(The Natural History of Religion)
David Hume
Tiết
XIII.
Những khái niệm nghịch đạo về bản chất thiêng liêng
trong những tôn giáo phổ biến thuộc cả hai loại
N 13. 1, Bea 77
Tôn giáo nguyên
thủy nhất của loài người chủ yếu phát sinh từ một sợ hãi lo lắng về những biến cố
tương lai; và người ta có thể dễ dàng hình dung ra những khái niệm nào sẽ tự nhiên
nảy sinh về những thế lực vô hình, chưa biết đến, khi con người nằm dưới những sợ hãi u
tối vô vọng của bất kỳ loại nào. Mọi hình ảnh về sự trả thù, sự nghiêm khắc, sự tàn ác và dã tâm ác ý phải xảy ra,
và tăng sâu thêm kinh hoàng khiếp sợ,
đè nặng những người theo tôn giáo hoang mang. Một khi sự hoảng loạn chiếm lấy não thức, trí tưởng tượng
bồn chồn sẽ nhân lên những đối tượng đáng sợ này; trong khi bóng tối sâu thẳm
đó – hoặc tệ hơn nữa, tia sáng chập chờn đó – bao quanh chúng ta, thể hiện
những bóng ma của thần thánh dưới những hình dạng đáng sợ nhất có thể tưởng
tượng được. Và không có khái niệm nào về sự gian ác đồi trụy vốn những tín đồ sợ hãi
này không sẵn sàng, không chút do dự gán cho vị thần của họ. .
N 13. 2, Bea 77
Đây có vẻ là trạng
thái tự nhiên của tôn giáo khi nhìn từ một góc độ [1]. Nhưng nếu chúng ta quay sang phía đối diện và xem xét tinh thần ca
ngợi và tôn vinh, vốn không thể tránh khỏi trong mọi tôn giáo và phát sinh như
một hệ quả trực tiếp của chính những sợ hãi này, chúng ta phải thấy trước một hệ thống gót
học hoàn toàn trái ngược sẽ chiếm ưu thắng. Mọi đức tính và mọi xuất sắc đều
phải được gán cho thần thánh, và không có
phóng đại nào sẽ được coi là đủ để
đạt đến những toàn hảo vốn vị này được ban tặng. Bất kỳ giọng
điệu ca ngợi cao cả nào có thể được phát minh đều được háo hức chấp
nhận ngay lập tức, không cần tham chiếu bất kỳ lý lẽ hay bằng chứng quan sát được nào; Người
ta coi đó là một xác nhận đầy đủ về
chúng, rằng chúng cho chúng ta những ý tưởng tuyệt vời hơn của những đối tượng thiêng
liêng của sự tôn thờ và sùng bái của chúng ta
N 13. 3, Bea 77
Do đó, đây là một
loại mâu thuẫn giữa những nguyên lý
khác nhau của bản chất con người, đi vào trong tôn giáo. Những kinh
hoàng tự nhiên của chúng ta thể hiện khái niệm về một vị thần độc ác và xấu xa:
Xu hướng tôn sùng của chúng ta khiến chúng ta thừa nhận một vị thần xuất sắc và
thiêng liêng. Và ảnh hưởng của những nguyên lý đối lập này là khác loại, tùy theo tình cảnh khác nhau của sự
hiểu biết của con người.
N 13. 4, Bea 77-8
Trong những quốc
gia rất man rợ và ngu muội, hạn như người Châu Phi và người India, ngay cả người Japan, những người
không thể hình thành những ý tưởng bao
quát rộng rãi của quyền năng và kiến
thức, người ta có thể tôn thờ một sinh vật mà họ cho là độc ác và đáng ghét;
mặc dù có lẽ họ có thể thận trọng khi tuyên bố sự phán xét này với vị này ở nơi công cộng,
hay trong đền thờ của vị
này, nơi vị
này có thể phải nghe những lời chê trách của họ. [2]
N 13,5, Bea 78
Những ý tưởng thông
tục, không toàn hảo như vậy về Thần tính đã bám chặt vào tất cả những người thờ
linh tượng từ lâu; và có thể an toàn khẳng định rằng tự thân những người Hellas chưa bao giờ hoàn toàn loại bỏ chúng. Xenophon [3]đã nhận xét, khi ca ngợi Socrates, rằng triết gia này không đồng ý với quan điểm thông tục, giả định rằng
những thần linh biết một số điều và không biết gì về những điều khác: Ông khẳng
định rằng họ biết mọi sự vật việc; những gì đã làm, đã nói, hay ngay cả đã nghĩ.
Nhưng vì đây là một dòng suy
luận triết học
[4] cao hơn nhiều so với khái niệm của những người đồng hương của ông, nên
chúng ta không cần ngạc nhiên, nếu thành thật mà nói, trong sách và những trò chuyện của họ,
họ đổ lỗi cho những thần linh vốn
họ tôn thờ trong những đền thờ của họ. Có thể quan sát thấy rằng, trong
nhiều đoạn, Herodotus không hề cẩn trọng khi gán tính ghen tị với những vị thần; một tình cảm, trong số tất cả những tình cảm khác,
phù hợp nhất với bản chất xấu xa và quỷ quyệt. Tuy nhiên, những bài thánh ca
ngoại giáo được hát trong cúng
lễ công cộng chỉ chứa đựng những câu ca ngợi; ngay cả
khi những hành động được gán
cho những thần linh là man rợ và đáng ghê tởm nhất. Khi nhà thơ Timotheus đọc một bài thánh ca dâng lên Diana, trong đó ông liệt kê, bằng những bài điếu văn vĩ đại nhất, tất cả những
hành động và thuộc tính của nữ thần độc ác, thất thường đó: Cầu mong con gái của ông, một người có mặt nói, trở thành giống như vị thần mà ông tôn vinh. [5] .
N 13. 6, Bea 78-9
Nhưng khi con người
tán tụng thêm nữa ý tưởng của họ
về thần tính, đó chỉ là ý niệm của họ về quyền
năng và hiểu
biết của thần
linh, vốn
được hoàn thiện, không phải sự tốt lành của vị này. Ngược lại, tương ứng với mức độ kiến thức rộng lớn và đầy đủ và thẩm
quyền hơn được cho là của thần
linh này, kinh hoàng của họ tự nhiên tăng
lên; trong khi họ tin rằng không có bí mật nào có thể che giấu họ khỏi được sự giám sát của thần linh này, và ngay cả những
sâu kín nhất trong lồng ngực của họ cũng mở ra trước mắt thần linh. Sau đó, họ phải
cẩn thận để không thể hiện rõ ràng bất kỳ cảm giác trách móc và không đồng tình
nào. Tất cả phải là những tràng pháo tay, sự cuồng nhiệt, sự phấn khích. Và
trong khi những lo sợ bi
quan đen
tối của họ khiến họ gán cho vị thần những hành vi ứng
xử vốn với loài người, sẽ rất phải
chê trách, họ vẫn phải cố gắng ca
ngợi và thán phục hành vi đó với thần
linh họ sùng kính. Do đó, có thể an toàn khẳng định rằng
những tôn giáo bình dân, theo khái niệm của những tín đồ thông tục hơn, đều thực sự là một loại thuyết quỉ thần ma quái [6]; và vị thần được tôn vinh về quyền năng và kiến thức cao bao nhiêu thì tất nhiên ngài càng
thấp kém bấy nhiêu về lòng tốt và nhân từ; bất kể những khen ngợi nào có thể được những
người choáng ngợp kinh ngạc, tràn ngập kính sợ ban tặng cho vị
thần. Đối với những người thờ linh tượng, họ có thể nói những
lời ca ngợi không chân thành, và những lời này có thể mâu thuẫn với tin tưởng thực có trong họ: Nhưng
giữa những người theo tôn giáo được nhìn
như cao hơn
vơi tin tưởng có vẻ tinh tế hoặc trí tuệ hơn, tuẹ thân quan điểm của
những người sùng bái trí thức. này lại mắc phải một loại dối trá, và phủ nhận
tình cảm bên trong. Trái tim ngấm
ngầmghê tởm những biện pháp báo thù tàn nhẫn và không
dung tha như vậy; nhưng không dám phán xét,
nhưng chỉ tuyên bố chúng là hoàn hảo và đáng ngưỡng mộ, khen ngợi. Và sự đau khổ cộng thêm vào đấu tranh nội tâm
này làm trầm trọng thêm tất cả những kinh hoàng khác, qua chúng, những nạn nhân bất
hạnh của mê tín này sẽ bị ám ảnh
mãi mãi. [7]
N 13. 7, Bea 79-80
Lucian [8] nhận xét rằng một người
trẻ tuổi, người đọc lịch sử
của những vị gót trong Homer hay Hesiod, và nhận thấy
những phe phái, chiến tranh, bất công, loạn luân, ngoại tình và những hành vi
vô đạo đức khác được tôn vinh rất cao, sau đó người này rất ngạc nhiên khi đi vào thế giới, để
nhận thấy rằng luật pháp trừng phạt những hành vi tương tự vốn người này đã được dạy là dành
cho những đấng tối cao. Mâu thuẫn có lẽ còn mạnh hơn giữa những biểu tượng mà
một số tôn giáo sau này đem
cho chúng ta và những ý tưởng tự nhiên của chúng ta về hào phóng, khoan
dung, công bằng và công lý; và trong
tương ứng với những
kinh hoàng đã nhân lên của những
tôn giáo này, những ý
niệm man rợ của thần thánh cũng đã
nhân lên với chúng ta [9]. Không gì có thể bảo tồn nguyên vẹn những nguyên lý đạo đức đích thực,
không vấy bẩn, trong phán đoán của
chúng ta về hành vi của con người, ngoài sự cần thiết tuyệt đối của những
nguyên lý này với sự hiện
hữu của xã hội. [10] Nếu
chúng ta chấp nhận rằng những người cai trị tuân theo một hệ thống đạo đức có phần nào
khác với hệ thống đạo đức của
những con người bình thường, thì khả năng xảy ra còn
nhiều hơn đến đâu, khi tin rằng những thần linh tối cao, vốn có những phẩm
chất, quan điểm và bản chất hoàn toàn vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, sẽ
tuân theo những tiêu chuẩn công lý riêng của họ? Sunt
superis sua jura [11]. Những vị thần có luật lệ riêng của họ. [12]
Tiết XIV.
Ảnh
hưởng xấu của những tôn giáo phổ biến trên đạo đức.
N 14. 1, Bea 81
Ở đây tôi không thể
không nói đến việc quan sát một sự kiện,
vốn nó có thể đáng chú ý với những người lấy bản
chất con người làm đối tượng nghiên cứu. Điều chắc chắn là trong mọi tôn giáo,
dù những từ
ngữ để định nghĩa bản chất thần thánh linh
thiêng của nó có cao siêu đến đâu đi nữa, nhiều trong số những người theo tôn giáo, có lẽ là số đông nhất, vẫn sẽ
tìm kiếm ân huệ thần linh, không bằng đức hạnh và đạo đức tốt, vốn chỉ có thể được một
vị gót toàn hảo và lý tưởng về đạo đức chấp nhận,
nhưng bằng những tuân giữ phù phiếm, bằng nhiệt thành quá mức, bằng say mê
cuồng nhiệt, hay bằng tin tưởng những quan điểm bí ẩn và phi lý. Phần
nhỏ nhất của Sadder, cũng như của Pentateuch, gồm
những giới luật về đạo đức; và chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng phần đó luôn luôn
ít được tuân giữ và chú ý nhất. [13] Khi người Rôma thời cổ phải chịu những tai ương của một bệnh dịch, họ không bao
giờ gán nguyên nhân những khốn khổ của họ cho những đồi bại xấu xa của
họ, hay mơ tưởng đến ăn năn và hối cải. Họ không bao giờ
nghĩ rằng họ là những kẻ tàn nhẫn
đi chinh phục khắp thế giới, khao khát quyền lực và tham
lam của cải của họ đã khiến trái đất thành
hoang tàn và những quốc gia từng
giàu có phải rơi vào cảnh cùng quẫn và đói khổ. Họ đã chỉ bổ nhiệm một nhà
chính
trị độc
tài [14], cốt để đóng một cái đinh vào một
cánh cửa; và bằng cách đó, họ nghĩ rằng họ đã đủ xoa dịu
vị thần linh họ thờ phụng. [15]
N 14. 2, Bea 81
Ở Ægina, một phe nhóm âm mưu, đã tàn bạo và
gian trá ám sát bảy trăm người đồng hương của họ; và cuồng nộ của họ đã đẩy xa đến mức, một kẻ khốn khổ đã chạy trốn đến
đền thờ, đã bị họ chặt lìa cả hai tay, chỗ người này bám vào cổng đền, và mang người này ra khỏi vùng đất
thánh, ngay lập tức giết chết
người này. Herodotus nói [16], bằng sự bất kính vô đạo này, (không phải bằng nhiều ám
sát tàn bạo khác), họ đã xúc phạm đến những vị gót và mắc một tội lỗi không thể tha thứ
được. [17]
N 14. 3, Bea 81-2
Không, nếu chúng ta
sẽ giả định, những gì không bao giờ xảy ra, rằng một tôn giáo phổ thông đã được tìm thấy,
trong đó đã tuyên bố rõ ràng rằng không gì nhưng chỉ đạo đức mới có thể lấy được ân huệ
của thần thánh; nếu một dòng tu giáo sĩ được thành
lập để giảng dạy quan điểm này, trong những bài giảng hàng ngày, và với tất cả những nghệ thuật của thuyết phục; tuy
nhiên, những định kiến của dân chúng đã ăn sâu đến mức, vì sư thiếu thốn của một số mê tín khác,
họ sẽ làm cho chính việc tham dự những
bài giảng này thành những cốt yếu của tôn giáo, thay vì đặt chúng trong đức hạnh và luân lý tốt lành. Theo như chúng ta
biết, Lời mở đầu siêu phàm của những luật Zaleucus [18] đã không gây cảm hứng cho những
người dân Locri, về bất kỳ khái niệm sáng suốt nào hơn về những phương sách giành ưu ái của thần linh, so với với quan điểm đã có của
những người Hellas khác. [19]
N 14. 4, Bea 82
Do đó, quan sát này
có giá trị phổ quát: Nhưng người ta vẫn có thể thấy khó khăn để giải thích nó. Chỉ
cần quan sát thấy rằng mọi người ở khắp nơi đều hạ thấp những thần linh của họ xống thành một đồng dạng với chính họ, và coi những thần
linh như một loại sinh vật giống-như-người, có phần nào hùng mạnh và thông minh hơn. Điều này sẽ không loại bỏ được khó khăn. Vì không có con người nào ngu ngốc đến mức xét theo lý trí tự nhiên
của người ấy, người này sẽ không coi đức hạnh và trung thực là những phẩm chất quý giá nhất vốn bất kỳ người nào có
thể có được. Tại sao không gán cùng
một phẩm
chất đó
cho vị thần của mình? Tại sao không làm cho tất cả tôn giáo, hay phần
chính của nó, gồm những phẩm
chất đã thành tựu này?
N 14,5, Bea 82
Cũng không thỏa
đáng khi nói rằng thực hành đạo đức khó hơn mê tín; và do đó bị từ chối. Vì,
chưa kể đến những sự tự hành xác hối lỗi
quá mức của những Brachmans
và những
Talapoins ; chắc chắn rằng Rhamadan của người Türkiye, trong thời gian đó những người khốn khổ khốn
khổ, trong nhiều ngày, thường là vào những tháng nóng nhất trong năm, và ở một
số nơi có khí hậu nóng nhất trong thế giới, không ăn uống gì từ khi mặt trời mọc.
Cho đến khi mặt trời lặn; Tôi nói rằng Rhamadan này phải khắt khe hơn việc thực hành
bất kỳ nghĩa vụ đạo đức nào, ngay cả với những người xấu xa và sa đọa nhất
trong loài người. Bốn chế độ “mùa
Chay” của đạo Chính
thống Nga, và sự khắc khổ của một số người đạo Catô Rôma, có
vẻ khó chịu hơn là sự hiền lành và nhân từ. Tóm lại, mọi đức hạnh, khi con
người thuận hợp với nó, dù chỉ thực hành rất ít, cũng đều trở nên dễ
chịu; trong khi mọi mê tín mãi mãi đáng ghét và nặng nề.
[20]
N 14. 6, Bea 82-3
Có lẽ, giải thích
sau đây có thể được nhận
như một
giải pháp thực của câu hỏi khó khăn. Những bổn phận vốn
một người thực hiện như
một người bạn hay cha mẹ, có vẻ đơn thuần là mang nợ với người ơn hay với con cái của người này; người này cũng không thể thiếu những bổn phận này,
nếu không phá vỡ tất cả những ràng buộc của tự nhiên và đạo
đức. Một khuynh hướng mạnh mẽ có
thể thúc dục
người này đến sự thực hiện: Một cảm nhận
của trật tự [21]
và bổn phận đạo đức ghép buộc sức mạnh của nó với những ràng buộc tự nhiên này.
Và trọn vẹn con người, nếu đức hạnh chân thành, được bổn phận của người này lôi
cuốn, không cố
gắng dù nhất thời, hay lâu dài. Ngay cả với những đức tính, vốn khắc khổ hơn
và dựa vào suy ngẫm nhiều hơn, loại như tinh thần cộng
đồng, bổn phận hiếu thảo, chừng
mực tiết độ, hay chính trực; những
nghĩa vụ đạo đức, theo thấu
hiểu của chúng ta, xóa bỏ mọi kỳ
vọng về công đức tôn giáo; và hành vi đạo đức được coi
là không ngoài những gì chúng ta nợ xã
hội và chính chúng ta. Trong tất cả những sự việc này, một người mê
tín không tìm thấy gì, vốn người này đã thích đáng thực hiện vì thần
linh, hay một gì có thể đặc biệt giúp
người này nhận được ưu ái và bảo vệ của thần linh. Người này không suy nghĩ rằng phương pháp chân chính nhất để phục vụ thần linh là bằng việc thúc đẩy hạnh phúc cho những
sinh vật đồng loại. Người này vẫn tìm một phục vụ nào
đó trực tiếp hơn
với Hữu thể tối cao, ngõ hầu làm nguôi những kinh hoàng đó, vốn chúng đã ám ảnh người này. Và nếu chỉ vì nó, người này hy sinh nhiều thoải mái và yên tĩnh, công đức tự cho của người
này hiện ra như vẫn tăng lên, tỷ lệ thuận với
nhiệt thành và hiến dâng vốn người này đã
tìm ra. Khi hoàn lại những gì đã
mượn, và trả lại những gì đã
vay, thần linh không nợ gì người này và người này không nhận được bất kỳ ân huệ đặc biệt nào từ thần linh; bởi vì đây là những hành động
công lý, là những gì
người này buộc phải thực hiện, và những gì nhiều người sẽ thực hiện, như nếu đã không có thần linh
trong vũ trụ. Nhưng nếu người
này nhịn ăn một ngày, hay tự đánh mình một trận; theo ý kiến của người này, sư việc này có một liên quan trực tiếp
đến việc phục vụ Gót. Không có động cơ nào khác có thể lôi kéo người này vào những khổ hạnh như vậy. Nhờ
những dấu hiệu sùng kính nổi bật này, giờ đây người này đã nhận được ân
huệ thiêng liêng; và có thể trông
mong đền đáp, được bảo bọc
và an lành trong kiếp sống này, cũng như hạnh phúc vĩnh cửu kiếp sau.
N 14. 7, Bea 83
Do đó, những tội ác
lớn nhất nhất đã tìm thấy, trong nhiều trường hợp, tồn
tại tương
ứng với một sự sùng đạo mê tín và nhiệt thành tôn giáo: Do đó, việc đưa ra bất kỳ kết luận nào về tính cách đạo đức của một người, dựa trên sự nhiệt
thành hoặc nghiêm ngặt tuân thủ tôn giáo của người này thì chắc chắn là không tin cậy, ngay cả khi chính
người này tin tưởng
chúng chân thành. Không, người ta đã quan sát thấy rằng những tội ác tày trời nhất có khunh hướng gây ra từ mê
tín kinh hoàng và làm tăng thêm nhiệt thành tôn giáo. Bomilcar, sau khi âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và xâm phạm những tự do của đất nước ông,
đã đánh mất cơ hội, do liên tục chú ý đến những
điềm báo và những
tiên tri. Như một sử gia thời cổ [22] đã quan sát, những người thực hiện
những tham vọng, liều lĩnh tội phạm và nguy
hiểm nhất thường là những người mê tín nhất; tâm lý sùng đạo và nhiệt thành của họ tăng theo tỷ lệ thuận với những sợ hãi của họ. Tương
tự như vậy, Catiline đã không hài lòng với những vị gót
đã thiết lập và những nghi lễ chính thức của tôn giáo quốc gia. Những lo lắng ngày càng
tăng khiến ông tìm kiếm những hình thức thờ cúng mới thuộc loại này; [23] những thực hành ông có lẽ sẽ không bao giờ nghĩ
đến, nếu ông vẫn là một công dân trung thành, tuân thủ với luật pháp của đất
nước ông. [24]
N 14. 8, Bea 83-4
Chúng ta có thể
thêm rằng, sau khi phạm tội, sẽ nảy sinh những hối hận và kinh hoàng thầm kín, khiến
tâm lý trở nên bất an, khiến nó phải cầu đến nghi thức thanh tẩy tôn giáo và những nghi lễ tôn giáo công cộng, như một cách đền bù cho những tội lỗi của họ. Bất cứ gì làm
suy yếu hoặc phá vỡ sự ổn định của não
thức đều có tác dụng nuôi dưỡng sự phát triển của mê tín: Và không có gì hủy
hoại chúng hơn một đức tính kiên định, mạnh mẽ, hoặc bảo vệ chúng ta khỏi những
tai nạn thảm khốc, u sầu, hoặc dạy chúng ta cách chịu đựng chúng. Trong ánh
nắng an bình của não thức như vậy, những bóng
ma của thần thánh giả tạo này không bao giờ xuất hiện. Mặt khác, trong khi
chúng ta buông bỏ chúng ta cho những đưa lên vô kỷ luật tự nhiên của những
trái tim rụt rè và lo lắng của chúng ta, mọi loại của man rợ đều được gán
cho Đấng Tối cao, từ những kinh hoàng chúng ta bị kích động với chúng; và mọi loại thất
thường, từ những phương pháp mà chúng ta dùng để xoa dịu ngài. – sự tàn ác
man rợ và ý thích thất thường – Những tính chất này, dù trên
danh nghĩa được ngụy trang đến đâu, chúng ta có thể phổ quát quan sát, hình
thành nên tính cách cai trị của thần linh
trong những tôn giáo phổ biến. Ngay cả những giáo sĩ, thay vì sửa chữa
những ý tưởng sa đọa này của loài người, thường được thấy sẵn sàng nuôi dưỡng
và khuyến khích chúng. Vị thần càng được mô tả đáng sợ, con
người càng trở nên phục tùng những nhà chức trách tôn giáo. Những đòi hỏi để được thần thánh
chấp nhận càng khó giải thích, thì nhu cầu từ bỏ lý trí và phó thác bản thân
cho sự hướng dẫn của những nhà lãnh đạo tinh thần này càng lớn. Thần linh càng được thể hiện
to lớn thì con người càng trở nên thuần phục và phục tùng những giáo sĩ của mình: Và những
biện pháp chấp nhận mà Ngài yêu cầu càng khó hiểu, thì việc từ bỏ lý trí tự
nhiên của chúng ta và khuất phục trước sự hướng dẫn ma quái của họ càng trở nên cần
thiết hơn. và phương hướng. Vì vậy, có thể nhìn nhận rằng sự lừa dối và
ảnh hưởng của con người làm trầm trọng thêm những yếu đuối cố hữu và khuynh
hướng phi lý của chúng ta, nhưng những khiếm khuyết này có nguồn gốc sâu xa hơn
và không phải do chúng tạo ra. Gốc rễ của chúng ăn sâu vào não thức và xuất
phát từ những đặc tính thiết yếu và phổ quát của bản chất con người.
Tiết XV.
Hệ
Luận Tổng Quát
N 15. 1, Bea 85
Mặc dù sự ngu muội của con người,
những kẻ vô học và man rợ, thì
quá lớn khiến
họ không thể nhìn thấy một tác
giả trị vì tối cao, hiển nhiên hơn trong những công trình của tự nhiên, vốn họ đã quá thân thuộc với chúng; nhưng có vẻ hiếm có thể xảy ra, rằng một ai có khả năng hiểu biết sẽ lại bác bỏ ý tưởng đó, một khi nó được đưa ra
với người này. Một chủ đích, một ý định, một kế hoạch thực
hiện thì hiển nhiên trong mọi sự vật việc; và khi sự thấu hiểu của chúng ta
mở rộng đến mức để suy ngẫm về căn
nguyên đầu tiên của hệ thống
hữu hình này, chúng ta khó có thể tránh khỏi việc chấp nhận, với tín tưởng vững mạnh nhất, ý tưởng về một nguyên nhân hay
tác giả sáng tạo thông minh nào đó. Những quy luật nhất
quán, cũng thế, vốn chi phối toàn bộ khung
cấu trúc của vũ trụ, một cách tự nhiên, nếu
không tất yếu, đưa chúng ta đến hình dung trí thông minh này như duy
nhất, thống nhất [25], trừ
khi những thành kiến từ giáo dục ngăn cản việc chấp nhận ý tưởng hợp lý này. Ngay cả những trái ngược của thiên nhiên, khi tự
thể hiện khắp nơi, trở
thành những bằng chứng của
một kế hoạch nhất quán, và thiết lập
một chủ
đích hay ý định duy
nhất, cho dù nó có thể không thể giải thích được và vẫn khó hiểu với con
người.
N 15. 2, Bea 85
Tốt lành và xấu ác đều phổ quát pha trộn và hòa
lẫn; sung sướng
và khổ sở, khôn ngoan với điên rồ, đức hạnh và tội lỗi, không bao giờ tìm thấy tách biệt. Không có gì thì thuần khiết và là hoàn toàn một sự vật việc. Mọi ưu điểm đều kèm theo nhược điểm. Một sự bù trừ phổ quát chi phối tất cả những điều
kiện của sự sống và hiện hữu. Và chúng ta, ngay cả với những ao ước hão huyền nhất
của chúng ta, cũng không thể hình thành được ý niệm về một vị trí hay hoàn cảnh
hoàn toàn đáng mong muốn. Những số phận của cuộc đời, như tưởng tượng của nhà
thơ, đều luôn luôn được pha trộn từ những chiếc bình trên mỗi tay của thần
Jupiter: một chứa toàn phúc lành, một chứa toàn bất hạnh. Hoặc nếu nếu một cái
chén rót ra được hoàn toàn thuần khiết, thì nó đến chỉ từ bình bên trái, như
nhà thơ đó nói, chứa toàn bất hạnh. [26]
N 15. 3, Bea 85
Bất
kỳ tốt lành
nào, ngay cả khi chúng ta được ban cho chỉ một tơ hào, càng tuyệt vời bao
nhiêu, thì xấu ác đi kèm với nó càng sắc bén bấy nhiêu; và thấy ít có những
ngoại lệ với quy luật bất biến này của tự nhiên. Thông minh sống động nhất thì
rất gần với điên rồ; những dâng trào sung sướng nhất sản sinh những sầu muộn
sâu thẳm nhất; những lạc thú mê đắm nhất chắc chắn đi kèm với mệt mỏi và chán chường
nhất; những hy vọng tôn lên cao nhất sẽ nhường chỗ cho những thất vọng nặng nề
nhất rơi xuống. Và trong tổng quát, không đường đời nào có an toàn như (vì hạnh
phúc không phải là điều có thể mơ ước mà được), con đường điều độ và ôn hòa, vốn
duy trì một sự tầm thường và một loại của vô cảm, càng nhiều càng tốt trong tất
cả sự vật việc.
N 15. 4, Bea 86
Trong khi cái tốt lành, cái lớn lao, cái siêu phàm, cái mê đắm được tìm thấy rõ
ràng trong những nguyên lý chính thực của tôn giáo tin chỉ một
Gót; từ sự tương tự của tự nhiên, người ta có thể mong
đợi rằng cái thấp hèn, phi
lý, cái xấu xa, cái đáng sợ cũng sẽ được tìm
thấy trong nhũng
hư cấu và ảo tưởng tôn giáo.
N 15,5, Bea 86
Khuynh hướng phổ
biến tin vào quyền năng thông minh, vô hình, nếu không là một bản năng nguyên
thủy, thì ít nhất là một đi theo có chung của bản chất con người,
có thể coi như một loại nhãn hiệu hoặc dấu đóng
vốn người thợ thiêng liêng đã đặt lên những tác phẩm của người này; và chắc chắn
không gì có thể làm loài người vinh hạnh hơn là được chọn như
thế từ tất cả những phần khác của sự sáng tạo, và mang hình ảnh
hay ấn tượng của vị sáng tạo phổ
quát. Nhưng thăm
dò hình ảnh này, như nó xuất hiện trong
những tôn giáo phổ thông
của thế giới. Vị gót bị biến dạng đến thế nào trong những
biểu hiện của chúng ta về ngài! Thật là thất thường, phi lý và vô đạo đức đã được gán cho vị này! Ngài đã bị hạ thấp không biết đến mức nào, ngay cả còn dưới nhân cách vốn chúng ta, trong đời sống thường ngày, tự nhiên sẽ gán cho một người
có lý trí và đức hạnh!
N 15. 6, Bea 86
Thật là một đặc ân
cao quý cho lý trí con người khi đạt được kiến thức về Đấng tối cao! Và từ
những công trình hữu hình của thiên nhiên, có thể suy ra một nguyên lý siêu
phàm như sự hiện hữu của Đấng sáng tạo
tối cao của nó! Nhưng hãy lật
ngược tấm huy chương. Quan sát hầu hết những quốc gia và hầu hết những thời
đại. Xem xét những nguyên lý tôn giáo, trong thực tế, đã thịnh hành trên thế
giới. Bn sẽ khó có thể tin rằng chúng là gì khác ngoài những giấc mơ của những
người bệnh: Hoặc có lẽ sẽ coi chúng giống như những trò hề tinh nghịch
của loài khỉ trong hình dạng con người, hơn là những khẳng
định nghiêm trang, tích cực, giáo điều của một sinh vật vốn tự tôn vinh với danh
xưng của con người lý trí.
N 15. 7, Bea 86
Hãy
lắng nghe những phản đối của tất cả mọi người: Không có gì vững chắc bằng những
nguyên lý tôn giáo của họ. Nhưng hãy nhìn vào đời sống của họ, bạn sẽ khó có thể nghĩ rằng họ đã
đặt một tin tưởng nhỏ nhất nào vào chúng.
N 15. 8, Bea 86
Nhiệt thành lớn
nhất và chân thật nhất không đem
cho chúng ta sự bảo
đảm trước sự đạo đức giả: Sự bất
kính vô đạo công khai nhất đi kèm với một
khiếp sợ và sự ăn năn thầm kín.
N 15. 9, Bea 86
Không có những phi lý gót học nào quá lộ liễu
đến nỗi đôi khi, những người có hiểu biết sâu xa và uyên bác nhất
lại không chấp nhận chúng. Không có những giới luật tôn giáo nào quá nghiêm ngặt đến nỗi những con người phóng túng và đồi bại nhất
lại không chấp nhận
N 15. 10, Bea 86
Sự ngu dốt là mẹ
của lòng sùng đạo: Một châm ngôn mang tính tục ngữ và được
kinh nghiệm
tổng quát khẳng định.
Hãy tìm một dân tộc hoàn toàn không tôn giáo: Nếu bạn tìm thấy họ, hãy yên tâm
rằng họ cách với loài
thú vật chỉ vài mức độ.
N 15. 11, Bea 86
Có gì thuần khiết
hơn một số giáo lý đạo đức tìm thấy trong một số hệ thống gót học nhất định?
Tuy nhiên, có gì đồi bại hơn một số thực
hành vốn chính những hệ thống này đã
phát sinh?
N 15. 12, Bea 87
Những viễn cảnh an
ủi thể hiện qua tin tưởng của
kiếp sống tương lai,
thật mê hoặc và say đắm. Nhưng
nhanh chóng biết bao, biến mất khi những kinh hoàng của nó xuất hiện, vốn chúng vẫn giữ được
một sở hữu vững chắc và bền bỉ hơn trong não thức con người!
N 15. 13, Bea 87
Toàn bộ là một câu
đố, một ẩn số vô cùng khó hiểu, một bí ẩn không giải thích được. Hoài nghi, không cơ sở chắc chắn, tạm hoãn phán đoán hiện ra như kết quả duy nhất của sự xem xét
kỹ lưỡng, chính xác nhất của chúng ta, liên quan với đề tài này. Nhưng lý trí con
người vốn yéu đuối như vậy, và sự tiêm nhiễm khôn cưỡng của quan điểm như vậy, khiến
ngay cả sự hoài nghi
thận trọng này cũng khó có thể được duy trì; nếu chúng
ta không mở rộng cái nhìn của chúng ta, và đặt một loại mê tín này chống lại một loại khác, để chúng rơi
vào một bất hòa; trong khi chính chúng ta, giữa thịnh nộ và xung đột của chúng,
may mắn trốn thoát vào những vùng tĩnh lặng, mặc dù có phần mơ hồ không chắc,
của triết học.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
cụ thể là qua lăng kính của sợ hãi.
[2]
Hume lập luận rằng trong những xã hội ông mô tả là “man rợ và ngu dốt” (phản ảnh thành kiến lấy châu Âu làm trung
tâm của thế kỷ 18), mọi người có thể tôn thờ một vị thần vốn chính họ coi là độc ác và đáng ghê tởm.
Tuy nhiên, mặc dù nhận ra sự độc ác của vị thần này, họ vẫn tiếp tục tôn thờ,
có thể là vì sợ bị trả thù. Hume cho rằng những người tôn thờ như vậy có thể
nhìn nhận bản chất độc ác của vị thần trong riêng tư nhưng không công khai chỉ
trích vị thần đó – đặc biệt là trong những bối cảnh tôn giáo – vì sợ vị thần đó có thể nghe được và trừng phạt họ. Điều này củng cố lập
luận rộng hơn của ông rằng tin tưởng tôn giáo ban đầu được thúc đẩy nhiều hơn bởi
sợ hãi và mê tín hơn là lý trí hoặc ngưỡng mộ về đạo đức đối với thần thánh.
[3]
[N 13. 5n83, Bea 78 Mem. lib. i. ]
[4]
[N 13. 5n84, Bea 78
Người xưa coi đó là một nghịch lý triết học rất phi thường, rằng sự hiện
diện của những thần linh không chỉ giới hạn ở trên trời nhưng còn mở rộng ra
khắp nơi; như chúng ta biết
được từ Lucian Hirmotimus sive De sectis . ]
Ở Hellas thời cổ, người ta thường nghĩ rằng những vị
gót có kiến thức chọn lọc và chủ yếu ở trên trời cao. Tuy nhiên, Socrates đã
bác bỏ ý tưởng rằng những vị gót có kiến thức giới hạn. Thay vào đó, ông lập luận
rằng những vị gót là toàn năng, biết mọi sự vật việc, gồm mọi hành động, lời
nói và ngay cả cả những suy
nghĩ. Đây là một sự thay đổi triệt để so với tin tưởng thông thường rằng những
vị gót có thể không biết một số sự vật việc nhất định hoặc chỉ có một kiến thức chọn lọc. Quan điểm của
Socrates được coi là một nghịch lý triết học, vì nó thách thức hiểu biết truyền
thống về kiến thức và quyền năng của thần thánh. Thêm nữa, Socrates cũng nêu lên rằng những vị
gót có hiện diện trải rộng
khắp mọi nơi, không giới hạn chỉ trên trời cao. Ý tưởng này phản ảnh môht quan điểm của
thuyết panentheism: tin gót ở khắp mọi nơi – rằng thần thánh hiện diện trong tất cả sự vật việc và không chỉ hạn hẹp ở một địa điểm cụ thể. Tin tưởng vào sự
hiện diện khắp mọi nơi của những vị gót sau đó đã được nhắc lại trong Hirmotimus
sive De sectis của Lucian, một đối thoại châm biếm, chỉ trích nhiều trường phái tư tưởng tôn
giáo và triết học khác nhau. Lucian cũng thảo luận về quan niệm rằng những vị
gót hiện diện ở khắp mọi nơi, tương tác và quan sát thế giới ở mọi nơi và mọi
lúc. Do đó, quan điểm của Socrates đã góp phần vào bàn luận triết học rộng hơn, đặt câu hỏi trên những ý tưởng tôn giáo truyền thống về bản
chất của những vị gót và quan hệ của họ với loài người. ]
[5]
[N 13. 5n85, Bea 78 Plutarch. de
Superstit]
[6]
dæmonism : Trong Hume,
dæmonism chỉ những tin
tưởng vào những thế
lực hoặc hồn linh siêu
nhiên độc ác hoặc đáng sợ. Khái niệm này khác với “daimonion”. Socrates nổi tiếng với việc
tin vào “daimonion” – một giọng nói bên trong thiêng liêng hoặc hồn thiêng dẫn đường – mà ông mô tả là một dạng
hướng dẫn thiêng liêng ảnh hưởng đến những quyết định của ông, thường báo trước cho ông một số hành động nhất
định.
[7]
Hume lập luận rằng khi mọi người nâng cao khái niệm về thần thánh, họ có xu hướng
nhấn mạnh đến quyền năng và kiến thức của Gót hơn là lòng tốt của Người. Cảm
giác cao độ về sự toàn năng và thẩm quyền của Gót làm tăng thêm nỗi sợ hãi của
họ, vì họ tin rằng không có suy nghĩ hay hành động nào có thể che giấu được Người.
Kết quả là, họ cảm thấy buộc phải chỉ ca ngợi và ngưỡng mộ, ngay cả khi họ gán
cho Gót những hành động mà ở con người, sẽ bị coi là tàn nhẫn hoặc bất công. Ông
cho rằng những tôn giáo phổ biến, đặc biệt là trong não thức của những người có
tin tưởng tôn giáo bình thường, giống như một hình thức thờ quỷ thần (“dæmonism”)
– nơi mà vị thần càng được coi là càng nhiều quyền năng và hiểu biết thì vị này càng tỏ ra ít tử tế và
nhân từ. Trong khi những người thờ phụng dùng những lời ca ngợi, thì trái tim họ
lại âm thầm từ chối những khía cạnh khắc nghiệt và thù hận mà họ gán cho Gót, tạo
ra một cuộc xung đột nội tâm. Cuộc đấu tranh này – giữa tình cảm đạo đức chân
chính và sự ngưỡng mộ tôn giáo bị ép buộc – chỉ làm sâu xa thêm sợ hãi và đau khổ của họ dưới sự
mê tín.
[8]
[N 13. 7n86, Bea 79 Necyomantia. ]
[9]
[N 13. 7n87 Xem GHI CHÚ [EEE].
[N 13. 7n87. 1, Bea
79
BACCHUS, một thần linh, được thần thoại ngoại giáo mô
tả như người phát minh của
vũ điệu và sân khấu. những vở kịch cổ xưa
ngay cả còn là một phần của việc thờ cúng công cộng trong những dịp
trang trọng nhất và thường được thực
hiện trong thời kỳ dịch bệnh để xoa dịu những thần linh
cho là đã bị xúc phạm. Nhưng những thời sau này, chúng đã bị những
người sùng đạo nhiệt thành cấm đoán; và nhà diễn kịch, theo một học giả uyên bác về tôn giáo, là “hiên nhà” của hỏa ngục.
[N 13. 7n87. 2, Bea
79-80
Nhưng để cho
thấy hiển nhiên hơn, rằng điều là có thể
cho một tôn giáo để hình dung thần thánh trong một
ánh sáng còn vô đạo đức và khó
thương hơn vị này đã được những người xưa tô vẽ, chúng ta sẽ dẫn một đoạn văn dài của một tác giả có văn phong tao nhã với diễn đạt
sáng tạo sống động, người chắc chắn không là kẻ thù của đạo Kitô. Đó là
Chevalier Ramsay, một nhà văn, người có
một khuynh hướng đáng khen, tuân giữ những giáo lý truyền thống, đến mức lý trí của ông đã không thấy có bất kỳ
khó khăn nào khi chấp nhận, ngay cả những học thuyết vốn những người tự do tư tưởng có hoài nghi nhất, đó là những giáo thuyết về Gót ba ngôi, sự nhập thể và sự chuộc tội: Nhân ái và ý thức đạo đức
của ông, vốn ông dường
như có một kho tàng lớn, đã nổi loạn chống lại những học thuyết về sự nguyền
rủa vĩnh cửu và tiền định (tin tưởng rằng một
số hồn người bị kết án
nguyền rủa ngay từ đầu, không có hy vọng được cứu rỗi). Ông bày tỏ suy nghĩ của
ông như sau: “Một triết gia India hay Tàu sẽ có
những ý tưởng kỳ lạ đến thế nào về
tôn giáo thiêng liêng của chúng
ta?”, ông tự hỏi, “nếu sự hiểu biết của họ về tôn giáo này chỉ đến từ
những mô tả của
những người tự do tư tưởng thời nay (những người, từ chối thẩm quyền tôn giáo, diễn
giải nó qua một lăng kính hoàn toàn hoài nghi, thường mô tả nó theo cách khắc
nghiệt hoặc thiếu nhân ái) và từ những nhà gót học cứng nhắc, tự cho mình là đúng, của nhiều giáo phái khác nhau (những nhân vật,
giống) như những người Pharisi thời
xưa? Theo như hệ thống ghê tởm và quá thô tục của
những người hoài nghi chế giễu và bác bỏ tôn giáo một cách khinh miệt, và của
những ngòi bút cả tin mù quáng chấp nhận và truyền bá giáo điều của nó với
không hoài nghi thắc mắc, vị Gót của người Jew là một một sinh vật độc ác
tàn nhẫn, bất công, thiên vị và viển vông
nhất. Khoảng 6000 năm trước, Vị sáng thế này đã tạo
ra một người nam và một người nữ, và đặt họ trong một khu vườn tuyệt đẹp ở châu
Á, nơi (ngày nay) không còn dấu tích nào. Khu vườn này được trang bị đủ loại
cây cối, đài phun nước và cỏ hoa. Ngài cho phép họ dùng tất cả những loại trái
cây trong vườn xinh đẹp này, ngoại trừ một loại trồng giữa khu vườn, và có
trong đó một đức tính bí mật là bảo vệ cho họ được luôn khỏe mạnh và cường
tráng về thể chất và tinh thần, tăng cường khả năng tự nhiên của họ và khiến họ
thành khôn ngoan. Ma quỉ đã nhập vào cơ thể một con rắn, và nó đã dụ dỗ người
nữ đầu tiên ăn trái cấm này; bà cũng đã khiến người chồng làm như vậy. Để trừng
phạt sự tò mò nhỏ nhoi và ham muốn tự nhiên này, về sự sống và kiến thức, Gót
không chỉ đuổi tổ tiên đầu tiên của chúng ta ra khỏi thiên đường, nhưng còn kết
án tất cả con cháu của họ phải chịu đau khổ trần gian, và phần lớn trong số họ
sẽ phải chịu đau khổ vĩnh viễn, dù những hồn của những đứa trẻ vô tội này không
liên quan gì với hồn người của Adam hơn là với của Nero và Mahomet; vì theo
những nhảm nhí của giới học giả, những người viết truyện ngụ ngôn và những nhà
thần thoại học kinh viện, tất cả hồn người đều được tạo ra trong sạch và được
truyền vào trong những cơ thể phàm trần, ngay khi thai nhi
được hình thành. Để thực hiện sắc lệnh thiên vị man rợ của sự tiền định và trừng
phạt hỏa ngục, Gót đã bỏ mặc tất
cả những dân tộc trong bí mật đen tối, thờ linh tượng
và mê tín, không có được bất kỳ kiến thức cứu rỗi hay ân sủng cứu chuộc nào; ngoại trừ một
dân tộc cụ thể, vốn Gót đã chọn như dân tộc đặc biệt của ngài. Tuy nhiên, dân tộc được chọn
này lại là dân tộc ngu xuẩn, vô ơn, phản nghịch và ngoan cố nhất trong tất cả
những dân tộc.
Sau khi Gót như thế, đã giữ rất đông loài người trong gần 4000 năm, trong một tình trạng đáng ghê
tởm, – bị ruồng bỏ, không
ơn cứu rỗi – Ngài thình lình thay đổi, và đã thể hiện lòng ưu ái với những dân tộc khác, ngoài dân tộc Jew. Khi đó, Ngài đã sai đứa
con một của Ngài xuống thế gian, dưới dạng của một con người, để xoa
dịu thịnh nộ của Ngài, thỏa mãn công lý oán thù của Ngài, và
chết cho sự tha thứ tội lỗi của Ngài. Tuy nhiên, rất ít dân
tộc đã nghe được
“tin
lành” này, và tất cả những dân tộc còn lại, mặc dù bị bỏ trong ngu muội không thể vượt, đều
bị nguyền rủa nhưng không có ngoại lệ, hay
bất kỳ khả năng nào để
được tha thứ.
Phần đông đảo nhất của những người đã nghe nói về nó,
đã thay đổi chỉ
trong một số khái niệm mang tính luận đoán về Gót và một
số hình thức thờ phụng bên ngoài: Vì, trong những phương diện khác, phần lớn
những người đạo Kitô vẫn tiếp tục sa đọa về đạo đức của họ như phần loài người
còn lại; Thật vậy, họ trở nên suy đồi về đạo đức và tội lỗi hơn, vì kiến thức
lớn hơn và hiểu biết sâu hơn của họ về những lời dạy thiêng
liêng (‘ánh sáng'’của họ) đáng lẽ phải dẫn họ đến
sống những đời tốt đẹp hơn, nhưng họ đã thất
bại, không làm như vậy. Trừ khi đó là một số rất nhỏ đã được chọn, tất cả
những người Kitô khác, như những người ngoại đạo, không-Kitô, sẽ bị nguyền rủa
mãi mãi; sự hy sinh lớn lao đã
dâng lên vì họ sẽ thành
không, và vô tác dụng; Gót sẽ thích thú mãi mãi trong sự thống
khổ và phạm thượng của họ; và mặc dù ngài có thể thay đổi
trái tim họ bằng một lệnh truyền, nhưng họ sẽ mãi mãi không được hoán cải và
không thể cải đạo, bởi vì ngài
sẽ mãi mãi không thể làm cho nguôi được và không thể hòa giải được. Đúng
là tất cả những sự việc này làm Gót đáng ghê tởm, là một kẻ ghét những hồn
người hơn là một người yêu thương chúng; một bạo chúa độc ác, đầy thù hận, một yêu quái bất lực
hay phẫn nộ, hơn là một người cha toàn năng, nhân từ của những hồn người. Thế nhưng tất cả những sự việc này là một bí ẩn. Ngài có những lý do bí mật cho hành vi của ngài, những
lý do con người không thể hiểu thấu; và mặc dù Ngài có vẻ bất công và man rợ,
nhưng chúng ta phải tin ngược lại, bởi vì những gì như bất công, tội ác, tàn ác
và ác ý đen tối nhất trong chúng ta, thì trong Ngài lại là công lý, thương xót và
thiện lành tối cao. Thế nên, những nhà tư tưởng-tự do hoài nghi,
những người Kitô Juda-hóa, và những học giả về thuyết định mệnh đã làm biến dạng và
làm ô nhục những huyền nhiệm cao cả của tin tưởng tôn giáo linh
thiệng của chúng ta; như vậy họ đã làm lẫn
lộn bản chất của và ác; đã biến những tình cảm quái dị nhất thành những thuộc tính thiêng
liêng, và vượt qua những người ngoại giáo trong sự tính báng bổ, bằng
coi bản chất vĩnh cửu, như những toàn hảo, là những gì tạo ra những tội ác
khủng khiếp nhất giữa con người. Những người ngoại giáo thô thiển hơn bằng lòng
với sự thần thánh hóa dục vọng, loạn luân và ngoại tình; nhưng những học giả về tiền định đã thần
thánh hóa sự tàn ác, phẫn nộ, giận dữ, báo thù và tất cả những tệ nạn đen tối
nhất”. Xem Những Nguyên Lý Triết Học Về Tôn Giáo Tự Nhiên Và Sự Vén lên cho thấy Huyền bí của Chevalier Ramsay, Phần II. P. 401.]
The Judaizing Christians: những người theo đạo
Kitô tuân thủ hoặc thúc đẩy những
nghi lễ và luật lệ tôn giáo của người Jew, thường nhấn mạnh rằng đức tin của
người theo đạo Kitô vẫn phải bị ràng
buộc bởi những yếu tố của Luật Mosaic (ví dụ, cắt bao quy đầu, luật ăn kiêng).
Trong nội dung này, họ có thể bị coi là bóp méo đạo Kitô bằng áp đặt những truyền thống
theo thuyết duy luật.
The Fatalistic Doctors : Những tiến sĩ theo thuyết định
mệnh – Có lẽ điều này ám chỉ đến những nhà gót học nhấn mạnh vào thuyết định mệnh,
tin tưởng rằng mọi sự kiện, bao gồm cả hành động của con người, đều được ý Gót
định sẵn và không thể tránh khỏi. Theo nghĩa tôn giáo, điều này chỉ trích những
người dạy về thuyết tiền định cực đoan, cho rằng ý chí tự do của con người là
vô nghĩa. The Predestinarian Doctors: Những “tiến sĩ” theo thuyết tiền định”
– Đây là những học giả tôn giáo ủng hộ mạnh mẽ thuyết tiền định, học thuyết cho
rằng Gót đã định sẵn số phận của mọi linh hồn, bao gồm cả những người sẽ được cứu
rỗi hay bị nguyền rủa. Đoạn văn này chỉ trích họ vì đã mô tả Gót là tàn nhẫn và
bất công bằng biến sự cứu rỗi phụ thuộc vào sắc lệnh của Gót hơn là hành động
hoặc lựa chọn đạo đức của con người.
Ramsay, Chevalier (Andrew Michael), 1686-1743). The
Philosophical Principles of Natural and Revealed Religion. Part II. London:
Printed for the author, 1731
[N 13. 7n87. 3, Bea 80\
Cũng chính tác giả
này khẳng định, trong những chỗ khác, rằng những
hệ thống gót học của Arminius và Molina
hầu như không có tác dụng gì trong việc hàn gắn vấn đề: Và do đó,
sau khi đã tự ném mình ra khỏi tất cả những giáo phái được nhìn nhận của đạo Kitô, ông buộc phải phát
triển một hệ thống của riêng ông, vốn
là một biến thể của gót học Origen,
và giả định rằng hồn của cả người và thú vật đều hiện hữu từ trước, cũng như
sự cứu rỗi và cải đạo vĩnh cửu của tất cả loài người, thú vật và ma quỷ. Nhưng
khái niệm này, là đặc biệt của ông nên chúng ta không cần phải bàn thêm. Tôi nghĩ những ý kiến của tác giả
tài tình này rất đáng tò mò
tìm hiểu; nhưng tôi không tuyên bố bảo đảm sự
chính xác của chúng. ]
Origenism – Một hệ thống gót học từ Origen (khoảng
năm 185–253 sau Công nguyên), dạy về sự hiện hữu trước của hồn ngườivà sự cứu rỗi
phổ quát, nơi mà tất cả chúng sinh, thậm chí cả ma quỷ, cuối cùng đều được hòa
giải với Gót. Arminianism – Một học thuyết của Jacobus Arminius (1560–1609) phản đối thuyết
tiền định của Calvin, nhấn mạnh ý chí tự do của con người trong việc chấp nhận
hoặc từ chối ân sủng của Gót . Molinism – Một học thuyết của Luis de
Molina (1535–1600) tìm cách cân bằng quyền tối cao của Gót và ý chí tự do của
con người, đề xuất rằng Gót có kiến thức trung gian về mọi lựa chọn có thể mà
con người có thể đưa ra.
[10]
Những nguyên lý đạo đức chỉ thuần túy khi chúng là thiết yếu đối với sự hiện hữu
của xã hội, phản ánh quan điểm về hợp đồng xã hội, trong đó đạo đức nảy sinh từ
sự cần thiết chứ không phải từ chân lý tuyệt đối. Những nhà triết học như (a)
Thomas Hobbes lập luận trong Leviathan (1651) rằng nếu không có khuôn khổ
đạo đức vững chắc, xã hội sẽ sụp đổ trong hỗn loạn, khiến đạo đức trở thành một
sự cần thiết thực tế. (b) David Hume coi đạo đức là nền tảng trong tình cảm của
con người và nhu cầu của xã hội chứ không phải là thần quyền thiêng liêng.
[11]
[N 13. 7n88, Bea 80 Ovid . Metam. lib. ix. 501. ]
[12]
“Sunt superis sua jura”, Latin: “Những vị thần có luật lệ
riêng” hoặc “Những vị thần có quyền riêng”. Nó ngụ ý rằng những vị thần không bị
ràng buộc bởi luật lệ đạo đức của con người và có thể hành động theo ý muốn
thiêng liêng của riêng họ, bất kể quan niệm đúng sai của con người.
[13]
Sadder: Có lẽ nhắc đến những tác phẩm tôn giáo của
đạo thờ Zoroaster, tóm tắt những nghĩa vụ đạo đức và
tôn giáo, có thể là từ Saddar Nasr, một bình luận sau này về Zend-Avesta. Pentateuch: Năm
quyển sách
đầu tiên của Kinh thánh Hebrew (Genesis, Exodus, Leviticus,
Numbers, Deuteronomy), còn gọi là Torah trong đạo Juda.
[14]
[N 14. 1n89, Bea 81 Called Dictator
clavis figendæ causa. T. Livii, l. vii. c. 3. ]
[15]
Hume nhắc đến một nghi lễ tôn giáo Rôma thời cổ trong đó một nhà độc tài được
chỉ định thực hiện một nghi lễ đóng đinh vào đền thờ Jupiter Optimus Maximus. Nghi
lễ này, được gọi là clavus annalis (“đinh đóng hằng năm”), được cho là
có sức mạnh apotropaic (bảo vệ) hoặc sám hối (chuộc tội). Người Rôma
nghĩ rằng nghi lễ đơn giản này có thể xua đuổi cơn thịnh nộ của thần linh, gồm
cả bệnh dịch hoặc những tai họa khác, thay vì đổ lỗi cho những bất hạnh của họ
do những khiếm khuyết về mặt đạo đức,
hay tìm cách sửa đổi hành vi của họ. Hume
dùng ví dụ này để minh họa cho một lời chỉ trích rộng hơn về khuynh hướng tôn
giáo: rằng mọi người thường tìm kiếm sự ưu ái của thần linh qua những hành động
nghi lễ hoặc mê tín hơn là qua hành vi đạo đức.
[16]
[N 14. 2n90, Bea 81 Lib. vi. ]
[17]
Hume nhấn mạnh sự trớ trêu trong nhận thức tôn giáo về tội lỗi qua lời kể của
Herodotus về một hành động tàn bạo ở Ægina. Một phe phái chính trị, có lẽ trong một tranh giành quyền lực,
đã thảm sát 700 người, nhưng những vị thần được coi là bị xúc phạm không phải bởi
thảm sát mà là hành động kéo một kẻ chạy trốn khỏi đền thờ, chặt tay anh ta, rồi
giết anh ta. Điều này cho thấy rằng hành vi xâm phạm không gian linh thiêng, chứ
không phải giết người hàng loạt, mới được coi là hành vi vi phạm thực sự. Mặc
dù ngôi đền chính xác vẫn chưa chắc chắn, nhưng có khả năng nó được dành riêng
cho Zeus, Apollo hoặc một vị thần chính khác. Hume chỉ trích cách những truyền
thống tôn giáo thường ưu tiên sự thanh khiết trong nghi lễ hơn là những tội ác
đạo đức cơ bản, đặt sai vị trí những ưu tiên về mặt đạo đức.
[18]
[N 14. 3n91, Bea 82 To be found
in Diod. Sic. lib. Xii]
[19]
Zaleucus là một nhà lập pháp từ Locri Epizephyrii, một thuộc địa của Greece, miền nam nước Ý, được ghi
nhận là người đã tạo ra một trong những bộ luật thành văn sớm nhất. Bất chấp sự
giới thiệu cao viễn về
luật pháp của ông, Hume lập luận rằng người Locrian, cư dân của Locri, không có
cái nhìn sáng suốt hơn về sự ưu ái của Gót so với những người Greece khác. Điều
này làm nổi bật lời chỉ trích của Hume về luật pháp và những hoạt động tôn giáo
cổ xưa thường không thúc đẩy được sự hiểu biết thực sự về đạo đức.
[20]
Pennances of the Brachmans and Talapoins = Những thực hành khổ hạnh nghiêm ngặt
của những Brahmin đạo
Hindu và những nhà sư Phật giáo Theravāda ở vùng Đông Nam Á, gồm ăn chay, tự kỷ luật
và những nghi thức nghiêm ngặt.
Rhamadan = tháng thứ 9 trong
lịch Islam,
dành cho thờ cúng, cầu nguyện, chay tịnh,
và học Kinh Qur'an, đặc những người Muslim không được phép ăn hoặc uống (kể cả
nước) trong những ngày của tháng Râmdan, từ lúc mặt trời mọc
đến lúc mặt trời lặn. Lents of the Muscovites = Những “mùa Chay” những thời gian dành việc cầu nguyên và nhịn ăn uống, trong đạo Chính thống Nga, gồm Great Lent,
với những hạn chế nghiêm ngặt về chế độ ăn uống và cầu nguyện.
Talapoin
- Một từ ngữ đã được
những nhà du
hành châu
Âu (thế kỷ 17–19) dùng để chỉ những
nhà sư Theravāda, gặp ở
vùng Đông
Nam Á (Thái Lan, Myanmar, Campuchia). - Từ nguyên: Có khả năng đã đem vào tiếng Portugual hay tiếng Pháp. Nó có thể có gốc từ : (a) “tala” (cây cọ)
+ “poi” (nhà tu) từ những ngôn ngữ Đông Nam Á. (b) Biến thể từ tiếng
Sanskrit “tapasvin” (người khổ hạnh, người thực hành khổ hạnh). Những nhà thám
hiểm, nhà buôn, và nhà truyền đạo đến từ châu Âu đã đặt ra từ này để chỉ những nhà sư đạo Phật
Theravāda. Những nhà truyền đạo Catô đã dùng thuật ngữ này trong những thường
thuật về những phong tục đạo Phật. Khi kiến thức của người châu Âu về đạo Phật
cải thiện, những học giả đã dùng những thuật ngữ chính xác như “bhikkhu”
(Pali), nên sang thế kỷ 19–20, không còn dùng từ talapoin
này nữa.
[21]
“sentiment of order” : trong Hume, “tình cảm về trật tự” có thể được
hiểu là ý thức tự nhiên về trật tự—một cảm giác cơ bản của con người rằng thế
giới, gồm những mối quan hệ xã hội và đạo đức, nên tuân theo một sự sắp xếp có
cấu trúc, công bằng và hài hòa. Đối với Hume, tình cảm này không chỉ xuất phát
từ lý trí mà còn từ chính bản chất con người. Nó hoạt động cùng với nghĩa vụ
đạo đức và tình cảm tự nhiên (như tình yêu dành cho gia đình và bạn bè) để
hướng dẫn mọi người hoàn thành nhiệm vụ của mình nhưng không cần nỗ lực hay đấu
tranh. Nói cách khác, “tình cảm trật tự” ám chỉ một cảm giác bẩm sinh của con
người rằng mọi sự vật việc nên công bằng, có cấu trúc và ở đúng vị trí của
chúng.
[22]
[N 14. 7n92, Bea 83 Diod. Sic. lib. Xv . ]
[23]
[N 14. 7n93, Bea 83 Cic. Catil. i. Sallust. de bello Catil. ]
[24]
Bomilcar là một quý tộc Carthage và nhà chỉ huy quân sự hoạt động vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN. Ông
đã âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và giành quyền kiểm soát nhà nước
nhưng cuối cùng đã thất bại, vì sự chú ý liên tục của ông vào những điềm báo và
tiên tri khiến ông bỏ lỡ cơ hội của mình. Catiline (Lucius Sergius Catilina) là
một thượng nghị sĩ Rôma và cựu chiến binh vào thế kỷ thứ 1 TCN, nổi tiếng nhất
với vai trò lãnh đạo. Âm
mưu Catilinarian (năm 63 TCN), một nỗ lực bất thành nhằm lật đổ Cộng hòa Rôma. Những
sợ hãi và lo lắng ngày càng tăng đã khiến ông áp dụng những tập tục tôn giáo mới
và không chính thống, gồm cả lời thề máu và hiến tế người, nhằm ràng buộc những
người theo ông và tìm kiếm sự ưu ái của thần thánh cho nổi loạn của ông. Những
nghi lễ này khác với những nghi lễ tôn giáo truyền thống của Rôma, phản ánh sự
tuyệt vọng và tin tưởng của Catiline rằng sự can thiệp siêu nhiên là cần thiết
cho mục đích của ông.
[25]
Nguyên văn “undivided”
[26]
Vessels of Jupiter: Vessels of Jupiter: hai cái bình đựng của Jupiter (Zeus), một đựng phúc lành, một đựng bất hạnh, để phân phát số phận cho con người. Đời sống như một trộn lẫn của cả hai, chúng được “đổ”, vào đời người. Nếu chỉ lấy
từ bình đựng bên trái, số phận là bất hạnh thuần túy. Ý tưởng này có từ Iliad của Homer (Quyển 24,
dòng 527–533). Hume, ở trên và trong luận
văn The Sceptic
(1742), đã dùng huyền
thoại này để cho nhấn mạnh, nếu có ngoại lệ, là không pha trộn với hạnh phúc!