Tuesday, February 4, 2025

Hume – Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo (07)

Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo

(The Natural History of Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )





Tiết XIV.

 

Ảnh hưởng xấu của những tôn giáo phổ biến trên đạo đức.

 

N 14. 1, Bea 81

Ở đây tôi không thể không nói đến việc quan sát một sự kiện, vốn nó có thể đáng chú ý với những người lấy bản chất con người làm đối tượng nghiên cứu. Điều chắc chắn là trong mọi tôn giáo, dù những từ ngữ để định nghĩa bản chất thần thánh linh thiêng của nó có cao siêu đến đâu đi nữa, nhiều trong số những người theo tôn giáo, có lẽ là số đông nhất, vẫn sẽ tìm kiếm ân huệ thần linh, không phải bằng đức hạnh và đạo đức tốt, vốn chỉ có thể được một vị gót toàn hảo và lý tưởng về đạo đức chấp nhận, nhưng bằng những tuân giữ phù phiếm, bằng nhiệt thành quá mức, bằng say mê cuồng nhiệt, hay bằng tin tưởng những quan điểm bí ẩn và phi lý. Phần nhỏ nhất của Sadder, cũng như của Pentateuch, gồm những giới luật về đạo đức; và chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng phần đó luôn luôn ít được tuân giữ và chú ý nhất. [1] Khi người Rôma thời cổ phải chịu những tai ương của một bệnh dịch, họ không bao giờ gán nguyên nhân những khốn khổ của họ cho những đồi bại xấu xa của họ, hay mơ tưởng đến ăn năn và hối cải. Họ không bao giờ nghĩ rằng họ là những kẻ tàn nhẫn đi chinh phục khắp thế giới, khao khát quyền lực và tham lam của cải của họ đã khiến trái đất thành hoang tànnhững quốc gia từng giàu có phải rơi vào cảnh cùng quẫn và đói khổ. Họ đã chỉ bổ nhiệm một nhà chính trị độc tài [89] , cốt để đóng một cái đinh vào một cánh cửa; và bằng cách đó, họ nghĩ rằng họ đã đủ xoa dịu vị thần linh họ thờ phụng. [2]

 

N 14. 2, Bea 81

Ægina, một phe lập một âm mưu, đã tàn bạo và gian trá ám sát bảy trăm đồng bào của họ; và cuồng nộ của họ mang họ đi xa đến nỗi, một người khốn khổ sau khi chạy đến đền thờ, đã bị họ chặt đứt cả hai tay, nơi người này bám vào cổng đền, và sau khi lôi người này ra khỏi khu đất thánh, đã lập tức giết chết người này. Herodotus [90] nói, bằng sự bất kính vô đạo này, (không phải bằng nhiều những thảm sát tàn khốc khác), họ đã xúc phạm những thần linh và mắc một tội lỗi không thể tha thứ được. [3]

 

N 14. 3, Bea 81-2

Không, nếu chúng ta sẽ giả định, nhữngkhông bao giờ xảy ra, rằng một tôn giáo phổ thông đã được tìm thấy, trong đó đã tuyên bố rõ ràng rằng không gì nhưng chỉ đạo đức mới có thể lấy được ân huệ của thần thánh; nếu một dòng tu giáo sĩ được thành lập để giảng dạy quan điểm này, trong những bài giảng hàng ngày, và với tất cả những nghệ thuật của thuyết phục; tuy nhiên, những định kiến của dân chúng đã ăn sâu đến mức, vì sư thiếu thốn của một số mê tín khác, họ sẽ làm cho chính việc tham dự những bài giảng này thành những cốt yếu của tôn giáo, thay vì đặt chúng trong đức hạnh và luântốt lành. Theo như chúng ta biết, Lời mở đầu siêu phàm của những luật Zaleucus [91]  đã không gây cảm hứng cho những người dân Locri, về bất kỳ khái niệm sáng suốt nào hơn về những phương sách giành ưu ái của thần linh, so với với quan điểm đã có của những người Hellas khác. [4]

 

N 14. 4, Bea 82

Do đó, quan sát này có giá trị phổ quát: Nhưng người ta vẫn có thể thấy khó khăn để giải thích nó. Chỉ cần quan sát thấy rằng mọi người ở khắp mọi nơi đều hạ thấp những thần linh của họ xống thành một đồng dạng với chính họ, và coi những thần linh như một loại sinh vật giống-như-người, phần nào hùng mạnh và thông minh hơn. Điều này sẽ không loại bỏ được khó khăn. Vì không có con người nào ngu ngốc đến mức xét theo lý trí tự nhiên của người ấy, người này sẽ không coi đức hạnh và trung thực là những phẩm chất quý giá nhất vốn bất kỳ người nào có thể có được. Tại sao không gán cùng một phẩm chất đó cho vị thần của mình? Tại sao không làm cho tất cả tôn giáo, hay phần chính của nó, gồm những phẩm chất đã thành tựu này?

 

N 14,5, Bea 82

Cũng không thỏa đáng khi nói rằng thực hành đạo đức khó hơn mê tín; và do đó bị từ chối. Vì, chưa kể đến những sự tự hành xác hối lỗi quá mức của những Brachmans và những Talapoins ; chắc chắn rằng Rhamadan của người Türkiye, trong thời gian đó những người khốn khổ khốn khổ, trong nhiều ngày, thường là vào những tháng nóng nhất trong năm, và ở một số nơi có khí hậu nóng nhất trong thế giới, không ăn uống gì từ khi mặt trời mọc. Cho đến khi mặt trời lặn; Tôi nói rằng Rhamadan này phải khắt khe hơn việc thực hành bất kỳ nghĩa vụ đạo đức nào, ngay cả với những người xấu xa và sa đọa nhất trong loài người. Bốn chế độ “mùa Chay” của đạo Chính thống Nga, và sự khắc khổ của một số người đạo Catô Rôma, có vẻ khó chịu hơn là sự hiền lành và nhân từ. Tóm lại, mọi đức hạnh, khi con người thuận hợp với nó, dù chỉ thực hành rất ít, cũng đều trở nên dễ chịu; trong khi mọi mê tín mãi mãi đáng ghét và nặng nề. [5]

 

N 14. 6, Bea 82-3

Có lẽ, giải thích sau đây có thể được nhận như một giải pháp thực của câu hỏi khó khăn. Những bổn phận vốn một người thực hiện như một người bạn hay cha mẹ, có vẻ đơn thuần là mang nợ với người ơn hay với con cái của người này; người này cũng không thể thiếu những bổn phận này, nếu không phá vỡ tất cả những ràng buộc của tự nhiên và đạo đức. Một khuynh hướng mạnh mẽ có thể thúc dục người này đến sự thực hiện: Một cảm nhận của trật tự [6] và bổn phận đạo đức ghép buộc sức mạnh của nó với những ràng buộc tự nhiên này. Và trọn vẹn con người, nếu đức hạnh chân thành, được bổn phận của người này lôi cuốn, không cố gắng dù nhất thời, hay lâu dài. Ngay cả với những đức tính, vốn khắc khổ hơn và dựa vào suy ngẫm nhiều hơn, loại như tinh thần cộng đồng, bổn phận hiếu thảo, chừng mực tiết độ, hay chính trực; những nghĩa vụ đạo đức, theo thấu hiểu của chúng ta, xóa bỏ mọi kỳ vọng về công đức tôn giáo; và hành vi đạo đức được coi là không ngoài những gì chúng ta nợ xã hội và chính chúng ta. Trong tất cả những sự việc này, một người mê tín không tìm thấy gì, vốn người này đã thích đáng thực hiện vì thần linh, hay một gì có thể đặc biệt giúp người này nhận được ưu ái và bảo vệ của thần linh. Người này không suy nghĩ rằng phương pháp chân chính nhất để phục vụ thần linh là bằng việc thúc đẩy hạnh phúc cho những sinh vật đồng loại. Người này vẫn tìm một phục vụ nào đó trực tiếp hơn với Hữu thể tối cao, ngõ hầu làm nguôi những kinh hoàng đó, vốn chúng đã ám ảnh người này. Và nếu chỉ nó, người này hy sinh nhiều thoải mái và yên tĩnh, công đức tự cho của người này hiện ra như vẫn tăng lên, tỷ lệ thuận với nhiệt thành và hiến dâng vốn người này đã tìm ra. Khi hoàn lại những gì đã mượn, và trả lại những gì đã vay, thần linh không nợ gì người này người này không nhận được bất kỳ ân huệ đặc biệt nào từ thần linh; bởi vì đâynhững hành động công lý, là những gì người này buộc phải thực hiện, và nhữngnhiều người sẽ thực hiện, như nếu đã không có thần linh trong vũ trụ. Nhưng nếu người này nhịn ăn một ngày, hay tự đánh mình một trận; theo ý kiến của người này, sư việc này có một liên quan trực tiếp đến việc phục vụ Gót. Không có động cơ nào khác có thể lôi kéo người này vào những khổ hạnh như vậy. Nhờ những dấu hiệu sùng kính nổi bật này, giờ đây người này đã nhận được ân huệ thiêng liêng; và có thể trông mong đền đáp, được bảo bọc và an lành trong kiếp sống này, cũng như hạnh phúc vĩnh cửu kiếp sau.

 

N 14. 7, Bea 83

Do đó, những tội ác lớn nhất nhất đã tìm thấy, trong nhiều trường hợp, tồn tại tương ứng với một sự sùng đạo mê tínnhiệt thành tôn giáo: Do đó, việc đưa ra bất kỳ kết luận nào về tính cách đạo đức của một người, dựa trên sự nhiệt thành hoặc nghiêm ngặt tuân thủ tôn giáo của người này thì chắc chắn là không tin cậy, ngay cả khi chính người này tin tưởng chúng chân thành. Không, người ta đã quan sát thấy rằng những tội ác tày trời nhất có khunh hướng gây ra từ mê tín kinh hoàng và làm tăng thêm nhiệt thành tôn giáo. Bomilcar, sau khi âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và xâm phạm những tự do của đất nước ông, đã đánh mất cơ hội, do liên tục chú ý đến những điềm báo và những tiên tri. Như một sử gia thời cổ [92]  đã quan sát, những người thực hiện những tham vọng, liều lĩnh tội phạm và nguy hiểm nhất thường là những người mê tín nhất; tâmsùng đạo và nhiệt thành của họ tăng theo tỷ lệ thuận với những sợ hãi của họ. Tương tự như vậy, Catiline đã không hài lòng với những vị gót đã thiết lập và những nghi lễ chính thức của tôn giáo quốc gia. Những lo lắng ngày càng tăng khiến ông tìm kiếm những hình thức thờ cúng mới thuộc loại này [93] - những thực hành ông có lẽ sẽ không bao giờ nghĩ đến, nếu ông vẫn là một công dân trung thành, tuân thủ với luật pháp của đất nước ông. [7]

 

N 14. 8, Bea 83-4

Chúng ta có thể thêm rằng, sau khi phạm tội, sẽ nảy sinh những hối hận và kinh hoàng thầm kín, khiến tâm lý trở nên bất an, khiến nó phải cầu đến nghi thức thanh tẩy tôn giáo và những nghi lễ tôn giáo công cộng, như một cách đền bù cho những tội lỗi của họ. Bất cứ gì làm suy yếu hoặc phá vỡ sự ổn định của não thức đều có tác dụng nuôi dưỡng sự phát triển của mê tín: Và không có gì hủy hoại chúng hơn một đức tính kiên định, mạnh mẽ, hoặc bảo vệ chúng ta khỏi những tai nạn thảm khốc, u sầu, hoặc dạy chúng ta cách chịu đựng chúng. Trong ánh nắng an bình của não thức như vậy, những bóng ma của thần thánh giả tạo này không bao giờ xuất hiện. Mặt khác, trong khi chúng ta buông bỏ chúng ta cho những đưa lên vô kỷ luật tự nhiên của những trái tim rụt rè và lo lắng của chúng ta, mọi loại của man rợ đều được gán cho Đấng Tối cao, từ những kinh hoàng chúng ta bị kích động với chúng; và mọi loại thất thường, từ những phương pháp mà chúng ta dùng để xoa dịu ngài. – sự tàn ác man rợ và ý thích thất thường – Những tính chất này, dù trên danh nghĩa được ngụy trang đến đâu, chúng ta có thể phổ quát quan sát, hình thành nên tính cách cai trị của thần linh trong những tôn giáo phổ biến. Ngay cả những giáo sĩ, thay vì sửa chữa những ý tưởng sa đọa này của loài người, thường được thấy sẵn sàng nuôi dưỡng và khuyến khích chúng. Vị thần càng được mô tả đáng sợ, con người càng trở nên phục tùng những nhà chức trách tôn giáo. Những đòi hỏi để được thần thánh chấp nhận càng khó giải thích, thì nhu cầu từ bỏ lý trí và phó thác bản thân cho sự hướng dẫn của những nhà lãnh đạo tinh thần này càng lớn. Thần linh càng được thể hiện to lớn thì con người càng trở nên thuần phục và phục tùng những giáo sĩ của mình: Và những biện pháp chấp nhận mà Ngài yêu cầu càng khó hiểu, thì việc từ bỏ lý trí tự nhiên của chúng ta và khuất phục trước sự hướng dẫn ma quái của họ càng trở nên cần thiết hơn. và phương hướng. Vì vậy, có thể nhìn nhận rằng sự lừa dối và ảnh hưởng của con người làm trầm trọng thêm những yếu đuối cố hữu và khuynh hướng phi lý của chúng ta, nhưng những khiếm khuyết này có nguồn gốc sâu xa hơn và không phải do chúng tạo ra. Gốc rễ của chúng ăn sâu vào não thức và xuất phát từ những đặc tính thiết yếu và phổ quát của bản chất con người.

 

 

 

---------------------------------------------------

 

N 14. 1n89, Bea 81

1.       Called Dictator clavis figendæ causa. T. Livii, l. vii. c. 3.

N 14. 2n90, Bea 81

2.       Lib. vi.

N 14. 3n91, Bea 82

3.       To be found in Diod. Sic. lib. xii

N 14. 7n92, Bea 83

4.       Diod. Sic. lib. Xv .

N 14. 7n93, Bea 83

5.       Cic. Catil. i. Sallust. de bello Catil.




 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jan/2025)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 


[1] Sadder: Có lẽ nhắc đến những tác phẩm tôn giáo của đạo thờ Zoroaster, tóm tắt những nghĩa vụ đạo đức và tôn giáo, có thể là từ Saddar Nasr, một bình luận sau này về Zend-Avesta. Pentateuch: Năm quyển sách đầu tiên của Kinh thánh Hebrew (Genesis, Exodus, Leviticus, Numbers, Deuteronomy), còn gọi là Torah trong đạo Juda.

[2] Hume nhắc đến một nghi lễ tôn giáo Rôma cổ đại trong đó một nhà độc tài được chỉ định thực hiện một nghi lễ đóng đinh vào đền thờ Jupiter Optimus Maximus. Nghi lễ này, được gọi là clavus annalis (“đinh đóng hằng năm”), được cho là có sức mạnh apotropaic (bảo vệ) hoặc sám hối (chuộc tội). Người Rôma nghĩ rằng nghi lễ đơn giản này có thể xua đuổi cơn thịnh nộ của thần linh, gồm cả bệnh dịch hoặc những tai họa khác, thay vì đổ lỗi cho những bất hạnh của họ do những khiếm khuyết về mặt đạo đức, hay tìm cách sửa đổi hành vi của họ. Hume dùng ví dụ này để minh họa cho một lời chỉ trích rộng hơn về khuynh hướng tôn giáo: rằng mọi người thường tìm kiếm sự ưu ái của thần linh qua những hành động nghi lễ hoặc mê tín hơn là qua hành vi đạo đức.

[3] Hume nhấn mạnh sự trớ trêu trong nhận thức tôn giáo về tội lỗi qua lời kể của Herodotus về một hành động tàn bạo ở Ægina. Một phe phái chính trị, có lẽ trong một tranh giành quyền lực, đã thảm sát 700 người, nhưng những vị thần được coi là bị xúc phạm không phải bởi thảm sát mà là hành động kéo một kẻ chạy trốn khỏi đền thờ, chặt tay anh ta, rồi giết anh ta. Điều này cho thấy rằng hành vi xâm phạm không gian linh thiêng, chứ không phải giết người hàng loạt, mới được coi là hành vi vi phạm thực sự. Mặc dù ngôi đền chính xác vẫn chưa chắc chắn, nhưng có khả năng nó được dành riêng cho Zeus, Apollo hoặc một vị thần chính khác. Hume chỉ trích cách những truyền thống tôn giáo thường ưu tiên sự thanh khiết trong nghi lễ hơn là những tội ác đạo đức cơ bản, đặt sai vị trí những ưu tiên về mặt đạo đức.

[4] Zaleucus là một nhà lập pháp từ Locri Epizephyrii, một thuộc địa của Greece, miền nam nước Ý, được ghi nhận là người đã tạo ra một trong những bộ luật thành văn sớm nhất. Bất chấp sự giới thiệu cao viễn về luật pháp của ông, Hume lập luận rằng người Locrian, cư dân của Locri, không có cái nhìn sáng suốt hơn về sự ưu ái của Gót so với những người Greece khác. Điều này làm nổi bật lời chỉ trích của Hume về luật pháp và những hoạt động tôn giáo cổ xưa thường không thúc đẩy được sự hiểu biết thực sự về đạo đức.

[5] Pennances of the Brachmans and Talapoins = Những thực hành khổ hạnh nghiêm ngặt của những Brahmin đạo Hindu và những nhà sư Phật giáo Theravāda ở vùng Đông Nam Á, gồm ăn chay, tự kỷ luật và những nghi thức nghiêm ngặt. Rhamadan = tháng thứ 9 trong lịch Islam, dành cho thờ cúng, cầu nguyện, chay tịnh, và học Kinh Qur'an, đặc những người Muslim không được phép ăn hoặc uống (kể cả nước) trong những ngày của tháng Râmdan, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn. Lents of the Muscovites = Những “mùa Chay” những thời gian dành việc cầu nguyên và nhịn ăn uống, trong đạo Chính thống Nga, gồm Great Lent, với những hạn chế nghiêm ngặt về chế độ ăn uống và cầu nguyện.

Talapoin - Một từ ngữ đã được những nhà du hành châu Âu (thế kỷ 17–19) dùng để chỉ những nhà sư Theravāda, gặp ở vùng Đông Nam Á (Thái Lan, Myanmar, Campuchia). - Từ nguyên: Có khả năng đã đem vào tiếng Portugual hay tiếng Pháp. Nó có thểgốc từ : (a) “tala” (cây cọ) + “poi” (nhà tu) từ những ngôn ngữ Đông Nam Á. (b) Biến thể từ tiếng Sanskrit “tapasvin” (người khổ hạnh, người thực hành khổ hạnh). Những nhà thám hiểm, nhà buôn, và nhà truyền đạo đến từ châu Âu đã đặt ra từ này để chỉ những nhà sư đạo Phật Theravāda. Những nhà truyền đạo Catô đã dùng thuật ngữ này trong những thường thuật về những phong tục đạo Phật. Khi kiến thức của người châu Âu về đạo Phật cải thiện, những học giả đã dùng những thuật ngữ chính xác như “bhikkhu” (Pali), nên sang thế kỷ 19–20, không còn dùng từ talapoin này nữa.

[6] sentiment of order” : trong Hume, “tình cảm về trật tự” có thể được hiểu là ý thức tự nhiên về trật tự—một cảm giác cơ bản của con người rằng thế giới, gồm những mối quan hệ xã hội và đạo đức, nên tuân theo một sự sắp xếp có cấu trúc, công bằng và hài hòa. Đối với Hume, tình cảm này không chỉ xuất phát từ lý trí mà còn từ chính bản chất con người. Nó hoạt động cùng với nghĩa vụ đạo đức và tình cảm tự nhiên (như tình yêu dành cho gia đình và bạn bè) để hướng dẫn mọi người hoàn thành nhiệm vụ của mình nhưng không cần nỗ lực hay đấu tranh. Nói cách khác, “tình cảm trật tự” ám chỉ một cảm giác bẩm sinh của con người rằng mọi sự vật việc nên công bằng, có cấu trúc và ở đúng vị trí của chúng.

[7] Bomilcar là một quý tộc Carthage và nhà chỉ huy quân sự hoạt động vào cuối thế kỷ thứ 3 BCE. Ông đã âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và giành quyền kiểm soát nhà nước nhưng cuối cùng đã thất bại, vì sự chú ý liên tục của ông vào những điềm báo và tiên tri khiến ông bỏ lỡ cơ hội của mình. Catiline (Lucius Sergius Catilina) là một thượng nghị sĩ Rôma và cựu chiến binh vào thế kỷ thứ 1 BCE, nổi tiếng nhất với vai trò lãnh đạo. Âm mưu Catilinarian (năm 63 BCE), một nỗ lực bất thành nhằm lật đổ Cộng hòa Rôma. Những sợ hãi và lo lắng ngày càng tăng đã khiến ông áp dụng những tập tục tôn giáo mới và không chính thống, gồm cả lời thề máu và hiến tế người, nhằm ràng buộc những người theo ông và tìm kiếm sự ưu ái của thần thánh cho nổi loạn của ông. Những nghi lễ này khác với những nghi lễ tôn giáo truyền thống của Rôma, phản ánh sự tuyệt vọng và tin tưởng của Catiline rằng sự can thiệp siêu nhiên là cần thiết cho mục đích của ông.