Thursday, January 30, 2025

Hume – Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo (03)

Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo

(The Natural History of Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )



 



Tiết. VIII.

Trào Lưu Thay Đổi Của Tin Nhiều Gót Và Tin Một Gót

 

N 8. 1, Bea 58

Điều đáng chú ý, rằng những nguyên lý của tôn giáo có một loại trào lưu của thay đổi lên xuống trong não thức con người, và rằng con người có một khuynh hướng tự nhiên từ tín ngưỡng sùng bái thờ linh tượng vươn lên những ý tưởng tin chỉ một Gót, rồi lại chìm xuống từ tin chỉ một Gót đến thờ linh tượng. Giới bình dân ít học, thực ra, nghĩa là tất cả loài người, ngoại trừ một số ít, ngu muội và không được hướng dẫn, không bao giờ nâng chiêm nghiệm của họ hướng lên vòm trời cao. Họ cũng không dự vào việc tìm hiểu sâu xa cấu trúc bí ẩn của thực vật hoặc động vật, trong phạm vi khiến họ có thể nhận ra sự là-có của một trí tuệ tối cao hoặc một quyền năng thần thánh, ban phát trật tự cho mọi phần của tự nhiên. Họ xem xét những công trình đáng ngưỡng phục này trong một cái nhìn hạn hẹp và cá nhân hơn; thấy rằng hạnh phúc và đau khổ của họ phụ thuộc vào ảnh hưởng bí mật, và sự đồng thuận không lường trước của những đối tượng bên ngoài, họ xem xét, với liên tục chú ý, những nguyên nhân chưa biết, chi phối tất cả những sự kiện tự nhiên này, và phân phối hạnh phúc và đau khổ, may mắn và bất hạnh, qua sự hoạt động mạnh mẽ nhưng thầm lặng của chúng. Những nguyên nhân chưa biết này vẫn được gọi đến để được giải thích hay hỗ trợ mỗi lần xuất hiện; và trong diện mạo tổng quát hay hình ảnh mờ mịt này, là những đối tượng vĩnh cửu của hy vọng và sợ hãi, của mong muốn và lo lắng của con người. Dần dần, trí tưởng tượng tích cực của con người, không thoải mái với khái niệm trừu tượng này về những đối tượng, vốn luôn được dùng liên tục, bắt đầu biến chúng thành cụ thể hơn và khoác lên chúng những hình dạng phù hợp hơn với khả năng hiểu biết tự nhiên của nó. Nó tượng trưng cho họ là những sinh vật hữu hình cảm giác được, thông minh, giống như loài người; được thương yêu và thù hận khởi động, và mềm dẻo thuyết phục bằng những tặng vật và những cầu khẩn, bởi những khấn nguyện và hiến tế hy sinh. Do đó có nguồn gốc của tôn giáo: Và thế đó, có nguồn gốc của thờ linh tượng hay tôn giáo tin nhiều gót.

 

N 8. 2, Bea 58-9

Nhưng cùng một quan tâm lo lắng về hạnh phúc, vốn sinh ra ý tưởng của những quyền năng thông minh vô hình này, không để cho loài người ở lại lâu trong khái niệm đơn giản đầu tiên về chúng; như những sinh vật quyền năng nhưng giới hạn; là những chủ nhân của định mênh con người, nhưng lại những nô lệ của số phận và tiến trình của tự nhiên. Những tán thưởng phóng đại và những ngưỡng phục của con người vẫn thổi phồng ý tưởng của họ lên chúng; và nâng những vị thần của họ đến những giới hạn tột cùng của toàn hảo, sau cùng sinh ra những thuộc tính của hợp nhất vô hạn, giản dị và tinh thần. Những ý tưởng tinh tế như vậy, có phần không cân xứng với sự hiểu biết tầm thường, không ở lại lâu trong dạng thuần khiết ban đầu của chúng; nhưng đòi hỏi phải được hỗ trợ bởi khái niệm của những nhân vật trung gian hoặc tác nhân phụ thuộc, những gì đứng giữa giữa loài người và vị thần tối cao của họ. Những vị thần-một nửa, hay những sinh vật trung gian này, trông giống con người và dễ gần gũi hơn với mọi người, trở thành đối tượng chính của sự tôn sùng, và dần dần dẫn mang trở lại sự sùng bái thờ linh tượng, vốn trước đây đã bị xóa bỏ bởi những cầu nguyện và những tán tụng nồn nhiệt của những cá nhân sợ hãi và tuyệt vọng cho một vị thần tối cao. Nhưng khi những tín ngưỡng sùng bái linh tượng này ngày càng rơi vào những khái niệm thô thiển và thông tục hơn, cuối cùng chúng tự hủy hoại, và bằng những biểu hiện thấp hèn, vốn chúng tạo ra của những thần linh của chúng, khiến trào lưu quay trở lại với ý tưởng tin chỉ một Gót. Nhưng trong cách mạng luân phiên này của tình cảm con người, khuynh hướng quay trở lại với thờ linh tượng là rất lớn, đến nỗi biện pháp phòng ngừa tối đa không thể ngăn chặn hiệu quả. được . Và về điều này, một số người theo tôn giáo Tin một gót, đặc biệt là người Jew người Muslim, đã sáng suốt; như thể hiện qua việc họ xóa bỏ mọi nghệ thuật tạc tượng và hội họa, và không cho phép những hình ảnh, ngay cả hình người, được mô phỏng bằng đá cẩm thạch hoặc màu sắc; nếu không, tinh thần nhu nhược chung của loài người sẽ dẫn đến sùng bái linh tượng. Sự hiểu biết yếu hèn của con người không thể thỏa mãn được với hình dung vị thần của họ như một tinh thần thuần khiết và thông minh toàn hảo; nhưng khiếp hãi tự nhiên của họ ngăn cản họ gán cho vị thần một bóng mờ tối thiểu của giới hạn và không toàn hảo nào. Họ dao động giữa những tình cảm đối lập này. Cùng một yếu đuối vẫn kéo họ xuống, từ một thần linh toàn năng và tinh thần, thành một thần linh hữu hạn và hữu hình, và từ một thần linh hữu hình và hữu hạn thành một bức tượng hoặc hình ảnh hữu hình. Cùng một cố gắng nâng cao vẫn đẩy họ lên cao, từ bức tượng hoặc hình ảnh vật chất đến sức mạnh vô hình; và từ sức mạnh vô hình đến một thần linh vô cùng toàn hảo, đấng sáng tạo và chủ tể của vũ trụ.

 

Tiết. IX.

So Sánh Những Tôn Giáo Này, Về Sự Đàn Áp Và Sự Khoan Dung.

 

N 9. 1, Bea 60-1

Tôn giáo tin-nhiều-gót hay tín ngưỡng thờ hình tượng, hoàn toàn dựa trên những truyền thống thường tục, dễ gặp phải sự bất tiện lớn này, rằng bất kỳ tập tục hay quan điểm nào, bất kể tàn ác hay đồi bại đến đâu, đều có thể được chấp nhận như một phần của truyền thống, và tạo ra cơ hội lớn cho sự lừa dối lợi dụng lòng cả tin, cuối cùng đẩy đạo đức và nhân tính ra khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Điều này cho phép những cá nhân gian dối lợi dụng sự cả tin của mọi người, cuối cùng loại bỏ đạo đức và lòng trắc ẩn khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Đồng thời, tín ngưỡng thờ linh tượng có lợi thế rõ ràng này, bằng cách giới hạn quyền năng và chức năng của những vị thần, nó tự nhiên nhìn nhận những thần linh của những giáo phái và quốc gia khác cùngthần thánh, đồng thời tôn vinh tất cả những thần linh khác nhau. như những nghi thức, nghi lễ hay truyền thống tương đồng với nhau [1] . Tôn giáo Tin một gót trái ngược cả về ưu điểm và nhược điểm. Vì hệ thống đó giả định rằng chỉ có một vị thần duy nhất, sự toàn hảo của lý trí và tốt lành, nên nếu được tiến hành chính đáng, nó sẽ loại bỏ mọi sự vật việc phù phiếm, phi lý hoặc vô nhân đạo khỏi sự thờ cúng tôn giáo, và đặt trước mặt con người tấm gương sáng chói nhất, cũng như động cơ chỉ huy nhất, về công lý và nhân đạo. Những lợi thế to lớn này thực sự không cân bằng (vì điều đó thì không thể), nhưng phần nào bị giảm đi, bởi những bất tiện, phát sinh từ những tệ nạn và định kiến ​​của loài người. Trong khi một đối tượng duy nhất của lòng sùng kính được nhìn nhận, thì việc thờ phụng những vị thần khác được nhìn như phi lý và vô đạo đức. Không, sự thống nhất về đối tượng này dường như tự nhiên đòi hỏi sự thống nhất giữa tin tưởng tôn giáo và những nghi lễ, và cung cấp cho những người thiết kế một cái cớ để coi kẻ thù của họ là phàm tục, và là đối tượng của sự trả thù của cả thần thánh lẫn con người. Vì mỗi giáo phái đều khẳng định rằng tin tưởng tôn giáo và sự thờ cúng của họ hoàn toàn được những thần linh chấp nhận, và vì không ai có thể hình dung rằng cùng một thầnlại hài lòng với với những nghi thức và nguyên lý khác biệt và đối lập; những giáo phái khác nhau tự nhiên rơi vào tình trạng thù địch, và cùng nhau trút lên nhau lòng nhiệt thành và sự căm ghét thiêng liêng, là tình cảm dữ dội và không thể xoa dịu nhất của con người.

 

N 9. 2, Bea 61

Tinh thần khoan dung của những người thờ linh tượng, cả thời cổ lẫn thời nay, rất rõ ràng với bất kỳ ai, những người dù ít thông thạo những tác phẩm của những sử gia hay những nhà du hành. Khi tiên tri [2] của đền Delphi được hỏi, nghi thức hay thờ phụng nào được những thần linh chấp nhận nhất? Những gì đã được thiết lập hợp pháp trong mỗi thành phố, tiên tri trả lời [3]. Dường như ngay cả những giáo sĩ, trong những thời đại đó, cũng có thể ban ơn cứu rỗi [4] cho những người thuộc một cộng đồng tôn giáo khác. Người Rôma thường chấp nhận và kết hợp những thần linh vốn họ đã chinh phục tôn thờ; và không bao giờ tranh luận về và không bao giờ đặt câu hỏi về quyền năng hay phẩm chất của những vị thần địa phương và quốc gia này, đặc biệt là khi họ sống ở những vùng lãnh thổ nơi những vị thần đó được tôn kính. Những chiến tranh tôn giáo và đàn áp giữa những người thờ linh tượng Egypt thực sự là một ngoại lệ với quy tắc chung về sự khoan dung được thấy trong những tôn giáo tin nhiều gót thời cổ. Những tác giả thời cổ giải thích ngoại lệ này bằng những lý do độc đáo và đáng chú ý. Ở Egypt, những giáo phái khác nhau tôn thờ những loài động vật khác nhau như những vị thần của họ – chẳng hạn như chó, mèo hoặc sói. Vì những vị thần động vật này được cho là luôn xung đột với nhau, nên những người theo họ cũng bị cuốn vào những tranh chấp và thù địch [5] . Nhưng ở nơi nào lý do đó không xảy ra. Sự mê tín của người Egypt đã không quá không quá mâu thuẫn như người ta thường tưởng tượng, vì chúng ta biết từ Herodotus [6] rằng Amasis đã đóng góp rất lớn để xây dựng lại đền Delphi.

 

N 9. 3, Bea 61

Sự không khoan dung của hầu hết những tôn giáo, vốn nó duy trì sự thống nhất của Gót, thì cũng đáng chú ý như nguyên lý trái ngược của những người theo tôn giáo tin nhiều gót. Tinh thần hẹp hòi không nhượng bộ của người Jew được nhiều người biết đến. Muslim bắt đầu với những nguyên lý lại còn đẫm máu hơn và cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục tuyên bố sự nguyền rủa – mặc dù không thực thi bằng lửa và hành quyết – với tất cả những giáo phái khác. Và nếu, trong số những người theo đạo Kitô, người Anh người Netherlands đã chấp nhận những nguyên lý của khoan dung, trường hợp hiếm hoi và độc nhất này bắt nguồn từ quyết tâm vững chắc. của chính quyền dân sự, tích cực phản đối những nỗ lực dai dẳng của những giáo sĩ và những người cuồng tín.

 

N 9. 4, Bea 61

Những học trò của Zoroaster đã đóng mọi cửa thiên đường với tất cả, trừ những giáo sĩ Magi (của họ) [7]. Không gì có thể cản trở tiến trình những chinh phục của người Persia, hơn là sự nhiệt thành cuồng nhiệt của quốc gia này với những đền thờ và những hình tượng của người Hellas. Và sau khi đế quốc Persia đó sụp đổ, chúng ta thấy Alexander, như một người tin nhiều gót, ngay lập tức thiết lập lại những thờ cúng của dân chúng Babylon, vốn những vua chúa cai trị trước đây của họ, như những người tin chỉ một Gót, đã cẩn thận bãi bỏ  [8]  47. Ngay cả sự gắn bó và hết lòng của người chinh phục đó với sự mê tín của Hellas cũng đã không ngăn trở chính ông, người đã hiến tế theo như những nghi thức và lễ lạc của người Babylon [9]

 

N 9,5, Bea 62

Thuyết tin-nhiều-gót hòa đồng đến mức sự khốc liệt và ác cảm tột độ mà nó gặp phải ở một tôn giáo đối lập khó có thể khiến nó ghê tởm và giữ khoảng cách với nó. Augustus hết sức ca ngợi sự dè dặt của cháu trai ông, Caius Cæsar, khi hoàng tử này, đi ngang qua Jerusalem đã quyết định không dừng lại tham dự vào những hoạt động hiến tế theo luật Jew ở địa phương. Nhưng vì lý do gì khiến Augustus lại tán thành hành vi này đến vậy? Chỉ vì tôn giáo đó đó dưới mắt nhìn của những người không tôn giáo là hèn hạ và man rợ. [10]

 

N 9. 6, Bea 62

Tôi có thể mạo muội khẳng định rằng, ít có sự thoái hóa nào của sùng bái linh tượng và tin nhiều gót lại có hại cho xã hội hơn sự thoái hóa này của tôn giáo tin một gót [11] , khi được đưa lên đến đỉnh cao nhất. Những tục lệ hiến tế, giết người để dâng cúng thần thánh của dân Carthage, dân Mexico và những quốc gia được gọi là man rợ khác[12],  mặc dù rất kinh hoàng, nhưng hầu như không vượt quá được sự tàn ác và bạo lực cực đoan của những tòa án dị giáo do hội nhà thờ Catô thành lập và những đàn áp tôn giáo thực hiện ở Rome và Madrid. Hơn nữa, dù lượng máu đổ trong trường hợp trước có thể không nhiều bằng trong trường hợp sau; nhưng vẫn có một khác biệt quan trọng khác: những nạn nhân, chọn bằng rút thăm hay qua những dấu hiệu bên ngoài, cái chết của họ không gây rối loạn xã hội ở cùng mức độ tương tự. Ngược lại, những tòa án dị giáo đặc biệt nhắm vào những cá nhân có đức hạnh, hiểu biết và yêu tự do – những phẩm chất thiết yếu cho sự phát triển của xã hội. Khi những phẩm chất này bị phá hủy, xã hội sẽ chìm trong ngu tối, tham nhũng và áp bức đáng hổ thẹn. Sự hành quyết bất hợp pháp ngay cả chỉ một cá nhân trong những áp bức tôn giáo được thể chế hóa như vậy còn gây tổn hại hơn nhiều so với cái chết của hàng ngàn người do bệnh dịch, nạn đói hoặc bất kỳ tai họa nào khác.

 

N 9. 7, Bea 62

Trong đền thờ Diana Aricia gần Rome, bất cứ ai sát hại vị giáo sĩ hiện tại đều có quyền được phong làm người kế vị một cách hợp pháp [13]. Một thể chế rất kỳ lạ! Bởi vì, mặc dù những mê tín phổ biến thường đối xử man rợ và đẫm máu với những giáo đồ, nhưng chúng thường có lợi cho thánh đoàn” (hệ thống những giáo sĩ). [14]

 

Tiết X.

Về can đảm hay sự tự hạ mình.

 

N 10. 1, Bea 63

Từ sự so sánh giữa tôn giáo Tin một gót và tín ngưỡng thờ linh tượng, chúng ta có thể hình thành một số quan sát khác, vốn chúng cũng sẽ xác nhận quan sát phổ biến, rằng sự băng hoại của những tốt đẹp nhất sẽ dẫn đến những tệ hại nhất.

 

N 10. 2, Bea 63

Khi vị thần được mô tả như vô cùng siêu việt so với loài người, thì tin tưởng này, mặc dù hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng khi kết hợp với sự kinh hoàng khiếp hãi đến từ mê tín về sự trừng phạt của thần linh, để bị dìm não thức con người, xuống sự khuất phục và tự hạ mình thấp hèn nhất, và để trình bày những đức hạnh giáo sĩ của sự hành xác, ăn năn, khiêm tốn và chịu đựng đau đớn như những phẩm chất duy nhất có thể được vị thần chấp nhận. Nhưng khi những vị thần được coi là chỉ cao hơn loài người một chút, và nhiều người trong số họ đã tiến lên từ cấp dưới đó, thì chúng ta cảm thấy thoải mái hơn khi liên hệ giao tiếp (khấn nguyện, dâng lễ vật) với họ, và ngay cả có thể, không hề thiếu tôn trọng, hay báng bổ, đôi khi có thể khao khát ganh đua và noi gương họ. Do đó, hoạt động, tinh thần, dũng cảm, độ lượng, yêu tự do và những đức tính vốn làm một dân tộc lớn dậy.

 

N 10. 3, Bea 63

Những anh hùng trong những ngoại giáo [15] , tương ứng chính xác với những vị thánh trong những đạo Kivà Islam. Những vai trò do Hercules, Theseus, Hector và Romulus từng đảm nhiệm, giờ đây được Dominic, Francis, Anthony và Benedict đảm nhiệm. Thay vì tiêu diệt quái vật, lật đổ bạo chúa và bảo vệ quê hương như từng được ca ngợi; nay đã thay thế bằng những tự roi vọt và nhịn ăn uống (tự gây đau khổ cho tự thân nhân danh đạo đức), hèn nhát và khiêm nhường (quá nhu mì đến không hành động), phục tùng tuyệt đối và nô lệ vâng lời (mù quáng đầu hàng thẩm quyền, bất kể bất công đến mức nào), đã trở thành những phương tiện hầu nhận được vinh dự thiêng liêng trên trời cao trong thế giới loài người. [16]

 

N 10. 4, Bea 63

Một kích động lớn với Alexander ngoan đạo trong những viễn chinh hiếu chiến của ông là sự ganh đua của ông với Hercules và Bacchus, những người mà ông chính đáng khẳng định rằng đã vượt qua [17]. Brasidas, con người Spartan hào phóng và cao quý, sau khi ngã xuống trong trận chiến, đã được cư dân Amphipolis, những người ông đã bảo vệ, trao tặng những danh dự anh hùng [18]. Và nói tổng quát, tất cả những người sáng lập những quốc gia và thuộc địa trong số người Hellas đều được những người gặt hái được lợi ích từ công lao của họ, nâng họ lên hàng ngũ thần thánh thấp nhỏ hơn này.

 

N 10. 5, Bea 63-4

Điều này đưa đến nhận xét của Machiavel [19], rằng những giảng dạy của những tôn giáo Ki(có nghĩa là đạo Catô ; vì ông không biết giảng dạy nào khác) chỉ khuyến khích sự chịu đựng đau khổ hoặc bất công nhuwng không chống cự, đã chế ngự tinh thần của loài người và khiến họ thích nghi với tâmnô lệ và phục tùng. Một nhận xét chắc chắn sẽ chính xác nếu không có nhiều yếu tố khác trong xã hội loài người ảnh hưởng và định hình bản chất và đặc điểm của một tôn giáo.

 

N 10. 6, Bea 64

Brasidas đã từng bắt được một con chuột, và khi nó cắn ông, ông thả nó ra. “Không có gì nhỏ bé hay tầm thường đến thế”, ông nói, “nhưng điều gì nó có thể có, để được an toàn, néu không là sự can đảm để tự vệ [20]. Bellarmine kiên nhẫn và khiêm tốn đã để cho lũ bọ chét và những sâu bọ đáng ghét khác cắn ông. Ông nói, chúng ta sẽ có thiên đường để thưởng chúng ta những đau khổ của chúng ta: Nhưng những sinh vật tội nghiệp này chẳng có gì ngoài sự vui hưởng cuộc sống hiện tại. [21] Có sự khác biệt như vậy giữa những châm ngôn của một anh hùng Hellas và một vị thánh chiên Catô. [22]

 

Tiết XI.

Về hợphay phi lý.

 

N 11. 1, Bea 65

Đây là một quan sát khác có cùng mục đích và là một bằng chứng mới cho thấy rằng sự băng hoại của những đức tính hoặc nguyên lý cao nhất dẫn đến những kết quả tồi tệ nhất. Nếu chúng ta xem xét, không thành kiến, thần thoại của người ngoại giáo cổ xưa, như được những nhà thơ trình bày, chúng ta có thể thấy nó ít phi lý hơn nhiều so với những gì chúng ta đã tưởng ban đầu. Đâu là khó khăn trong việc hình dung rằng những sức mạnh hay nguyên lý giống nhau, bất kể chúng là gì, đã hình thành nên thế giới hữu hình này, con người và động vật, cũng đã tạo ra một loài sinh vật thông minh, có bản chất tinh tế hơn và quyền năng lớn hơn những loài còn lại? Việc những sinh vật này có thể thể hiện khuynh hướng thất thường, trả thù, tình cảm và ngay cả dâm đãng là điều dễ dàng hình dung được; cũng như không có hoàn cảnh nào trong chúng ta dễ gây ra những tệ nạn như vậy, hơn là sự cho phép của quyền năng tuyệt đối. Và tóm lại, toàn bộ hệ thống thần thoại thì rất tự nhiên, đến nỗi, trong vô số hành tinh và những thế giới trong vũ trụ này, dường như rất có thể xảy ra rằng, ở đâu đó, nơi này hay nơi khác, một hệ thống như vậy có thể được hiện thực hóa.

 

N 11. 2, Bea 65

Phản đối chính đối với nó liên quan đến hành tinh này, nó không được bất kỳ lý do hay thẩm quyền chính đáng nào xác quyết. Truyền thống cổ xưa, được những giáo sĩ và nhà gót học ngoại giáo nhấn mạnh, chỉ là nền tảng yếu; và cũng đã truyền tải một số lượng lớn những tường thuật trái ngược nhau, tất cả chúng, đều được những thẩm quyền ngang nhau hỗ trợ,, đến mức đã thành hoàn toàn không thể thiết lập bất kỳ được một ưu tiên rõ ràng nào giữa chúng.

Do đó, toàn bộ tài liệu tranh luận ngoại giáo sẽ chỉ chiếm một vài tập sách, phản ảnh mức độ ít ỏi vốn những tranh luận gót học của họ thực sự có. Tôn giáo của họ dường như bắt nguồn nhiều hơn từ những câu chuyện được truyền lại và những thực hành mê tín hơn là luận chứng và tranh luận triết học.

 

N 11. 3, Bea 65-6

Nhưng khi tư tưởng tin vào chỉ một gót đóng vai trò là nguyên lý cơ bản của bất kỳ tôn giáo phổ biến nào, nó liên kết chặt chẽ với lý trí khiến triết học tự nhiên thấy nó hòa nhập với một hệ thống gót học như vậy. Và nếu những giáo điều khác của hệ thống đó chứa đựng trong một quyển sách thiêng, như kinh Qur'an, hay được một thẩm quyền hữu hình thực thi, như vua chiên Rôma, thì những nhà tư tưởng tôn giáo có khuynh hướng tiếp tục sự đồng tình của họ và chấp nhận những tin tưởng này, đã định hình tbởi ảnh hưởng của giáo dục ban đầu của họ, vốnthường củng cố tính nhất quán và mạch lạc được nhìn thấy của hệ thống. Nhưng vì những vẻ ngoài này chắc chắn là tất cả đều nhằm mục đích lừa dối, nên triết học sẽ sớm thấy mình rất không cân xứng với người cộng sự mới của mình; và thay vì điều chỉnh từng nguyên lý, khi chúng cùng nhau tiến triển, nó bị bóp méo ở mọi ngã rẽ để phục vụ cho mục đích mê tín. Vì bên cạnh những mâu thuẫn không thể tránh khỏi cần phải dung hòa, điều chỉnh; người ta có thể khẳng định một cách an toàn rằng tất cả gót học phổ thông, đặc biệt là gót học kinh viện, có một loại thèm muốn với phi lý và mâu thuẫn. Nếu gót học đó chỉ giới hạn trong lý trí và kiến thức thực tiễn thông thường, những học thuyết của nó sẽ có vẻ quá dễ dãi và tầm thường. Sự kính sợ phải được nuôi dưỡng, sự bí ẩn phải được chấp nhận, và sự mơ hồ phải được tìm kiếm, để những người sùng đạo có thể tìm thấy công đức trong việc chế ngự lý trí nổi loạn bằng tin tưởng vào những ngụy biện khó hiểu nhất

 

N 11. 4, Bea 66

Lịch sử của hội nhà thờ Ki cung cấp nhiều bằng chứng ủng hộ những suy ngẫm này. Bất cứ khi nào xảy ra tranh luận gót học, luôn có những người tự tin tuyên bố – hoặc giả vờ tuyên bố – rằng họ chắc chắn có thể thấy trước kết quả. Họ khẳng định rằng bất kỳ ý kiến ​​nào trái ngược nhất với kiến thức thực tiễn thông thường đều sẽ thắng thế, ngay cả khi lợi ích rộng lớn hơn của hệ thống không đòi hỏi một kết luận như vậy. Mặc dù đôi khi sự chỉ trích của tà giáo có thể được đưa ra giữa những người tranh chấp, tuy nhiên, cuối cùng, nhãn hiệu tà giáo luôn luôn nằm bên phía của lý trí. Bất kỳ ai, người ta cho là, chỉ cần học đủ về loại này là có thể biết được định nghĩa của những thuật ngữ như Arian, Pelagian, Erestian, Socinian, Sabellian, Eutychian, Nestorian, Monothelite, vv. . chưa kể những người theo đạo Phản thệ, vốntương lai và cuối cùng vẫn chưa chắc chắn vào thời điểm này, sẽ bị thuyết phục về tính xác thực của nhận xét này. Theo thời gian, những hệ thống bắt đầu từ nền tảng lý trí và triết học thường phát triển thành một gì đó phi lý hơn, vì lý luận ban đầu của chúng ngày càng bị bóp méo. [23]

 

N 11. 5, Bea 66

Chống lại dòng tháccủa tôn giáo kinh viện bằng những chân lý đơn giản logich như thế này, rằng không thể có cùng một thứ, vừa tồn tại vừa không tồn tại, rằng toàn thể lớn hơn một phần, rằng hai với ba là năm; cũng giống như cố gắng chặn đại dương bằng một cây sậy mỏng manh. Bạn có thực sự sẽ thách thức sự huyền bí thiêng liêng chỉ bằng lý trí thường tục không? Không có hình phạt nào đủ lớn cho sự vô đạo bất kính của bạn. Cùng những ngọn lửa đã từng thiêu rụi những kẻ dị giáo sẽ dùng để hủy diệt những triết gia.

 

Tiết XII.

Về sự hoài nghi hay sự xác quyết

 

N 12. 1, Bea 67

Hàng ngày, chúng ta gặp những người hoài nghi về lịch sử đến mức họ tuyên bố rằng không một dân tộc nào từng tin vào sự phi lý của những dân ngoại giáo Hellas hay Egypt. Tuy nhiên, đồng thời, những người này lại quá giáo điều về tôn giáo của chính họ đến mức họ tin rằng những điều phi lý như vậy chỉ có ở những tôn giáo khác, chứ không bao giờ có ở tôn giáo của họ. Cambyses, một vị vua Persia, cũng có những định kiến ​​như vậy. Ông chế giễu và ngay cả làm con bò Apis bị thương, hiện thân sống của một vị thần vĩ đại của Egypt. Thái độ bất kính và phạm thánh của ông – không thấy được ý nghĩa tôn giáo dân tộc Egypt đã dành cho con bò – khiến ông công khai khinh thường vị thần của họ. Nhưng Herodotus đã sáng suốt quy tình cảm miệt thị này cho chứng điên rồ thực sự hay rối loạn tâm thần của ông vua nói trên; nếu không, nhà sử học lập luận, rằng ông sẽ không bao giờ công khai xúc phạm bất kỳ sự tôn thờ nào được tín ngưỡng thiết lập. Bởi vì, như Herodotus nói tiếp, mọi dân tộc đều cảm thấy hài lòng nhất với tôn giáo của riêng họ, và tin rằng tôn giáo của họ vượt trội tất cả những tôn giáo khác. [24]

 

N 12. 2, Bea 67

Phải nhìn nhận rằng đạo Catô Rôma là một giáo phái rất uyên bác và rằng không một hội nhà thờ nào, trừ hội nhà thờ nước Anh, có thể không đồng ý với tư thế học thức nhất trong tất cả những nhà thờ Đạo Kitô. Tuy nhiên, Averroes, triết gia Ả Rập nổi tiếng, người có thể biết về những mê tín của người Egypt, đã mạnh dạn tuyên bố rằng trong tất cả những tôn giáo, phi lý và vô nghĩa nhất là tôn giáo mà những người theo đạo ăn thịt chính vị gót của họ sau khi đã tạo ra vị gót đó.

 

N 12. 3, Bea 67

Học thuyết này, gọi là “sự hiện diện thực sự”, khẳng định rằng trong thực hiện Bí tích Thánh Thể, bánh và rượu được dùng trong Tiệc Thánh Thể được biến đổi thành thân thể và máu thực sự của Chúa Kitô, mặc dù chúng vẫn giữ nguyên hình dạng bên ngoài của bánh và rượu. Thật vậy, tôi tin rằng không có tin tưởng nào trong học thuyết ngoại giáo lại có thể đem cho một cơ hội chế giễu lớn hơn thế này. Nó trái ngược với lý trí quá sức, đến mức nó khéo léo xoay xở thoát khỏi mọi lập luận logich. Ngay cả còn có những câu chuyện khôi hài về nó, một số trong số đó, mặc dù thiếu tôn kính, thường được chính những người đạo Catô kể lại. Một câu chuyện loại như vậy là về một thày chăn chiên, người đã vô tình trao một đồng xu thay vì bí tích trong thánh lễ, một đồng xu đã ngẫu nhiên rơi vào giữa những bánh thánh. Người rước lễ kiên nhẫn chờ đồng xu tan trên lưỡi, nhưng khi nó không, người này lấy nó ra khỏi miệng và nói, “Con hy vọng, thưa Cha, Cha không phạm một sai lầm. Con hy vọng Cha không ban Chúa Cha cho con – Ngài thì cứng quá và rắn quá, đến mức con không thể nuốt nổi Ngài!”.

 

N 12. 4, Bea 67-8

Một vị tướng nổi tiếng, khi đó đang phục vụ cho người Nga, một lần đã đến Paris để dưỡng thương, chờ hồi phục, đã mang theo với ông một thanh niên người Turkey người đã bị ông bắt làm tù binh. Một số bác sĩ của Sorbonne – những người cũng tích cực tự tin về tôn giáo như những giáo sĩ Islam của Constantinople – cho rằng thật bất hạnh khi người Turkey tội nghiệp này, vì thiếu hướng dẫn thích hợp, sẽ phải chịu tội đày hỏa ngục vĩnh viễn. Cảm thương, họ bắt tay vào hành động, thúc đẩy Mustapha theo đạo Kitô, dụ dỗ với những hứa hẹn tràn đầy rượu ngọt trong thế giới này và thiên đường trong thế giới sau. Những dẫn dụ này tỏ ra không thể cưỡng lại được, và sau khi được hướng dẫn và học giáo lý kỹ lưỡng, cuối cùng thanh niên người Turkey này đã đồng ý tham dự những lễ bí tích rửa tội và Tiệc Thánh. Vị chăn chiên, muốn bảo đảm rằng sự cải đạo không chỉ diễn ra bên ngoài nhưng còn có căn cứ vững chắc, đã tiếp tục thuyết giảng vào ngày hôm sau, và mở đầu bằng một câu hỏi thông thường, Có bao nhiêu vị Gót ?”Không có vị nào cả”, Benedict trả lời, tên mới của thanh niên này, sau khi được rửa tội. “Cái gì!” thày chăn chiên kêu lên, sửng sốt, “Không có vị nào cả?”Ồ, đúng thế,” người thanh niên đã cải đạo trung thực đáp. “Chính cha đã nói với tôi rằng chỉ có một Gót – và hôm qua, tôi đã ăn thịt Ngài rồi”.

 

N 12. 5, Bea 68

Đó là những giáo thuyết của những người anh em chúng ta trong đạo Catô. Nhưng chúng ta đã quá quen với những giáo thuyết này, đến nỗi chúng ta không bao giờ ngạc nhiên về chúng nữa. Mặc dù trong tương lai, có lẽ sẽ rất khó để thuyết phục một số dân tộc nào đó, rằng bất kỳ con người, sinh vật-hai chân nào cũng có thể chấp nhận những tín điều như vậy. Và điều đó chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng chính những dân tộc này, cũng một gì đó đầy phi lý trong những tín điều riêng của họ, vốn họ sẽ đưa ra một sự đồng ý ngấm ngầm trọn vẹn và sùng mộ nhất.

 

N 12. 6, Bea 68

Tôi nhớ đã từng ở tại Paris trong cùng một khách sạn với vị đại sứ từ Tunis, từ văn hóa Moor – Islam và Bắc Phi. Sau nhiều năm ở London, ông đang trên đường trở về nhà qua lối nước Pháp. Một ngày nọ, tôi thấy vị đại sứ đứng dưới hiên nhà, rõ ràng là thích thú khi nhìn những cỗ xe ngựa lộng lẫy lăn bánh trên phố đông đúc. Tình cờ, một nhóm thày dòng Capuchin, những người có lẽ chưa bao giờ gặp một người Muslim mặc trang phục truyền thống của người Moor, đi ngang qua vị đại sứ đang đứng dưới hiên nhà. Đại sứ, mặc dù quen thuộc với thời trang châu Âu từ thời ở nước ngoài, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy những chiếc áo choàng kỳ lạ và có phần buồn cười của dòng Capuchin. Sự ngạc nhiên ngưỡng mộ của họ với trang phục bên ngoài của nhau là không thể diễn tả được, với vị đại sứ mỉm cười thích thú trước cảnh tượng kỳ lạ. Nếu người tuyên úy đi cùng vị đại sứ – người am hiểu về những nghi lễ tôn giáo Islam – có đi đến một tranh luận gót học với những những thày dòng Phanxicô này, sự ngạc nhiên của hai bên sẽ có cùng bản chất. Con người thường bối rối trước phong tục của những người khác, mỗi văn hóa đều không tin vào những gì xa lạ. Thế nên, toàn thể loài người đứng trố mắt nhìn nhau; và không có cách nào nhồi nhét một điều vào đầu họ, rằng chiếc khăn xếp turban của người châu Phi không đẹp cũng không xấu hơn chiếc mũ trùm đầu của giáo sĩ người châu Âu. Như hoàng tử Sallee đã từng nhận xét về đô đốc người Holland de Ruyter, “Ông ấy là một người rất trung thựcthật đáng tiếc khi ông ấy lại là một người đạo Kitô”.

 

N 12. 7, Bea 68-9

 

“Làm sao quí vị có thể thờ tỏi và hành?” chúng ta có thể tưởng tượng, giả định một nhà Sorbonne (một học giả từ Sorbonne, tượng trưng cho gót học Catô) nói với một giáo sĩ ở Sais (đại diện cho tín ngưỡng Egypt cổ đại hoặc ngoại giáo). “Nếu chúng tôi thờ chúng,” vị giáo sĩ trả lời, đồng thời “ít nhất, chúng tôi không ăn chúng”. “Nhưng mèo và khỉ là những vật linh thiêng sao? Thật là một sự sùng bái vô lý!”nhà học giả Sorbonne hỏi. “Ít nhất thì chúng cũng tốt như những thánh tích hay những xương cốt mục rữa của những vị tử đạo, đối thủ không kém học thức của ông trả lời. “Quí vị không điên sao,” người Catô nhấn mạnh, “khi cắt cổ nhau vì chuyện thích bắp cải hơn hay dưa chuột hơn?” [25] “Đúng,” người ngoại giáo (giáo sĩ ở Sais) nói, “Tôi nhin nhận điều đó, nếu ông sẽ thú nhận rằng những người đó còn điên hơn, những người tranh luận về sở thích giữa những tập sách ngụy biện, trong đó có hàng chục nghìn cuốn không có giá trị chỉ bằng một bắp cải hay dưa chuột”.[26]

 

N 12. 8, Bea 69

Mọi người đứng ngoài cuộc sẽ dễ dàng phán đoán (nhưng thật không may là rất ít những người đứng ngoài cuộc), rằng nếu không có gì đã là cần thiết để thiết lập bất kỳ hệ thống phổ thông nào, ngoài việc vạch trần những phi lý của những hệ thống khác, thì mọi tín đồ của mọi mê tín đều có thể đem cho một lý do đầy đủ cho sự gắn bó mù quáng và cố chấp của mổi người với những nguyên lý vốn họ đã được giáo dục trong chúng. Nhưng nếu không có một kiến thức sâu rộng như vậy, để dựa vào đó làm nền tảng cho sự bảo đảm này (và có lẽ, tốt hơn là không có nó), thì sẽ không thiếu một lượng lớn của nhiệt thành và tin tưởng tôn giáo trong loài người. Diodorus Siculus [27] kể lại một cách sống động về một sự việc mà ông đã tận mắt chứng kiến, một sự việc minh họa rõ nét cho lòng tôn kính của người Egypt với những loài động vật thiêng liêng của họ. Vào thời gian Egypt run rẩy khất phục dưới quyền lực bao trùm của đế quốc Rôma, một người lính Rôma, có lẽ là vô tình, đã phạm phải một hành động phạm thánh sâu xa —người này đã giết một con mèo, một loài vật được người Egypt coi là thiêng liêng. Phản ứng tức thời và dữ dội. Dân chúng tức giận đứng lên như một, cơn thịnh nộ của họ không ngừng. Ngay cả sự can thiệp của vị hoàng tử cầm quyền cũng không thể bảo vệ người lính khỏi cơn thịnh nộ của họ. Hãy đối chiếu sự việc này với thái độ của chính người Rôma với những vị thần của họ. Vào cùng thời gian đó, Thượng viện và người dân Rôma tỏ ra ít tôn kính hơn nhiều với hàng ngũ thần thánh của họ. Không chút do dự, họ chính thức nâng Augustus lên vị thế thần thánh, trao cho ông một vị trí giữa những vị thần trên trời. Horace thậm chí còn nhận xét, Presens divus habebitur Augustus—Augustus sẽ được coi là một vị thần sống. Nếu Augustus bày tỏ mong muốn, có vẻ như người Rôma sẽ sẵn sàng thay thế mọi vị thần trên thiên đàng để phù hợp với ông. Sự khác biệt rõ rệt về thái độ này rất quan trọng, làm nổi bật văn hóa tôn kính với thần thánh đã thay đổi [28] .

 

N 12. 9, Bea 70

Bất chấp sự thiêng liêng của tôn giáo thánh thiện của chúng ta, Tully [29] , nói, không có tội ác nào phổ biến hơn tội báng bổ thần thánh: Nhưng có bao giờ nghe nói rằng một người Egypt xâm phạm đền thờ của một con mèo, một con cò ibis, hoặc một con cá sấu không? Không có sự tra tấn nào mà một người Egypt sẽ không cam chịu, cùng một tác giả nói ở một nơi khác [30], thay vì làm hại một con cò ibis, một con trăn gấm aspic, một con mèo, một con chó hay một con cá sấu. Và do đó, điều đó hoàn toàn đúng, như Dryden nhận xét:

 

Bất kể nguồn gốc thần linh của họ là gì,

Vật quí hiếm, đá, hay phả hệ giản dị nào khác,

Để bảo vệ vị thần, những tín đồ của ngài cũng táo bạo,

Như thể ngài đã sinh ra từ vàng ròng .

Absolom và Achitophel

 

Không, vật liệu càng thấp kém, vốn thần thánh được tạo nên, thì vị này có thể khơi dậy sùng kính càng lớn trong những tín đồ bị lừa dối, sống với ảo tưởng, của họ. Họ hân hoan trong sự xấu hổ đê tiện của họ, và để tạo một công đức với thần linh, trong dũng cảm, vì thần linh trên hết, họ vượt qua mọi chế giễu và sỉ nhục của kẻ thù. Hàng vạn người tình nguyện đi Thập Tự Viễn chinh đã ghi tên dưới những ngọn cờ linh thiêng, và ngay cả còn công khai tự hào và ca ngợi những phương diện tin tưởng tôn giáo của họ, vốn những dân tộc khác coi là xúc phạm, phi , hổ thẹn đáng khinh miệt nhất.

 

N 12. 10, Bea 70

Tôi giả định rằng xảy ra một khó khăn trong hệ thống gót học Egypt ; quả thực, rất ít những hệ thống thuộc loại đó hoàn toàn thoát khỏi những khó khăn. Rõ ràng, từ việc sinh sản nhân lên nhanh chóng của chúng, chỉ một vài cặp mèo, trong năm mươi năm nữa, sẽ sinh sôi nảy nở đầy cả một vương quốc. Nếu chúng vẫn tiếp tục được tôn sùng như vậy, thì trong hai mươi năm nữa, tìm một vị thần ở Egypt sẽ dễ hơn tìm một con người. Vốn trường hợp Petronius nói đã xảy ra trong một số vùng của Italy; nhưng cuối cùng những thần thánh phải hoàn toàn khiến cho toàn thể loài người chịu chết đói và không còn lại bất kỳ giáohay tín đồ nào được sống sót. Do đó, rất có thể, rằng quốc gia khôn ngoan này, quốc gia nổi tiếng nhất thời cổ về chính sách thận trọng và đúng đắn, sau khi thấy trước những hậu quả nguy hiểm như vậy, đã dành toàn bộ sự tôn thờ của họ cho những thần linh-trưởng thành, và tự do dìm chết hết những thần-con hay những thần-còn-bú-sữa, không đắn đo hay hối hận mảy may nào. Và như thế, việc thực hành vặn bẻ những giáo , để phục vụ những lợi ích thế tục, hoàn toàn không thể được xem như một phát minh của những thời mãi về sau này.

 

N 12. 11, Bea 70-1

Varro uyên bác, triết lý, khi nói về tôn giáo, tự cho thấy chỉ cố gắng đưa ra những những gì xác suất có thể xảy đến và xuất hiện, nhưng không như những gì chắc chắn. Đó là ý thức thận trọng và khiêm tốn của ông! Nhưng Augustin nhiệt huyết, sôi nổi đã xúc phạm đến phẩm giá của nhà quí tộc Rôma về thái độ hoài nghi và dè dặt của ông, đồng thời tuyên bố tin tưởng và xác quyết hoàn toàn nhất [31] . Tuy nhiên, một nhà thơ ngoại giáo, cùng thời với vị thánh chiên này, bất công đánh giá hệ thống tôn giáo của vị thánh chiên này là sai lầm, đến mức ngay cả sự cả tin của trẻ em, ông nói,[32] cũng không thể khiến chúng tin vào nó [33] .

 

N 12. 12, Bea 71

Có lạ lùng không, khi những sai lầm quá phổ thông, lại thấy mỗi sai lầm đều tích cực và giáo điều? Và rằng nhiệt thành thường tăng theo tỷ lệ với sai lầm? Moverunt, Spartian nói, & ea tempestate, Judæi bellum quod vetabantur mutilare genitlalia (Người Jew vào thời đó, đã bắt đầu một chiến tranh (chỉ) vì bị cấm cắt xén bộ phận sinh dục của họ) [34] [35].

 

N 12. 13, Bea 71

Nếu đã từng có một quốc gia hay một thời đại nào, trong đó tôn giáo công cộng mất hết tất cả thẩm quyền với loài người, chúng ta có thể hợp lý dự đoán rằng sự “thiếu đức tin” ở Rome, trong thời đại Cicero, sẽ công khai dựng lên ngai vàng của nó, và tự thân Cicero, trong mọi lời nói và hành động, sẽ là người tiếp tay cho nó nhiều nhất. Nhưng có vẻ như, rằng con người vĩ đại đó có thể có những tự do hoài nghi nào đi nữa, trong những bài viết của ông hay trong trò chuyện triết học; ông vẫn tránh, trong ứng xử nơi công cộng, sự buộc tội những tin tưởng vào một vị gót xa lạ, ngoài trần gian [36] và sự báng bổ những thiêng liêng [37]. Ngay cả trong gia đình ông, và với vợ Terentia, người ông rất tin cậy, ông vẫn sẵn sàng tỏ ra là một người sùng đạo; và vẫn còn lại một lá thư ,gửi cho bà, trong đó ông thành thực mong bà làm lễ hiến tế cho Apollo Æsculapius, để tỏ lòng biết ơn vì ông sức khỏe được hồi phục  [38]. [39]

 

N 12. 14, Bea 71

Lòng sùng đạo của Pompey chân thành hơn nhiều: Trong tất cả hành vi của ông, trong suốt những nội chiến, ông đều rất coi trọng những điềm báo, những giấc mơ và những tiên tri[40]. Augustus bị nhiễm đủ loại mê tín. Cũng giống như người ta nói về nhà thơ John Milton rằng thiên tài sáng tạo của ông ít tuôn chảy hơn vào mùa xuân, Augustus cũng tin rằng những giấc mơ của ông ít sống động và ít ý nghĩa hơn vào mùa xuân, và do đó ít đáng tin cậy hơn so với những giấc mơ ông trải qua trong thời gian còn lại của năm. Vị hoàng đế vĩ đại và tài giỏi đó cũng vô cùng lo lắng nếu khi thay giày, vô tình xỏ giày phải vào chân trái.[41]. Vắn tắt, không thể nghi ngờ, rằng số những người sùng bái mê tín thời cổ đông đảo ở mọi quốc gia, cũng như số những người sùng bái tôn giáo thời nay. Ảnh hưởng của nó cũng phổ biến như vậy; mặc dù không lớn như vậy. Nhiều người đã đồng tình với nó; mặc dù sự đồng tình đó có vẻ không mạnh mẽ, chính xác và khẳng định được như vậy. [42]

 

N 12. 15, Bea 71-2

Chúng ta có thể nhận xét rằng, bất chấp bản chất giáo điều và độc đoán của mê tín, xác quyết của những cá nhân có tôn giáo, trong mọi thời, được biểu hiện bên ngoài nhiều hơn là cảm nhận thực sự sâu xa bên trong, và hiếm khi đạt đến tin tưởng vững chắc và xác quyết vốn dẫn dắt chúng ta trong mọi công việc của dời sống hàng ngày. Con người không dám thú nhận, ngay cả với chính con tim của họ, những hoài nghi vốn họ trăn trở trên những vấn đề như vậy; họ làm thành một đức tính cho sự tin tưởng mù quáng, và ngụy trang những hoài nghi thực của họ với chính họ, bằng những khẳng định mạnh mẽ nhất và sự cố chấp cứng cỏi nhất. Nhưng bản chất con người, hay sự sáng suốt vốn có của kiến thức thực tiễn thông thường và kinh nghiệm, tỏ ra quá mạnh mẽ với mọi nỗ lực này của họ. Nó không cho phép ánh sáng yếu ớt, không chắc chắn của mê tín sánh ngang với những ấn tượng rõ ràng, vững mạnh do kiến ​​thức thực tại tạo ra. Tiến trình thông thường của ứng xử con người trái ngược với những lời nói của họ, và cho thấy rằng sự đồng tình của họ trong những vấn đề này là một loại hoạt động tâmkhông thể giải thích được, nằm giữa hoài nghi và xác quyết, nhưng gần với sự hoài nghi hơn là xác quyết, chắc chắn thực sự.

 

N 12. 16, Bea 72

Do đó, vì não thức con người vó vẻ như thuộc một loại may dệt lỏng lẻo và không chắc, khiến ngay trong ngày nay, có rất nhiều người tìm một chú tâm trong việc tiếp tục dữa sắc đục sâu vào não thức, nhưng họ vẫn chưa thể khắc những tín điều gót học vào được với bất kỳ ấn tượng lâu dài nào. Sự việc này lại còn xảy ra nhiều hơn đến đâu, trong thời cổ, khi có ít hơn số chức sắc tôn giáo, giới giáo sĩ vốn tận tụy duy trì và củng cố những tín điều ? Không có gì ngạc nhiên, rằng những gì hiện ra bên ngoài khi đó không nhất quán, và trong một số trường hợp, có vẻ quả quyết như người tanhững người hoài nghi, không tin tưởng, và là những kẻ thù với tôn giáo có tổ chức đã thiết lập, ngay cả không phải vậy trong thực tại, hoặc ít nhất, với không biết được chắc chắn những tin tưởng của chính họ trong trường hợp đó.

 

N 12. 17, Bea 72-3

Một nguyên nhân khác khiến những tôn giáo cổ xưa lỏng lẻo hơn nhiều so với những tôn giáo thời nay, đó là tôn giáo cổ xưa mang tính truyền thống còn tôn giáo thời nay mang tính thánh thư; và truyền thống trong những tôn giáo trước phức tạp, mâu thuẫn và trong nhiều trường hợp, phải hoài nghi; như thế khiến không thể nào thu giảm được về bất kỳ tiêu chuẩn và giáo luật nào, hay đem lại được bất kỳ tín điều dứt khoát nào. Những câu chuyện về những vị gót đãnhiều vô kể, giống như trong những truyền thuyết dân gian; và mặc dù hầu hết mọi người đều tin vào một phần của những câu chuyện này, nhưng không ai có thể tin hay biết toàn bộ: Trong khi, đồng thời, tất cả mọi người đều phải nhìn nhận, rằng không có phần nào đứng trên một nền tảng vững chắc hơn những phần còn lại. Những truyền thống của những thành phố và quốc gia khác nhau, trong nhiều trường hợp, hoàn toàn trái ngược nhau; và không có lý do nào có thể gán được cho việc thích truyền thuyết này hơn truyền thuyết kia. Vì có vô số những câu chuyện, và truyền thống tuyệt không chắc chắn về chúng, nên đã có một sự thay đổi dần dần, gần như không thể nhận thấy từ những tin tưởng cốt lõi của tôn giáo sang những huyền thoại với hư cấu lỏng lẻo và bấp bênh đó. Do đó, tôn giáo ngoại giáo dường như biến mất như một đám mây, bất cứ khi nào người ta xem xét nó kỹ lưỡng và từng phần chi tiết. Nó không bao giờ có thể được xác định bằng bất kỳ giáo điều và nguyên lý cố định nào. Mặc dù điều này không khiến hầu hết loài người từ bỏ một tín ngưỡng phi lý như vậy, vì có bao giờ mọi người sẽ vớitrí? Thế nhưng nó khiến họ dao động và nghi ngờ tin tưởng của họ thường xuyên hơn. Ở một số cá nhân, nó thậm chí còn dẫn đến những hành vi và ý tưởng giống như sự hoài nghi hoàn toàn.

 

N 12. 18, Bea 73

Chúng ta có thể nói thêm rằng tự thân những truyện ẩn dụ của tôn giáo ngoại giáo không nặng nề, dễ hiểu và quen thuộc; không có những ma quỷ, hay những biển diêm sinh, [43] hay bất kỳ đối tượng nào có thể khiến trí tưởng tượng khiếp sợ nhiều. Ai có thể nhịn được việc mỉm cười khi nghĩ đến những yêu đương của thần Mars và thần Venus, hay những trò đùa tình ái của thần Jupiter và thần Pan? Theo cách này, tôn giáo ngoại giáo thực sự phù hợp với thơ ca, vì những huyền thoại của nó giàu tưởng tượng và biểu cảm. Tuy nhiên, bản chất vui tươi và nhẹ nhàng (“phù phiếm”) của nó có thể khiến nó ít phù hợp hơn với những loại thơ nghiêm nghị, trang trọng, nhiều chiều sâu hơn. Chúng ta thấy rằng những nhà thơ thời nay đã đưa những huyền thoại ngoại giáo vào tác phẩm của họ và đã nói về những vị thần với sự tự do và thiếu tôn kính như những người xưa đã nói —bất kể sự kiện là những người xưa coi những vị thần này là có thật, trong khi những nhà thơ hiện đại coi họ là những hư cấu.

 

N 12. 19, Bea 73

Suy luận này thì hoàn toàn không công bằng, bởi vì một hệ thống của tôn giáo không gây ấn tượng sâu xa trong những não thức con người, do đó nó phải từng bị tất cả những người có kiến thức thực tiễn thông thường tích cực bác bỏ, và rằng những nguyên lý trái ngược, bất chấp những thành kiến của giáo dục, thường đã được hình thành bằng biện luận và lý trí. Tôi không biết chắc, nhưng một suy luận ngược lại thì có thể xảy ra hơn. Càng ít thôi thúc và càng ít xuất hiện bất kỳ hình thức mê tín nào thì nó sẽ càng ít khơi dậy sự phẫn nộ của con người hay kích động họ phải thắc mắc về nền tảng và nguồn gốc của nó. Trong khi đó, rõ ràng là sự nắm giữ của xác quyết tôn giáo đối với sự hiểu biết của con người thì không ổn định và không chắc chắn, dễ bị ảnh hưởng bởi tâm trạng thay đổi và bởi những sự kiện thu hút trí tưởng tượng tại thời điểm đó. Sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ: một nhà tư tưởng cổ đại có thể công khai chuyển đổi qua lại giữa hoài nghi bất kính và mê tín trong toàn bộ một phát biểu,[44]: trong khi một nhà tư tưởng thời nay có thể nuôi dưỡng những ý tưởng tương tự nhưng thể hiện chúng một cách thận trọng và kiềm chế hơn.

 

N 12. 20, Bea 73

Lucian nói rõ ràng với chúng ta [45] rằng bất cứ ai không tin vào những câu chuyện ẩn dụ lố bịch nhất của ngoại giáo đều bị dân chúng coi là báng bổ và vô đạo. Quả thực, nhằm mục đích gì mà tác giả dí dỏm và dễ chịu như vậy lại dùng toàn bộ trí thông minh và tài châm biếm của mình để chống lại tôn giáo quốc gia [46], nếu tôn giáo đó nói chung không được những người đồng hương và những người đương thời của ông tin tưởng?

 

N 12. 21, Bea 73-4

Tương tự, Livy [47]nhìn nhận một cách thẳng thắn, giống như bất kỳ vị thần thánh nào trong hiện nay, sự hoài nghi phổ thông ở thời đại của ông; nhưng sau đó ông lên án nó một cách nghiêm khắc. Và ai có thể tưởng tượng được rằng một sự mê tín quốc gia, vốn có thể đánh lừa một con người tài tình như vậy, lại không áp đặt lên đa số dân chúng nói chung? [48]

 

N 12. 22, Bea 74

Những người trong phái Stoics [49] dành tặng nhiều danh xưng kỳ diệu và ngay cả bất kính cho nhà hiền triết của họ; tuyên bố rằng vị này thực sự giàu có (trí tuệ và đức hạnh), tự do (với những ham muốn hoặc những yếu tố bên ngoài), một vị vua (làm chủ bản thân) và ngang hàng với những vị gót. Tuy nhiên, họ đã quên nói thêm rằng nhà hiền triết này không hề kém cỏi về thận trọng và hiểu biết hơn một người bình thường, một cá nhân có thể cẩn thận và có kinh nghiệm, như một bà già. Vì chắc chắn không có gì có thể đáng khinh hơn những tình cảm vốn nhóm những nhà triết học đó duy trì với những vấn đề tôn giáo; trong khi họ nghiêm trang đồng ý với những nhà tiên tri thông thường, tin rằng nếu một con quạ đen kêu từ bên trái, thì đó là điềm tốt, nhưng nếu một con quạ đen khác loại, mỏ dài nhọn, kêu như vậy, thì đó là điềm xấu. Panætius là người duy nhất trong nhóm Stoics Hellas nghi ngờ về những điềm báo và bói toán. [50] . Marcus Antoninus [51] cho chúng ta biết, rằng tự thân ông đã nhận được nhiều báo mộng thiêng liêng trong giấc ngủ. Đúng là Epictetus [52] cấm chúng ta về phần ý nghĩa tiếng kêu của quạ thường hay quạ mỏ dài, không phải vì chúng không nói sự thật, nhưng vì chúng không tiên đoán được gì ngoài việc như chúng ta bị gãy cổ hay bị tịch thu tài sản. Những hoàn cảnh bên ngoài, theo quan điểm của ông, không nên làm chúng ta bận tâm. Thế nên, nhóm Stoics đã nối một nhiệt tình triết học với một mê tín tôn giáo. Sức mạnh vủa não thức trí tuệ của họ quay sang phía đạo đức, nhưng lại dễ dãi, để nó yếu đi về phía tôn giáo. [53]

 

N 12. 23, Bea 74

Plato [54] giới thiệu xác định của Socrates, rằng sự buộc tội của bất kính vô đạo chống lại ông đã hoàn toàn do việc ông bác bỏ những chuyện ẩn dụ loại như những chuyện kể về việc Saturn thiến cha là Uranus, và chuyện Jupiter phế truất Saturn: Tuy nhiên, trong một đàm thoại tiếp [55] , Socrates thú nhận, rằng học thuyết về hồn người không tồn tại sau khi chết đã là quan điểm được mọi người đón nhận. Có mâu thuẫn nào ở đây không? Có, chắc chắn rồi: Nhưng mâu thuẫn không nằm trong Plato; nhưng nằm trong những người có những nguyên lý tôn giáo, trong tổng quát đều luôn luôn gồm những phần bất hòa nhất; đặc biệt trong một thời, khi mê tín được chấp nhận dễ dãi, không suy nghĩ sâu xa hay xem xét kỹ lưỡng  [56].

 

N 12. 24, Bea 75

Cũng cùng một Cicero, người đã làm ra vẻ là một người sùng đạo trong gia đình, không ngần ngại, trong một phòng xử án, công khai coi học thuyết về thế giới bên kia như một câu chuyện ẩn dụ lố bịch, không ai màng chú ý đến.[57] Sallust  [58] đại diện cho Cæsar khi nói cùng một ngôn ngữ trong thượng viện Rôma  [59].

 

N 12. 25, Bea 75

Nhưng việc tất cả những tự do này không ngụ ý sự phản bội và hoài nghi toàn diện và phổ quát giữa mọi người là quá rõ ràng để có thể phủ nhận. Mặc dù một số phần của tôn giáo quốc gia vẫn còn lỏng lẻo trong não thức con người, nhưng những phần khác lại gắn bó chặt chẽ với họ hơn: Và đó là công việc chính của những triết gia hoài nghi để cho thấy, rằng không có nền tảng nào cho một này hơn một kia. Đây là sự khéo léo của Cotta trong những đối thoại liên quan đến bản chất của những thần linh . Ông bác bỏ toàn bộ hệ thống thần thoại bằng dần dần dẫn dắt hệ thống chính thống, từ những câu chuyện quan trọng hơn được người ta tin tưởng, đến những câu chuyện phù phiếm hơn vốn mọi người đều chế nhạo: Từ những vị nam thần đến những nữ thần; từ nữ thần đến những tiên nữ; từ những tiên nữ đến những thần thú, nửa dê nửa người và những thần rừng hoang. [60] Thầy của ông, Carneades, đã dùng phương pháp lý luận tương tự [61].

 

N 12. 26, Be 75-6

Nhìn trên tổng thể, những khác biệt lớn nhất và nhận thấy được nhất giữa một tôn giáo truyền thống, thần thoại và một tôn giáo mang tính hệ thống, kinh viện, thì hai: Tôn giáo trước thường duy lý hơn, vì gồm chỉ một số nhiều những chuyện kể, vốn vô căn cứ đến đâu, chúng không ngầm thể hiện phi lý và biểu thị mâu thuẫn; và cũng nằm nhẹ nhàng và dễ dàng trên não thức con người, khiến có thể được đón nhận phổ quát, nhưng may mắn là nó không tạo ấn tượng sâu xa nào đến vậy với những tình cảm và sự hiểu biết.


 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jan/2025)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 


[1] [N 9. 1n42  Xem GHI CHÚ [AAA].

[N 9. 1n42. 1, Bea 60

VERRIUS Flaccus, được Pliny trích dẫn, lib. xxviii. Cap. 2. khẳng định rằng đãthông thường cho những người Rôma, trước khi vây hãm bất kỳ thị trấn nào, đều cầu khẩn vị thần thành hoàng của nơi đó, và bằng cách hứa với vị này những vinh dự lớn hơn những vinh dự hiện đang hưởng, để hối lộ” vị thần này phản bội những người bạn và những người sùng đạo của vị này. Vì tập tục này, tên của vị thần hộ mệnh của chính Rome được giữ bí mật chặt chẽ. Người Rôma lo sợ rằng kẻ thù của họ có thể dùng cùng một phương pháp để lôi kéo vị thần của họ tránh xa họ, vì họ tin rằng những lời cầu khẩn như vậy đòi hỏi phải biết tên của vị thần. Pliny nói rằng hình thức cầu khẩn phổ biến đã được lưu giữ cho đến thời của ông trong nghi lễ của những vua chiên Catô. Và Macrobius đã truyền một bản sao của nó từ những điều bí mật của Sammonicus Serenus. ]

[2] oracle

[3] [N 9. 2n43, Bea 61          Xenoph. Memor. lib. ii. ]

[4] salvation

[5] [ N 9. 2n44, Bea 61         Plutarch. de Isid. & Osiride. ]

[6] [N 9. 2n45, Bea 61          Lib. ii. sub fine. ]

[7] [N 9. 4n46, Bea 61          Hyde de Relig. vet. Persarum. ] 46

[8] [N 9. 4n47, Bea 61          Arrian. de Exped. lib. iii. Id. lib. vii. ]

[9] [N 9. 4n48, Bea 61          Id. ibid. ]

[10] [N 9. 5n49, Bea 62         Sueton. in vita Aug. c. 93. ]

[11] [N 9. 6n50, Bea 62         Corruptio optimi pessima.

[12] [N 9. 6n51                     Xem GHI CHÚ [BBB].

N 9. 6n51. 1, Bea 62

Hầu hết những quốc gia đã rơi vào tội ác hiến tế con người; mặc dù, sự mê tín vô đạo đó có lẽ chưa bao giờ phổ biến trong những xã hội thực sự văn minh, trừ có lẽ người Carthage. Thí dụ, người Tyrian nhanh chóng từ bỏ tập tục này. Ý tưởng đằng sau lễ hiến tế, trong đó không chỉ giết sinh vật nhưng cả con người, như đây là lễ vật dâng lên thần linh. Tuy nhiên, thay vì trao tặng một vật gì đó có giá trị có thể đem dùng hoặc hưởng thụ, lễ vật bị hủy hoại, khiến nó trở nên vô dụng với con người. Điều này thường được thực hiện theo nhiều cách khác nhau: đốt những vật thể rắn (như động vật, thức ăn hoặc những lễ vật khác), đổ chất lỏng (như rượu, máu hoặc dầu) và giết chết những sinh vật sống (như động vật hoặc con người). Do không có cách nào tốt hơn để tôn vinh hoặc phục vụ thần linh của mình, mọi người lầm tưởng rằng qua hủy hoại, họ thể hiện được sự sùng kính sâu xa của họ. Họ nghĩ rằng bằng dâng một vật gì đó đã trở nên vô dụng hoặc bị hủy hoại, họ thể hiện sự chân thành trong thờ phụng. Tuy nhiên, trong thực tế, họ chỉ tự lừa dối, khi nghĩ rằng những hủy hoại như vậy bằng cách nào đó sẽ làm hài lòng vị thần, thực sự, họ chỉ tự làm tổn hại, không đạt được bất kỳ lợi ích thực sự nào”.

Carthage: một văn minh thời cổ, tập trung ở Carthage (Tunisia ngày nay), được người Phoenicia thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 9 BCE. Họ thực hiện nghi lễ hiến tế người, đặc biệt là trẻ em, như lễ vật dâng lên những vị thần như Baal và Tanit, tin rằng sẽ mang lại sự ưu ái của thần thánh. Nghi lễ này, đặc biệt ở những địa điểm như Tophet, kéo dài cho đến năm 146 BCE, khi Carthage bị Rôma phá hủy trong Chiến tranh Punic lần thứ ba. Sau đó, những nhà sử học Rôma chỉ trích lễ hiến tế này như biểu tượng của sự man rợ.

Người Tyre là người dân của Tyre, một polis của người Phoenicia nằm ở Lebanon ngày nay.

[13] [N 9. 7n52, Bea 62         Strabo, lib. v. Sueton. in vita Cal.]

[14] Truyền thống này, gọi là Rex Nemorensis (Vua của Rừng thiêng), đòi hỏi những giáo sĩ phải giành được vị trí của mình bằng giết chết người tiền nhiệm của mình trong một trận đấu tay đôi.

[15] Paganism: ngoại giáo: chỉ những tín ngưỡng, tập tục và giáo lý tôn giáo của những người theo truyền thống ngoại giáo, thường bao gồm tin nhiều gót, thờ cúng thiên nhiên và tôn kính nhiều vị gót và những thần linh. Nó trái ngược với những tín ngưỡng tin một như (Juda, Kitô, Islam)Thuật ngữ này có thể bao gồm những huyền thoại, nghi lễ và thế giới quan của những nền văn minh thời thời cổ, chẳng hạn như người Hellas, Rôma, Egypt và những dân tộc khác không tuân theo những tôn giáo Áp-ra-ham.

[16] Dominic, Francis, Anthony và Benedict đều là những vị thánh chiên đạo Kitô: (a) Dominic: người sáng lập Dòng Đaminh (Dòng Thuyết giáo), là một thày chăn chiên người Spain nổi tiếng với cam kết rao giảng và chống lại tà giáo. (b) Francis: Thánh chiên Catô Phanxicô thành Assisi, người sáng lập Dòng Phanxicô, nổi tiếng với lời khấn nguyện sống nghèo khó và khiêm nhường. (c) Anthony: Thánh chiên Catô Anthony thành Padua, một thày chăn chiên Phanxicô người Portugal , nổi tiếng với tài rao giảng và khả năng làm phép lạ. (d) Benedict: Thánh chiên Catô Benedict thành Nursia, người sáng lập Dòng Benedictine, được coi là vị thánh chiên Catô bổn mạng của châu Âu.

[17] [N 10. 4n53, Bea 63       Arrian passim. ]

[18] [N 10. 4n54, Bea 63       Thucyd. lib. v. ]

[19] [N 10. 5n55, Bea 63       Discorsi, lib. vi. ]

[20] [N 10. 6n56, Bea 64 Plut. Apopth]

[21] [N 10. 6n57, Bea 64 Bayle, Article Bellarmine. ]

[22] Brasidas là một vị tướng Spartan quý tộc (445 TCN – 422 TCN) được biết đến với sự dũng cảm và tài lãnh đạo của ông trong chiến tranh Peloponnesian. Thánh chiên Catô được nhắc đến ở đây có thể là Robert Bellarmine (1542–1621), một thày chăn chiên hàng áo đỏ người Ý và là được biết đến với sự khiêm nhường, lòng mộ đạo và sự bảo vệ tin tưởng tôn giáo đạo Catô.

[23] Sau đây là giải thích vắn tắt về từng học thuyết trong gót học Kitô nói trên:

Arian: Một học thuyết phủ nhận toàn bộ thần tính của Gót Kitô, khẳng định rằng Chúa Jesus là một hữu thể sáng tạo chứ không đồng ngôi vĩnh cửu với Gót Cha. Có liên quan đến Arius (thế kỷ thứ 4).

Pelagian: Một tin tưởng bác bỏ tội lỗi nguyên thủy và khẳng định rằng con người có thể đạt được sự cứu rỗi thông qua nỗ lực của chính mình, mà không cần đến ân sủng của Gót. Có liên quan đến Pelagius (thế kỷ thứ 4-5).

Erestian: Có thể là lỗi đánh máy hoặc nhầm lẫn. Có thể ám chỉ đến học thuyết Erastian, quan điểm cho rằng nhà nước nên có thẩm quyền đối với Hội nhà thờ trong những vấn đề tôn giáo.

Socinian: Một gót học duy lý phủ nhận Gót Ba Ngôi và thần tính của Gót Kitô, nhấn mạnh đến sự hiệp nhất của Gót và Chúa Jesus là một thày dạy đạo đức. Có liên quan đến những người theo Socinian (thế kỷ 16).

Sabellian: Một học thuyết về học thuyết duy thể, tuyên bố rằng Gót Cha, Gót Con và Gót Thánh Thần không phải là những ngôi vị riêng biệt mà chỉ là những phương thức hoặc khía cạnh khác nhau của một Gót. Có liên quan đến Sabellius (thế kỷ thứ 3).

Eutychian: Một tin tưởng vào thuyết nhất tính, khẳng định rằng Gót Kitô có một bản chất thần thánh, thay vì hai bản chất (thần thánh và con người) trong sự hợp nhất. Có liên quan đến Eutyches (thế kỷ thứ 5).

Nestorian: Một học thuyết nhấn mạnh đến sự tách biệt giữa bản chất thần thánh và bản chất con người của Gót Kitô, về cơ bản chia Chúa Jesus thành hai ngôi vị. Có liên quan đến Nestorius (thế kỷ thứ 5).

Monothelite: Một tin tưởng khẳng định rằng Gót Kitô có hai bản chất (thần thánh và con người) nhưng chỉ có một ý chí thần thánh, không phải là một ý chí con người riêng biệt. Nổi bật vào thế kỷ thứ 7.

Những thuật ngữ này đại diện cho nhiều cuộc tranh luận gót học khác nhau trong lịch sử hội nhà thờ sơ khai.

[24] Theo Herodotus, khi xâm lăng Egypt năm 525 TCN, Cambyses đã chạm trán với con bò Apis ở Memphis. Nổi tiếng với sự tàn ác và vô lễ, Cambyses đã chế giễu và làm con bò thiêng bị thương, một hành động bị coi là phạm thánh. Apis được người Egypt tôn thờ như một hiện thân sống của thần Ptah, vị thần sáng tạo của họ. Cái chết của con bò tượng trưng cho sự chuyển giao hồn thiêng của Ptah sang một con bò mới, sau đó được tôn kính như hiện thân tiếp theo của vị thần. Herodotus cho rằng hành động trên của Cambyses xuất phát từ sự điên rồ, không từ động cơ chính trị hay tôn giáo.

[25] Câu cắt cổ nhau vì thích bắp cải hay dưa chuột” bắt nguồn từ Từ điển triết học của Voltaire (1764). Nó minh họa cho sự phi lý của những tranh chấp tôn giáo hoặc triết học dẫn đến bạo lực vì những vấn đề tầm thường, chỉ trích sự phi lý của những người đấu tranh vì những vấn đề không đáng kể”. sự tôn thờ mèo và khỉ” và “sự tôn thờ tỏi tây và hành tây” cũng bắt nguồn từ những tác phẩm châm biếm của Voltaire. Những ví dụ này chỉ trích sự tùy tiện của những hoạt động tôn giáo và sự phi lý của những gì những nền văn hóa khác nhau lựa chọn để tôn kính.

Sự tôn thờ tỏi tây và hành tây: Ở Egypt thời cổ, một số loại cây như tỏi tây và hành tây được coi là thiêng liêng, đặc biệt là trong những nghi lễ. Voltaire dùng điều này để chỉ ra cách những vật thể tầm thường có thể được nâng lên thành thiêng liêng trong những hệ thống tín ngưỡng. Sự tôn thờ mèo và khỉ: Mèo được tôn kính ở Egypt thời cổ, đặc biệt là liên quan đến nữ thần Bastet, và khỉ được liên kết với thần Thoth. Voltaire nhấn mạnh cách động vật có thể được thần tượng hóa mà không có lý do hợp lý. Voltaire chỉ trích cách những văn hóa khác nhau nâng cao sự vật lên mức thần thánh với ít cơ sở logic, minh họa tính tương đối của tín ngưỡng tôn giáo và chỉ trích những lý thuyết giáo điều.

[26] [N 12. 7n58                   58Xem GHI CHÚ [CCC].

[N 12. 7n58. 1, Bea 69

Điều kỳ lạ là tôn giáo của người Egypt, dù phi lý đến thế, lại có một sự giống nhau lớn với tôn giáo của người Jew, đến nỗi những nhà văn thời cổ, ngay cả những thiên tài vĩ đại nhất cũng không thể nhận ra bất kỳ sự khác biệt nào giữa chúng. Vì điều đáng chú ý là cả Tacitus Suetonius, khi họ đề cập đến sắc lệnh của thượng viện, dưới thời Tiberius, theo đó những người theo đạo Egypt Jew đã bị trục xuất khỏi Rome, đều coi những tôn giáo này là như nhau; và có vẻ như ngay cả tự thân sắc lệnh cũng được thành lập dựa trên giả định đó. Actum & de sacris Ægyptiis, Jew giáo pellendis; Factumque patrum Consultum, ut quatuor millia libertini Generis ea mê tín dị đoan, quis idonea ætas, insulam Sardiniam veherentur, coercendis illic latrociniis; & si ob gravitam cœli interissent, tệ hại chết tiệt: Ceteri cederent Italia, nisi certam ante diem profanos ritus exuissent. Tacit. ann. lib. ii, c. 85. Externas cæremonias, ÆgyptiosJudaicosque ritus compescuit; coactus qui superstitione ea tenebantur, religiosas vestes cum instrumento omni comburere, &c. Sueton. Tiber. c. 36. Những người ngoại giáo khôn ngoan này, nhận thấy có gì đó trong bầu không khí chung, và yếu tính cũng như tinh thần của hai tôn giáo giống nhau, coi sự khác biệt trong những giáo điều của chúng quá phù phiếm để đáng được chú ý. ]

Văn bản Latinh trên là một đoạn văn của Tacitus và Suetonius, cả hai đều là nhà sử học Rôma. Đây là bản dịch và giải thích những yếu tố chính:

Tacitus, Biên niên sử (Quyển 2, Chương 85): Actum & de sacris Ægyptiis, Judaicisque pellendis;”: Một sắc lệnh được ban hành liên quan đến việc trục xuất những hoạt động tôn giáo của người Egypt và Jew.

factumque patrum Consultum, ut quatuor millia libertini Generis ea superstitionefecta, quis idonea ætas, insulam Sardiniam veherentur, coercendis illic latrociniis;”: Thượng viện quyết định rằng 4. 000 người được tự do đã bị nhiễm mê tín này (có thể đề cập đến những hoạt động tôn giáo của người Egypt và Jew) , sẽ được gửi đến đảo Sardinia để hạn chế những hoạt động tội phạm của chúng. “si ob gravitam cœli interissent, viledamum;”: Nếu họ chết do khí hậu khắc nghiệt của Sardinia thì đó sẽ được coi là một tổn thất nhỏ. “Ceteri cederent Italia, nisi certam ante diem profanos ritus exuissent. “: Những người còn lại sẽ rời khỏi Ý trừ khi họ từ bỏ những hoạt động tôn giáo không-Rôma trước một ngày cụ thể. Suetonius, Tiberius (Chương 36): Externas cæremonias, Ægyptios, Judaicosque ritus compescuit;”: Tiberius đàn áp những nghi lễ nước ngoài, bao gồm những nghi lễ của Egypt và Jew. “coactus qui superstitione ea tenebantur, religiosas vestes cum Instrumento omni comurere;”: Những người bị mê tín này buộc phải đốt quần áo và đồ dùng tôn giáo của họ.

Đoạn văn trên mô tả cách thức, dưới sự cai trị của Tiberius, Thượng viện Rôma đã ban hành một sắc lệnh cấm những hoạt động tôn giáo của những người Egypt và Jew ở Rome, coi chúng là mê tín dị đoan. Những người cải đạo và những người theo những tôn giáo này đã bị trục xuất, một số bị đưa đến Sardinia. Những người từ chối từ bỏ những tập tục của họ đã bị buộc phải phá hủy những vật phẩm tôn giáo của họ. Tacitus và Suetonius nhấn mạnh rằng những truyền thống tôn giáo này được coi là giống nhau, và chúng đều phá vỡ những giá trị của Rôma, dẫn đến việc chúng bị đàn áp.

[27] [N 12. 8n59, Bea 69       59. Lib. I]

[28] [N 12. 8n60, Bea 69       60. Khi Louis XIV nhận bảo vệ của Học viện Dòng Tên Clermont, hội này đã ra lệnh treo huy hiệu của nhà vua trên cổng và hạ cây thánh giá xuống để nhường chỗ cho huy hiệu của nhà vua: Điều này đã tạo nên câu châm ngôn sau:

Sustulit hinc Christi, posuitque insignia Regis: Impia gens, alium nescit habere Deum.

(Ông đã xóa bỏ biểu tượng của Chúa Kitô và thay vào đó biểu tượng của một vị Vua: Dân tộc vô đạo này không biết có một vị Chúa nào khác)

[29] [N 12. 9n61, Bea 70    61. De nat. Deor. l. i. ]

[30] [N 12. 9n62, Bea 70       62. Tusc. Quaest. lib. v. ]

[31] [N 12. 11n63, Bea 70     De civitate Dei, l. iii. c. 17. ]

[32] (a) Varro: Marcus Terentius Varro (116–27 TCN), một học giả và triết gia Rôma, tiếp cận tôn giáo với sự hoài nghi và điều độ, nhấn mạnh vào khả năng xảy ra và vẻ bề ngoài hơn là sự chắc chắn. (b) Augustin: Thánh chiên Augustine (354–430 CN), một nhà gót học đạo Kitô, đã đối chiếu Varro với “tin tưởng tôn giáo” nồng nhiệt và nhiệt thành của ông, tuyên bố tin tưởng vững chắc và bác bỏ sự hoài nghi. (c) Một nhà thơ ngoại giáo: Có thể là Claudian (khoảng 370–404 CN), một nhà thơ ngoại giáo và nhà phê bình những ý tưởng đạo Kitô, cùng thời với Augustine.

[32] Spartian: chỉ Aelius Spartianus. theo truyền thống được coi như một trong những tác giả chính của Historia Augusta, bộ sưu tập tiểu sử những hoàng đế RôMa. Historia Augusta cho biết về triều đại Hadrian và những chính sách đã đưa đến nổi loạn Bar Kokhba (132-136 CN). Một trong những nguyên nhân chính của nổi loạn do Simon bar Kokhba lãnh đạo này là lệnh cấm cắt bao quy đầu. Lệnh cấm này là một phần của một loạt những sắc lệnh rộng hơn do Hoàng đế Hadrian ban hành và được xem như một tấn công trực tiếp vào đạo Juda, khiến người Jew vô cùng phẫn nộ và đóng vai trò thúc đẩy chính cho cuộc nổi loạn. Cắt bao quy đầu là một tục lệ có ý nghĩa rất quan trọng và thiêng liêng với người Jew vì đây là nghĩa vụ tôn giáo do Gót truyền lệnh trong Kinh thánh Hebrew. Lễ này tượng trưng cho giao ước giữa Gót và người Jew, đóng vai trò là nghi lễ đánh dấu sự gia nhập của trẻ sơ sinh nam vào cộng đồng Jew qua một nghi lễ gọi là Brit Milah, thường được thực hiện tám ngày sau khi sinh, và duy trì sư liên tục lịch sử bằng liên kết những người Jew đương thời với tổ tiên lịch sử xa xưa và bảo tồn những truyền thống văn hóa của họ.

[33] [N 12. 11n64, Bea 71                  Claudii Rutilii Numitiani iter, lib. i. l. 386. ]

[34] Spartian: chỉ Aelius Spartianus. theo truyền thống được coi như một trong những tác giả chính của Historia Augusta, bộ sưu tập tiểu sử những hoàng đế RôMa. Historia Augusta cho biết về triều đại Hadrian và những chính sách đã đưa đến nổi loạn Bar Kokhba (132-136 CN). Một trong những nguyên nhân chính của nổi loạn do Simon bar Kokhba lãnh đạo này là lệnh cấm cắt bao quy đầu. Lệnh cấm này là một phần của một loạt những sắc lệnh rộng hơn do Hoàng đế Hadrian ban hành và được xem như một tấn công trực tiếp vào đạo Juda, khiến người Jew vô cùng phẫn nộ và đóng vai trò thúc đẩy chính cho cuộc nổi loạn. Cắt bao quy đầu là một tục lệ có ý nghĩa rất quan trọng và thiêng liêng với người Jew vì đây là nghĩa vụ tôn giáo do Gót truyền lệnh trong Kinh thánh Hebrew. Lễ này tượng trưng cho giao ước giữa Gót và người Jew, đóng vai trò là nghi lễ đánh dấu sự gia nhập của trẻ sơ sinh nam vào cộng đồng Jew qua một nghi lễ gọi là Brit Milah, thường được thực hiện tám ngày sau khi sinh, và duy trì sư liên tục lịch sử bằng liên kết những người Jew đương thời với tổ tiên lịch sử xa xưa và bảo tồn những truyền thống văn hóa của họ.

[35] [N 12. 12n65, Bea 71     In vita Adriani. ]

[36] deis

[37] profaneness

[38] [N 12. 13n66, Bea 71     . xiv. epist. 7. ]

[39] Infidelity: thiếu tin tưởng tôn giáo, không tin vào tôn giáo. public religion: Tôn giáo công cộng, tôn gióa, tín ngưỡng được nhà nước chính thức công nhận. Tôn giáo, đúng hơn tín ngưỡng của của đế quốc Rome trong thời Cicero (thế kỷ thứ 1 TCN) tập trung vào thờ phụng những vị thần như Jupiter, Juno, Mars và Apollo, cũng như những vị gia thần như Lares và Penates. Mặc dù đã ăn sâu vào xã hội, nhưng thẩm quyền của nó đã suy yếu trong giới trí thức, vốn chịu ảnh hưởng của triết học Hellas. Những nhà tư tưởng như Cicero, trong riêng tư, đã nghi ngờ tín ngưỡng tôn giáo, nhưng vẫn duy trì những nghi lễ công cộng để ổn định chính trị và xã hội, coi tôn giáo như phương tiện hay dụng cụ duy trì trật tự hơn là một tin tưởng tôn giáo thực sự.

[40] [N 12. 14n67, Bea 71     Cicero de Divin lib. ii. c. 24.]

[41] [N 12. 14n68, Bea 71     Sueton. Aug. cap. 90, 91, 92. Plin. lib. ii. cap. 7. ]

[42] (a) Pompey: Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey Đại đế) là một vị tướng và chính khách lỗi lạc của Rôma vào cuối thời Cộng hòa Rôma, được ca ngợi vì những thành tựu quân sự và ảnh hưởng chính trị quan trọng của ông. Là một thành viên của First Triumvirate / Bộ Ba Đầu Tiên cùng với Julius Caesar và Crassus, Pompey đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Rôma. Sự tin tưởng vững chắc của ông vào những hoạt động tôn giáo, bao gồm cả điềm báo và lời tiên tri, nhấn mạnh vai trò trung tâm của những tín ngưỡng truyền thống của Rôma trong việc định hình những quyết định của những nhà lãnh đạo quốc gia và quân sự của thời đại. (b) Augustus: Augustus, ban đầu có tên là Gaius Octavius, là hoàng đế Rôma đầu tiên và là người thừa kế được Julius Caesar nhận làm con nuôi. Trị vì từ năm 27 TCN đến năm 14 CN, ông đã thiết lập Pax Romana, một kỷ nguyên hòa bình và ổn định kéo dài trên khắp đế quốc. Mặc dù có tài năng chính trị đặc biệt và khả năng lãnh đạo duy lý sáng suốt, Augustus lại đặc biệt mê tín, tin vào ý nghĩa của những giấc mơ và điềm báo, hiện tượng này cho thấy ngay cả những người cai trị thực tế và tập trung vào kết quả nhất cũng như Pompey, đều nhận chịu ảnh hưởng của những mê tín cá nhân và văn hóa lưu hành trong thời họ sống.

[43] biển diêm sinh lửa gắn liền với hình ảnh hỏa ngục Ki tô, chỉ sự trừng phạt của bị thiêu đốt vĩnh viễn trong hỏa ngục (Sách Khải Huyền, trong đó hỏa ngục được mô tả là một “hồ lửa và diêm sinh” (Khải Huyền 21:8)

[44] [N 12. 19n69, Bea 73

Hãy xem đoạn văn đáng chú ý này của Tacitus: “Bên cạnh những thăng trầm đa dạng (những thay đổi, chuyển dịch hoặc biến động xảy ra trong đời sống) của những sinh hoạt của con người, những điều kỳ diệu trên trời và dưới đất, những báo trước từ tiếng sét và điềm báo về tương laivui tươi, bi thảm, mơ hồ và rõ ràng Vì chưa bao giờ sự việc đó được chứng minh rõ ràng hơn qua những tai họa khủng khiếp giáng xuống người Rôma —những thảm họa được coi là những phán quyết công bằng nhất, xứng đáng cho hành động của họrằng những vị thần không quan tâm đến sự an toàn của chúng ta, nhưng là sự trả thù trừng phạt chúng ta”. (Lịch sử, Sách 1) Cãi vã của Augustus với Neptune (Augustus cãi nhau với Neptune như một vị thần thực sự, có tri giác và hành động) một trường hợp của cùng một loại sự kiện. Nếu vị hoàng đế đã không tin Neptune là một vị thần có thật, và có quyền thống trị biển cả, thì có cơ sở nào cho sự tức giận của ông? Và nếu ông đã tin điều đó, thì thật vô lý khi mạo hiểm khiêu khích vị thần đó thêm nữa! Cùng một nhận xét tương tự cũng có thể lấy được từ những than thở của Quintilian về nguyên nhân cái chết của những đứa con của ông trong Institutio Oratoria, Sách VI, ]

[45] [N 12. 20n70, Bea 73     Philopseudes. ]

[46] National religion: tín ngưỡng, tập tục và truyền thống tôn giáo thống trị được chấp nhận và thực hành rộng rãi trong một xã hội hoặc quốc gia cụ thể vào thời điểm đó.

[47] [N 12. 21n71, Bea 73     Lib. x. cap. 40. ]

[48] Lucian; Một nhà châm biếm người Hellas (khoảng năm 125–180 CN) nổi tiếng với việc chế giễu những tín ngưỡng ngoại giáo. Lời chỉ trích của ông có ý nghĩa quan trọng vì những tín ngưỡng đó được chấp nhận rộng rãi vào thời điểm đó. Livy: Một nhà sử học Rôma (59 TCN–17 CN) nhìn nhận sự hoài nghi về tôn giáo trong thời đại của ông nhưng lên án nó, cho thấy tôn giáo nhà nước vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ.

[49] Stoics : Vẫn dịch là Khắc Kỷ: Những người trong phái Stoics là những nhà triết học từ Hellas và Rôma thời cổ, bao gồm những nhân vật như Zeno of Citium, Cleanthes, Chrysippus, Epictetus, Seneca và Marcus Aurelius, những người tin vào việc sống theo lý trí, đức hạnh và quy luật tự nhiên. Họ nhấn mạnh vào khả năng tự chủ, chịu đựng, và trí tuệ khôn ngoan, dạy rằng những cảm xúc nên được tư duy duy lý kềm chế. Họ coi đức hạnh như điều tốt đẹp thực sự duy nhất và tin rằng trong khi những sự kiện bên ngoài nằm ngoài kiểm soát của chúng ta, chúng ta nên tập trung vào cách chúng ta phản ứng với chúng. Mặc dù nhấn mạnh vào lý trí, nhiều người phái Stoics, gồm cả Marcus Aurelius, vẫn giữ những tin tưởng mê tín, chẳng hạn như lòng tin vào những điềm báo và sự hướng dẫn thần linh,, pha trộn quan điểm triết học của họ với những yếu tố mê tín.

[50] [N 12. 22n72, Bea 74     Cicero de Divin. lib. i. cap. 3 & 7.

[51] [N 12. 22n73, Bea 74     Lib. i. §17. ]

[52] [N 12. 22n74, Bea 74     Ench. §17. ]

[53] [N 12. 22n75, Bea 74

Tôi nhìn nhận rằng những người phái Stoics không hoàn toàn chính thống, không tuân theo tôn giáo đã thiết lập, nhưng từ những thí dụ này, rõ ràng là họ vẫn tuân giữ nhiều tập tục và tín ngưỡng của tôn giáo đó. Tuy nhiên, công chúng nói chung đã hoàn toàn chấp nhận tôn giáo đó mà không hề có sự dè dặt. ]

[54] [N 12. 23n76, Bea 74     Euthyphro. ]

[55] [N 12. 23n77, Bea 74     Phædo. ]

[56] [N 12. 23n78                 Xem GHI CHÚ [DDD].

N 12. 23n78. 1, Bea 74-5

Hành vi của XENOPHON, như chính ông kể lại, là bằng chứng không thể chối cãi về sự cả tin chung của loài người trong những thời đó, và sự thiếu nhất quán, trong mọi thời đại, về những quan điểm của con người trong những vấn đề tôn giáo. Người thủ lãnh quân đội và triết gia vĩ đại đó, học trò của Socrates, và là người đã truyền đạt một số tình cảm tinh tế nhất liên quan đến một vị thần, đã đưa ra tất cả những dấu hiệu sau đây của mê tín dị đoan thông tục, ngoại giáo.

Theo lời khuyên của Socrates, ông đã tham khảo ý kiến ​​của nhà tiên tri Delphi, trước khi tham gia vào cuộc viễn chinh của (hoàng tử Persia) Cyrus. De exped. lib. iii. p. 294. ex edit Leuncl. Nhìn thấy giấc mơ vào đêm sau khi những vị tướng bị bắt; ông rất chú ý đến giấc mơ này nhưng lại cho rằng nó mơ hồ. Id. p. 295. Ông và toàn bộ quân đội coi việc hắt hơi là một điềm báo rất may mắn. Id. p. 300. Có một giấc mơ khác, khi ông đến sông Centrites, nơi mà vị tướng đồng bạn (Xenophon) của ông, Chirosophus, cũng rất coi trọng. Id. lib. iv. p. 323. Người Hellas, đang chịu đựng cơn gió lạnh từ phương bắc, đã làm lễ hiến tế cho nó; và nhà sử học quan sát thấy rằng nó đã dịu đi ngay lập tức. Id. p. 329. Xenophon tham khảo ý kiến ​​về những lễ hiến tế một cách bí mật, trước khi ông đưa ra bất kỳ quyết định nào với chính mình về việc định cư tại một thuộc địa. Lib. v. p. 359. Bản thân ông là một nhà tiên tri rất giỏi. Id. p. 361. Xenophon từ chối đề nghị quyền chỉ huy duy nhất của đội quân vì những điềm báo từ ruột gan móc ra từ những con vật hiến tế (“nạn nhân”) là không thuận lợi. Lib. vi. p. 273. Cleander, người Sparta, mặc dù rất mong muốn điều đó, nhưng đã từ chối vì lý do tương tự. Id. p. 392. Xenophon đề cập đến một giấc mơ cũ với lời giải thích được đưa ra cho ông, khi ông mới gia nhập đoàn viễn chinh của Cyrus, p. 373. Cũng đề cập đến địa điểm Hercules xuống địa ngục như tin vào điều đó, và nói rằng dấu vết của nó vẫn còn. Id. tr. 375. Đã gần như làm cho quân đội chết đói, thay vì dẫn họ ra chiến trường chống lại những điềm xấu (tin là sự không đồng ý của thần thánh. Id. tr. 382, ​​383. Người bạn của ông, Euclides, nhà tiên tri, không tin rằng ông không mang theo tiền về từ chuyến viễn chinh. Euclides đã làm một lễ hiến tế và xem xét exta (ruột của con vật bị hiến tế). Sau khi làm xong lễ và những dấu hiệu, Euclides mới tin vào lời Xenophon. Lib. vii. tr. 425. Cũng chính triết gia, này, khi đưa ra một dự án khai mỏ để tăng nguồn tài chính cho dân Athens, đã, khuyên họ trước tiên nên tham khảo lời sấm truyền. De rat. đỏ. tr. 392.

Sự sùng kính này không chỉ là một trò hề, được tạo ra để phục vụ cho một mục đích chính trị nào đó, điều này rõ ràng từ cả bản thân sự thật và từ bản chất của thời đại, khi mà sự đạo đức giả không hoặc ít có lợi ích nào có thể đạt được. Hơn nữa, Xenophon, như đã thấy rõ trong Memorabilia của ông, là một người “dị giáo” vào thời của ông – một đặc điểm không bao giờ tìm thấy ở một tín đồ chính trị, vì những cá nhân như vậy tuân theo những gì chính thống hơn là thách thức nó. Theo cùng lý lẽ đó, tôi cho rằng Newton, Locke, Clarke và những người khác, mặc dù là những người theo quan điểm của Arian hoặc Socinian, nhưng hoàn toàn chân thành trong những tín điều mà họ tuyên xưng. Những người trước, theo Arius (khoảng năm 256–336), cho rằng Chúa Jesus Christ là một đấng được tạo ra, khác biệt và phụ thuộc vào Gót Cha, thay vì đồng thời hiện hữu với Gót Cha,. Những người sau, theo truyền thống của Fausto Sozzini (1539–1604), đã hoàn toàn bác bỏ thần tính của Chúa Kitô, coi ngài là một người thày truyền cảm hứng chứ không phải là một đấng thiêng liêng, và phủ nhận những học thuyết như tội tổ tiên, và sự chuộc tội. Đối với những người hoài nghi hoặc những người tự do tư tưởng cho rằng những nhà triết học này là không thể chân thành trong những tin tưởng của họ và chỉ đạo đức giả. , tôi luôn đưa ra lập luận này như một phản biện. ]

Hume dùng những thực hành mê tín của Xenophon để minh họa những mâu thuẫn cố hữu trong những tin tưởng của con người, đặc biệt liên quan đến tôn giáo. Mặc dù là học trò của Socrates lý trí, Xenophon thường xuyên tham khảo những nhà tiên tri, giải thích những giấc mơ và thực hiện những nghi lễ hiến tế, phản ảnh những mê tín ăn sâu trong thời ông. Hume lập luận rằng đây không phải là đạo đức giả nhưng đúng hơn là một thí dụ về sự cả tin tôn giáo lan rộng mà ngay cả những người trí thức cũng không thể thoát khỏi. Bằng đối chiếu Xenophon với những nhà tư tưởng như Newton, Locke và Clarke, những người duy trì tin tưởng tôn giáo chân thành nhưng phi lý, Hume phê phán sự căng thẳng giữa lý trí và tôn giáo. Ông cho rằng, ngay cả trong số những não thức duy lý nhất, mê tín vẫn là một ảnh hưởng thấm nhiễm lan rộng, cho thấy những giới hạn của lý trí trong việc vượt qua những truyền thống văn hóa và tôn giáo.

[57] [N 12. 24n79, Bea 75     Pro Cluentio, Cap. 61. ]

[58] [N 12. 24n80, Bea 75     De bello Catilin ]

[59] [N 12. 24n81, Bea 75 

Cicero (Tusc. Quæst. ) Lib. i. Cap. 5, 6. và Seneca (Epist. 24), cũng như Juvenal (Satyr. 2. ), chủ trương rằng không có đứa trẻ hay bà già nào lố bịch đến mức tin vào những giải thích của những nhà thơ về một thế giới bên kia, hay về một trạng thái tồn tại sau khi chết). Vậy thì tại sao Lucretius lại đề cao chủ nhân của mình vì đã giải thoát chúng ta khỏi những kinh hoàng này? Có lẽ tính chất chung của loài người khi đó đều nằm trong tính cách của Cephalus trong Plato (de Rep. lib. i. ), người khi còn trẻ và khỏe mạnh đã có thể chế nhạo những câu chuyện này; nhưng ngay khi ông già yếu và bệnh tật, ông bắt đầu nuôi dưỡng lo sợ về tính xác thực của chúng. Chúng ta có thể thấy điều này không phải là bất thường ngay cả trong ngày nay. ]

[60] Nymphs: Hồn sinh vật trong thiên nhiên, thường được mô tả là những thiếu nữ xinh đẹp bị trói vào rừng, sông hoặc núi. Fauns: Những sinh vật rừng Rôma, một phần là người và dê, vui tươi và gắn bó với thiên nhiên. Satyrs: Những tương đương của fauns trong tiếng Hy Lạp, hoang dã hơn và thường đưcoj cho là những tín đồ của Dionysus.

[61] [N 12. 25n82, Bea 75     82. ext. Empir. advers. Mathem. lib. viii. ]