Tóm lược
Bây giờ Demea chen vào
câu chuyện và hỏi không biết có phải chỉ bản chất của Gót đang là đối tượng
hoài nghi hay sự hiện hữu của Gót là đối tượng hoài nghi? Những người bạn ông
đoan chắc với ông đó là trường hợp thứ hai. Chà, ông nói tiếp, liên quan đến
vấn đề thứ hai, để tuyên bố rằng chúng ta thực sự có thể hiểu được bản chất của
Gót thì bất kính – thể hiện sự thiếu tôn kính, lòng sùng kính hay sự tôn trọng
đúng mực đối với Gót hay những tín ngưỡng thiêng liêng, có thể là từ chối hay thách thức
những nguyên lý tôn giáo – cũng gần như tuyên bố rằng hoàn toàn không có Gót gì cả. Gót, ông
tuyên bố, vốn vượt quá mức hiểu biết của con người, và nhất thiết phải là bí ẩn
với chúng ta.
Philo đồng ý rằng sự
là-có (hiện hữu ) của Gót thì không thể nghi ngờ và ông cũng đồng ý rằng bản chất của Gót
thì không thể biết được. Ông cung ứng những luận chứng cho cả hai tuyên bố này.
Thứ nhất, Gót phải là-có vì mỗi tác động đều có một nguyên nhân nào đó và do đó
phải có một nguyên nhân sau cùng nào đó của vũ trụ. Chúng ta gọi nguyên nhân sau cùng này là Gót và
chúng ta “kính tín gán cho ngài” mọi loại có thể có của sự toàn hảo. Nhưng
không có lý do gì để nghĩ sự toàn hảo của Gót có bất kỳ tương tự nào với bất cứ
gì chúng ta biết, vì vậy không có lý do gì để nghĩ rằng chúng ta có bất kỳ ý
tưởng nào về Gót thì giống thế nào. Chúng ta nói rằng ngài thì khôn ngoan, hiểu
biết, v.v., nhưng chúng ta dùng những từ này chỉ vì không có từ nào khác. Chúng
ta hoàn toàn không biết những thuộc tính này có thể có nghĩa là gì khi đặt
trong nội dung thần linh. Philo cho thấy rằng kết luận này dựa trên phán đoán
thưc tiễn đặt trên kiến thức thông thường nhất: những ý tưởng của chúng ta đều
do kinh nghiệm chúng ta tạo ra và chúng ta không có kinh nghiệm về những thuộc
tính và hoạt động thần linh. Do đó, chúng ta tuyệt không biết gì về việc Gót
thì có thể giống như thế nào.
Cleanthes không đồng ý
với Demea và Philo. Ông nghĩ, dù chúng ta không có bất kỳ kinh nghiệm trực tiếp
nào về những thuộc tính và hoạt động của Gót, ông có thể chứng minh rằng có đủ
bằng chứng trong thế giới tự nhiên để cho chúng ta đưa ra những kết luận chính
đáng về việc Gót thì có thể giống như thế nào. Bằng việc nhìn vào thế giới tự
nhiên, chúng ta thấy rằng nó rất không giống như một sản phẩm nhân tạo (để dễ
dàng, chúng ta có thể chỉ gọi là một “bộ máy”). Mặc dù chúng ta chưa bao giờ đã
từng nhìn, nghe hay gặp Gót, chúng ta đã có kinh nghiệm giâc quan về những máy
móc và chúng ta biết một vài điều về chúng. Trực tiếp nhất, chúng ta biết rằng
bất cứ nơi nào có một bộ máy, có một người thiết kế thông minh nào đó đằng sau
nó. Những bộ máy không tự lắp ráp với nhau ngẫu nhiên; chúng được những người
thợ lành nghề tạo ra. Nhận rằng vũ trụ rõ ràng đúng là một bộ máy phức tạp, với
mỗi phần từ nhỏ nhất đến lớn nhất đều vừa vặn ứng hợp hoàn hảo với hài hòa của
tổng thể, chúng ta có thể suy luận hợp lý, giống như bất kỳ bộ máy nào khác,
rằng vũ trụ đã do một nhà thiết kế thông minh tạo ra. Nhà thiết kế thông minh
đó, tức là Gót, phải tương tự như một con người thiết kế, chỉ khác là hoàn hảo
hơn nhiều, tỉ lệ tương ứng với sự toàn hảo vĩ đại của ngài.
Demea là người đầu
tiên phản ứng với luận chứng thiết kế của Cleanthes Ông không tán thành tuyên
bố rằng Gót và con người đều hoàn toàn tương tự giống nhau. Sau nữa, ông không
hài lòng rằng Cleanthes cố gắng dùng một bằng chứng hậu nghiệm (kiến thức hay lý luận dựa trên kinh
nghiệm, quan sát hoặc bằng chứng thực nghiệm) hơn là một bằng
chứng tiên nghiệm (kiến thức độc lập với kinh nghiệm, dựa trên lý trí thuần
túy) .cho sự là-có của Gót
(vì luận chứng thiết kế chứng minh cả bản chất của Gót lẫn bản thể của Gót).
Những bằng chứng hậu nghiệm chỉ là những bằng chứng về có thể xảy ra, không là những bằng
chứng xác định. Đó là, khi chúng ta đưa ra một lập luận từ kinh nghiệm,
chúng ta chỉ có thể chứng minh rằng kết luận của chúng ta có nhiều xác xuất là
đúng thực; những chúng ta
không bao giờ có thể chứng minh rằng nó thì chắc chắn là đúng. Chỉ khi chúng ta đưa ra một chứng minh tiên nghiệm, chúng ta mới có thể
chứng minh một gì đó với sự chắc chắn. [1]
Philo không bận tâm rằng luận chứng này là một hậu nghiệm, phàn nàn duy nhất của
ông rằng nó là một luận chứng tồi. Ông sẽ dành phần còn lại của quyển sách để cho
thấy luận chứng này xấu tệ như thế nào. Trong chương này, tất cả những phản đối của Philo nhằm cho thấy: thứ nhất, luận chứng
thiết kế thực sự thiếu cấu trúc thích hợp cần thiết cho một suy luận quy nạp hợp lệ, và
thứ hai, nó là một cách dùng sai lý luận loại suy, suy luận rút ra kết luận về một sự vật việc bằng
dựa trên sự giống nhau của nó với một sự vật việc khác.
Philo nêu lên nhiều
đường lối trong đó luận chứng thiết kế thất bại dùng như một suy luận quy nạp.
Đầu tiên, sự tương tự giữa vũ trụ và một bộ máy thì yếu, vì ông cho rằng thế
giới không thực sự giống một bộ máy cho lắm. Thứ hai, sự tương tự giữa vũ trụ
và một bộ máy không nhất thiết làm được việc, vì nó không là một so sánh tương tự giữa hai thực thể tồn tại riêng
biệt, nhưng giữa vũ trụ như một toàn thể và những phần nhất định nào đó của vũ
trụ (tức là con người và những đối tượng tác động của nó). Thế nên, đưa ra một so sánh
loại suy giữa một bộ máy và vũ trụ thì có thể giống như tìm
hiểu xem toàn thể con người phát triển thế nào bằng nhìn vào một sợi tóc trên
đầu người này phát triển thế nào. Thứ ba, dường như là sai lầm khi tuyên bố
rằng tất cả sự xếp đặt trật tự trong thế giới là kết quả của trí thông minh.
Tiến trình gây nên trật tự phức tạp và khả năng thích ứng trong trường hợp của
những cơ thể hữu cơ dường như là sự sinh sản động vật và thực vật, không phải
là sự thiết kế. Vậy tại sao giả định rằng trật tự của vũ trụ giống như trật tự
của máy móc nhân tạo, và không giống như trật tự của những cơ thể hữu cơ? Cuối
cùng, những gì làm cho một suy luận nhân quả hoạt động đó là chúng ta có kinh
nghiệm liên tục những tiền lệ về những sự kiện giống như A theo sau là những sự
kiện giống như B. Nhưng ở đây A, Gót, là một nguyên nhân duy nhất và B, vũ trụ,
là một hiệu quả độc nhất. Do đó Philo kết luận rằng luận chứng thiết kế thì
không giống một suy luận quy nạp cho lắm, nhưng như một phỏng đoán giàu tưởng tượng, bốc đồng, kỳ quặc.
PHẦN II.
D 2.1, KS 141
Tôi phải thú nhận, Cleanthes, Demea nói, rằng không gì
có thể làm tôi ngạc nhiên hơn là ánh sáng, trong đó bạn đã có tất cả từ đầu,
nói ra luận chứng này. Bằng vào toàn bộ giọng điệu bàn luận của bạn, người
ta sẽ tưởng tượng rằng bạn đang chủ trương Bản thể của một Gót, chống lại những
“cãi vặt” của những người Không-Tin-Có-Gót và những những Người Không Cùng Đạo [2]; và đã nhất thiết để trở
thành một người bênh vực cho nguyên lý nền tảng đó của tất cả tôn
giáo. Nhưng tôi hy vọng, bằng bất kỳ cách nào, đây không là câu hỏi
giữa chúng ta. Không ai; không người nào, ít nhất, theo
kiến thức thực tiễn thông thường, tôi được thuyết phục, từng băn khoăn cân nhắc
một nghi ngờ nghiêm trọng liên quan đến một sự thực, rất chắc chắn và hiển
nhiên như thế. Câu hỏi thì không quan tâm về HỮU THỂ, nhưng về BẢN CHẤT của GÓT. Điều này tôi
khẳng định, từ những tật nguyền của sự hiểu biết của con người, là hoàn toàn
không thể hiểu được và không biết được với chúng ta. Bản chất của tinh
thần tối cao đó, những thuộc tính của ngài, cách thức tồn tại của ngài, chính
bản chất vĩnh cửu ngài; những sự việc này và mọi đặc biệt, vốn liên
quan đến một Hữu thể rất thiêng liêng, đều là bí ẩn với con người. Là những sinh vật hữu hạn, yếu đuối
và mù quáng, chúng ta phải hạ mình khiêm tốn trước sự hiện diện uy nghiêm đáng kính của ngài, và ý thức về
sự yếu đuối của chúng ta, ngưỡng mộ trong im lặng những toàn hảo vô hạn của
ngài, vốn mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy, cũng không đi vào bản thể
bên trong con người để mường tượng. Một đám mây dày tránh đã bao phủ chúng
tránh khỏi sự tò mò của con người: Nó là sự báng bổ thần
thánh để cố gắng thâm nhập qua những mù mịt khó hiểu thiêng liêng này: Và
bên cạnh sự bất kính của việc phủ nhận sự hiện hữu của ngài, là sự táo tợn của việc
dò la vào trong bản chất và yếu tính, những lệnh truyền và những thuộc tính của
ngài.[3]
D 2.2, KS 141-2
Nhưng để bạn không nên
nghĩ, rằng lòng kính tín tôi có ở đây đã thắng phần
triết lý của tôi, tôi sẽ tán trợ ý kiến của tôi, nếu nó cần bất kỳ hỗ trợ
nào, bởi một thẩm quyền rất lớn. Tôi có thể trích dẫn hầu hết những nhà gót học, từ
sự thành lập của đạo Kitô, những người đã từng giải quyết đề tài này hay bất kỳ
đề tài gót học nào khác: Nhưng hiện giờ, tôi sẽ tự giới hạn về một người được
tôn vinh về lòng kính tín cũng như về triết học. Đó là giáo sĩ Malebranche, tôi nhớ,
người, đã tự diễn đat như vậy [4]. ”Người ta không nên (ông nói) nhiều như vậy, để gọi Gót là một tinh thần, để diễn đạt tích cực về bản chất của Người, mà là để biểu thị rằng Người
không phải là vật chất. Người là một Hữu thể vô cùng toàn hảo: Về sự việc
này chúng ta không thể nghi ngờ. Nhưng theo
cùng một cách mà chúng ta không nên tưởng tượng, ngay cả cho rằng Người là hữu
hình, rằng Người khoác lên mình một thân thể con người, như những
người theo thuyết Nhân hình [5] khẳng định, dưới màu sắc vốn hình dạng đó là hoàn hảo
nhất trong số bất kỳ nhân dạng nào; vì vậy, chúng ta cũng không nên tưởng tượng rằng Tnh thần của Gót
có những ý tưởng của con người, hoặc có bất kỳ điểm tương đồng nào với tnh thần
của chúng ta; ới giả định
rằng tinh thần con người là hình thức hiểu biết hoàn hảo nhất mà chúng
ta có thể hiểu được. Thay vào đó, chúng ta nên
tin rằng, Người hiểu được sự toàn hảo của vật chất nhưng không phải là vật chất. . . . . . . Người cũng hiểu được sự toàn hảo của những tnh thần
được tạo ra, nhưng không phải là tnh thần, theo cách chúng ta quan niệm về tnh thần: Rằng
tên thật của Người là, Đấng hiện hữu, hay nói cách khác, Đấng vô hạn, Đấng Toàn năng, Đấng Vô hạn và Phổ quát.
D 2.3, KS 142
Sau một thẩm quyền lớn như
thế, Demea, Philo trả lời Philo, như những gì bạn đã đưa ra, và hàng ngàn thẩm quyền khác nữa, bạn có thể đưa ra, sẽ hiện ra là điều khôi hài khi tôi để thêm vào tình cảm của tôi, hay
bày tỏ sự tán thành của tôi với học thuyết của bạn. Nhưng chắc chắn, chỗ nào những người hiểu biết giải
quyết những đề tài này, câu hỏi không bao giờ có thể gồm Bản thể, nhưng chỉ Bản
chất của Đấng Sáng tạo. Sự thực kể trước, như bạn quan sát rõ, là không thể
nghi ngờ và tự hiển nhiên. Không gì tồn tại với không nguyên nhân; và nguyên
nhân đầu tiên của vũ trụ này (bất kể nó là gì) chúng ta gọi là GÓT; và kính tín
gán cho Người mọi loại toàn hảo. Bất cứ ai phá vỡ sự thực cơ bản này, đều đáng chịu
mọi hình phạt, vốn có thể gây cho những nhà triết học, đó là nói rằng, sự chế
giễu, khinh miệt và phản đối lớn nhất. Nhưng vì tất cả sự toàn hảo thì hoàn
toàn tương đối, chúng ta không bao giờ nên tưởng tượng, rằng chúng ta thấu hiểu những thuộc tính
của Đấng thần linh này, hay giả định, rằng những toàn hảo của Người có bất kỳ tương đồng
hay giống với những toàn hảo của một sinh vật người. Khôn Ngoan, Tư Tưởng, Thiết Kế, Kiến Thức;
những điều này chúng ta chỉ chính đáng gán cho Người; vì những từ này là
vinh dự tôn trọng giữa loài người và chúng ta không có ngôn ngữ hay những khái niệm nào khác, qua đó
chúng ta có thể diễn tả sự ngưỡng mộ của chúng ta với Người. Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, kẻo chúng ta nghĩ rằng, những ý tưởng của
chúng ta tương ứng với những toàn hảo của Người, hay những thuộc tính của Người có bất kỳ tương đồng
nào với những phẩm chất này giữa con người.Người thì vượt trội vô hạn
so với với cái nhìn và sự hiểu biết giới hạn của chúng ta; và là đối tượng của
sự thờ phượng trong đền thờ hơn là tranh luận trong những trường phái.
D 2.4, KS 142-3
Trong thực tế,
Cleanthes, ông nói tiếp, không cần phải nhờ đến thuyết hoài nghi tác động đó, vốn bạn thấy rất khó chịu
để đi đến xác định này. Những ý tưởng của chúng ta không đạt được xa hơn
kinh nghiệm của chúng ta: Chúng ta không có kinh nghiệm về những thuộc tính và
những hoạt động thiêng liêng: Tôi không cần phải kết luận tam đoạn
luận của tôi: Bạn có thể rút ra suy luận cho chính bạn. Và cũng là một hài lòng cho tôi (và tôi hy
vọng cũng cho bạn nữa) rằng cả lý luận logich
và lòng kính tín chân chính ở đây đồng tình trong cùng một kết luận, và cả hai đều thiết lập bản
chất bí ẩn đáng sùng bái và không thể thấu hiểu được của Hữu Thể Tối Cao. [6]
D 2.5, KS 143
Không để mất bất kỳ
thời giờ nào trong những lan man dông dài, Cleanthes nói, tự ông nói thẳng với
Demea, lại còn ít hơn trong việc trả lời những lời tuyên bố kính tín của Philo;
Tôi sẽ vắn tắt giải thích tôi nhận thức vấn đề này thế nào. Hãy nhìn quanh thế
giới: suy ngẫm toàn bộ và mọi phần của nó: Bạn sẽ thấy nó không là gì cả nhưng
chỉ là một bộ máy lớn, đã phân thành vô số những máy móc nhỏ hơn, vốn lại phân
chia thêm nhỏ hơn, đến một mức độ vượt khỏi những gì giác quan và những khả
năng con người có thể theo dõi và giải thích. Tất cả những máy móc khác loại
này, và ngay cả những phần vụn vặt nhất của chúng, đều được điều chỉnh với nhau với một sự
chính xác, vốn làm mọi người mê mẩn thán phục, những người đã từng chiêm ngưỡng
chúng. Sự thích nghi lạ lùng của những phương tiện với những cứu cánh, xuyên
suốt tất cả bản chất, giống hệt nhau, mặc dù nó vượt xa hơn nhiều, những sản phẩm
của kỹ xảo con người; của thiết kế, tư tưởng, trí tuệ và thông minh của con
người. Do đó, vì những hiệu quả tương tự nhau, chúng ta được dẫn đến để suy
diễn,, bởi tất cả những quy tắc của phép loại suy, rằng những nguyên nhân cũng
giống nhau; và rằng Tác giả của Tự nhiên có phần nào giống với
não thức của con người; mặc dù đã có những khả năng lớn hơn nhiều, tỉ lệ tương
ứng với sự vĩ đại của công việc, vốn Người đã thực hiện. Bằng luận chứng này, a posteriori, và bằng
luận chứng này mà thôi, quả thực chúng ta chứng minh ngay lập tức sự là-có của
một đấng Sáng Tạo và sự tương đồng của Người với trí tuệ và trí thông minh của con người.
D 2.6, KS 143-4
Tôi sẽ là rất thẳng thắn, Cleanthes, Demea nói, về phần bảo với bạn, rằng từ
đầu tôi đã không thể tán thành kết luận của bạn liên quan đến sự giống nhau của
đấng Sáng Tạo với con người; Lại còn ít hơn để tôi có thể chấp thuận về những
phương tiện, qua đó bạn cố gắng để thiết lập nó. Gì vậy! Không thuyết minh về
Hữu thể của một Gót! Không những luận chứng trừu tượng! Không những chứng
minh tiên nghiệm! Có phải những điều này, vốn cho đến nay
những triết gia đã nhấn
mạnh rất nhiều, là lừa dối tất cả, ngụy biện tất cả? Có phải trong đề tài này, chúng ta không thể đạt
được xa hơn kinh nghiệm và khả năng có thể xảy ra? Tôi sẽ không nói, rằng sự việc này thì phản bội
nguyên nhân của một đấng Sáng Tạo: Nhưng chắc chắn, bởi thật thà này, bạn cho
những người không-tin-có-gót đem
những ưu thế, vốn họ không bao giờ có thể có được, chỉ bằng vài nguệch ngoạc
nông cạn của lý lẽ và suy luận.
D 2.7, KS 144
Philo nói, những gì tôi chủ yếu phản đối trong đề tài
này, thì không quá nhiều, rằng mọi luận chứng tôn giáo đều được Cleanthes thu giảm về
kinh nghiệm, vì chúng dường như ngay cả không là chắc chắn nhất và không chối
cãi được của loại thấp kém đó. Rằng một hòn đá sẽ rơi xuống, rằng lửa sẽ đốt
cháy, rằng đất có tính cứng chắc, chúng ta đã quan hết lần này đến lần khác, hàng ngàn lần; và khi
bất kỳ trường hợp mới nào của thiên nhiên này được trình bày, chúng ta không do
dự rút ra suy luận đã quen. Sự giống nhau chính xác của những trường hợp cho
chúng ta một sự bảo đảm hoàn toàn về
một biến cố tương tự; và một bằng chứng mạnh mẽ hơn thì không bao giờ mong muốn cũng
không được tìm kiếm sau đó. Nhưng bất cứ chỗ nào bạn khởi hành, ít nhất, từ sự giống nhau của
những trường hợp, bạn tương ứng giảm thiểu bằng chứng; và cuối cùng có thể đưa
nó đến một phép loại suy rất yếu, vốn phải thú nhận chịu trách
nhiệm về sai lầm và tính không chắc chắn. Sau khi đã có kinh nghiệm về sự lưu
thông máu trong con người, chúng ta không nghi ngờ gì, rằng nó xảy ra trong
Titius và Mævius (nào đó) [7]: Nhưng từ sự lưu
thông của nó ở loài ếch và loài cá, nó chỉ là một giả định, mặc dù là một giả
định vững, từ sự loại suy, rằng nó xảy ra trong con người và những động vật khác. Lý luận dựa
trên loại suy thì yếu hơn nhiều, khi chúng ta suy ra sự lưu thông của nhựa cây
trong loài cây cỏ từ kinh nghiệm của chúng ta, rằng máu lưu thông trong loài
động vật; và những người, người vội vã chạy theo sự loại suy không toàn hảo đó,
đã được thấy,
bằng những thí nghiệm chính xác hơn, đã bị nhầm lẫn.
D 2,8, KS 144
Nếu chúng ta nhìn thấy một cái nhà, Cleanthes, chúng
ta kết luận, với sự chắc chắn lớn nhất, rằng nó đã có một người kiến trúc hay người xây
dựng; vì đây chính xác là loại hậu quả đó, vốn chúng ta đã có kinh nghiệm
để tiến hành từ loại nguyên nhân đó. Nhưng chắc chắn bạn sẽ không khẳng
định, rằng vũ trụ mang một sự tương đồng loại như thế với một cái nhà, rằng chúng
ta có thể với cùng một chắc chắn suy diễn một nguyên nhân tương tự, hay loại suy ở đây thì hoàn chỉnh
và không tì vết. Tính không giống nhau thì quá nổi bật, khiến sự tối đa ở
đây bạn có thể có tham vọng là một ước chừng, một phỏng đoán, một giả định liên
quan đến một nguyên nhân tương tự; và sự giả định đó sẽ được tiếp nhận thế
nào trong thế giới, tôi để bạn xem xét.
D2.9,
KS 144-5
Chắc
chắn nó sẽ được đón nhận rất tệ, Cleanthes trả lời; và
tôi đáng bị chê trách và khinh
miệt, nếu tôi đã nhìn nhận, rằng những bằng chứng về một đấng Sáng Tạo đã chẳng hơn gì một phỏng đoán hay
suy đoán. Nhưng liệu
toàn bộ sự sắp xếp về phương tiện để đạt được mục đích trong một ngôi nhà và
trong vũ trụ có phải là giống nhau tầm thường như vậy không? Thế còn
sự sắp xếp mọi sự vật việc có mục đích—thì sao?? Thứ tự, tỷ lệ và sự sắp
xếp của mọi bộ phận? Những bậc thang của cầu thang rõ ràng được thiết kế để
chân người có thể dùng chúng khi leo lên; và suy luận này là chắc chắn
và không thể sai lầm. Chân người cũng được thiết kế để đi bộ và leo lên; và suy
luận này, tôi nhìn nhận, không hoàn toàn chắc chắn, vì sự khác biệt mà bạn nhận
xét; nhưng do đó, nó chỉ xứng đáng với tên gọi là sự tự phụ hay phỏng đoán?
D
2.10, KS 145
Lạy
Gót! Demea kêu lên, ngắt lời ông, chúng ta đang ở đâu vậy? Những
người nhiệt thành bảo vệ tôn giáo nhìn nhận rằng những bằng chứng của một đấng Sáng Tạo lại chưa phải là bằng chứng toàn hảo! Và bạn, Philo, người mà tôi đã dựa vào để chứng minh sự huyền bí đáng tôn kinh của Bản chất Thần thánh, bạn có đồng ý với tất cả những quan điểm
thái quá này của Cleanthes không? Vì có tên gọi nào khác để tôi cho chúng? Và
tại sao tôi phải kìm nén sự chỉ trích của tôi khi những nguyên tắc như vậy được
đưa ra, hỗ trợ bởi một thẩm quyền như vậy, trước mặt một người trẻ tuổi như
Pamphilus?
D
2.11, KS 145
Bạn
có vẻ không hiểu, trả lời Philo, rằng tôi biện luận với Cleanthes trong cách của riêng ông ấy; và bằng cách chỉ cho ông
ấy thấy những hậu quả nguy hiểm của những giáo thuyết của
ông ấy, hy vọng cuối cùng sẽ đưa ông ấy đến với quan
điểm của chúng ta. Nhưng những gì khiến bạn lo lắng nhất, tôi nhận thấy, là cách trình bày trong đó Cleanthes đã lập luận hậu nghiệm;
và khi thấy rằng lập luận đó có khả năng thoát khỏi nắm giữ của bạn
và tan vào
không gian, bạn nghĩ rằng nó đã ngụy trang đến mức bạn khó có thể tin rằng nó
được đặt trong ánh sáng thực sự của nó. Bây giờ, bất kể tôi có thể không đồng
tình đến mức nào, trong những phương diện khác,
với những nguyên tắc nguy hiểm của Cleanthes, tôi phải nhìn
nhận rằng ông ấy đã trình bày lập luận đó khá công bằng; và tôi sẽ cố gắng trình bày vấn đề
này với bạn, để bạn sẽ không còn phải nghi ngờ thêm nữa về nó.
D
2.12, KS 145
Nếu
một người trừu tượng hóa mọi sự vật việc mà người này biết hay đã thấy, người
này sẽ hoàn toàn không có khả năng, chỉ từ những ý tưởng của riêng mình, để xác
định loại cảnh tượng nào mà vũ trụ phải là, hay để ưu tiên cho một trạng thái
hay tình cảnh của sự vật này hơn trạng thái hay tình cảnh khác. Vì không có
gì mà người này hình dung rõ ràng, có thể được coi là không thể hay ngụ ý một
sự mâu thuẫn, mọi ảo tưởng của trí tưởng tượng của người này sẽ ngang bằng
nhau; người này cũng không thể đưa ra bất kỳ lý do chính đáng nào, tại sao người
này tuân theo một ý tưởng hay hệ thống, và bác bỏ những ý tưởng hay hệ thống
khác, vốn cũng có thể xảy ra như nhau.
D2.13,
KS 145-6
Lại nữa; sau khi người
này mở mắt ra và chiêm ngưỡng thế giới, như hình dạng thực sự của nó, lúc
đầu, người này không thể nào gán
được nguyên nhân cho bất kỳ sự kiện nào; chứ dừng nói đến cho toàn bộ những sự vật việc hay vũ trụ. Người này có thể để Tưởng tượng của người này tự do lang thang; và nó có thể đưa người này vào trong một vô hạn của những tường thuật
và những hình ảnh mô tả khác nhau. Tất cả những điều này đều là có thể; nhưng cũng đều có thể tất cả ngang nhau, người này sẽ
không bao giờ, tự mình, đem lại một giải thích thỏa đáng cho một ưa thích nào của người này trong số chúng so với những
còn lại. Chỉ duy kinh nghiệm mới có thể chỉ ra cho người này
nguyên nhân thực của bất kỳ hiện tượng nào.
D
2.14, KS 146
Bây
giờ theo như phương pháp lý luận này, Demea, nó dẫn đến (và thực sự, được chính Cleanthes
ngầm nhìn nhận ) rằng trật tự, sự sắp xếp hay sự điều chỉnh những nguyên
nhân sau cùng, tự nó thì không là bất kỳ một bằng chứng nào của thiết kế; nhưng chỉ trong chừng mực
mà nó đã được kinh nghiệm để tiến hành từ nguyên lý đó. Với mọi sự vật việc
chúng ta có thể biết tiên nghiệm, vật
chất có thể chứa gốc hay nguồn của trật tự ban đầu, bên trong chính nó, cũng
như não thức; và không có khó khăn nào hơn trong việc hình dung rằng những yếu
tố khác nhau, từ một nguyên nhân bên trong chưa biết, có thể rơi vào trong sự sắp xếp tinh tế
nhất, hơn là hình dung rằng những ý tưởng của chúng, trong não thức vĩ đại, phổ
quát, từ một nguyên nhân bên trong chưa biết tương tự, rơi vào trong sự sắp xếp đó. Khả
năng ngang nhau của cả hai giả định này là được phép. Nhưng theo kinh nghiệm,
chúng ta thấy (theo Cleanthes ), rằng có một khác biệt giữa
chúng. Ném nhiều mảnh thép lại với nhau, với không hình dạng hay cấu trúc nào; tự chúng sẽ không bao giờ sắp xếp để tạo thành một cái đồng hồ: Đá, vữa và
gỗ, nếu không có một người kiến trúc, sẽ không bao giờ dựng nên một ngôi
nhà. Nhưng những ý tưởng trong não thức con người, chúng ta thấy, qua một một
nguyên lý hoặc hệ thống tổ chức không xác định, không thể giải thích, chúng đã tự sắp xếp để tạo
thành sơ đồ thiết kế của một cái đồng hồ hay ngôi nhà. Do đó, kinh nghiệm chứng
minh rằng có một nguyên tắc ban đầu của trật tự trong não thức, không trong vật
chất. Từ những hiệu ứng tương tự, chúng ta suy ra những nguyên nhân tương tự.
Sự điều chỉnh của những phương tiện cho những cứu cánh thì giống nhau trong vũ
trụ, như trong một cỗ máy do con người chế tạo. Những nguyên nhân, do đó, phải là giống nhau.
D
2.15, KS 146
Ngay
từ đầu, tôi đã bị sốc, tôi phải nhìn nhận, với sự so sánh giống
nhau này, được khẳng định, giữa đấng Sáng Tạo và
những con người; và phải hiểu rằng nó ngụ ý một sự hạ thấp
Đấng Tối cao mà không một người tin
có gót thực sự nào có thể
chịu đựng được. Do đó, với sự giúp đỡ của bạn, Demea, tôi sẽ cố gắng
bảo vệ những gì mà bạn gọi một cách chính đáng là sự huyền bí đáng tôn kinh của Bản chất Thần thánh, và sẽ phản bác lý luận này của Cleanthes; với điều kiện là ông ấy cho phép, rằng tôi đã
đưa ra một trình bày công bằng về nó.
D
2.16, KS 147
Khi
Cleanthes đã đồng ý, Philo, sau một tạm dừng ngắn, đã
tiến hành theo cách sau.
Lê
Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai
(Mar/2025)
(Còn
tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] A Posteriori –
Một sự thực a posteriori là sự thực có được bằng sự quan sát
thế giới. Một luận chứng a posteriori có liên quan đến việc
thu thập bằng chứng từ những kinh nghiệm và lập luận trên những bằng chứng kinh
nghiệm đó. Thí dụ, sự kiện tóc cô A màu đen là môt sự thực chúng ta đều biết
được qua suy luận sau khi có kinh nghiệm a posteriori trông/gặp
cô A. Nhiều triết gia tuyên bố rằng tất cà những sự kiện cơ bản trọng yếu về
thế giới đều là a posteriori, và tất cả những luận chứng về những
sự kiện cơ bản trọng yếu phải là những luận chứng a posteriori
A
Priori - Một sự thực a
priori là sự thực có được KHÔNG bằng sự quan sát thế giới. Một suy
luận priori chỉ dựa trên sự liên kết lôgích giữa những ý
tưởng. Thí dụ, sự kiện rằng tất cả những ai là ‘quả phụ’ đều có chồng chết, vì
ý tưởng người quả phụ hay người ‘góa chồng’ là người có chồng đã
chết là một sự thực không có được qua kinh nghiệm a priori. Để xác định rằng
tuyên bố ‘quả phụ là người có chồng đã chết’ là sự thực, chúng ta không cần phải đi tìm mọi quả
phụ để hỏi xem điều này có đúng không. Hume tin rằng tất cả sự thực a
priori là có thuật từ (‘chồng đã chết’) thì nằm trong định
nghĩa của chủ từ (‘góa phụ’).
[2] Infidels: những người không cùng đạo : từ những người Ki tô, Muslim gọi những ai không có cùng tôn giáo, hoặc
đã bỏ, hoặc không theo, hoặc khác tôn giáo.
[3] Trong nội dung trên, câu hỏi về “being” : sự “tồn tại/là-có”, hay vẫn gọi là sự
hiện hữu của
Gót — là câu hỏi với ý nghĩa của việc Gót “là-có” (hay không có). Còn câu hỏi về “nature/bản chất”
của Gót là một câu hỏi khác, đến
sau câu hoi trên –(ngầm giả định về sự hiện hữu, Gó thì là-có, nên ns cơ bản
hơn câu hỏi về hiện hữu ; nó liên quan đến thực tại bản thể của
Gót; câu
hỏi về việc Gót thì như
thế nào (bản chất hay những thuộc tính của Ngài).
Ví dụ: “Gót có hiện hữu không?” là một câu hỏi về
bản thể. “Gót
có công bằng và nhân từ không?” là một câu hỏi về bản chất.
[4] [Recherche de la
Verité, quyển. 3. chương. 9.] -
Nicolas Malebranche (1638–1715): nhà chăn chiên Kitô, người France, trường phái
triết học phát sinh từ công trình của René Descartes. Triết học của ông tìm sự
tổng hợp thuyết Descartes với tư tưởng Augustine và với thuyết của phái
Plato-Mới.
[5] Anthropomorphites
[6] Tam đoạn luận Demea đề cập đến được ngụ ý, không
được nêu rõ ràng, nhưng chúng ta có thể tái tạo nó dựa trên lý luận của ông
trong đoạn văn:
Tiền đề 1: Ý tưởng của chúng ta
không vượt ra ngoài kinh nghiệm của chúng ta.
Tiền đề 2: Chúng ta không có kinh
nghiệm về các thuộc tính và hoạt động của thần thánh.
Kết luận: Do đó, chúng ta không
thể có bất kỳ kiến thức hoặc hiểu biết thực sự nào về bản chất của Gót.
Quan điểm của Demea là thuyết hoài nghi ngay cả không cần thiết để đi đến kết
luận này—chỉ cần một sự thừa nhận thẳng thắn về giới hạn của kinh nghiệm và sự hiểu biết của con
người. Ông tin rằng cả "lý luận công bằng" (suy nghĩ hợp lý) và
"lòng mộ đạo lành mạnh" (sự khiêm nhường tôn giáo) đều dẫn đến cùng
một kết luận: rằng Gót cuối cùng là bí ẩn và không thể hiểu được đối với não thức con người.
[7] Titius và Mævius là những cái tên giả định Philo dùng để đại diện
cho những con người khác trong thí dụ. Như chúng ta nói = "không nghi ngờ
gì, rằng nó xảy ra trong ông Ất, anh Giáp”