Sunday, March 16, 2025

Hume – Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (03)

Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên

(Dialogues concerning Natural Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )









PHẦN II

 

Tóm lược

 

Bây giờ Demea chen vào câu chuyện và hỏi không biết có phải chỉ bản chất của Gót đang là đối tượng hoài nghi hay sự hiện hữu của Gót là đối tượng hoài nghi? Những người bạn ông đoan chắc với ông đó là trường hợp thứ hai. Chà, ông nói tiếp, liên quan đến vấn đề thứ hai, để tuyên bố rằng chúng ta thực sự có thể hiểu được bản chất của Gót thì bất kính – thể hiện sự thiếu tôn kính, lòng sùng kính hay sự tôn trọng đúng mực đối với Gót hay những tín ngưỡng thiêng liêng, có thể là từ chối hay thách thức những nguyên lý tôn giáo – cũng gần như tuyên bố rằng hoàn toàn không có Gót gì cả. Gót, ông tuyên bố, vốn vượt quá mức hiểu biết của con người, và nhất thiết phải là bí ẩn với chúng ta.

 

Philo đồng ý rằng sự là-có (hiện hữu ) của Gót thì không thể nghi ngờ và ông cũng đồng ý rằng bản chất của Gót thì không thể biết được. Ông cung ứng những luận chứng cho cả hai tuyên bố này. Thứ nhất, Gót phải là-có vì mỗi tác động đều có một nguyên nhân nào đó và do đó phải có một nguyên nhân sau cùng nào đó của vũ trụ. Chúng ta gọi nguyên nhân cuối cùng này là Gót và chúng ta “kính tín gán cho ngài” mọi loại có thể có của sự toàn hảo. Nhưng không có lý do gì để nghĩ sự toàn hảo của Gót có bất kỳ tương tự nào với bất cứ gì chúng ta biết, vì vậy không có lý do gì để nghĩ rằng chúng ta có bất kỳ ý tưởng nào về Gót thì giống thế nào. Chúng ta nói rằng ngài thì khôn ngoan, hiểu biết, v.v., nhưng chúng ta dùng những từ này chỉ vì không có từ nào khác. Chúng ta hoàn toàn không biết những thuộc tính này có thể có nghĩa là gì khi đặt trong nội dung thần linh. Philo cho thấy rằng kết luận này dựa trên phán đoán thưc tiễn đặt trên kiến thức thông thường nhất: những ý tưởng của chúng ta đều do kinh nghiệm chúng ta tạo ra và chúng ta không có kinh nghiệm về những thuộc tính và hoạt động thần linh. Do đó, chúng ta tuyệt không biết gì về việc Gót thì có thể giống như thế nào.

 

Cleanthes không đồng ý với Demea và Philo. Ông nghĩ, dù chúng ta không có bất kỳ kinh nghiệm trực tiếp nào về những thuộc tính và hoạt động của Gót, ông có thể chứng minh rằng có đủ bằng chứng trong thế giới tự nhiên để cho chúng ta đưa ra những kết luận chính đáng về việc Gót thì có thể giống như thế nào. Bằng việc nhìn vào thế giới tự nhiên, chúng ta thấy rằng nó rất không giống như một sản phẩm nhân tạo (để dễ dàng, chúng ta có thể chỉ gọi là một “bộ máy”). Mặc dù chúng ta chưa bao giờ đã từng nhìn, nghe hay gặp Gót, chúng ta đã có kinh nghiệm giâc quan về những máy móc và chúng ta biết một vài điều về chúng. Trực tiếp nhất, chúng ta biết rằng bất cứ nơi nào có một bộ máy, có một người thiết kế thông minh nào đó đằng sau nó. Những bộ máy không tự lắp ráp với nhau ngẫu nhiên; chúng được những người thợ lành nghề tạo ra. Nhận rằng vũ trụ rõ ràng đúng là một bộ máy phức tạp, với mỗi phần từ nhỏ nhất đến lớn nhất đều vừa vặn ứng hợp hoàn hảo với hài hòa của tổng thể, chúng ta có thể suy luận hợp lý, giống như bất kỳ bộ máy nào khác, rằng vũ trụ đã do một nhà thiết kế thông minh tạo ra. Nhà thiết kế thông minh đó, tức là Gót, phải tương tự như một con người thiết kế, chỉ khác là hoàn hảo hơn nhiều, tỉ lệ tương ứng với sự toàn hảo vĩ đại của ngài.

 

Demea là người đầu tiên phản ứng với luận chứng thiết kế của Cleanthes Ông không tán thành tuyên bố rằng Gót và con người đều hoàn toàn tương tự giống nhau. Sau nữa, ông không hài lòng rằng Cleanthes cố gắng dùng một bằng chứng hậu nghiệm (kiến thức hay lý luận dựa trên kinh nghiệm, quan sát hoặc bằng chứng thực nghiệm) hơn là một bằng chứng tiên nghiệm (kiến thức độc lập với kinh nghiệm, dựa trên lý trí thuần túy) .cho sự là-có của Gót (vì luận chứng thiết kế chứng minh cả bản chất của Gót lẫn bản thể của Gót). Những bằng chứng hậu nghiệm chỉ là những bằng chứng về có thể xảy ra, không là những bằng chứng xác định. Đó là, khi chúng ta đưa ra một lập luận từ kinh nghiệm, chúng ta chỉ có thể chứng minh rằng kết luận của chúng ta có nhiều xác xuất là đúng thực; những chúng ta không bao giờ có thể chứng minh rằng nó thì chắc chắn là đúng. Chỉ khi chúng ta đưa ra một chứng minh tiên nghiệm, chúng ta mới có thể chứng minh một gì đó với sự chắc chắn. [1]

 

Philo không phản đối rằng luận chứng là hậu nghiệm. phàn nàn duy nhất của ông rằng nó là một luận chứng tồi. Ông sẽ dành phần còn lại của quyển sách để cho thấy luận chứng này thì tồi tệ đến mức nào. Trong chương này, tất cả những phản đối của Philo đều nhằm mục đích cho thấy , hoặcluận chứng thiết kế không thực sự có dạng tất yếu thích hợp cho một suy luận quy nạp, hay nó là một cách dùng không đúng bằng loại suy của một luân chứng.

 

Philo nêu lên nhiều đường lối trong đó luận chứng thiết kế thất bại dùng như một suy luận quy nạp. Đầu tiên, sự tương tự giữa vũ trụ và một bộ máy thì yếu, vì ông cho rằng thế giới không thực sự giống một bộ máy cho lắm. Thứ hai, sự tương tự giữa vũ trụ và một bộ máy không nhất thiết làm được việc, vì nó không là một so sánh tương tự giữa hai thực thể tồn tại riêng biệt, nhưng giữa vũ trụ như một toàn thể và những phần nhất định nào đó của vũ trụ (tức là con người và những đối tượng tác động của nó). Thế nên, đưa ra một so sánh loại suy giữa một bộ máy và vũ trụ thì có thể giống như tìm hiểu xem toàn thể con người phát triển thế nào bằng nhìn vào một sợi tóc trên đầu người này phát triển thế nào. Thứ ba, dường như là sai lầm khi tuyên bố rằng tất cả sự xếp đặt trật tự trong thế giới là kết quả của trí thông minh. Tiến trình gây nên trật tự phức tạp và khả năng thích ứng trong trường hợp của những cơ thể hữu cơ dường như là sự sinh sản động vật và thực vật, không phải là sự thiết kế. Vậy tại sao giả định rằng trật tự của vũ trụ giống như trật tự của máy móc nhân tạo, và không giống như trật tự của những cơ thể hữu cơ? Cuối cùng, những gì làm cho một suy luận nhân quả hoạt động đó là chúng ta có kinh nghiệm liên tục những tiền lệ về những sự kiện giống như A theo sau là những sự kiện giống như B. Nhưng ở đây A, Gót, là một nguyên nhân duy nhất và B, vũ trụ, là một hiệu quả độc nhất. Do đó Philo kết luận rằng luận chứng thiết kế thì không giống một suy luận quy nạp cho lắm, nhưng như một phỏng đoán giàu tưởng tượng, bốc đồng, kỳ quặc.

 

PHẦN II.

 

D 2.1, KS 141

Tôi phải thú nhận, Cleanthes, Demea nói, rằng không gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn là ánh sáng, trong đó bạn đã có tất cả từ đầu, nói ra luận chứng này. Bằng vào toàn bộ giọng điệu bàn luận của bạn, người ta sẽ tưởng tượng rằng bạn đang chủ trương Bản thể của một Gót, chống lại những cãi vặt của những người Không-Tin-Có-Gót và những những Người Không Cùng Đạo [2]; và đã nhất thiết để trở thành một người bênh vực cho nguyên lý nền tảng đó của tất cả tôn giáo. Nhưng tôi hy vọng, bằng bất kỳ cách nào, đây không là câu hỏi giữa chúng ta. Không ai; không người nào, ít nhất, theo kiến thức thực tiễn thông thường, tôi được thuyết phục, từng băn khoăn cân nhắc một nghi ngờ nghiêm trọng liên quan đến một sự thực, rất chắc chắn và hiển nhiên như thế. Câu hỏi thì không quan tâm về HỮU THỂ, nhưng về BẢN CHẤT của GÓT. Điều này tôi khẳng định, từ những tật nguyền của sự hiểu biết của con người, là hoàn toàn không thể hiểu được và không biết được với chúng ta. Bản chất của tinh thần tối cao đó, những thuộc tính của ngài, cách thức tồn tại của ngài, chính bản chất vĩnh cửu ngài; những sự việc này và mọi đặc biệt, vốn liên quan đến một Hữu thể rất thiêng liêng, đều là bí ẩn với con người. Là những sinh vật hữu hạn, yếu đuối và mù quáng, chúng ta phải hạ mình khiêm tốn trước sự hiện diện uy nghiêm đáng kính của ngài, và ý thức về sự yếu đuối của chúng ta, ngưỡng mộ trong im lặng những toàn hảo vô hạn của ngài, vốn mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy, cũng không đi vào bản thể bên trong con người để mường tượng. Một đám mây dày tránh đã bao phủ chúng tránh khỏi sự tò mò của con người: Nó là sự báng bổ thần thánh để cố gắng thâm nhập qua những mù mịt khó hiểu thiêng liêng này: Và bên cạnh sự bất kính của việc phủ nhận sự hiện hữu của ngài, là sự táo tợn của việc dò la vào trong bản chất và yếu tính, những lệnh truyền và những thuộc tính của ngài.[3]

 

D 2.2, KS 141-2

Nhưng để bạn không nên nghĩ, rằng lòng kính tín tôi có ở đây đã thắng phần triết lý của tôi, tôi sẽ tán trợ ý kiến ​​của tôi, nếu nó cần bất kỳ hỗ trợ nào, bởi một thẩm quyền rất lớn. Tôi có thể trích dẫn hầu hết những nhà gót học, từ sự thành lập của đạo Kitô, những người đã từng giải quyết đề tài này hay bất kỳ đề tài gót học nào khác: Nhưng hiện giờ, tôi sẽ tự giới hạn về một người được tôn vinh về lòng kính tín cũng như về triết học. Đó là giáo Malebranche, tôi nhớ, người, đã tự diễn đat như vậy [4]. ”Người ta không nên (ông nói) nhiều như vậy, để gọi Gót là một tinh thần, để diễn đạt tích cực về bản chất của Người, mà là để biểu thị rằng Người không phải là vật chất. Người là một Hữu thể vô cùng toàn hảo: Về sự việc này chúng ta không thể nghi ngờ. Nhưng theo cùng một cách mà chúng ta không nên tưởng tượng, ngay cả cho rằng Người là hữu hình, rằng Người khoác lên mình một thân thể con người, như những người theo thuyết Nhân hình [5] khẳng định, dưới màu sắc vốn hình dạng đó là hoàn hảo nhất trong số bất kỳ nhân dạng nào; vì vậy, chúng ta cũng không nên tưởng tượng rằng Tnh thần của Gót có những ý tưởng của con người, hoặc có bất kỳ điểm tương đồng nào với tnh thần của chúng ta; ới giả định rằng tinh thần con người là hình thức hiểu biết hoàn hảo nhất mà chúng ta có thể hiểu được. Thay vào đó, chúng ta nên tin rằng, Người hiểu được sự toàn hảo của vật chất nhưng không phải là vật chất. . . . . . . Người cũng hiểu được sự toàn hảo của những tnh thần được tạo ra, nhưng không phải là tnh thần, theo cách chúng ta quan niệm về tnh thần: Rằng tên thật của Người là, Đấng hiện hữu, hay nói cách khác, Đấng vô hạn, Đấng Toàn năng, Đấng Vô hạn và Phổ quát.

 

D 2.3, KS 142

Sau một thẩm quyền lớn như thế, Demea, Philo trả lời Philo, như những gì bạn đã đưa ra, và hàng ngàn thẩm quyền khác nữa, bạn có thể đưa ra, sẽ hiện ra là điều khôi hài khi tôi để thêm vào tình cảm của tôi, hay bày tỏ sự tán thành của tôi với học thuyết của bạn. Nhưng chắc chắn, chỗ nào những người hiểu biết giải quyết những đề tài này, câu hỏi không bao giờ có thể gồm Bản thể, nhưng chỉ Bản chất của Đấng Sáng tạo. Sự thực kể trước, như bạn quan sát rõ, là không thể nghi ngờ và tự hiển nhiên. Không gì tồn tại với không nguyên nhân; và nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ này (bất kể nó là gì) chúng ta gọi là GÓT; và kính tín gán cho Người mọi loại toàn hảo. Bất cứ ai phá vỡ sự thực cơ bản này, đều đáng chịu mọi hình phạt, vốn có thể gây cho những nhà triết học, đó là nói rằng, sự chế giễu, khinh miệt và phản đối lớn nhất. Nhưng vì tất cả sự toàn hảo thì hoàn toàn tương đối, chúng ta không bao giờ nên tưởng tượng, rằng chúng ta thấu hiểu những thuộc tính của Đấng thần linh này, hay giả định, rằng những toàn hảo của Người có bất kỳ tương đồng, hay giống với những toàn hảo của một sinh vật người. Khôn Ngoan, Tư Tưởng, Thiết Kế, Kiến ​​Thức; những điều này chúng ta chỉ chính đáng gán cho Người; vì những từ này là vinh dự  giữa loài người và chúng ta không có ngôn ngữ hay những khái niệm nào khác, qua đó chúng ta có thể diễn tả sự ngưỡng mộ của chúng ta với Người. Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, kẻo chúng ta nghĩ rằng, những ý tưởng của chúng ta tương ứng với những toàn hảo của Người, hay những thuộc tính của Người có bất kỳ tương đồng nào với những phẩm chất này giữa con người. Người thì vượt trội vô hạn so với với cái nhìn và sự hiểu biết giới hạn của chúng ta; và là đối tượng của sự thờ phượng trong đền thờ hơn là tranh luận trong những trường phái..

 

D 2.4, KS 142-3

Trong thực tế, Cleanthes, ông tiếp tục, không cần phải nhờ cậy đến học thuyết hoài nghi đã tác dụng đó, rất khó chịu với bạn, để đi đến sự xác định này. Những ý tưởng của chúng ta không đạt được xa hơn kinh nghiệm của chúng ta: Chúng ta không có kinh nghiệm về những thuộc tính và những hoạt động thiêng liêng: Tôi không cần phải kết luận tam đoạn luận của tôi: Bạn có thể rút ra suy luận cho chính bạn. Và cũng là một niềm vui cho tôi (và tôi hy vọng cũng cho bạn nữa) rằng chỉ lý luận đúng và kính tín vững chắc ở đây đồng tình trong cùng một kết luận, và cả hai đều thiết lập bản chất bí ẩn đáng sùng bái và không thể thấu hiểu được của Hữu Thể Tối Cao. [6]

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai

(Mar/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 

 



[1] A Posteriori – Một sự thật a posteriori là sự thật có được bằng sự quan sát thế giới. Một luận chứng a posteriori có liên quan đến việc thu thập bằng chứng từ những kinh nghiệm và lập luận trên những bằng chứng kinh nghiệm đó. Thí dụ, sự kiện tóc cô A màu đen là môt sự thật chúng ta đều biết được qua suy luận sau khi có kinh nghiệm a posteriori trông/gặp cô A. Nhiều triết gia tuyên bố rằng tất cà những sự kiện cơ bản trọng yếu về thế giới đều là a posteriori, và tất cả những luận chứng về những sự kiện cơ bản trọng yếu phải là những luận chứng a posteriori

A Priori - Một sự thật a priori là sự thật có được KHÔNG bằng sự quan sát thế giới. Một suy luận priori chỉ dựa trên sự liên kết lôgích giữa những ý tưởng. Thí dụ, sự kiện rằng tất cả những ai là ‘quả phụ’ đều có chồng chết, vì ý tưởng người quả phụ hay người ‘góa chông’ là người có chồng đã chết là một sự thực không có được qua kinh nghiệm a priori. Để xác định rằng tuyên bố ‘quả phụ là người có chồng đã chết’ là sự thật, chúng ta không cần phải đi tìm mọi quả phụ để hỏi xem điều này có đúng không. Hume tin rằng tất cả sự thật a priori là có thuật từ (‘chồng đã chết) thì nằm trong định nghĩa của chủ từ (‘góa phụ’).

[2] Infidels: những người không cùng đạo : từ những người Ki tô, Muslim gọi những ai không có cùng tôn giáo, hoặc đã bỏ, hoặc không theo, hoặc khác tôn giáo.

[3] Trong nội dung trên, câu hỏi về “being” : sự “tồn tại/là-có, hay vẫn gọi là sự hiện hữu của Gót — là câu hỏi với ý nghĩa của việc Gót “là-có (hay không có). Còn câu hỏi về “nature/bản chất của Gót là một câu hỏi khác, đến sau câu hoi trên –(ngầm giả định về sự hiện hữu, Gó thì là-có, nên ns cơ bản hơn câu hỏi về hiện hữu ; nó liên quan đến thực tại bản thể của Gót; câu hỏi về việc Gót thì như thế nào (bản chất hay những thuộc tính của Ngài).

Ví dụ: “Gót có hiện hữu không?” là một câu hỏi về bản thể. “Gót có công bằng và nhân từ không?” là một câu hỏi về bản chất.

[4] [Recherche de la Verité, quyển. 3. chương. 9.] - Nicolas Malebranche (1638–1715): nhà chăn chiên Kitô, người France, trường phái triết học phát sinh từ công trình của René Descartes. Triết học của ông tìm sự tổng hợp thuyết Descartes với tư tưởng Augustine và với thuyết của phái Plato-Mới.

[5] Anthropomorphites

[6] Tam đoạn luận Demea đề cập đến được ngụ ý, không được nêu rõ ràng, nhưng chúng ta có thể tái tạo nó dựa trên lý luận của ông trong đoạn văn:

Tiền đề 1: Ý tưởng của chúng ta không vượt ra ngoài trải nghiệm của chúng ta.

Tiền đề 2: Chúng ta không có kinh nghiệm về các thuộc tính và hoạt động của thần thánh.

Kết luận: Do đó, chúng ta không thể có bất kỳ kiến ​​thức hoặc hiểu biết thực sự nào về bản chất của Gót.

Quan điểm của Demea là thuyết hoài nghi ngay cả không cần thiết để đi đến kết luận này—chỉ cần một sự thừa nhận thẳng thắn về giới hạn của kinh nghiệm và sự hiểu biết của con người. Ông tin rằng cả "lý luận công bằng" (suy nghĩ hợp lý) và "lòng mộ đạo lành mạnh" (sự khiêm nhường tôn giáo) đều dẫn đến cùng một kết luận: rằng Gót cuối cùng là bí ẩn và không thể hiểu được đối với não thức con người.