(The Natural History of Religion)
David Hume
Tiết. VIII.
Trào Lưu Thay Đổi Của Tin Nhiều Gót Và Tin
Một Gót
N 8. 1, Bea 58
Điều đáng chú ý, rằng những nguyên lý của
tôn giáo có một loại trào lưu của thay đổi lên
xuống trong não thức con người, và rằng con người có một khuynh hướng tự
nhiên từ tín ngưỡng sùng bái
thờ linh tượng vươn lên những ý tưởng tin chỉ một Gót, rồi lại chìm xuống từ tin
chỉ một Gót đến thờ linh tượng. Giới bình dân ít học, thực ra,
nghĩa là tất cả loài người, ngoại trừ một số ít, ngu muội và không được hướng
dẫn, không bao giờ nâng chiêm nghiệm
của họ hướng lên vòm trời cao.
Họ cũng không dự vào việc tìm hiểu sâu xa cấu trúc bí ẩn của thực vật hoặc động vật, trong phạm vi khiến họ có thể nhận ra
sự là-có của một trí tuệ tối cao hoặc một quyền năng thần thánh, ban phát trật tự cho mọi phần
của tự nhiên. Họ xem
xét những công
trình đáng ngưỡng phục này trong một cái nhìn hạn hẹp và cá nhân hơn;
thấy rằng hạnh phúc và đau khổ của họ phụ thuộc vào
ảnh hưởng bí mật, và sự đồng thuận không lường trước của những đối tượng bên
ngoài, họ xem xét, với liên tục chú ý, những nguyên nhân chưa biết, chi
phối tất cả những sự kiện tự nhiên này, và phân phối hạnh phúc và đau khổ, may
mắn và bất hạnh, qua sự hoạt động mạnh mẽ nhưng thầm lặng của chúng. Những nguyên nhân chưa biết này
vẫn được gọi đến để được giải thích hay
hỗ trợ mỗi lần xuất hiện; và trong diện mạo tổng quát hay hình ảnh mờ mịt này, là những đối tượng vĩnh cửu của hy vọng và sợ hãi, của mong muốn và lo
lắng của con người. Dần dần, trí tưởng tượng tích cực của con người, không
thoải mái với khái niệm trừu tượng này về những đối tượng, vốn luôn được dùng
liên tục, bắt đầu biến chúng thành cụ thể hơn và khoác lên chúng những hình
dạng phù hợp hơn với khả năng hiểu biết
tự nhiên của nó. Nó tượng trưng cho họ là những sinh vật hữu hình cảm giác được, thông minh, giống như loài người; được thương yêu và thù hận khởi động, và mềm dẻo thuyết phục bằng những tặng vật và những cầu khẩn, bởi những khấn nguyện và hiến tế hy sinh. Do đó có nguồn gốc của tôn giáo: Và thế đó, có nguồn gốc của
thờ linh tượng hay tôn giáo tin nhiều gót.
N 8. 2, Bea 58-9
Nhưng cùng một quan tâm lo
lắng về hạnh phúc, vốn sinh ra ý tưởng của những quyền
năng thông minh vô hình này, không để cho loài người ở lại lâu trong khái niệm đơn giản đầu
tiên về chúng; như những sinh vật quyền năng nhưng giới hạn; là những chủ nhân của định mênh con người, nhưng lại là những nô lệ của số phận và tiến trình của tự nhiên. Những tán thưởng phóng đại và những ngưỡng phục của con người
vẫn thổi phồng ý tưởng của họ lên chúng; và nâng những vị thần của họ đến những giới hạn tột cùng của toàn hảo, sau cùng sinh ra những thuộc
tính của hợp nhất và vô hạn, giản dị và tinh thần. Những ý tưởng tinh tế như vậy, có phần không cân
xứng với sự hiểu biết tầm thường, không ở lại lâu trong dạng thuần khiết ban đầu của chúng; nhưng đòi hỏi phải được hỗ trợ bởi khái niệm của những nhân vật trung gian hoặc tác nhân phụ thuộc,
những gì đứng giữa giữa loài người và vị thần tối cao của họ. Những vị thần-một nửa, hay những sinh vật trung gian này,
trông giống con người và dễ gần gũi hơn với mọi
người, trở thành đối tượng chính của sự tôn sùng, và dần
dần dẫn mang trở lại sự sùng
bái thờ linh tượng, vốn trước đây đã bị xóa bỏ bởi những cầu nguyện và những tán tụng nồn nhiệt của những cá nhân sợ hãi và tuyệt vọng cho một vị
thần tối cao. Nhưng khi những tín
ngưỡng sùng bái linh tượng này ngày càng rơi vào những khái niệm thô thiển và
thông tục hơn, cuối cùng chúng tự hủy hoại, và bằng những biểu hiện thấp hèn, vốn chúng tạo ra của những thần linh của
chúng, khiến trào lưu quay trở lại với ý
tưởng tin chỉ một Gót. Nhưng trong cách mạng luân phiên
này của tình cảm con người, khuynh hướng quay trở lại với thờ linh tượng là rất
lớn, đến nỗi biện pháp phòng ngừa tối đa không thể ngăn chặn hiệu quả. được nó. Và về điều này, một
số người theo tôn giáo Tin một gót, đặc biệt là người Jew và người Muslim, đã sáng suốt; như thể hiện qua việc họ xóa bỏ mọi nghệ thuật tạc tượng
và hội họa, và không cho phép những hình ảnh, ngay cả hình người, được
mô phỏng bằng đá cẩm thạch hoặc màu sắc; nếu không, tinh thần nhu nhược chung
của loài người sẽ dẫn đến sùng bái linh tượng. Sự hiểu biết yếu hèn của con người không
thể thỏa mãn được với hình dung vị thần của họ như
một tinh thần thuần khiết và thông minh toàn hảo; nhưng khiếp hãi tự
nhiên của họ ngăn cản họ gán cho vị thần một bóng mờ tối thiểu của giới
hạn và không toàn hảo nào. Họ dao động giữa những tình cảm đối lập này. Cùng một yếu đuối vẫn kéo
họ xuống, từ một thần linh toàn năng và tinh thần, thành một thần linh hữu hạn
và hữu hình, và từ một thần linh hữu hình và hữu hạn thành một bức tượng hoặc
hình ảnh hữu hình. Cùng một cố gắng nâng cao vẫn đẩy họ lên cao, từ bức tượng
hoặc hình ảnh vật chất đến sức mạnh vô hình; và từ sức mạnh vô hình đến một
thần linh vô cùng toàn hảo, đấng sáng tạo và chủ tể của vũ trụ.
Tiết. IX.
So Sánh
Những Tôn Giáo Này, Về
Sự Đàn Áp Và Sự Khoan Dung.
N 9. 1, Bea 60-1
Tôn giáo tin-nhiều-gót hay tín ngưỡng thờ hình tượng,
hoàn toàn dựa trên những truyền thống thường tục, dễ gặp phải sự bất tiện lớn
này, rằng bất kỳ tập tục hay quan điểm nào, bất kể tàn ác hay đồi bại đến đâu,
đều có thể được chấp nhận như một phần của truyền thống, và tạo ra cơ hội
lớn cho sự lừa dối lợi dụng lòng cả tin, cuối cùng đẩy đạo đức và nhân tính ra
khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Điều này cho phép những cá nhân
gian dối lợi dụng sự cả tin của mọi người, cuối cùng loại bỏ đạo đức và lòng
trắc ẩn khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Đồng thời, tín ngưỡng thờ linh tượng
có lợi thế rõ ràng này, bằng cách giới hạn quyền năng và chức năng của những vị
thần, nó tự nhiên nhìn nhận những thần linh của những giáo phái và quốc gia
khác cùng có thần thánh, đồng thời tôn vinh tất cả những thần linh khác nhau. như
những nghi thức, nghi lễ hay truyền thống tương đồng với nhau [1] . Tôn giáo Tin một gót trái ngược cả về ưu điểm và nhược điểm. Vì hệ
thống đó giả định rằng chỉ có một vị thần duy nhất, sự toàn hảo của lý trí và
tốt lành, nên nếu được tiến hành chính đáng, nó sẽ loại bỏ mọi sự vật việc phù phiếm, phi lý hoặc vô nhân đạo
khỏi sự thờ cúng tôn giáo, và đặt trước mặt con người tấm gương sáng chói nhất,
cũng như động cơ chỉ huy nhất, về công lý và nhân đạo. Những lợi thế to lớn này
thực sự không cân bằng (vì điều đó thì
không thể có), nhưng phần nào bị giảm đi, bởi những bất tiện, phát sinh từ những tệ
nạn và định kiến của loài người. Trong khi một đối tượng duy nhất của lòng
sùng kính được nhìn nhận, thì việc thờ phụng những vị thần khác được nhìn như phi lý và vô đạo
đức. Không, sự thống nhất về đối tượng này dường như tự nhiên đòi hỏi sự thống
nhất giữa tin tưởng tôn giáo và những nghi lễ, và cung cấp cho những người
thiết kế một cái cớ để coi kẻ thù của họ là phàm tục, và là đối tượng của sự
trả thù của cả thần thánh lẫn con người. Vì mỗi giáo phái đều khẳng định rằng
tin tưởng tôn giáo và sự thờ cúng của họ hoàn toàn được những thần linh chấp
nhận, và vì không ai có thể hình
dung rằng cùng một thầnlại hài lòng với với những nghi thức
và nguyên lý khác biệt và đối lập; những giáo
phái khác nhau tự nhiên rơi vào tình trạng thù địch, và cùng nhau trút lên nhau
lòng nhiệt thành và sự căm ghét thiêng liêng, là tình cảm dữ dội và không
thể xoa dịu nhất của con người.
N 9. 2, Bea 61
Tinh thần khoan
dung của những người thờ linh tượng, cả thời cổ lẫn thời nay, rất rõ ràng với bất kỳ ai,
những người dù ít thông thạo những tác phẩm của những sử gia hay những nhà du hành. Khi
tiên tri [2] của đền Delphi
được hỏi, nghi thức hay thờ phụng nào được những thần linh chấp nhận nhất?
Những gì đã được thiết lập hợp pháp trong
mỗi thành phố, tiên tri trả lời [3]. Dường như ngay cả những giáo sĩ, trong những thời đại đó, cũng có thể
ban ơn cứu rỗi [4] cho những người thuộc một cộng đồng tôn giáo khác. Người Rôma thường chấp nhận và kết hợp những thần linh vốn họ đã chinh phục tôn thờ;
và không bao giờ tranh luận
về và không bao giờ đặt câu hỏi về quyền năng hay phẩm
chất của những vị thần địa phương và quốc gia này, đặc biệt là khi họ sống ở những vùng
lãnh thổ nơi những vị thần đó được tôn kính. Những chiến tranh tôn giáo và đàn áp giữa những người
thờ linh tượng Egypt thực sự là một ngoại lệ với quy tắc chung về sự khoan dung
được thấy trong những tôn giáo tin nhiều gót thời cổ. Những tác
giả thời cổ giải thích ngoại lệ này bằng những lý do độc đáo và đáng chú ý. Ở
Egypt, những giáo phái khác nhau tôn thờ những loài động vật khác nhau như
những vị thần của họ – chẳng hạn như chó, mèo hoặc sói. Vì những vị thần động
vật này được cho là luôn xung đột với nhau, nên những người theo họ cũng bị
cuốn vào những tranh chấp và thù địch
[5] . Nhưng ở nơi nào lý do đó không xảy ra. Sự mê tín
của người Egypt đã không quá không quá mâu thuẫn như người ta thường tưởng
tượng, vì chúng ta biết từ Herodotus [6] rằng
Amasis đã đóng góp rất lớn để xây dựng lại đền Delphi.
N 9. 3, Bea 61
Sự không khoan dung
của hầu hết những tôn giáo, vốn nó duy trì sự thống nhất của Gót,
thì cũng đáng chú ý như nguyên lý trái ngược của những
người theo tôn giáo tin nhiều gót. Tinh thần hẹp hòi không nhượng bộ của người Jew được nhiều người biết đến. Muslim bắt đầu với những nguyên lý lại còn đẫm máu hơn và
cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục tuyên bố sự nguyền rủa – mặc dù không thực thi
bằng lửa và hành quyết – với tất cả những giáo phái khác. Và nếu, trong số những người theo đạo Kitô, người Anh và người Netherlands đã chấp nhận những nguyên lý của khoan dung, trường hợp hiếm hoi và độc nhất này bắt nguồn từ quyết tâm vững chắc. của chính quyền dân sự, tích cực
phản đối những nỗ lực dai dẳng của những
giáo sĩ và những người cuồng tín.
N 9. 4, Bea 61
Những học trò của Zoroaster đã đóng mọi
cửa thiên đường với
tất cả, trừ những giáo sĩ
Magi (của họ) [7]. Không gì có thể cản trở tiến trình những chinh phục của
người Persia, hơn là sự nhiệt thành cuồng
nhiệt của quốc gia này với những đền thờ và những hình tượng của người Hellas. Và sau khi đế quốc Persia đó sụp đổ, chúng ta thấy Alexander, như một người tin nhiều
gót, ngay lập tức thiết lập lại những
thờ cúng của dân chúng Babylon,
vốn những vua chúa cai trị trước đây của họ, như
những người tin chỉ một Gót, đã cẩn thận bãi bỏ [8] 47. Ngay cả sự gắn bó
và hết lòng của người chinh phục đó
với sự mê tín của Hellas cũng đã không ngăn trở chính ông, người đã hiến tế theo như những nghi thức và lễ lạc của người Babylon [9]
N 9,5, Bea 62
Thuyết
tin-nhiều-gót hòa đồng đến mức sự khốc liệt và ác cảm tột độ mà nó gặp phải ở
một tôn giáo đối lập khó có thể khiến nó ghê tởm và giữ khoảng cách với nó. Augustus hết sức ca ngợi sự dè dặt của cháu trai ông, Caius Cæsar, khi hoàng tử này, đi ngang qua Jerusalem
và đã quyết định không dừng
lại tham dự vào những
hoạt động hiến tế theo luật Jew ở
địa phương. Nhưng vì lý do gì
khiến Augustus
lại tán thành hành vi này đến vậy? Chỉ vì tôn giáo đó đó dưới mắt nhìn của những người không
tôn giáo là hèn hạ và man rợ. [10]
N 9. 6, Bea 62
Tôi có thể mạo muội
khẳng định rằng, ít có sự thoái hóa nào của sùng bái linh tượng và tin nhiều gót lại có hại cho xã
hội hơn sự thoái hóa này của tôn giáo tin một gót [11] , khi được đưa lên đến đỉnh cao nhất. Những tục lệ hiến tế, giết người để dâng cúng thần
thánh của dân Carthage, dân Mexico và những quốc gia được
gọi là man rợ khác[12], mặc dù rất kinh hoàng, nhưng hầu như không
vượt quá được sự tàn ác và bạo lực cực đoan của những
tòa án dị giáo do hội nhà thờ Catô thành lập và những đàn áp tôn giáo thực hiện ở Rome và Madrid. Hơn nữa, dù lượng máu đổ trong trường hợp
trước có thể không nhiều bằng
trong trường hợp sau; nhưng vẫn có một khác biệt quan
trọng khác: những nạn nhân, chọn bằng rút thăm hay qua những dấu hiệu bên
ngoài, cái chết của họ không gây rối loạn xã hội ở cùng mức độ tương tự. Ngược lại, những tòa án dị giáo đặc biệt nhắm vào
những cá nhân có đức hạnh, hiểu biết và yêu tự do – những phẩm chất thiết yếu
cho sự phát triển của xã hội. Khi những phẩm chất này bị phá hủy, xã hội sẽ
chìm trong ngu tối, tham nhũng và áp bức đáng hổ thẹn. Sự hành quyết bất hợp
pháp ngay cả chỉ một cá nhân trong những áp bức tôn giáo được thể chế hóa như
vậy còn gây tổn hại hơn nhiều so với cái chết của hàng ngàn người do bệnh dịch,
nạn đói hoặc bất kỳ tai họa nào khác.
N 9. 7, Bea 62
Trong đền thờ Diana ở Aricia gần Rome, bất cứ ai sát hại vị giáo sĩ hiện tại đều có quyền
được phong làm người kế vị một cách hợp pháp [13]. Một thể chế rất kỳ lạ! Bởi vì, mặc dù những mê tín phổ biến thường đối xử man rợ và đẫm máu với
những giáo đồ, nhưng chúng thường có lợi cho “thánh đoàn” (hệ thống những giáo sĩ). [14]
Tiết X.
Về
can đảm hay sự tự
hạ mình.
N 10. 1, Bea 63
Từ sự so sánh giữa
tôn giáo Tin một gót và tín ngưỡng thờ linh tượng, chúng ta có thể hình thành
một số quan sát khác, vốn
chúng cũng sẽ xác nhận quan
sát phổ biến, rằng sự băng hoại của những tốt đẹp nhất sẽ dẫn đến những
tệ hại nhất.
N 10. 2, Bea 63
Khi vị thần được mô tả như vô cùng siêu việt so với loài người, thì
tin tưởng này, mặc dù hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng khi kết hợp với sự kinh hoàng khiếp hãi đến từ mê tín về
sự trừng phạt của thần linh, để bị dìm não thức con người,
xuống sự
khuất phục và tự hạ mình thấp hèn nhất, và để trình
bày những đức
hạnh giáo sĩ của sự hành xác, ăn năn,
khiêm tốn và chịu đựng đau đớn như
những phẩm chất duy nhất có thể được vị thần chấp nhận. Nhưng khi những vị
thần được coi là chỉ cao hơn loài người một chút, và nhiều người trong số họ đã tiến
lên từ cấp dưới đó, thì chúng ta cảm thấy thoải mái hơn khi liên hệ giao tiếp (khấn nguyện, dâng lễ vật) với họ, và ngay cả có thể, không hề thiếu tôn trọng, hay báng bổ, đôi khi có thể khao
khát ganh đua và noi gương họ. Do đó, hoạt động, tinh thần, dũng cảm, độ lượng,
yêu tự do và những đức tính vốn làm một dân tộc lớn dậy.
N 10. 3, Bea 63
Những anh hùng
trong những ngoại giáo [15] ,
tương ứng chính xác với những vị thánh trong những đạo Kitô và Islam. Những vai trò do
Hercules, Theseus, Hector và Romulus từng đảm nhiệm, giờ đây được
Dominic, Francis, Anthony và Benedict đảm nhiệm. Thay vì tiêu diệt quái vật,
lật đổ bạo chúa và bảo vệ quê hương như
từng được ca ngợi; nay đã thay thế
bằng những tự roi vọt và
nhịn ăn uống (tự gây đau khổ cho tự thân nhân danh đạo đức), hèn nhát và khiêm
nhường (quá nhu mì đến không hành động), phục tùng tuyệt đối và nô lệ vâng lời
(mù quáng đầu hàng thẩm quyền, bất kể bất công đến mức nào), đã trở thành những phương tiện hầu nhận được vinh dự thiêng liêng trên trời cao trong
thế giới loài người. [16]
N 10. 4, Bea 63
Một kích động lớn với
Alexander ngoan đạo trong những viễn chinh hiếu chiến của ông là
sự ganh đua của ông với Hercules và Bacchus, những người mà ông chính đáng
khẳng định rằng đã vượt qua [17]. Brasidas, con
người
Spartan hào phóng và cao quý, sau khi ngã
xuống trong trận chiến, đã được cư dân Amphipolis, những người ông đã
bảo vệ, trao tặng những danh dự anh hùng [18]. Và nói tổng quát, tất cả những người sáng lập những quốc gia và thuộc
địa trong số người Hellas đều được những người gặt hái được lợi ích từ công
lao của họ, nâng họ lên hàng ngũ thần thánh thấp nhỏ
hơn này.
N 10. 5, Bea 63-4
Điều này đưa đến
nhận xét của Machiavel [19], rằng những giảng
dạy của những
tôn giáo Kitô (có nghĩa là đạo Catô ; vì ông không biết giảng dạy nào khác) chỉ khuyến
khích sự chịu đựng đau khổ hoặc bất công nhuwng không chống cự, đã chế ngự tinh
thần của loài người và khiến họ thích nghi với tâm lý nô lệ và phục tùng.
Một nhận xét chắc chắn sẽ chính xác nếu không có nhiều yếu tố khác trong xã hội
loài người ảnh hưởng và định hình bản chất và đặc điểm của một tôn giáo.
N 10. 6, Bea 64
Brasidas đã từng bắt được một con chuột, và khi nó cắn ông, ông thả nó ra. “Không có gì nhỏ bé hay tầm thường đến thế”, ông nói, “nhưng điều gì nó có thể có, để được an toàn, néu không là sự can đảm để tự vệ [20]. Bellarmine kiên nhẫn và khiêm tốn đã để cho lũ bọ chét và những sâu bọ đáng ghét khác cắn ông. Ông nói, chúng ta sẽ có thiên đường để thưởng chúng ta vì những đau khổ của chúng ta: Nhưng những sinh vật tội nghiệp này chẳng có gì ngoài sự vui hưởng cuộc sống hiện tại. [21] Có sự khác biệt như vậy giữa những châm ngôn của một anh hùng Hellas và một vị thánh chiên Catô. [22]
Tiết XI.
Về hợp lý hay phi lý.
N 11. 1, Bea 65
Đây là một quan sát
khác có cùng mục đích và là một
bằng chứng mới cho thấy rằng
sự băng hoại của những đức tính hoặc nguyên lý cao nhất dẫn đến những kết quả tồi tệ
nhất. Nếu chúng ta xem xét, không thành kiến, thần thoại của người ngoại giáo cổ xưa, như được những nhà thơ
trình bày, chúng ta có thể thấy nó ít phi lý hơn nhiều so với
những gì chúng ta đã tưởng ban đầu. Đâu là khó khăn trong
việc hình
dung rằng những sức mạnh hay nguyên lý giống nhau, bất
kể chúng là gì, đã hình thành nên thế giới hữu hình này, con người và động vật,
cũng đã tạo ra một loài sinh vật thông minh, có bản chất tinh tế hơn và quyền
năng lớn hơn những loài còn lại? Việc những sinh vật này có thể thể hiện khuynh hướng thất thường,
trả thù, tình cảm và ngay
cả dâm đãng là điều dễ dàng hình dung được; cũng như
không có hoàn cảnh nào trong chúng ta dễ gây ra những tệ nạn như vậy, hơn là sự cho phép
của quyền năng tuyệt đối. Và tóm lại, toàn bộ hệ thống thần thoại thì rất tự nhiên, đến
nỗi, trong vô số hành tinh và những thế giới trong vũ trụ này, dường như rất có
thể xảy ra rằng, ở đâu đó, nơi này hay nơi khác, một hệ thống như vậy có thể được hiện thực hóa.
N 11. 2, Bea 65
Phản
đối chính đối với nó liên quan đến hành tinh này, là nó
không được bất kỳ lý do hay thẩm quyền chính đáng nào xác quyết.
Truyền thống cổ xưa, được những giáo sĩ và nhà gót học
ngoại giáo nhấn mạnh, chỉ
là nền tảng yếu;
và cũng đã truyền tải một số lượng lớn những tường thuật trái ngược nhau, tất
cả chúng, đều được những thẩm quyền ngang nhau hỗ trợ,, đến mức đã thành hoàn
toàn không thể thiết lập bất kỳ được một ưu tiên rõ ràng nào
giữa chúng.
Do đó, toàn bộ tài
liệu tranh luận ngoại giáo sẽ chỉ chiếm một vài tập sách, phản ảnh mức độ
ít ỏi vốn những tranh luận gót
học của họ thực sự có. Tôn giáo của họ dường như bắt nguồn nhiều hơn từ
những câu chuyện được truyền lại và những thực hành mê tín hơn là luận chứng và tranh luận triết học.
N 11. 3, Bea 65-6
Nhưng khi tư tưởng tin vào chỉ một gót đóng vai trò là nguyên lý cơ bản của bất kỳ tôn giáo phổ biến nào, nó
liên kết chặt chẽ với lý trí khiến
triết học tự nhiên thấy nó
hòa nhập với một hệ thống gót học như vậy. Và nếu những giáo điều khác
của hệ thống đó chứa đựng
trong một quyển sách thiêng, như kinh
Qur'an, hay được một thẩm quyền hữu hình thực thi, như vua
chiên Rôma, thì những nhà tư tưởng tôn giáo có khuynh hướng tiếp tục sự đồng
tình của họ và chấp nhận những tin tưởng
này, đã định hình tbởi ảnh hưởng của giáo dục ban đầu của họ, vốn nó thường củng cố tính
nhất quán và mạch lạc được nhìn
thấy của hệ thống. Nhưng vì những vẻ ngoài này chắc chắn
là tất cả đều nhằm mục đích lừa dối, nên triết học sẽ sớm thấy mình rất không
cân xứng với người cộng sự mới của mình; và thay vì điều chỉnh từng nguyên lý,
khi chúng cùng nhau tiến triển, nó bị bóp méo ở mọi ngã rẽ để phục vụ cho mục
đích mê tín. Vì bên cạnh những mâu thuẫn không thể tránh khỏi cần phải dung
hòa, điều chỉnh; người ta có thể khẳng định một cách an toàn rằng tất cả gót
học phổ thông, đặc biệt là gót học kinh viện, có một loại thèm muốn với phi lý và
mâu thuẫn. Nếu gót học đó chỉ giới hạn trong lý trí và kiến thức
thực tiễn thông thường, những
học thuyết của nó sẽ có vẻ
quá dễ dãi và tầm thường. Sự kính sợ phải được nuôi dưỡng, sự bí ẩn phải được chấp
nhận, và sự mơ hồ phải được tìm kiếm, để những người sùng đạo có thể tìm thấy “công đức” trong việc chế ngự
lý trí nổi loạn bằng tin tưởng
vào những ngụy biện khó hiểu nhất
N 11. 4, Bea 66
Lịch sử của hội nhà thờ Kitô cung cấp nhiều
bằng chứng ủng hộ những suy ngẫm này. Bất cứ khi nào xảy ra tranh luận gót học, luôn có những
người tự tin tuyên bố – hoặc giả vờ tuyên bố – rằng họ chắc chắn có thể thấy
trước kết quả. Họ khẳng định rằng bất kỳ ý kiến nào trái ngược nhất với kiến
thức thực tiễn thông thường đều sẽ thắng thế, ngay cả khi lợi ích rộng lớn hơn
của hệ thống không đòi hỏi một kết luận như vậy. Mặc dù đôi khi sự chỉ trích
của “tà giáo” có thể được đưa ra
giữa những người tranh chấp,
tuy nhiên, cuối cùng, nhãn hiệu “tà giáo” luôn luôn nằm bên phía của lý trí. Bất kỳ ai, người ta cho là, chỉ cần học đủ về loại này là có thể biết được
định nghĩa của những thuật ngữ như Arian, Pelagian, Erestian, Socinian,
Sabellian, Eutychian, Nestorian, Monothelite, vv. . chưa kể những người theo đạo Phản thệ, vốn có tương lai và cuối
cùng vẫn chưa chắc chắn vào thời điểm này,
sẽ bị thuyết phục về tính xác thực của nhận xét này. Theo thời gian,
những hệ thống bắt đầu từ nền tảng lý trí và triết học thường phát triển thành
một gì đó phi lý hơn, vì lý luận ban đầu của chúng ngày càng bị bóp méo. [23]
N 11. 5, Bea 66
Chống lại dòng thác lũ của tôn giáo kinh viện
bằng những chân lý đơn giản
logich như thế này, rằng không thể có cùng một thứ, vừa tồn tại vừa không tồn tại, rằng toàn
thể lớn hơn một phần, rằng hai với ba là năm; cũng giống như cố gắng chặn đại
dương bằng một cây sậy mỏng manh. Bạn có thực sự sẽ thách thức sự huyền bí
thiêng liêng chỉ bằng lý trí thường
tục không? Không có hình phạt nào đủ lớn cho sự vô đạo bất kính của bạn. Cùng
những ngọn lửa đã từng thiêu rụi những kẻ dị giáo sẽ dùng để hủy diệt những
triết gia.
Tiết XII.
Về sự hoài nghi hay sự xác quyết
N 12. 1, Bea 67
Hàng ngày, chúng ta gặp những người hoài
nghi về lịch sử đến mức họ tuyên bố rằng không một dân tộc nào từng tin vào sự
phi lý của những dân ngoại
giáo Hellas hay Egypt. Tuy nhiên, đồng thời, những người này lại quá giáo điều
về tôn giáo của chính họ đến mức họ tin rằng những điều phi lý như vậy chỉ có ở
những tôn giáo khác, chứ không bao giờ có ở tôn giáo của họ. Cambyses, một vị vua Persia, cũng
có những định kiến như vậy. Ông chế giễu và ngay cả làm con bò Apis bị thương, hiện thân sống của một vị thần vĩ đại của Egypt.
Thái độ bất
kính và phạm thánh của ông – không thấy được ý
nghĩa tôn giáo dân tộc Egypt
đã dành cho con bò – khiến ông công
khai khinh thường vị thần của họ. Nhưng Herodotus đã sáng suốt quy tình cảm miệt thị này cho chứng điên rồ thực
sự hay rối
loạn tâm thần của ông vua nói trên; nếu không, nhà sử học lập
luận, rằng
ông sẽ không bao giờ công khai xúc phạm bất kỳ sự tôn thờ nào được tín ngưỡng thiết lập. Bởi vì, như
Herodotus nói tiếp,
mọi dân tộc đều cảm thấy hài lòng nhất với tôn giáo của riêng họ, và tin rằng tôn giáo của họ vượt trội tất cả những
tôn giáo khác. [24]
N 12. 2, Bea 67
Phải nhìn nhận rằng
đạo Catô Rôma là một giáo phái rất uyên bác và rằng không một hội nhà thờ nào, trừ hội nhà thờ nước
Anh, có thể không
đồng ý với tư thế học thức nhất trong tất cả
những nhà thờ Đạo Kitô. Tuy nhiên, Averroes, triết gia Ả Rập nổi tiếng, người có thể biết về
những mê tín của người Egypt, đã mạnh dạn tuyên bố rằng trong
tất cả những tôn giáo, phi lý và vô nghĩa nhất là tôn giáo mà những người theo đạo “ăn thịt” chính vị gót của họ sau khi đã
tạo ra vị gót đó.
N 12. 3, Bea 67
Học thuyết này, gọi
là “sự hiện diện thực sự”, khẳng định rằng trong thực hiện Bí tích Thánh Thể,
bánh và rượu được dùng trong Tiệc Thánh Thể được biến đổi thành thân thể và máu
thực sự của Chúa Kitô, mặc dù chúng vẫn giữ nguyên hình dạng bên ngoài của bánh
và rượu. Thật vậy, tôi tin rằng không có tin tưởng nào trong học thuyết ngoại
giáo lại có thể đem cho một cơ hội chế giễu lớn hơn thế này. Nó trái ngược với lý trí quá sức, đến
mức nó khéo léo xoay xở thoát khỏi mọi lập luận logich. Ngay cả còn có những
câu chuyện khôi hài về nó, một số trong số đó, mặc dù thiếu tôn kính, thường
được chính những người đạo Catô kể lại. Một câu chuyện loại như vậy là về một
thày chăn chiên, người đã vô tình trao một đồng xu thay vì bí tích trong thánh
lễ, một đồng xu đã ngẫu nhiên rơi vào giữa những bánh thánh. Người rước lễ kiên
nhẫn chờ đồng xu tan trên lưỡi, nhưng khi nó không, người này lấy nó ra khỏi
miệng và nói, “Con hy vọng, thưa Cha, Cha không phạm một sai lầm. Con hy
vọng Cha không ban Chúa Cha cho con – Ngài thì cứng quá và rắn quá, đến mức con
không thể nuốt nổi Ngài!”.
N 12. 4, Bea 67-8
Một
vị tướng nổi tiếng, khi đó đang phục vụ cho người Nga, một lần đã đến Paris để
dưỡng thương, chờ hồi phục, đã mang theo với ông một thanh niên người Turkey người đã bị ông bắt làm tù binh. Một số bác sĩ của Sorbonne – những người cũng tích
cực tự tin về tôn giáo như những giáo sĩ Islam của Constantinople – cho rằng
thật bất hạnh khi người Turkey tội nghiệp này, vì thiếu hướng dẫn thích hợp, sẽ
phải chịu tội đày hỏa ngục vĩnh viễn. Cảm thương, họ bắt tay vào hành động,
thúc đẩy Mustapha theo đạo Kitô, dụ dỗ với những hứa hẹn tràn đầy rượu ngọt trong
thế giới này và thiên đường trong thế giới sau. Những dẫn dụ này tỏ ra không
thể cưỡng lại được, và sau khi được hướng dẫn và học giáo lý kỹ lưỡng, cuối
cùng thanh niên người Turkey này đã đồng ý tham dự những lễ bí tích rửa tội và
Tiệc Thánh. Vị chăn chiên, muốn bảo đảm rằng sự cải đạo không chỉ diễn ra bên
ngoài nhưng còn có căn cứ vững chắc, đã tiếp tục thuyết giảng vào ngày hôm sau,
và mở đầu bằng một câu hỏi thông thường, “Có bao nhiêu vị Gót ?” “Không có vị nào
cả”, Benedict trả lời, tên mới của thanh niên này, sau khi được rửa tội. “Cái gì!”
thày chăn chiên kêu lên, sửng sốt, “Không có vị nào cả?” “Ồ, đúng thế,”
người thanh niên đã cải đạo trung thực đáp. “Chính cha đã nói với tôi rằng
chỉ có một Gót – và hôm qua, tôi đã ăn thịt Ngài rồi”.
N 12. 5, Bea 68
Đó là những giáo thuyết của những người anh em chúng ta
trong đạo Catô. Nhưng chúng ta đã quá quen với những giáo thuyết này, đến nỗi
chúng ta không bao giờ ngạc nhiên về chúng nữa. Mặc dù trong
tương lai, có lẽ sẽ rất khó để thuyết phục một số dân tộc nào đó, rằng bất kỳ con người, sinh vật-hai chân nào cũng có thể chấp
nhận những tín điều như vậy. Và điều đó chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng chính những dân tộc này, cũng có một gì đó đầy phi lý trong những
tín điều riêng của họ, vốn họ sẽ đưa ra một sự đồng ý ngấm ngầm trọn vẹn và sùng mộ nhất.
N 12. 6, Bea 68
Tôi nhớ đã từng ở
tại Paris trong cùng một khách sạn với vị
đại sứ từ Tunis, từ văn hóa Moor – Islam và Bắc Phi. Sau nhiều năm ở London, ông
đang trên đường trở về nhà qua lối nước
Pháp. Một ngày nọ, tôi thấy vị đại sứ đứng dưới hiên nhà, rõ ràng là
thích thú khi nhìn những cỗ xe ngựa lộng lẫy lăn bánh trên phố đông đúc. Tình
cờ, một nhóm thày dòng Capuchin, những người có lẽ chưa bao giờ gặp một người Muslim mặc trang phục
truyền thống của người Moor, đi ngang qua vị đại sứ đang đứng dưới hiên nhà. Đại
sứ, mặc dù quen thuộc với thời trang châu Âu từ thời ở nước ngoài, nhưng chưa
bao giờ nhìn thấy những chiếc áo choàng kỳ lạ và có phần buồn cười của dòng
Capuchin. Sự ngạc nhiên ngưỡng mộ của họ với trang phục bên ngoài của nhau
là không thể diễn tả được, với vị đại sứ mỉm cười thích thú trước cảnh tượng kỳ
lạ. Nếu người tuyên úy đi cùng vị
đại sứ – người am hiểu về những nghi lễ tôn giáo Islam – có đi đến một tranh luận gót
học với những những thày dòng Phanxicô này, sự ngạc nhiên của hai bên sẽ có cùng bản chất. Con người thường bối rối
trước phong tục của những người khác, mỗi văn hóa đều không tin vào những gì xa
lạ. Thế nên, toàn thể loài người đứng trố mắt nhìn nhau; và không có cách nào nhồi
nhét một điều vào đầu họ, rằng chiếc khăn xếp turban của người châu Phi không
đẹp cũng không xấu hơn chiếc mũ trùm đầu của giáo sĩ người châu Âu. Như hoàng tử Sallee đã từng
nhận xét về đô đốc người Holland de Ruyter, “Ông ấy là một người rất trung
thực – thật đáng tiếc khi ông ấy lại là một người đạo Kitô”.
N 12. 7, Bea 68-9
“Làm sao quí vị có thể thờ tỏi và hành?” chúng ta có thể tưởng tượng, giả định một nhà Sorbonne
(một học giả từ Sorbonne, tượng trưng cho gót học Catô) nói với một giáo sĩ ở Sais
(đại diện cho tín ngưỡng Egypt cổ đại hoặc ngoại giáo). “Nếu chúng tôi thờ chúng,” vị giáo sĩ trả lời, đồng thời “ít nhất, chúng tôi không ăn chúng”. “Nhưng
mèo và khỉ là những vật linh thiêng sao? Thật là một sự sùng bái vô lý!”nhà học giả Sorbonne hỏi. “Ít nhất thì chúng cũng tốt
như những thánh
tích hay những xương cốt mục rữa của những vị tử đạo”, đối thủ không kém học thức của ông trả lời. “Quí
vị không điên sao,” người Catô nhấn mạnh, “khi cắt cổ nhau vì chuyện thích bắp cải hơn hay dưa chuột hơn?” [25] “Đúng,” người ngoại giáo (giáo sĩ
ở Sais) nói, “Tôi nhin nhận điều đó, nếu ông sẽ thú nhận
rằng những người đó còn điên
hơn, những người tranh luận về sở
thích giữa những tập sách ngụy biện, trong đó có hàng chục nghìn cuốn không có giá
trị chỉ bằng một
bắp cải hay dưa chuột”.[26]
N 12. 8, Bea 69
Mọi người đứng
ngoài cuộc sẽ dễ dàng phán đoán (nhưng thật không may là rất ít những người
đứng ngoài cuộc), rằng nếu không có gì đã là cần thiết để thiết lập bất kỳ hệ thống phổ
thông nào, ngoài việc vạch trần những phi lý của những hệ thống khác, thì mọi
tín đồ của mọi mê tín đều có thể đem cho một lý do đầy đủ cho sự gắn bó mù
quáng và cố chấp của mổi người với những nguyên lý vốn họ đã được giáo dục
trong chúng. Nhưng nếu không có một kiến thức sâu rộng như vậy, để dựa vào đó
làm nền tảng cho sự bảo đảm này (và có lẽ, tốt hơn là không có nó), thì sẽ
không thiếu một lượng lớn của nhiệt thành và tin tưởng tôn giáo trong loài
người. Diodorus Siculus [27] kể lại một cách sống động về một sự việc mà ông đã tận mắt chứng kiến,
một sự việc minh họa rõ nét cho lòng tôn kính của người Egypt với những loài
động vật thiêng liêng của họ. Vào thời gian Egypt run rẩy khất phục dưới quyền
lực bao trùm của đế quốc Rôma, một người lính Rôma, có lẽ là vô tình, đã phạm
phải một hành động phạm thánh sâu xa —người này đã giết một con mèo, một loài
vật được người Egypt coi là thiêng liêng. Phản ứng tức thời và dữ dội. Dân
chúng tức giận đứng lên như một, cơn thịnh nộ của họ không ngừng. Ngay cả sự
can thiệp của vị hoàng tử cầm quyền cũng không thể bảo vệ người lính khỏi cơn
thịnh nộ của họ. Hãy đối chiếu sự việc này với thái độ của chính người Rôma với
những vị thần của họ. Vào cùng thời gian đó, Thượng viện và người dân Rôma tỏ
ra ít tôn kính hơn nhiều với hàng
ngũ thần
thánh của họ. Không chút do dự, họ chính thức nâng
Augustus lên vị thế thần thánh, trao cho ông một vị trí giữa những vị thần trên
trời. Horace thậm chí còn nhận xét, Presens divus habebitur
Augustus—Augustus sẽ được coi là một vị thần sống. Nếu Augustus bày tỏ mong
muốn, có vẻ như người Rôma sẽ sẵn sàng thay thế mọi vị thần trên thiên đàng để
phù hợp với ông. Sự khác biệt rõ rệt về thái độ này rất quan trọng, làm nổi bật
văn hóa tôn kính với thần thánh đã thay đổi [28] .
N 12. 9, Bea 70
Bất chấp sự thiêng
liêng của tôn giáo thánh thiện của chúng ta, Tully [29] , nói, không có tội ác nào phổ biến hơn tội báng bổ thần thánh: Nhưng có bao giờ nghe nói rằng một người
Egypt xâm phạm đền thờ của một con mèo, một con cò ibis, hoặc một
con cá sấu không? Không có sự tra tấn nào mà một người Egypt sẽ không cam chịu, cùng
một tác giả nói ở một nơi khác [30], thay vì làm hại một con cò ibis, một con
trăn gấm aspic, một con mèo, một con chó hay
một con cá sấu. Và do đó, điều đó hoàn toàn đúng, như Dryden nhận xét:
Bất kể nguồn gốc thần linh của họ là gì,
Vật
quí hiếm, đá, hay phả hệ giản dị nào khác,
Để bảo vệ vị thần, những tín
đồ của ngài cũng táo bạo,
Như thể ngài
đã
sinh ra từ vàng ròng .
Absolom
và Achitophel
Không, vật liệu
càng thấp kém, vốn thần thánh được tạo nên, thì vị này có thể khơi dậy sùng
kính càng lớn trong những tín đồ bị
lừa dối, sống với ảo tưởng, của họ. Họ hân hoan trong sự xấu hổ đê tiện của họ, và để tạo một công đức với
thần linh, trong dũng cảm, vì thần linh
trên hết, họ vượt qua mọi chế giễu và sỉ nhục
của kẻ thù. Hàng vạn người tình nguyện đi Thập Tự Viễn chinh đã ghi tên dưới những ngọn cờ linh thiêng, và ngay cả còn công khai tự hào và ca ngợi những phương diện tin tưởng tôn giáo của họ, vốn những dân tộc khác coi là xúc phạm, phi
lý, hổ thẹn đáng khinh miệt nhất.
N 12. 10, Bea 70
Tôi giả định rằng xảy ra một khó khăn trong
hệ thống gót học Egypt ; quả thực, rất ít những hệ thống thuộc loại
đó hoàn toàn thoát khỏi những khó khăn. Rõ ràng,
từ việc sinh sản nhân lên nhanh chóng của chúng, chỉ một vài cặp mèo, trong năm mươi năm nữa, sẽ
sinh sôi nảy nở đầy cả một vương quốc. Nếu chúng vẫn tiếp tục được tôn sùng như vậy, thì trong hai mươi năm
nữa, tìm một vị thần ở Egypt sẽ dễ hơn tìm một con người. Vốn là
trường hợp Petronius nói đã xảy ra trong một số vùng của Italy;
nhưng cuối cùng những thần thánh phải hoàn toàn khiến cho
toàn thể loài người chịu chết đói và không còn lại bất kỳ giáo sĩ hay tín đồ nào được sống sót. Do đó,
rất có thể, rằng quốc gia khôn ngoan này, quốc gia nổi tiếng nhất thời cổ về chính sách thận
trọng và đúng đắn, sau khi thấy trước những hậu quả nguy hiểm như vậy, đã dành toàn bộ sự tôn thờ của họ cho
những thần linh-trưởng thành, và tự do dìm chết hết những thần-con hay những thần-còn-bú-sữa, không đắn đo hay hối hận
mảy may nào. Và như thế, việc thực hành vặn bẻ những giáo lý, để phục vụ những
lợi ích thế tục, hoàn toàn không thể được xem như một phát minh của
những thời mãi về sau này.
N 12. 11, Bea 70-1
Varro uyên bác,
triết lý, khi nói về tôn giáo, tự cho
thấy chỉ cố gắng đưa ra những những gì xác suất có thể xảy đến và xuất hiện, nhưng không như những gì chắc chắn. Đó là ý thức thận trọng và khiêm tốn của ông! Nhưng Augustin nhiệt huyết, sôi nổi đã xúc phạm đến
phẩm giá của nhà quí tộc Rôma về thái độ hoài nghi và dè dặt
của ông,
đồng thời tuyên bố tin
tưởng và xác quyết hoàn toàn nhất [31] . Tuy nhiên, một nhà thơ ngoại giáo, cùng thời với vị thánh chiên này, bất công đánh giá hệ thống
tôn giáo của vị thánh chiên
này là sai lầm, đến mức ngay cả sự cả tin
của trẻ em, ông nói,[32] cũng không thể
khiến chúng tin vào nó [33] .
N 12. 12, Bea 71
Có lạ lùng không,
khi những sai lầm quá phổ thông, lại thấy mỗi sai lầm đều tích cực và giáo
điều? Và rằng nhiệt thành thường tăng theo
tỷ lệ với sai
lầm? Moverunt, Spartian nói, & ea tempestate, Judæi
bellum quod vetabantur mutilare genitlalia (Người Jew vào thời đó, đã bắt đầu một chiến tranh (chỉ)
vì bị cấm cắt xén bộ phận sinh dục của họ) [34] [35].
N 12. 13, Bea 71
Nếu đã từng có một
quốc gia hay một thời đại nào, trong đó tôn giáo công cộng mất hết tất cả thẩm
quyền với loài người, chúng ta có thể hợp lý dự đoán rằng sự “thiếu đức tin” ở
Rome, trong thời đại Cicero, sẽ công khai dựng lên ngai vàng của nó, và tự thân
Cicero, trong mọi lời nói và hành động, sẽ là người tiếp tay cho nó nhiều nhất.
Nhưng có vẻ như, rằng dù con người vĩ đại đó có thể có những tự do hoài nghi nào đi nữa, trong những bài
viết của ông hay trong trò chuyện triết học;
ông vẫn tránh, trong ứng xử nơi
công cộng, sự buộc tội những tin tưởng vào một vị gót xa lạ, ngoài trần gian [36]
và sự báng
bổ những thiêng liêng [37]. Ngay cả trong gia đình ông,
và với vợ Terentia, người ông
rất tin cậy, ông vẫn sẵn sàng tỏ ra là một người sùng đạo; và vẫn còn lại một lá thư ,gửi cho bà, trong
đó ông thành thực mong bà làm lễ hiến tế cho Apollo và Æsculapius, để tỏ lòng
biết ơn vì ông sức khỏe được hồi phục [38]. [39]
N 12. 14, Bea 71
Lòng sùng đạo của
Pompey chân thành hơn nhiều: Trong tất
cả hành
vi của ông, trong suốt những nội chiến, ông đều rất coi trọng những
điềm báo, những giấc mơ và những tiên tri[40]. Augustus bị nhiễm đủ loại mê tín. Cũng giống như người ta
nói về nhà thơ John Milton rằng thiên tài sáng tạo của ông ít tuôn chảy hơn vào
mùa xuân, Augustus cũng tin rằng những giấc mơ của ông ít sống động và ít ý
nghĩa hơn vào mùa xuân, và do đó ít đáng tin cậy hơn so với những giấc mơ ông
trải qua trong thời gian còn lại của năm. Vị hoàng đế vĩ đại và tài giỏi đó
cũng vô cùng lo lắng nếu khi thay giày, vô tình xỏ giày phải vào chân trái.[41]. Vắn tắt, không thể nghi
ngờ, rằng số những người sùng bái mê tín thời
cổ đông đảo ở mọi quốc
gia, cũng như số
những người sùng bái tôn giáo thời
nay. Ảnh hưởng của nó cũng phổ biến như vậy; mặc dù không lớn như vậy. Nhiều
người đã đồng tình với nó; mặc dù sự đồng tình đó
có vẻ không mạnh mẽ, chính xác và khẳng định được như vậy. [42]
N 12. 15, Bea 71-2
Chúng ta có thể
nhận xét rằng, bất chấp bản chất giáo điều và độc đoán của mê tín, xác quyết của những cá nhân
có tôn giáo, trong mọi thời, được biểu hiện bên ngoài nhiều hơn là cảm
nhận thực sự sâu xa bên
trong, và hiếm khi đạt đến tin tưởng vững chắc và xác quyết vốn dẫn dắt chúng ta
trong mọi công việc của dời
sống hàng ngày. Con người không dám thú
nhận, ngay cả với chính con
tim của họ, những hoài nghi vốn họ trăn trở trên những vấn đề như
vậy; họ làm thành một đức tính cho sự tin tưởng mù quáng,
và ngụy trang những hoài nghi thực của họ
với chính họ, bằng những khẳng định mạnh mẽ nhất và sự cố chấp cứng cỏi nhất. Nhưng bản
chất con người, hay sự sáng suốt vốn có của kiến thức thực tiễn thông thường và
kinh nghiệm, tỏ ra quá mạnh mẽ với mọi nỗ lực này của họ. Nó không
cho phép ánh sáng yếu ớt, không chắc chắn của mê tín sánh ngang với những ấn
tượng rõ ràng, vững mạnh do kiến thức thực tại tạo ra. Tiến trình thông thường
của ứng xử con người trái ngược với những
lời nói của họ, và cho thấy rằng sự đồng tình
của họ trong những vấn đề này là một loại hoạt động tâm lý không thể giải
thích được, nằm giữa hoài nghi và xác quyết, nhưng gần với sự hoài nghi hơn là xác
quyết, chắc chắn thực sự.
N 12. 16, Bea 72
Do đó, vì não thức
con người vó vẻ như thuộc một loại may dệt lỏng lẻo và không chắc, khiến ngay trong ngày nay, có rất nhiều người tìm một chú tâm trong việc tiếp tục dữa sắc đục sâu vào não thức, nhưng họ vẫn chưa thể khắc những tín điều gót học
vào được với bất kỳ ấn tượng lâu dài nào. Sự việc này lại còn xảy ra nhiều hơn đến đâu, trong thời cổ, khi có ít hơn
số chức sắc tôn giáo, giới giáo sĩ vốn tận tụy duy trì và
củng cố những tín điều ? Không có gì ngạc nhiên,
rằng những
gì hiện ra bên ngoài khi đó không nhất quán, và trong một
số trường hợp, có vẻ quả quyết như người ta là những người hoài nghi, không tin tưởng, và là những kẻ thù với tôn giáo có tổ chức đã thiết lập, ngay cả là
không phải vậy trong
thực tại, hoặc ít nhất, với không biết được chắc chắn những tin tưởng của chính họ trong trường hợp đó.
N 12. 17, Bea 72-3
Một nguyên nhân
khác khiến những tôn giáo cổ xưa lỏng lẻo hơn nhiều so với những tôn giáo thời
nay, đó là tôn giáo cổ xưa mang
tính truyền thống còn tôn giáo thời
nay mang
tính thánh
thư; và truyền thống trong những tôn giáo
trước phức tạp, mâu thuẫn và trong nhiều trường hợp, phải hoài nghi; như thế khiến không thể nào thu giảm được
về bất kỳ tiêu chuẩn
và giáo luật nào, hay đem lại được bất kỳ tín điều dứt khoát
nào. Những câu chuyện về những vị gót đã là nhiều vô kể, giống như trong những truyền thuyết
dân gian; và mặc dù hầu hết mọi người đều tin vào một phần của những
câu chuyện này, nhưng không ai có thể tin hay biết toàn bộ: Trong khi, đồng
thời, tất cả mọi người đều phải nhìn nhận, rằng không có phần nào đứng trên một nền tảng vững chắc hơn những phần còn lại. Những truyền thống của
những thành phố và quốc gia khác nhau, trong nhiều trường hợp, hoàn toàn trái
ngược nhau; và không có lý do nào có thể gán được cho việc thích
truyền thuyết này hơn truyền thuyết kia. Vì có vô số những câu chuyện, và
truyền thống tuyệt không chắc chắn về chúng, nên đã có một sự thay đổi dần dần, gần như
không thể nhận thấy từ những
tin tưởng cốt lõi của tôn giáo sang những huyền thoại với
hư cấu lỏng lẻo và bấp bênh đó.
Do đó, tôn giáo ngoại giáo dường như biến mất như một đám mây, bất cứ
khi nào người ta xem xét nó kỹ
lưỡng và từng phần chi tiết. Nó không bao giờ có
thể được xác định bằng bất kỳ giáo điều và nguyên lý cố định nào. Mặc dù điều
này không khiến hầu hết loài
người từ bỏ một tín
ngưỡng phi lý như vậy, vì có bao giờ mọi người sẽ là với lý trí? Thế nhưng nó khiến họ
dao động và nghi ngờ tin tưởng
của họ thường xuyên hơn. Ở một số cá nhân, nó thậm chí còn dẫn đến những hành
vi và ý tưởng giống như sự hoài nghi hoàn toàn.
N 12. 18, Bea 73
Chúng ta có thể nói
thêm rằng tự thân những truyện ẩn dụ của tôn giáo ngoại giáo không nặng nề, dễ hiểu và quen
thuộc; không có những ma quỷ, hay
những biển diêm sinh,
[43] hay bất kỳ đối tượng nào có thể khiến trí tưởng tượng khiếp sợ nhiều. Ai có thể nhịn
được việc mỉm cười khi nghĩ đến những
yêu đương của thần Mars và thần Venus, hay những trò đùa tình ái của thần Jupiter
và thần Pan? Theo cách này, tôn giáo ngoại giáo thực sự phù hợp với thơ ca, vì
những huyền thoại của nó giàu tưởng tượng và biểu cảm. Tuy nhiên, bản chất vui
tươi và nhẹ nhàng (“phù phiếm”) của nó có thể khiến nó ít phù hợp hơn với những
loại thơ nghiêm nghị, trang trọng, nhiều chiều sâu hơn. Chúng ta thấy rằng những nhà thơ thời nay đã đưa những huyền
thoại ngoại giáo vào tác phẩm của họ và đã nói về những vị thần với sự tự do và
thiếu tôn kính như những
người xưa đã nói —bất kể sự kiện là những người xưa coi những
vị thần này là có thật, trong khi những nhà thơ hiện đại coi họ là những hư cấu.
N 12. 19, Bea 73
Suy luận này thì hoàn toàn không
công bằng, bởi vì một hệ thống của
tôn giáo không gây ấn tượng sâu xa trong những não thức con người,
do đó nó phải từng bị tất cả những người có kiến
thức thực tiễn thông thường tích cực bác bỏ, và
rằng những nguyên lý trái ngược, bất chấp những thành kiến của giáo dục, thường đã được hình thành
bằng biện luận và lý trí. Tôi không biết chắc, nhưng một suy luận ngược lại thì
có thể xảy ra hơn. Càng ít thôi thúc và càng ít xuất hiện bất kỳ hình
thức mê tín nào thì nó sẽ càng ít khơi dậy sự phẫn nộ của con người hay kích động họ phải
thắc mắc về nền tảng và nguồn gốc của nó. Trong khi đó, rõ ràng là sự nắm giữ
của xác quyết tôn giáo đối với sự hiểu biết của con người thì không ổn định và
không chắc chắn, dễ bị ảnh hưởng bởi tâm trạng thay đổi và bởi những sự kiện
thu hút trí tưởng tượng tại thời điểm đó. Sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ: một
nhà tư tưởng cổ đại có thể công khai chuyển đổi qua lại giữa hoài nghi bất kính và mê tín trong
toàn bộ một phát biểu,[44]: trong
khi một nhà tư tưởng thời
nay có thể nuôi dưỡng những ý tưởng tương tự nhưng thể
hiện chúng một cách thận trọng và kiềm chế hơn.
N 12. 20, Bea 73
Lucian nói rõ ràng với chúng ta [45] rằng bất cứ ai không tin vào những câu chuyện ẩn dụ lố bịch nhất của
ngoại giáo đều bị dân chúng coi là báng bổ và vô đạo. Quả thực, nhằm mục đích gì
mà tác giả dí dỏm và dễ chịu như vậy lại dùng toàn bộ trí thông minh và tài châm biếm của mình
để chống lại tôn giáo quốc
gia [46], nếu tôn giáo đó nói chung không được những người đồng hương và những
người đương thời của ông tin tưởng?
N 12. 21, Bea 73-4
Tương tự, Livy [47]nhìn nhận một cách thẳng thắn, giống như bất kỳ vị thần thánh nào trong hiện nay, sự hoài
nghi phổ thông ở thời đại của ông; nhưng sau đó ông lên án nó một cách nghiêm khắc. Và
ai có thể tưởng tượng được rằng một sự mê tín quốc gia, vốn có thể đánh
lừa một con người tài tình như vậy, lại không áp đặt lên đa số dân chúng nói chung? [48]
N 12. 22, Bea 74
Những người trong
phái Stoics [49] dành tặng nhiều danh xưng kỳ diệu và ngay cả bất kính cho nhà hiền triết
của họ; tuyên bố rằng vị này thực sự giàu có (trí tuệ và đức hạnh), tự do (với
những ham muốn hoặc những yếu tố bên ngoài), một vị vua (làm chủ bản thân) và
ngang hàng với những vị gót. Tuy nhiên, họ đã quên nói thêm rằng nhà hiền triết này không
hề kém cỏi về thận trọng và hiểu biết hơn một người bình thường, một cá nhân có
thể cẩn thận và có kinh nghiệm, như một bà già. Vì chắc chắn không có gì có thể đáng khinh hơn những tình cảm vốn nhóm những nhà triết học đó duy trì với những vấn đề
tôn giáo; trong khi họ nghiêm trang đồng ý với những nhà tiên tri thông thường,
tin rằng nếu một con quạ đen kêu từ bên trái, thì đó là điềm tốt, nhưng nếu một
con quạ đen khác loại, mỏ dài nhọn, kêu như vậy, thì đó là điềm xấu. Panætius là người duy nhất trong nhóm Stoics Hellas nghi ngờ về những điềm báo và bói toán. [50] . Marcus Antoninus [51] cho chúng ta biết, rằng tự thân ông đã nhận được nhiều báo mộng thiêng liêng trong
giấc ngủ. Đúng là Epictetus [52] cấm chúng ta về phần ý nghĩa tiếng kêu của quạ thường hay quạ mỏ dài, không phải
vì chúng không nói sự thật,
nhưng vì chúng không tiên đoán được gì ngoài việc như chúng ta bị gãy cổ hay bị
tịch thu tài sản. Những hoàn cảnh bên ngoài, theo quan điểm của ông, không nên
làm chúng ta bận tâm. Thế nên, nhóm Stoics đã nối một nhiệt tình triết
học với một mê tín tôn giáo. Sức mạnh vủa não thức trí tuệ của họ quay
sang phía đạo đức, nhưng lại dễ dãi, để nó yếu đi về phía tôn giáo. [53]
N 12. 23, Bea 74
Plato [54] giới thiệu xác định của Socrates, rằng sự buộc tội của bất kính vô đạo chống lại ông đã hoàn toàn do việc ông bác bỏ những
chuyện ẩn dụ loại như những chuyện kể
về việc Saturn thiến cha là Uranus, và chuyện Jupiter phế truất Saturn: Tuy nhiên, trong một đàm thoại tiếp [55] , Socrates thú nhận, rằng học thuyết về hồn người
không tồn tại sau khi chết đã
là quan điểm được mọi người đón nhận. Có mâu thuẫn
nào ở đây không? Có, chắc chắn rồi: Nhưng mâu thuẫn không nằm trong Plato; nhưng nó
nằm trong những người có những nguyên lý tôn giáo,
trong tổng quát đều luôn luôn gồm những phần bất
hòa nhất; đặc biệt trong một thời,
khi mê tín được chấp nhận dễ dãi, không suy nghĩ sâu xa hay xem xét kỹ lưỡng [56].
N 12. 24, Bea 75
Cũng cùng một Cicero, người đã làm ra vẻ là một người sùng đạo trong gia đình,
không ngần ngại, trong một phòng xử
án, công khai
coi học thuyết về thế giới bên kia
như một câu chuyện ẩn dụ lố bịch,
không ai màng chú ý đến.[57] Sallust [58] đại diện cho Cæsar khi nói cùng một ngôn ngữ trong thượng viện Rôma [59].
N 12. 25, Bea 75
Nhưng
việc tất cả những tự do này không ngụ ý sự phản bội và hoài nghi toàn diện và phổ quát giữa mọi
người là quá rõ ràng để có thể phủ nhận. Mặc dù một số phần
của tôn giáo quốc gia vẫn còn lỏng lẻo trong não thức con người, nhưng những
phần khác lại gắn bó chặt chẽ với họ
hơn: Và đó là công
việc chính của những triết gia hoài nghi để cho thấy, rằng không có nền tảng
nào cho một này hơn một kia. Đây là sự khéo léo
của Cotta trong những đối thoại liên quan đến bản chất của những thần linh . Ông bác bỏ toàn bộ hệ
thống thần thoại bằng dần dần dẫn dắt hệ thống chính thống, từ những câu chuyện
quan trọng hơn được người ta tin tưởng,
đến những câu chuyện phù phiếm hơn vốn mọi người đều chế
nhạo: Từ những vị nam thần đến những nữ thần;
từ nữ thần đến những tiên nữ; từ những tiên nữ đến những thần thú, nửa dê nửa người và những thần rừng hoang dã. [60] Thầy của ông, Carneades, đã dùng phương pháp lý luận tương tự [61].
N 12. 26, Be 75-6
Nhìn trên tổng thể, những khác biệt lớn nhất
và nhận thấy được nhất giữa một tôn giáo truyền thống, thần thoại và một tôn giáo mang
tính hệ thống, kinh viện,
thì có hai: Tôn giáo trước thường duy
lý hơn, vì gồm chỉ
một số nhiều những chuyện kể, vốn vô căn cứ đến đâu, chúng không ngầm thể
hiện phi lý và
biểu thị mâu thuẫn; và cũng nằm nhẹ nhàng và dễ dàng trên não thức
con người, khiến nó có thể được đón nhận phổ quát, nhưng may mắn là
nó không tạo ấn tượng sâu xa nào đến vậy với những tình cảm và sự hiểu
biết.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
[N 9. 1n42 Xem GHI CHÚ [AAA].
[N 9. 1n42. 1, Bea
60
VERRIUS Flaccus, được Pliny trích dẫn, lib.
xxviii. Cap. 2. khẳng định rằng đã
là thông thường cho những người Rôma, trước khi vây hãm bất kỳ thị trấn nào, đều cầu khẩn
vị thần thành hoàng của nơi đó, và bằng cách hứa với vị
này những vinh dự lớn hơn những vinh dự hiện đang
hưởng, để hối lộ” vị thần này
phản bội những người bạn và những người sùng đạo của vị này. Vì tập tục này, tên của vị thần hộ mệnh của chính Rome được giữ bí mật
chặt chẽ. Người Rôma lo sợ rằng kẻ thù của họ có thể dùng cùng một phương
pháp để lôi kéo vị thần của họ tránh xa họ, vì họ tin rằng những lời cầu khẩn
như vậy đòi hỏi phải biết tên của vị thần. Pliny nói rằng hình thức
cầu khẩn phổ biến đã được lưu giữ cho đến thời của ông trong nghi lễ của những
vua chiên Catô. Và Macrobius đã truyền một bản sao của nó từ những điều bí mật
của Sammonicus Serenus.
]
[2]
oracle
[3]
[N 9. 2n43, Bea 61 Xenoph.
Memor. lib. ii. ]
[4]
salvation
[5]
[ N 9. 2n44, Bea 61 Plutarch.
de Isid. & Osiride. ]
[6]
[N 9. 2n45, Bea 61 Lib.
ii. sub fine. ]
[7] [N 9. 4n46, Bea 61 Hyde
de Relig. vet. Persarum. ] 46
[8]
[N
9. 4n47, Bea 61 Arrian.
de Exped. lib. iii. Id. lib. vii. ]
[9]
[N 9. 4n48, Bea 61 Id. ibid. ]
[10]
[N 9. 5n49, Bea 62 Sueton. in vita Aug.
c. 93. ]
[11]
[N 9. 6n50, Bea 62 Corruptio optimi
pessima.
[12]
[N 9. 6n51 Xem GHI CHÚ [BBB].
N 9. 6n51. 1, Bea 62
Hầu hết những quốc gia đã rơi vào tội ác hiến tế con người; mặc dù, sự
mê tín vô đạo đó có lẽ chưa bao giờ phổ biến trong những xã hội thực sự văn
minh, trừ có lẽ người Carthage.
Thí dụ, người Tyrian nhanh chóng từ bỏ tập tục này. Ý tưởng đằng sau lễ hiến tế, trong đó không chỉ
giết sinh vật nhưng cả con người, như đây là lễ vật dâng lên thần linh. Tuy
nhiên, thay vì trao tặng một vật gì đó có giá trị có thể đem dùng hoặc hưởng
thụ, lễ vật bị hủy hoại, khiến nó trở nên vô dụng với con người. Điều này
thường được thực hiện theo nhiều cách khác nhau: đốt những vật thể rắn (như
động vật, thức ăn hoặc những lễ vật khác), đổ chất lỏng (như rượu, máu hoặc
dầu) và giết chết những sinh vật sống (như động vật hoặc con người). Do không
có cách nào tốt hơn để tôn vinh hoặc phục vụ thần linh của mình, mọi người lầm
tưởng rằng qua hủy hoại, họ thể hiện được sự sùng kính sâu xa của họ. Họ nghĩ
rằng bằng dâng một vật gì đó đã trở nên vô dụng hoặc bị hủy hoại, họ thể hiện
sự chân thành trong thờ phụng. Tuy nhiên, trong thực tế, họ chỉ tự lừa dối, khi
nghĩ rằng những hủy hoại như vậy bằng cách nào đó sẽ làm hài lòng vị thần, thực
sự, họ chỉ tự làm tổn hại, không đạt được bất kỳ lợi ích thực sự nào”.
Carthage: một văn minh thời cổ, tập trung ở Carthage
(Tunisia ngày nay), được người Phoenicia thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 9 BCE.
Họ thực hiện nghi lễ hiến tế người, đặc biệt là trẻ em, như lễ vật dâng lên những
vị thần như Baal và Tanit, tin rằng sẽ mang lại sự ưu ái của thần thánh. Nghi lễ này, đặc biệt
ở những
địa điểm như Tophet, kéo dài cho đến năm 146 BCE, khi Carthage bị Rôma phá hủy
trong Chiến tranh Punic lần thứ ba. Sau đó, những nhà sử học Rôma chỉ trích lễ
hiến tế này như biểu
tượng của sự man rợ.
Người
Tyre là người dân của Tyre, một polis của người Phoenicia nằm ở Lebanon
ngày nay.
[13]
[N 9. 7n52, Bea 62 Strabo, lib. v. Sueton. in vita Cal.]
[14]
Truyền thống này, gọi là Rex Nemorensis (Vua của Rừng thiêng), đòi hỏi những giáo sĩ phải giành được vị
trí của mình bằng giết chết người tiền nhiệm của mình trong một trận đấu tay đôi.
[15]
Paganism: ngoại giáo: chỉ những tín ngưỡng, tập tục và giáo lý tôn giáo của những
người theo truyền thống ngoại giáo, thường bao gồm tin nhiều gót, thờ cúng
thiên nhiên và tôn kính nhiều vị gót và những thần linh. Nó trái ngược với những
tín ngưỡng tin một như (Juda, Kitô, Islam)Thuật ngữ này có thể bao gồm những
huyền thoại, nghi lễ và thế giới quan của những nền văn minh thời thời cổ, chẳng
hạn như người Hellas, Rôma, Egypt và những dân tộc khác không tuân theo những
tôn giáo Áp-ra-ham.
[16]
Dominic, Francis, Anthony và Benedict đều là những vị thánh chiên đạo Kitô: (a)
Dominic: người sáng lập Dòng Đaminh (Dòng Thuyết giáo), là một thày chăn chiên
người Spain nổi tiếng với cam kết rao giảng và chống lại tà giáo. (b) Francis:
Thánh chiên Catô Phanxicô thành Assisi, người sáng lập Dòng Phanxicô, nổi tiếng
với lời khấn nguyện sống
nghèo khó và khiêm nhường. (c) Anthony: Thánh chiên Catô Anthony thành Padua, một
thày chăn chiên Phanxicô người Portugal , nổi tiếng với tài rao giảng và khả
năng làm phép lạ. (d) Benedict: Thánh chiên Catô Benedict thành Nursia, người
sáng lập Dòng Benedictine, được coi là vị thánh chiên Catô bổn mạng của châu Âu.
[17]
[N 10. 4n53, Bea 63 Arrian
passim. ]
[18]
[N 10. 4n54, Bea 63 Thucyd.
lib. v. ]
[19]
[N 10. 5n55, Bea 63 Discorsi,
lib. vi. ]
[20]
[N 10. 6n56, Bea 64 Plut.
Apopth]
[21]
[N 10. 6n57, Bea 64 Bayle,
Article Bellarmine. ]
[22]
Brasidas là một vị tướng Spartan quý tộc (445 TCN – 422 TCN)
được biết đến với sự dũng cảm và tài lãnh đạo của ông trong chiến tranh
Peloponnesian. Thánh chiên Catô được nhắc đến ở đây có thể là Robert Bellarmine
(1542–1621), một thày chăn chiên hàng áo đỏ người Ý và là được biết đến với sự
khiêm nhường, lòng mộ đạo và sự bảo vệ tin tưởng tôn giáo đạo Catô.
[23]
Sau đây là giải thích vắn tắt
về
từng học thuyết trong gót
học Kitô nói trên:
Arian:
Một học thuyết phủ nhận toàn bộ thần tính của Gót Kitô, khẳng định rằng Chúa
Jesus là một hữu thể sáng tạo chứ không đồng ngôi vĩnh cửu với Gót Cha. Có liên
quan đến Arius (thế kỷ thứ 4).
Pelagian:
Một tin tưởng bác bỏ tội lỗi nguyên thủy và khẳng định rằng con người có thể đạt
được sự cứu rỗi thông qua nỗ lực của chính mình, mà không cần đến ân sủng của Gót.
Có liên quan đến Pelagius (thế kỷ thứ 4-5).
Erestian:
Có thể là lỗi đánh máy hoặc nhầm lẫn. Có thể ám chỉ đến học thuyết Erastian,
quan điểm cho rằng nhà nước nên có thẩm quyền đối với Hội nhà thờ trong những vấn
đề tôn giáo.
Socinian:
Một gót học duy lý phủ nhận Gót Ba Ngôi và thần tính của Gót Kitô, nhấn mạnh đến
sự hiệp nhất của Gót và Chúa Jesus là một thày dạy đạo đức. Có liên quan đến
những người theo Socinian (thế kỷ 16).
Sabellian:
Một học thuyết về học thuyết duy thể, tuyên bố rằng Gót Cha, Gót Con và Gót
Thánh Thần không phải là những ngôi vị riêng biệt mà chỉ là những phương thức
hoặc khía cạnh khác nhau của một Gót. Có liên quan đến Sabellius (thế kỷ thứ 3).
Eutychian:
Một tin tưởng vào thuyết nhất tính, khẳng định rằng Gót Kitô có một bản chất thần
thánh, thay vì hai bản chất (thần thánh và con người) trong sự hợp nhất. Có
liên quan đến Eutyches (thế kỷ thứ 5).
Nestorian:
Một học thuyết nhấn mạnh đến sự tách biệt giữa bản chất thần thánh và bản chất
con người của Gót Kitô, về cơ bản chia Chúa Jesus thành hai ngôi vị. Có liên
quan đến Nestorius (thế kỷ thứ 5).
Monothelite:
Một tin tưởng khẳng định rằng Gót Kitô có hai bản chất (thần thánh và con người)
nhưng chỉ có một ý chí thần thánh, không phải là một ý chí con người riêng biệt.
Nổi bật vào thế kỷ thứ 7.
Những
thuật ngữ này đại diện cho nhiều cuộc tranh luận gót học khác nhau trong lịch sử
hội nhà thờ sơ khai.
[24]
Theo Herodotus, khi xâm lăng Egypt
năm 525 TCN, Cambyses đã chạm trán với con bò Apis ở Memphis. Nổi tiếng với sự
tàn ác và vô lễ, Cambyses đã chế giễu và làm con bò thiêng bị thương, một hành động bị coi là phạm
thánh. Apis được người Egypt tôn thờ như một hiện thân sống của thần Ptah, vị
thần sáng tạo của họ. Cái chết của con bò tượng trưng cho sự chuyển giao hồn thiêng của Ptah sang một con bò mới, sau đó
được tôn kính như hiện thân tiếp theo của vị thần. Herodotus cho rằng hành động
trên của Cambyses xuất phát từ
sự điên rồ, không từ động
cơ chính trị hay tôn giáo.
[25]
Câu “cắt cổ nhau vì thích bắp cải hay dưa chuột”
bắt nguồn từ Từ điển triết học của Voltaire (1764). Nó minh họa cho sự
phi lý của những tranh chấp tôn giáo hoặc triết học dẫn đến bạo lực vì những
vấn đề tầm thường, chỉ trích sự phi lý của những người đấu tranh vì những vấn
đề không đáng kể”. sự tôn thờ mèo và khỉ” và “sự tôn thờ tỏi tây và hành tây”
cũng bắt nguồn từ những tác phẩm châm biếm của Voltaire. Những ví dụ này chỉ
trích sự tùy tiện của những hoạt động tôn giáo và sự phi lý của những gì những
nền văn hóa khác nhau lựa chọn để tôn kính.
Sự tôn thờ tỏi tây và hành tây: Ở Egypt
thời cổ, một số loại cây như tỏi tây và hành tây được coi là thiêng liêng, đặc
biệt là trong những nghi lễ. Voltaire dùng điều này để chỉ ra cách những vật
thể tầm thường có thể được nâng lên thành thiêng liêng trong những hệ thống tín
ngưỡng. Sự tôn thờ mèo và khỉ: Mèo được tôn kính ở Egypt thời cổ, đặc
biệt là liên quan đến nữ thần Bastet, và khỉ được liên kết với thần Thoth.
Voltaire nhấn mạnh cách động vật có thể được thần tượng hóa mà không có lý do
hợp lý. Voltaire chỉ trích cách những văn hóa khác nhau nâng cao sự vật lên mức
thần thánh với ít cơ sở logic, minh họa tính tương đối của tín ngưỡng tôn giáo
và chỉ trích những lý thuyết giáo
điều.
[26]
[N 12. 7n58 58. Xem GHI CHÚ [CCC].
[N 12. 7n58. 1, Bea
69
Điều
kỳ lạ là tôn giáo của người Egypt, dù phi lý đến thế, lại
có một sự giống nhau lớn với tôn giáo của người Jew, đến nỗi những nhà văn thời cổ, ngay cả những thiên tài vĩ đại nhất cũng
không thể nhận ra bất kỳ sự khác biệt nào giữa chúng. Vì điều đáng chú ý là cả Tacitus và Suetonius, khi họ đề cập
đến sắc lệnh của thượng viện, dưới thời Tiberius, theo đó những
người theo đạo Egypt và Jew đã bị trục xuất khỏi Rome, đều coi những tôn giáo này là như nhau; và có vẻ như
ngay cả tự thân sắc lệnh cũng được thành lập dựa trên giả định đó. Actum
& de sacris Ægyptiis, Jew giáo pellendis; Factumque patrum Consultum,
ut quatuor millia libertini Generis ea mê tín dị đoan, quis
idonea ætas, insulam Sardiniam veherentur, coercendis illic latrociniis; &
si ob gravitam cœli interissent, tệ hại chết tiệt: Ceteri
cederent Italia, nisi certam ante diem profanos ritus exuissent.
Tacit. ann. lib. ii, c. 85. Externas cæremonias, Ægyptios, Judaicosque ritus compescuit; coactus qui superstitione ea tenebantur, religiosas vestes cum
instrumento omni comburere, &c. Sueton. Tiber. c. 36.
Những người ngoại giáo khôn ngoan này, nhận thấy có gì đó trong bầu không khí
chung, và yếu tính cũng như tinh thần của hai tôn giáo giống nhau, coi sự khác biệt trong
những giáo điều của chúng
quá phù phiếm để đáng được chú ý. ]
Văn
bản Latinh trên là
một đoạn văn của Tacitus và Suetonius, cả hai đều là nhà sử học Rôma. Đây là bản
dịch và giải thích những yếu tố chính:
Tacitus,
Biên niên sử (Quyển 2, Chương 85): “Actum
& de sacris Ægyptiis, Judaicisque pellendis;”: Một sắc lệnh được ban
hành liên quan đến việc trục xuất những hoạt động tôn giáo của người Egypt và
Jew.
“factumque
patrum Consultum, ut quatuor millia libertini Generis ea superstitionefecta,
quis idonea ætas, insulam Sardiniam veherentur, coercendis illic latrociniis;”:
Thượng viện quyết định rằng 4. 000 người được tự do đã bị nhiễm mê tín này (có
thể đề cập đến những hoạt động tôn giáo của người Egypt và Jew) , sẽ được gửi đến
đảo Sardinia để hạn chế những hoạt động tội phạm của chúng. “si ob gravitam
cœli interissent, viledamum;”: Nếu họ chết do khí hậu khắc nghiệt của
Sardinia thì đó sẽ được coi là một tổn thất nhỏ. “Ceteri cederent Italia,
nisi certam ante diem profanos ritus exuissent. “: Những người còn lại sẽ rời
khỏi Ý trừ khi họ từ bỏ những hoạt động tôn giáo không-Rôma
trước một ngày cụ thể. Suetonius, Tiberius (Chương 36): “Externas cæremonias, Ægyptios,
Judaicosque ritus compescuit;”: Tiberius đàn áp những nghi lễ nước ngoài,
bao gồm những nghi lễ của Egypt và Jew. “coactus qui superstitione ea
tenebantur, religiosas vestes cum Instrumento omni comurere;”: Những người
bị mê tín này buộc phải đốt quần áo và đồ dùng tôn giáo của họ.
Đoạn văn trên mô tả cách thức, dưới sự cai trị của Tiberius, Thượng viện Rôma đã ban hành một sắc lệnh cấm những hoạt động tôn giáo của những người Egypt và Jew ở Rome, coi chúng là mê tín dị đoan. Những người cải đạo và những người theo những tôn giáo này đã bị trục xuất, một số bị đưa đến Sardinia. Những người từ chối từ bỏ những tập tục của họ đã bị buộc phải phá hủy những vật phẩm tôn giáo của họ. Tacitus và Suetonius nhấn mạnh rằng những truyền thống tôn giáo này được coi là giống nhau, và chúng đều phá vỡ những giá trị của Rôma, dẫn đến việc chúng bị đàn áp.
[27]
[N 12. 8n59, Bea 69 59.
Lib.
I]
[28]
[N 12. 8n60, Bea 69 60.
Khi
Louis XIV nhận bảo vệ của Học viện Dòng Tên Clermont, hội này đã ra lệnh treo
huy hiệu của nhà vua trên cổng và hạ cây thánh giá xuống để nhường chỗ cho huy
hiệu của nhà vua: Điều này đã tạo nên câu châm ngôn sau:
Sustulit hinc Christi, posuitque insignia Regis: Impia
gens, alium nescit habere Deum.
(Ông đã xóa bỏ biểu
tượng của Chúa Kitô và thay vào đó biểu tượng của một vị Vua: Dân tộc vô đạo
này không biết có một vị Chúa nào khác)
[29]
[N 12. 9n61, Bea 70 61.
De
nat. Deor. l. i. ]
[30] [N 12. 9n62, Bea 70 62. Tusc. Quaest. lib. v. ]
[31] [N 12. 11n63, Bea 70 De civitate Dei, l. iii. c. 17. ]
[32]
(a) Varro: Marcus Terentius Varro (116–27 TCN), một học giả và triết gia Rôma,
tiếp cận tôn giáo với sự hoài nghi và điều độ, nhấn mạnh vào khả năng xảy ra và
vẻ bề ngoài hơn là sự chắc chắn. (b) Augustin: Thánh chiên Augustine (354–430
CN), một nhà gót học đạo Kitô, đã đối chiếu Varro với “tin tưởng tôn giáo” nồng
nhiệt và nhiệt thành của ông, tuyên bố tin tưởng vững chắc và bác bỏ sự hoài
nghi. (c) Một nhà thơ ngoại giáo: Có thể là Claudian (khoảng 370–404 CN), một
nhà thơ ngoại giáo và nhà phê bình những ý tưởng đạo Kitô, cùng thời với
Augustine.
[32]
Spartian: chỉ Aelius Spartianus. theo truyền thống được coi như một
trong những tác giả chính của Historia
Augusta, bộ sưu
tập tiểu sử những hoàng đế RôMa. Historia Augusta cho biết về triều đại Hadrian và những chính sách đã đưa đến nổi loạn Bar Kokhba (132-136 CN). Một trong những nguyên nhân chính của nổi loạn
do Simon bar Kokhba lãnh đạo này là lệnh cấm
cắt bao quy đầu. Lệnh cấm này là một phần của một loạt những sắc lệnh rộng hơn do Hoàng đế Hadrian ban
hành và được xem như một tấn
công trực tiếp vào đạo Juda, khiến người Jew vô cùng phẫn nộ và đóng vai trò
thúc đẩy chính cho cuộc nổi
loạn. Cắt bao quy đầu là một tục lệ
có ý nghĩa rất quan trọng và thiêng liêng với người Jew vì đây là nghĩa vụ tôn giáo do Gót
truyền lệnh trong Kinh thánh Hebrew. Lễ này tượng trưng cho giao ước giữa Gót
và người Jew, đóng vai trò là nghi lễ đánh dấu sự gia nhập của trẻ sơ sinh nam
vào cộng đồng Jew qua một nghi lễ gọi là Brit Milah, thường được thực hiện tám
ngày sau khi sinh, và duy
trì sư liên tục lịch sử bằng liên kết
những người Jew đương thời với tổ tiên lịch sử xa xưa và bảo
tồn những truyền thống văn hóa của họ.
[33]
[N 12. 11n64, Bea 71 Claudii Rutilii
Numitiani iter, lib. i. l. 386. ]
[34]
Spartian: chỉ Aelius Spartianus. theo truyền thống được coi như một
trong những tác giả chính của Historia Augusta, bộ sưu tập tiểu sử những hoàng đế RôMa. Historia
Augusta cho biết về
triều đại Hadrian và những
chính sách đã đưa đến nổi
loạn Bar Kokhba (132-136 CN). Một trong
những nguyên nhân chính của nổi loạn do Simon bar Kokhba lãnh
đạo này là lệnh cấm cắt bao quy đầu. Lệnh
cấm này là một phần của một loạt những sắc
lệnh rộng hơn do Hoàng đế Hadrian ban hành và được xem như một tấn công trực tiếp vào đạo Juda, khiến
người Jew vô cùng phẫn nộ và đóng vai trò thúc đẩy chính cho cuộc nổi loạn. Cắt bao quy đầu là một tục lệ có ý nghĩa rất quan trọng và thiêng liêng với người Jew vì đây là nghĩa vụ tôn giáo do Gót
truyền lệnh trong Kinh thánh Hebrew. Lễ này tượng trưng cho giao ước giữa Gót
và người Jew, đóng vai trò là nghi lễ đánh dấu sự gia nhập của trẻ sơ sinh nam
vào cộng đồng Jew qua một nghi lễ gọi là Brit Milah, thường được thực hiện tám
ngày sau khi sinh, và duy
trì sư liên tục lịch sử bằng liên kết những người Jew đương thời với tổ tiên lịch sử xa xưa và bảo
tồn những truyền thống văn hóa của họ.
[35]
[N 12. 12n65, Bea 71 In vita Adriani. ]
[36]
deis
[37]
profaneness
[38]
[N 12. 13n66, Bea 71 . xiv. epist. 7. ]
[39]
Infidelity: thiếu tin tưởng tôn giáo, không
tin vào tôn giáo. public religion: Tôn giáo công cộng, tôn gióa, tín
ngưỡng được nhà nước chính thức công nhận. Tôn giáo, đúng hơn tín ngưỡng của của
đế quốc Rome
trong thời Cicero (thế kỷ thứ 1 TCN) tập trung vào thờ phụng những vị thần như
Jupiter, Juno, Mars và Apollo, cũng như những vị gia thần như Lares và Penates.
Mặc dù đã ăn sâu vào xã hội, nhưng thẩm quyền của nó đã suy yếu trong giới trí thức, vốn chịu ảnh hưởng của triết học
Hellas. Những nhà tư tưởng như Cicero, trong riêng tư, đã nghi ngờ tín ngưỡng
tôn giáo,
nhưng vẫn duy trì những nghi lễ công cộng để ổn định chính trị và xã hội, coi
tôn giáo như phương
tiện hay dụng cụ duy
trì trật tự hơn là một tin tưởng tôn
giáo thực sự.
[40]
[N 12. 14n67, Bea 71 Cicero de Divin lib.
ii. c. 24.]
[41]
[N 12. 14n68, Bea 71 Sueton. Aug. cap. 90,
91, 92. Plin. lib. ii. cap. 7. ]
[42]
(a) Pompey: Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey Đại đế) là một vị tướng và
chính khách lỗi lạc của Rôma vào cuối thời Cộng hòa Rôma, được ca ngợi vì những
thành tựu quân sự và ảnh hưởng chính trị quan trọng của ông. Là một thành viên
của First Triumvirate / Bộ Ba Đầu Tiên cùng với Julius Caesar và Crassus,
Pompey đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Rôma. Sự tin tưởng vững chắc của
ông vào những hoạt động tôn giáo, bao gồm cả điềm báo và lời tiên tri, nhấn mạnh
vai trò trung tâm của những tín ngưỡng truyền thống của Rôma trong việc định
hình những quyết định của những nhà lãnh đạo quốc gia và quân sự của thời đại. (b)
Augustus: Augustus, ban đầu có tên là Gaius Octavius, là hoàng đế Rôma đầu
tiên và là người thừa kế được Julius Caesar nhận làm con nuôi. Trị vì từ năm 27
TCN đến năm 14 CN, ông đã thiết lập Pax Romana, một kỷ nguyên hòa bình và ổn định
kéo dài trên khắp đế quốc. Mặc dù có tài năng chính trị đặc biệt và khả năng
lãnh đạo duy lý sáng suốt, Augustus lại đặc biệt mê tín, tin vào ý nghĩa của những
giấc mơ và điềm báo, hiện tượng này cho thấy ngay cả những người cai trị thực tế
và tập trung vào kết quả nhất cũng như Pompey, đều nhận chịu ảnh hưởng của những
mê tín cá nhân và văn hóa lưu hành trong thời họ sống.
[43]
biển diêm sinh và lửa gắn liền với hình ảnh
hỏa ngục
Ki tô, chỉ sự trừng phạt của bị thiêu đốt vĩnh viễn trong hỏa ngục (Sách
Khải Huyền, trong đó hỏa ngục
được mô tả là một “hồ
lửa và diêm sinh” (Khải Huyền 21:8)
[44]
[N 12. 19n69, Bea 73
Hãy xem đoạn văn đáng
chú ý này của Tacitus: “Bên cạnh những thăng
trầm đa dạng (những thay đổi, chuyển dịch hoặc biến động xảy ra trong đời sống)
của những sinh hoạt của con người, những
điều kỳ diệu trên trời và dưới đất, những báo trước từ
tiếng sét và điềm báo về tương lai – vui
tươi, bi thảm, mơ hồ và rõ ràng Vì chưa bao
giờ sự việc đó được chứng minh rõ ràng hơn qua những
tai họa khủng khiếp giáng xuống người Rôma —những
thảm họa được coi là những phán quyết công bằng nhất,
xứng đáng cho hành động của họ – rằng
những vị thần không quan tâm đến sự an toàn của chúng ta,
nhưng
là sự trả thù trừng phạt chúng ta”. (Lịch
sử, Sách 1) Cãi vã của Augustus
với Neptune
(Augustus
cãi nhau với Neptune như một vị thần thực sự, có tri giác và hành động) là
một trường hợp của cùng một loại sự kiện. Nếu vị hoàng đế đã
không tin Neptune là một vị thần có thật, và có quyền
thống trị biển cả, thì có cơ sở nào cho sự tức giận của ông? Và nếu ông đã tin
điều đó, thì thật vô lý khi mạo hiểm khiêu khích vị thần đó thêm nữa! Cùng
một nhận xét tương tự cũng có thể lấy được từ những than
thở của Quintilian về nguyên nhân cái
chết của những đứa con của ông trong Institutio Oratoria, Sách VI, ]
[45]
[N 12. 20n70, Bea 73 Philopseudes. ]
[46]
National religion: tín ngưỡng, tập tục và truyền thống tôn giáo thống trị
được chấp nhận và thực hành rộng rãi trong một xã hội hoặc quốc gia cụ thể vào
thời điểm đó.
[47]
[N 12. 21n71, Bea 73 Lib. x. cap. 40. ]
[48]
Lucian; Một nhà châm biếm người Hellas (khoảng
năm 125–180 CN) nổi tiếng với việc chế giễu những tín ngưỡng ngoại giáo. Lời chỉ
trích của ông có ý nghĩa quan trọng vì những tín ngưỡng đó được chấp nhận rộng
rãi vào thời điểm đó. Livy: Một nhà sử học Rôma (59 TCN–17 CN) nhìn
nhận sự hoài nghi về tôn giáo trong thời đại của ông nhưng lên án nó, cho thấy
tôn giáo nhà nước vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ.
[49]
Stoics : Vẫn dịch là Khắc Kỷ: Những người trong phái
Stoics là những nhà triết học từ Hellas và Rôma thời cổ, bao gồm những nhân vật
như Zeno of Citium, Cleanthes, Chrysippus, Epictetus, Seneca và Marcus
Aurelius, những người tin vào việc sống theo lý trí, đức hạnh và quy luật tự
nhiên. Họ nhấn mạnh vào khả năng tự chủ, chịu đựng, và trí tuệ khôn ngoan, dạy
rằng những cảm xúc nên được tư duy duy lý kềm chế. Họ coi đức hạnh như điều tốt
đẹp thực sự duy nhất và tin rằng trong khi những sự kiện bên ngoài nằm ngoài kiểm
soát của chúng ta, chúng ta nên tập trung vào cách chúng ta phản ứng với chúng.
Mặc dù nhấn mạnh vào lý trí, nhiều người phái Stoics, gồm cả Marcus Aurelius, vẫn
giữ những tin tưởng mê tín, chẳng hạn như lòng tin vào những điềm báo và sự hướng
dẫn thần linh,, pha trộn quan điểm triết học của họ với những yếu tố mê tín.
[50]
[N 12. 22n72, Bea 74 Cicero de Divin. lib.
i. cap. 3 & 7.
[51]
[N 12. 22n73, Bea 74 Lib. i. §17. ]
[52]
[N 12. 22n74, Bea 74 Ench. §17. ]
[53]
[N 12. 22n75, Bea 74
Tôi nhìn nhận
rằng những người phái Stoics không hoàn toàn
chính thống, không tuân theo tôn giáo đã
thiết lập, nhưng từ những thí dụ này, rõ ràng là họ vẫn tuân giữ nhiều tập tục
và tín ngưỡng của tôn giáo đó. Tuy nhiên, công chúng nói chung đã hoàn toàn
chấp nhận tôn giáo đó mà không hề có sự dè dặt. ]
[54]
[N 12. 23n76, Bea 74 Euthyphro. ]
[55]
[N 12. 23n77, Bea 74 Phædo. ]
[56]
[N 12. 23n78 Xem GHI CHÚ [DDD].
N 12. 23n78. 1, Bea
74-5
Hành vi của
XENOPHON, như chính ông kể lại, là bằng chứng không thể chối cãi về sự cả tin
chung của loài người trong những thời đó, và sự thiếu nhất quán, trong mọi thời
đại, về những quan
điểm của con người trong những vấn đề tôn giáo. Người thủ lãnh quân đội và triết gia vĩ đại đó, học trò của
Socrates, và là người đã truyền đạt một số tình cảm tinh tế nhất liên quan đến
một vị thần, đã đưa ra tất cả những dấu hiệu sau đây của mê tín dị đoan thông
tục, ngoại giáo.
Theo lời khuyên của
Socrates, ông đã tham khảo ý kiến của nhà tiên tri Delphi, trước khi tham gia
vào cuộc viễn chinh của (hoàng
tử Persia) Cyrus. De exped. lib. iii. p. 294.
ex edit Leuncl. Nhìn thấy giấc mơ vào đêm sau khi những vị tướng bị bắt; ông rất chú ý đến giấc
mơ này nhưng lại cho rằng nó mơ hồ. Id. p. 295. Ông và toàn bộ quân đội
coi việc hắt hơi là một điềm báo rất may mắn. Id. p. 300. Có một giấc mơ
khác, khi ông đến sông Centrites, nơi mà vị tướng đồng bạn (Xenophon) của ông, Chirosophus, cũng rất coi
trọng. Id. lib. iv. p. 323. Người Hellas, đang chịu đựng cơn gió lạnh từ
phương bắc, đã làm lễ hiến
tế cho nó; và nhà sử học quan sát thấy rằng nó đã dịu đi ngay lập tức. Id.
p. 329. Xenophon tham khảo ý kiến về những lễ hiến tế một cách bí mật, trước khi ông
đưa ra bất kỳ quyết định nào với chính mình về việc định cư tại một thuộc địa. Lib.
v. p. 359. Bản thân ông là một nhà tiên tri rất giỏi. Id. p. 361. Xenophon
từ chối đề nghị quyền chỉ huy duy nhất của đội quân vì những điềm báo từ ruột gan móc ra từ những con vật hiến tế (“nạn nhân”) là
không thuận lợi. Lib. vi. p. 273. Cleander, người Sparta, mặc dù rất
mong muốn điều đó, nhưng đã từ chối vì lý do tương tự. Id. p. 392.
Xenophon đề cập đến một giấc mơ cũ với lời giải thích được đưa ra cho ông, khi
ông mới gia nhập đoàn viễn
chinh của Cyrus, p. 373. Cũng đề cập đến địa điểm Hercules xuống địa
ngục như tin vào điều đó, và nói rằng dấu vết của nó vẫn còn. Id. tr. 375.
Đã gần như làm cho quân đội chết đói, thay vì dẫn họ ra chiến trường chống lại
những điềm xấu (tin là sự không
đồng ý của thần thánh. Id. tr. 382, 383.
Người bạn của ông, Euclides, nhà tiên tri, không tin rằng ông không mang theo
tiền về từ chuyến viễn
chinh. Euclides đã làm một lễ hiến tế và xem xét exta (ruột của con vật bị hiến
tế). Sau khi làm xong lễ và những dấu hiệu, Euclides mới tin vào lời Xenophon. Lib.
vii. tr. 425. Cũng chính triết gia, này, khi đưa ra một dự án khai mỏ để tăng nguồn tài chính cho dân Athens, đã, khuyên họ trước tiên nên
tham khảo lời sấm truyền. De rat. đỏ. tr. 392.
Sự
sùng kính này không chỉ là một trò hề, được tạo ra để phục vụ cho một mục đích
chính trị nào đó, điều này rõ ràng từ cả bản thân sự thật và từ bản chất của
thời đại, khi mà sự đạo đức giả không hoặc ít có lợi ích nào có thể đạt được.
Hơn nữa, Xenophon, như đã thấy rõ trong Memorabilia của ông, là một người “dị
giáo” vào thời của ông – một đặc điểm không bao giờ tìm thấy ở một tín đồ chính
trị, vì những cá nhân như vậy tuân theo những gì chính thống hơn là thách thức
nó. Theo cùng lý lẽ đó, tôi cho rằng Newton, Locke, Clarke và những người khác,
mặc dù là những người theo quan điểm của Arian hoặc Socinian, nhưng hoàn toàn
chân thành trong những tín điều mà họ tuyên xưng. Những người trước, theo Arius
(khoảng năm 256–336), cho rằng Chúa Jesus Christ là một đấng được tạo ra, khác
biệt và phụ thuộc vào Gót Cha, thay vì đồng thời hiện hữu với Gót Cha,. Những
người sau, theo truyền thống của Fausto Sozzini (1539–1604), đã hoàn toàn bác
bỏ thần tính của Chúa Kitô, coi ngài là một người thày truyền cảm hứng chứ không
phải là một đấng thiêng liêng, và phủ nhận những học thuyết như tội tổ tiên, và
sự chuộc tội. Đối với những người hoài nghi hoặc những người tự do tư tưởng cho
rằng những nhà triết học này là không thể chân thành trong những tin tưởng của
họ và chỉ đạo đức giả. , tôi luôn đưa ra lập luận này như một phản biện. ]
Hume dùng những thực hành mê tín của Xenophon để minh họa những mâu thuẫn cố hữu trong những tin tưởng
của con người, đặc biệt liên quan đến tôn giáo. Mặc dù là học trò của Socrates lý trí, Xenophon thường xuyên tham
khảo những nhà tiên tri, giải thích những giấc mơ và thực hiện những nghi lễ hiến tế, phản ảnh những mê tín ăn sâu
trong thời ông. Hume lập luận rằng đây không phải là đạo
đức giả nhưng đúng hơn là
một thí dụ về sự cả
tin tôn giáo lan rộng mà ngay cả những người trí thức cũng không thể thoát
khỏi. Bằng đối chiếu Xenophon với những nhà tư tưởng như Newton, Locke và
Clarke, những người duy trì tin tưởng tôn giáo chân thành nhưng phi lý, Hume
phê phán sự căng thẳng giữa lý trí và tôn giáo. Ông cho rằng, ngay cả trong số
những não thức duy lý nhất, mê
tín vẫn là một ảnh hưởng thấm nhiễm lan rộng, cho thấy những giới hạn của lý trí trong việc vượt qua những
truyền thống văn hóa và tôn giáo.
[57]
[N 12. 24n79, Bea 75 Pro Cluentio, Cap. 61. ]
[58]
[N 12. 24n80, Bea 75 De bello Catilin ]
[59]
[N 12. 24n81, Bea 75
Cicero
(Tusc. Quæst. ) Lib. i. Cap. 5, 6. và Seneca (Epist. 24), cũng
như Juvenal (Satyr. 2. ), chủ
trương rằng không có đứa trẻ hay bà già nào lố
bịch đến mức tin vào những giải
thích của những nhà thơ về một thế giới bên kia, hay về một trạng thái tồn tại
sau khi chết). Vậy thì tại sao Lucretius lại đề cao chủ nhân của mình vì đã giải thoát
chúng ta khỏi những kinh hoàng này? Có lẽ tính chất chung của loài người khi đó
đều nằm trong tính cách của Cephalus trong Plato (de Rep. lib. i. ), người khi còn trẻ và khỏe mạnh đã
có thể chế nhạo những câu chuyện này; nhưng ngay khi ông già yếu và bệnh tật, ông bắt đầu nuôi
dưỡng lo sợ về tính xác thực của chúng. Chúng ta có thể thấy điều này không
phải là bất thường ngay cả trong
ngày nay. ]
[60]
Nymphs: Hồn sinh vật trong thiên
nhiên, thường được mô tả là những thiếu nữ xinh đẹp bị trói vào rừng, sông hoặc
núi. Fauns: Những sinh vật rừng Rôma, một phần là người và dê, vui tươi
và gắn bó với thiên nhiên. Satyrs: Những tương đương của fauns trong tiếng
Hy Lạp, hoang dã hơn và thường
đưcoj cho là những tín đồ của Dionysus.
[61]
[N 12. 25n82, Bea 75 82. ext. Empir. advers. Mathem. lib. viii. ]