quan đến bản chất của hữu thể linh thiêng đó; những thuộc tính của
ông ta, những mạng lệnh của ngài, kế hoạch kiểm soát lo liệu bảo bọc trong
tương lai [21] của
ngài? Những điều này đã từng luôn luôn làm đề tài cho những tranh luận của
người ta: Liên quan đến những điều này, lý trí của con người đã chưa đạt được
bất kỳ xác định chắc chắn nào: Nhưng đây là những đề tài rất thú vị, khiến
chúng ta không thể kiềm chế sự dò hỏi không ngừng nghỉ của
chúng ta về phần chúng; mặc dù không gì nhưng chỉ nghi ngờ, không chắc
chắn và mâu thuẫn, cho đến nay, là kết quả của những nghiên cứu chính xác nhất
của chúng ta.
D 0,6, KS 128-9
Điều này, gần đây tôi đã có dịp để quan sát, trong khi
tôi trải qua, như thường lệ, phần của mùa nghỉ-hè với CLEANTHES, và đã có mặt
trong những trò chuyện đó của ông với PHILO và DEMEA, vốn gần đây tôi đã đưa
cho bạn một vài ghi chép không hoàn hảo. Sự hiếu kỳ của bạn, bạn bảo tôi
sau đó, đã rất phấn khích, khiến tôi phải cần thiết đi vào trong một chính xác
chi tiết hơn của những lý luận của họ, và trưng bày những hệ thống khác nhau
đó, vốn họ đã tiến tới, với liên quan về một đề tài rất tế nhị như đề tài của Tôn
giáo Tự nhiên. Sự tương phản nổi bật trong cá tính của họ lại còn làm
tăng thêm những mong đợi của bạn; khi bạn đối lập bước chuyển triết học
chính xác của Cleanthes với sự hoài nghi vô tư của Philo, hay so sánh
một trong những khuynh hướng của họ với lập trường chính thống cứng rắn không
lay chuyển của Demea. Tuổi trẻ của tôi làm cho tôi đơn thuần trở thành một
người chỉ lắng nghe những tranh luận của họ; và rằng sự hiếu kỳ tự nhiên
với những năm tháng đầu đời, đã in toàn bộ chuỗi dài và mạch nối của những luận
chứng của họ quá sâu trong trí nhớ của tôi, tôi hy vọng rằng trong việc kể lại,
tôi sẽ không bỏ sót hay làm xáo trộn bất kỳ phần đáng kể nào của chúng.
[1] Dialogues concerning Natural Religion (1779) Dịch theo bản phổ biến trên
Hume Texts
Online https://davidhume.org/texts/d/
Biên tập Amyas Merivale và Peter Millican
Bản của Hume Texts Online là những bản chụp sao lại từ văn khố Thư viện
Quốc gia Scotland và Hội Hoàng gia Edinburgh.
Những chú thích để trong [ …] lấy từ những bản
tiếng Anh. Những chú thích này,
của chính Hume
Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ đọc lại, tìm
chữa sau. Tất cả, mong có thể cho một một bản đọc triết học ‘mộc mạc’, trung
thực với nguyên tác, nhìn theo hướng diễn giải, khai triển nội dung những khái
niệm, tư tưởng và luận thuyết triết học, đồng thời cố gắng giữ phần nào văn
phong cổ kính của tác giả. Mục đích là mong giúp
những người đọc, không chuyên môn, hiểu được ý ‘nôm na’ của tác giả.
[2] William Warburton (1698 –1779): nhà chăn chiên cấp
tỉnh của Gloucester, thuộc hội nhà thờ England, cũng là một nhà phê bình văn
học.
[3] Paul Henry Thiry,
baron d'Holbach (1723 – 1789) tác giả người France, gốc Germany, triết gia và
soạn giả từ điển bách khoa toàn thư. Một trong những người không-tin-có-gót , thẳng
thắn, không úp mở, người khai triển nổi tiếng của thuyết không-tin-có-gót và thuyết
Duy vật, tác giả tác phẩm nổi tiếng Système de la nature (1770)
[4] evidentialism
[5] “Quí
vị đều biết luận chứng thiết kế: Mọi sự trong thế giới đã được tạo lập vừa vặn
sao cho chúng ta có thể xoay sở mà sống trong thế giới ấy, và nếu như mà thế giới
đã có khác đi chỉ một chút, chúng ta không thể nào xoay sở sinh sống trong ấy
được. Đó là luận chứng thiết kế.” (Bertrand Russell
– Tại Sao Tôi Không là người Kitô?)
[6] Ở đây, cũng như nhiều những bản dịch khác của tôi
– tôi dùng “faith” = ‘lòng tin tôn giáo’, khi muốn rõ hơn – “lòng tin
tôn giáo” hiểu như tin tưởng này thấy trong những tôn giáo Abraham, vốn dựa trên tình
cảm (“lòng”) thay vì trên lý trí thuần
túy.
[7] Trong Søren Kierkegaard, ‘leap of faith =’bước nhảy của lòng tin tôn giáo’
là hành động sinh tồn và tôn giáo của việc chấp nhận tin tưởng vào Gót bất
chấp sự vắng mặt của bằng chứng lý trí. Đối với Kierkegaard, lòng tin (đức tin) không đạt được qua logic hay bằng chứng nhưng đòi hỏi một cam kết chủ quan,
nồng nhiệt vượt ngoài lý trí. Bước nhảy này không phải là mù quáng nhưng là sự đầu hàng có ý thức trước
một gì đó vượt ngoài sự hiểu biết của con người.
[8] Trong “Niên đại của những bản thảo của Hume”, trong Paul B.
Wood, The Scottish Enlightenment: Essays in Reinterpretation, University of Rochester Press, 2000, chapter 9).
[9] Hume viết Dialogues khoảng năm
1750, nhưng với ý định cho phổ biến tác phẩm này sau khi ông qua đời. Khi Adam Smith,
người bạn thân của ông, tỏ ra không sẵn lòng với gửi gấm này, Hume phó thác việc này cho William Strahan, người
quản lý xuất bản của ông, với một điều khoản dự phòng
nếu Strahan không thực hiện ý định này trong vòng 2 năm rưỡi sau khi ông mất,
việc xuất bản sẽ giao cho David, người cháu ông. Điều này đã xảy ra nên David (một
luật sư và thẩm phán ở Scotland) đã
đứng ra xuất bản tập Dialogues này,
năm 1779.
[10] Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học Và
Văn Học Scotland.
[11] https://davidhume.org/texts/d/
[12] An
Enquiry concerning Human Understanding, Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết
của Con người (1748,
1777) Section XI. ‘Of a Particular Providence and
of a Future State’.
[13] mitigated
scepticism
[14] anthropomorphism
[15] Samuel Clarke (1675–1729) nhà gót học, triết gia
có ảnh hưởng rất lớn ở England thế kỷ18.
[16] Fideism: Thuyết Duy Tín là tin tưởng rằng lòng tin tôn giáo Kitô
độc lập với, và đôi khi thậm chí đối lập với, lý trí và bằng chứng. Nó khẳng
định rằng lý trí của con người không đủ hoặc không liên quan để biết những chân
lý tôn giáo. Một số người theo thuyết duy tín bác bỏ những nỗ lực chứng minh sự
tồn tại của Gót thông qua những lập luận hợp lý hoặc thực nghiệm, chỉ nhấn mạnh
đến đức tin. Những nhân vật nổi tiếng bao gồm Tertullian (người ưu tiên lòng tin tôn giáo
hơn lý trí), Martin Luther (người coi lý trí là thứ yếu so với lòng tin tôn giáo), Blaise Pascal (người nhấn mạnh đến những hạn chế của lý trí trong lòng tin tôn giáo), Søren Kierkegaard (người ủng hộ “bước nhảy của lòng tin tôn giáo “), và William
James (người bảo vệ lòng
tin tôn giáo như một sự lựa chọn hợp pháp bất chấp sự không
chắc chắn).
[17] Pierre Bayle
(1647–1706) là một Huguenot, một tín đồ Thệ phản, người France, tên ông thường
được gắn với Thuyết Duy Tín
[18] Pamphilus viết cho Hermippus. Nhân vật mang tên Hermippus
không dự trong đàm thoại này – ông chỉ là người đọc nhưgx gì Pamphilus viết ở đây. Mặc dù Hume không cho nhiều chi tiết về Hermippus,
chúng ta có thể đoán rằng Hermippus là bạn, đồng nghiệp hay người trí thức như Pamphilus, một người quan tâm đến
triết học. Sự hiện diện của ông đóng vai trò như một thủ pháp văn học. Bằng cách để Pamphilus viết thư cho Hermippus,
Hume mang đến cho Dialogues một giọng điệu cá nhân và mang
tính tự suy ngẫm hơn, như thể Pamphilus kể lại một tranh luận triết học quan
trọng với một người bạn. khiến Dialogues như một
lời kể cá nhân, với suy nghĩ, suy nghiệm, nhìn
lại với cân nhắc về một chủ đề thay vì chỉ trình bày thông tin của một tranh luận triết học.
[19] Natural Religion: Tôn Giáo Tự Nhiên: là tôn giáo cho rằng những lòng
tin tôn giáo đều có thể ‘tự nhiên’ đến với một người có suy nghĩ lôgích, dùng
phán đoán lý trí xem xét chứng cớ trong thế giới tự nhiên; ngược lại với nó là
loại Tôn Giáo Vén Lên Cho Thấy như đạo Kitô (và đạo Juda,
Islam). Theo giáo lý Kitô, loài người bị ‘sa ngã’, không thể biết được chân lý
tôn giáo (như Gót hiện hữu, sáng tạo, cứu chuộc, …), Thế nên loài người vẫn
ngăn cách với chân lý tôn giáo bởi một tấm màn che, nó phải được vén lên, đê
chân lý ẩn dấu được phơi bày. Những Tôn Giáo Vén Lên Cho Thấy như
thế đều không đưa ra chân lý dựa trên phán đoán lý trí và chứng cớ trong thế
giới tự nhiên, do đó chúng đòi hỏi một tin tưởng tuyệt đối (như một đức hạnh
= đức tin) vào những gì đã một lần sau tấm màn được vén lên cho
hiển lộ – Chủ đích của Hume trong Đàm thoại này cho chúng ta thấy – rằng ngay
cả loại Tôn Giáo Tự Nhiên cũng không thể có. Với ông, không thể có lòng tin tôn
giáo nào chúng ta có thể có được hoàn toàn bằng cách thu thập bằng chứng và lý
luận về bằng chứng đó.
[20] the being of a God : sự hiện hữu của một Gót
[21] Providence:
vẫn dịch theo kinh sách Kitô là ‘quan phòng’ và ‘Đấng Quan phòng’ = Gót (The
care, guardianship, and control exercised by a deity; divine direction – tin
tưởng rằng có một ‘sự chăm sóc, giám hộ và kiểm soát được thực hiện bởi một vị
gót; một sự hướng dẫn linh liêng’)