Wednesday, February 19, 2025

Hume – Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo (04)

Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo

(The Natural History of Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )




Tiết XIII.

Những khái niệm nghịch đạo về bản chất thiêng liêng trong những tôn giáo phổ biến thuộc cả hai loại

 

N 13. 1, Bea 77

Tôn giáo nguyên thủy nhất của loài người chủ yếu phát sinh từ một sợ hãi lo lắng về những biến cố tương lai; và người ta có thể dễ dàng hình dung ra những khái niệm nào sẽ tự nhiên nảy sinh về những thế lực vô hình, chưa biết đến, khi con người nằm dưới những sợ hãi u tối vô vọng của bất kỳ loại nào. Mọi hình ảnh về sự trả thù, sự nghiêm khắc, sự tàn ác và dã tâm ác ý phải xảy ra, và tăng sâu thêm kinh hoàng khiếp sợ, đè nặng những người theo tôn giáo hoang mang. Một khi sự hoảng loạn chiếm lấy não thức, trí tưởng tượng bồn chồn sẽ nhân lên những đối tượng đáng sợ này; trong khi bóng tối sâu thẳm đó – hoặc tệ hơn nữa, tia sáng chập chờn đó – bao quanh chúng ta, thể hiện những bóng ma của thần thánh dưới những hình dạng đáng sợ nhất có thể tưởng tượng được. Và không có khái niệm nào về sự gian ác đồi trụy vốn những tín đồ sợ hãi này không sẵn sàng, không chút do dự gán cho vị thần của họ. .

 

N 13. 2, Bea 77

Đây có vẻ là trạng thái tự nhiên của tôn giáo khi nhìn từ một góc độ [1]. Nhưng nếu chúng ta quay sang phía đối diện và xem xét tinh thần ca ngợi và tôn vinh, vốn không thể tránh khỏi trong mọi tôn giáo và phát sinh như một hệ quả trực tiếp của chính những sợ hãi này, chúng ta phải thấy trước một hệ thống gót học hoàn toàn trái ngược sẽ chiếm ưu thắng. Mọi đức tính và mọi xuất sắc đều phải được gán cho thần thánh, và không có phóng đại nào sẽ được coi là đủ để đạt đến những toàn hảo vốn vị này được ban tặng. Bất kỳ giọng điệu ca ngợi cao cả nào có thể được phát minh đều được háo hức chấp nhận ngay lập tức, không cần tham chiếu bất kỳ lý lẽ hay bằng chứng quan sát được nào; Người ta coi đó là một xác nhận đầy đủ về chúng, rằng chúng cho chúng ta những ý tưởng tuyệt vời hơn của những đối tượng thiêng liêng của sự tôn thờ và sùng bái của chúng ta

 

N 13. 3, Bea 77

Do đó, đây là một loại mâu thuẫn giữa những nguyên lý khác nhau của bản chất con người, đi vào trong tôn giáo. Những kinh hoàng tự nhiên của chúng ta thể hiện khái niệm về một vị thần độc ác và xấu xa: Xu hướng tôn sùng của chúng ta khiến chúng ta thừa nhận một vị thần xuất sắc và thiêng liêng. Và ảnh hưởng của những nguyên lý đối lập này là khác loại, tùy theo tình cảnh khác nhau của sự hiểu biết của con người.

 

N 13. 4, Bea 77-8

Trong những quốc gia rất man rợ và ngu muội, hạn như người Châu Phi người India, ngay cả người Japan, những người không thể hình thành những ý tưởng bao quát rộng rãi của quyền năng và kiến thức, người ta có thể tôn thờ một sinh vật mà họ cho là độc ác và đáng ghét; mặc dù có lẽ họ có thể thận trọng khi tuyên bố sự phán xét này với vị này ở nơi công cộng, hay trong đền thờ của vị này, nơi vị này có thể phải nghe những lời chê trách của họ. [2]

 

N 13,5, Bea 78

Những ý tưởng thông tục, không toàn hảo như vậy về Thần tính đã bám chặt vào tất cả những người thờ linh tượng từ lâu; và có thể an toàn khẳng định rằng tự thân những người Hellas chưa bao giờ hoàn toàn loại bỏ chúng. Xenophon [3]đã nhận xét, khi ca ngợi Socrates, rằng triết gia này không đồng ý với quan điểm thông tục, giả định rằng những thần linh biết một số điều và không biết gì về những điều khác: Ông khẳng định rằng họ biết mọi sự vật việc; những gì đã làm, đã nói, hay ngay cả đã nghĩ. Nhưng vì đây là một dòng suy luận triết học [4] cao hơn nhiều so với khái niệm của những người đồng hương của ông, nên chúng ta không cần ngạc nhiên, nếu thành thật mà nói, trong sách và những trò chuyện của họ, họ đổ lỗi cho những thần linh vốn họ tôn thờ trong những đền thờ của họ. Có thể quan sát thấy rằng, trong nhiều đoạn, Herodotus không hề cẩn trọng khi gán tính ghen tị với những vị thần; một tình cảm, trong số tất cả những tình cảm khác, phù hợp nhất với bản chất xấu xa và quỷ quyệt. Tuy nhiên, những bài thánh ca ngoại giáo được hát trong cúng lễ công cộng chỉ chứa đựng những câu ca ngợi; ngay cả khi những hành động được gán cho những thần linh là man rợ và đáng ghê tởm nhất. Khi nhà thơ Timotheus đọc một bài thánh ca dâng lên Diana, trong đó ông liệt kê, bằng những bài điếu văn vĩ đại nhất, tất cả những hành động và thuộc tính của nữ thần độc ác, thất thường đó: Cầu mong con gái của ông, một người có mặt nói, trở thành giống như vị thần mà ông tôn vinh. [5] .

 

N 13. 6, Bea 78-9

Nhưng khi con người tán tụng thêm nữa ý tưởng của họ về thần tính, đó chỉ là ý niệm của họ về quyền năng và hiểu biết của thần linh, vốn được hoàn thiện, không phải sự tốt lành của vị này. Ngược lại, tương ứng với mức độ kiến ​​thức rộng lớn và đầy đủ và thẩm quyền hơn được cho là của thần linh này, kinh hoàng của họ tự nhiên tăng lên; trong khi họ tin rằng không có bí mật nào có thể che giấu họ khỏi được sự giám sát của thần linh này, và ngay cả những sâu kín nhất trong lồng ngực của họ cũng mở ra trước mắt thần linh. Sau đó, họ phải cẩn thận để không thể hiện rõ ràng bất kỳ cảm giác trách móc và không đồng tình nào. Tất cả phải là những tràng pháo tay, sự cuồng nhiệt, sự phấn khích. Và trong khi những lo sợ bi quan đen tối của họ khiến họ gán cho vị thần những hành vi ứng xử vốn với loài người, sẽ rất phải chê trách, họ vẫn phải cố gắng ca ngợi và thán phục hành vi đó với thần linh họ sùng kính. Do đó, có thể an toàn khẳng định rằng những tôn giáo bình dân, theo khái niệm của những tín đồ thông tục hơn, đều thực sự là một loại thuyết quỉ thần ma quái [6]; và vị thần được tôn vinh về quyền năng và kiến ​​thức cao bao nhiêu thì tất nhiên ngài càng thấp kém bấy nhiêu về lòng tốt và nhân từ; bất kể những khen ngợi nào có thể được những người choáng ngợp kinh ngạc, tràn ngập kính sợ ban tặng cho vị thần. Đối với những người thờ linh tượng, họ có thể nói những lời ca ngợi không chân thành, và những lời này có thể mâu thuẫn với tin tưởng thực có trong họ: Nhưng giữa những người theo tôn giáo được nhìn như cao hơn vơi tin tưởng có vẻ tinh tế hoặc trí tuệ hơn, tuẹ thân quan điểm của những người sùng bái trí thức. ​​này lại mắc phải một loại dối trá, và phủ nhận tình cảm bên trong. Trái tim ngấm ngầmghê tởm những biện pháp báo thù tàn nhẫn và không dung tha như vậy; nhưng không dám phán xét, nhưng chỉ tuyên bố chúng là hoàn hảo và đáng ngưỡng mộ, khen ngợi. Và sự đau khổ cộng thêm vào đấu tranh nội tâm này làm trầm trọng thêm tất cả những kinh hoàng khác, qua chúng, những nạn nhân bất hạnh của mê tín này sẽ bị ám ảnh mãi mãi. [7]

 

N 13. 7, Bea 79-80

Lucian [8] nhận xét rằng một người trẻ tuổi, người đọc lịch sử của những vị gót trong Homer hay Hesiod, và nhận thấy những phe phái, chiến tranh, bất công, loạn luân, ngoại tình và những hành vi vô đạo đức khác được tôn vinh rất cao, sau đó người này rất ngạc nhiên khi đi vào thế giới, để nhận thấy rằng luật pháp trừng phạt những hành vi tương tự vốn người này đã được dạy là dành cho những đấng tối cao. Mâu thuẫn có lẽ còn mạnh hơn giữa những biểu tượng mà một số tôn giáo sau này đem cho chúng ta và những ý tưởng tự nhiên của chúng ta về hào phóng, khoan dung, công bằng và công lý; và trong tương ứng với những kinh hoàng đã nhân lên của những tôn giáo này, những ý niệm man rợ của thần thánh cũng đã nhân lên với chúng ta [9]. Không gì có thể bảo tồn nguyên vẹn những nguyên lý đạo đức đích thực, không vấy bẩn, trong phán đoán của chúng ta về hành vi của con người, ngoài sự cần thiết tuyệt đối của những nguyên lý này với sự hiện hữu của xã hội. [10] Nếu chúng ta chấp nhận rằng những người cai trị tuân theo một hệ thống đạo đức có phần nào khác với hệ thống đạo đức của những con người bình thường, thì khả năng xảy ra còn nhiều hơn đến đâu, khi tin rằng những thần linh tối cao, vốn có những phẩm chất, quan điểm và bản chất hoàn toàn vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, sẽ tuân theo những tiêu chuẩn công lý riêng của họ? Sunt superis sua jura [11]. Những vị thần có luật lệ riêng của họ. [12]

 

Tiết XIV.

Ảnh hưởng xấu của những tôn giáo phổ biến trên đạo đức.

 

N 14. 1, Bea 81

Ở đây tôi không thể không nói đến việc quan sát một sự kiện, vốn nó có thể đáng chú ý với những người lấy bản chất con người làm đối tượng nghiên cứu. Điều chắc chắn là trong mọi tôn giáo, dù những từ ngữ để định nghĩa bản chất thần thánh linh thiêng của nó có cao siêu đến đâu đi nữa, nhiều trong số những người theo tôn giáo, có lẽ là số đông nhất, vẫn sẽ tìm kiếm ân huệ thần linh, không bằng đức hạnh và đạo đức tốt, vốn chỉ có thể được một vị gót toàn hảo và lý tưởng về đạo đức chấp nhận, nhưng bằng những tuân giữ phù phiếm, bằng nhiệt thành quá mức, bằng say mê cuồng nhiệt, hay bằng tin tưởng những quan điểm bí ẩn và phi lý. Phần nhỏ nhất của Sadder, cũng như của Pentateuch, gồm những giới luật về đạo đức; và chúng ta cũng có thể chắc chắn rằng phần đó luôn luôn ít được tuân giữ và chú ý nhất. [13] Khi người Rôma thời cổ phải chịu những tai ương của một bệnh dịch, họ không bao giờ gán nguyên nhân những khốn khổ của họ cho những đồi bại xấu xa của họ, hay mơ tưởng đến ăn năn và hối cải. Họ không bao giờ nghĩ rằng họ là những kẻ tàn nhẫn đi chinh phục khắp thế giới, khao khát quyền lực và tham lam của cải của họ đã khiến trái đất thành hoang tànnhững quốc gia từng giàu có phải rơi vào cảnh cùng quẫn và đói khổ. Họ đã chỉ bổ nhiệm một nhà chính trị độc tài [14], cốt để đóng một cái đinh vào một cánh cửa; và bằng cách đó, họ nghĩ rằng họ đã đủ xoa dịu vị thần linh họ thờ phụng. [15]

 

N 14. 2, Bea 81

Ở Ægina, một phe nhóm âm mưu, đã tàn bạo và gian trá ám sát bảy trăm người đồng hương của họ; và cuồng nộ của họ đã đẩy xa đến mức, một kẻ khốn khổ đã chạy trốn đến đền thờ, đã bị họ chặt lìa cả hai tay, chỗ người này bám vào cổng đền, và mang người này ra khỏi vùng đất thánh, ngay lập tức giết chết người này. Herodotus nói [16], bằng sự bất kính vô đạo này, (không phải bằng nhiều ám sát tàn bạo khác), họ đã xúc phạm đến những vị gót và mắc một tội lỗi không thể tha thứ được. [17]

 

N 14. 3, Bea 81-2

Không, nếu chúng ta sẽ giả định, nhữngkhông bao giờ xảy ra, rằng một tôn giáo phổ thông đã được tìm thấy, trong đó đã tuyên bố rõ ràng rằng không gì nhưng chỉ đạo đức mới có thể lấy được ân huệ của thần thánh; nếu một dòng tu giáo sĩ được thành lập để giảng dạy quan điểm này, trong những bài giảng hàng ngày, và với tất cả những nghệ thuật của thuyết phục; tuy nhiên, những định kiến của dân chúng đã ăn sâu đến mức, vì sư thiếu thốn của một số mê tín khác, họ sẽ làm cho chính việc tham dự những bài giảng này thành những cốt yếu của tôn giáo, thay vì đặt chúng trong đức hạnh và luântốt lành. Theo như chúng ta biết, Lời mở đầu siêu phàm của những luật Zaleucus [18] đã không gây cảm hứng cho những người dân Locri, về bất kỳ khái niệm sáng suốt nào hơn về những phương sách giành ưu ái của thần linh, so với với quan điểm đã có của những người Hellas khác. [19]

 

N 14. 4, Bea 82

Do đó, quan sát này có giá trị phổ quát: Nhưng người ta vẫn có thể thấy khó khăn để giải thích nó. Chỉ cần quan sát thấy rằng mọi người ở khắp nơi đều hạ thấp những thần linh của họ xống thành một đồng dạng với chính họ, và coi những thần linh như một loại sinh vật giống-như-người, phần nào hùng mạnh và thông minh hơn. Điều này sẽ không loại bỏ được khó khăn. Vì không có con người nào ngu ngốc đến mức xét theo lý trí tự nhiên của người ấy, người này sẽ không coi đức hạnh và trung thực là những phẩm chất quý giá nhất vốn bất kỳ người nào có thể có được. Tại sao không gán cùng một phẩm chất đó cho vị thần của mình? Tại sao không làm cho tất cả tôn giáo, hay phần chính của nó, gồm những phẩm chất đã thành tựu này?

 

N 14,5, Bea 82

Cũng không thỏa đáng khi nói rằng thực hành đạo đức khó hơn mê tín; và do đó bị từ chối. Vì, chưa kể đến những sự tự hành xác hối lỗi quá mức của những Brachmans và những Talapoins ; chắc chắn rằng Rhamadan của người Türkiye, trong thời gian đó những người khốn khổ khốn khổ, trong nhiều ngày, thường là vào những tháng nóng nhất trong năm, và ở một số nơi có khí hậu nóng nhất trong thế giới, không ăn uống gì từ khi mặt trời mọc. Cho đến khi mặt trời lặn; Tôi nói rằng Rhamadan này phải khắt khe hơn việc thực hành bất kỳ nghĩa vụ đạo đức nào, ngay cả với những người xấu xa và sa đọa nhất trong loài người. Bốn chế độ “mùa Chay” của đạo Chính thống Nga, và sự khắc khổ của một số người đạo Catô Rôma, có vẻ khó chịu hơn là sự hiền lành và nhân từ. Tóm lại, mọi đức hạnh, khi con người thuận hợp với nó, dù chỉ thực hành rất ít, cũng đều trở nên dễ chịu; trong khi mọi mê tín mãi mãi đáng ghét và nặng nề. [20]

 

N 14. 6, Bea 82-3

Có lẽ, giải thích sau đây có thể được nhận như một giải pháp thực của câu hỏi khó khăn. Những bổn phận vốn một người thực hiện như một người bạn hay cha mẹ, có vẻ đơn thuần là mang nợ với người ơn hay với con cái của người này; người này cũng không thể thiếu những bổn phận này, nếu không phá vỡ tất cả những ràng buộc của tự nhiên và đạo đức. Một khuynh hướng mạnh mẽ có thể thúc dục người này đến sự thực hiện: Một cảm nhận của trật tự [21] và bổn phận đạo đức ghép buộc sức mạnh của nó với những ràng buộc tự nhiên này. Và trọn vẹn con người, nếu đức hạnh chân thành, được bổn phận của người này lôi cuốn, không cố gắng dù nhất thời, hay lâu dài. Ngay cả với những đức tính, vốn khắc khổ hơn và dựa vào suy ngẫm nhiều hơn, loại như tinh thần cộng đồng, bổn phận hiếu thảo, chừng mực tiết độ, hay chính trực; những nghĩa vụ đạo đức, theo thấu hiểu của chúng ta, xóa bỏ mọi kỳ vọng về công đức tôn giáo; và hành vi đạo đức được coi là không ngoài những gì chúng ta nợ xã hội và chính chúng ta. Trong tất cả những sự việc này, một người mê tín không tìm thấy gì, vốn người này đã thích đáng thực hiện vì thần linh, hay một gì có thể đặc biệt giúp người này nhận được ưu ái và bảo vệ của thần linh. Người này không suy nghĩ rằng phương pháp chân chính nhất để phục vụ thần linh là bằng việc thúc đẩy hạnh phúc cho những sinh vật đồng loại. Người này vẫn tìm một phục vụ nào đó trực tiếp hơn với Hữu thể tối cao, ngõ hầu làm nguôi những kinh hoàng đó, vốn chúng đã ám ảnh người này. Và nếu chỉ nó, người này hy sinh nhiều thoải mái và yên tĩnh, công đức tự cho của người này hiện ra như vẫn tăng lên, tỷ lệ thuận với nhiệt thành và hiến dâng vốn người này đã tìm ra. Khi hoàn lại những gì đã mượn, và trả lại những gì đã vay, thần linh không nợ gì người này người này không nhận được bất kỳ ân huệ đặc biệt nào từ thần linh; bởi vì đâynhững hành động công lý, là những gì người này buộc phải thực hiện, và nhữngnhiều người sẽ thực hiện, như nếu đã không có thần linh trong vũ trụ. Nhưng nếu người này nhịn ăn một ngày, hay tự đánh mình một trận; theo ý kiến của người này, sư việc này có một liên quan trực tiếp đến việc phục vụ Gót. Không có động cơ nào khác có thể lôi kéo người này vào những khổ hạnh như vậy. Nhờ những dấu hiệu sùng kính nổi bật này, giờ đây người này đã nhận được ân huệ thiêng liêng; và có thể trông mong đền đáp, được bảo bọc và an lành trong kiếp sống này, cũng như hạnh phúc vĩnh cửu kiếp sau.

 

N 14. 7, Bea 83

Do đó, những tội ác lớn nhất nhất đã tìm thấy, trong nhiều trường hợp, tồn tại tương ứng với một sự sùng đạo mê tínnhiệt thành tôn giáo: Do đó, việc đưa ra bất kỳ kết luận nào về tính cách đạo đức của một người, dựa trên sự nhiệt thành hoặc nghiêm ngặt tuân thủ tôn giáo của người này thì chắc chắn là không tin cậy, ngay cả khi chính người này tin tưởng chúng chân thành. Không, người ta đã quan sát thấy rằng những tội ác tày trời nhất có khunh hướng gây ra từ mê tín kinh hoàng và làm tăng thêm nhiệt thành tôn giáo. Bomilcar, sau khi âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và xâm phạm những tự do của đất nước ông, đã đánh mất cơ hội, do liên tục chú ý đến những điềm báo và những tiên tri. Như một sử gia thời cổ [22] đã quan sát, những người thực hiện những tham vọng, liều lĩnh tội phạm và nguy hiểm nhất thường là những người mê tín nhất; tâmsùng đạo và nhiệt thành của họ tăng theo tỷ lệ thuận với những sợ hãi của họ. Tương tự như vậy, Catiline đã không hài lòng với những vị gót đã thiết lập và những nghi lễ chính thức của tôn giáo quốc gia. Những lo lắng ngày càng tăng khiến ông tìm kiếm những hình thức thờ cúng mới thuộc loại này; [23] những thực hành ông có lẽ sẽ không bao giờ nghĩ đến, nếu ông vẫn là một công dân trung thành, tuân thủ với luật pháp của đất nước ông. [24]

 

N 14. 8, Bea 83-4

Chúng ta có thể thêm rằng, sau khi phạm tội, sẽ nảy sinh những hối hận và kinh hoàng thầm kín, khiến tâm lý trở nên bất an, khiến nó phải cầu đến nghi thức thanh tẩy tôn giáo và những nghi lễ tôn giáo công cộng, như một cách đền bù cho những tội lỗi của họ. Bất cứ gì làm suy yếu hoặc phá vỡ sự ổn định của não thức đều có tác dụng nuôi dưỡng sự phát triển của mê tín: Và không có gì hủy hoại chúng hơn một đức tính kiên định, mạnh mẽ, hoặc bảo vệ chúng ta khỏi những tai nạn thảm khốc, u sầu, hoặc dạy chúng ta cách chịu đựng chúng. Trong ánh nắng an bình của não thức như vậy, những bóng ma của thần thánh giả tạo này không bao giờ xuất hiện. Mặt khác, trong khi chúng ta buông bỏ chúng ta cho những đưa lên vô kỷ luật tự nhiên của những trái tim rụt rè và lo lắng của chúng ta, mọi loại của man rợ đều được gán cho Đấng Tối cao, từ những kinh hoàng chúng ta bị kích động với chúng; và mọi loại thất thường, từ những phương pháp mà chúng ta dùng để xoa dịu ngài. – sự tàn ác man rợ và ý thích thất thường – Những tính chất này, dù trên danh nghĩa được ngụy trang đến đâu, chúng ta có thể phổ quát quan sát, hình thành nên tính cách cai trị của thần linh trong những tôn giáo phổ biến. Ngay cả những giáo sĩ, thay vì sửa chữa những ý tưởng sa đọa này của loài người, thường được thấy sẵn sàng nuôi dưỡng và khuyến khích chúng. Vị thần càng được mô tả đáng sợ, con người càng trở nên phục tùng những nhà chức trách tôn giáo. Những đòi hỏi để được thần thánh chấp nhận càng khó giải thích, thì nhu cầu từ bỏ lý trí và phó thác bản thân cho sự hướng dẫn của những nhà lãnh đạo tinh thần này càng lớn. Thần linh càng được thể hiện to lớn thì con người càng trở nên thuần phục và phục tùng những giáo sĩ của mình: Và những biện pháp chấp nhận mà Ngài yêu cầu càng khó hiểu, thì việc từ bỏ lý trí tự nhiên của chúng ta và khuất phục trước sự hướng dẫn ma quái của họ càng trở nên cần thiết hơn. và phương hướng. Vì vậy, có thể nhìn nhận rằng sự lừa dối và ảnh hưởng của con người làm trầm trọng thêm những yếu đuối cố hữu và khuynh hướng phi lý của chúng ta, nhưng những khiếm khuyết này có nguồn gốc sâu xa hơn và không phải do chúng tạo ra. Gốc rễ của chúng ăn sâu vào não thức và xuất phát từ những đặc tính thiết yếu và phổ quát của bản chất con người.

 

Tiết XV.

Hệ Luận Tổng Quát

 

N 15. 1, Bea 85

Mặc dù sự ngu muội của con người, những kẻ vô học và man rợ, thì quá lớn khiến họ không thể nhìn thấy một tác giả trị vì tối cao, hiển nhiên hơn trong những công trình của tự nhiên, vốn họ đã quá thân thuộc với chúng; nhưng có vẻ hiếm có thể xảy ra, rằng một ai có khả năng hiểu biết sẽ lại bác bỏ ý tưởng đó, một khi nó được đưa ra với người này. Một chủ đích, một ý định, một kế hoạch thực hiện thì hiển nhiên trong mọi sự vật việc; và khi sự thấu hiểu của chúng ta mở rộng đến mức để suy ngẫm về căn nguyên đầu tiên của hệ thống hữu hình này, chúng ta khó có thể tránh khỏi việc chấp nhận, với tín tưởng vững mạnh nhất, ý tưởng về một nguyên nhân hay tác giả sáng tạo thông minh nào đó. Những quy luật nhất quán, cũng thế, vốn chi phối toàn bộ khung cấu trúc của vũ trụ, một cách tự nhiên, nếu không tất yếu, đưa chúng ta đến hình dung trí thông minh này như duy nhất, thống nhất [25], trừ khi những thành kiến ​​từ giáo dục ngăn cản việc chấp nhận ý tưởng hợp lý này. Ngay cả những trái ngược của thiên nhiên, khi tự thể hiện khắp nơi, trở thành những bằng chứng của một kế hoạch nhất quán, và thiết lập một chủ đích hay ý định duy nhất, cho dù nó có thể không thể giải thích được và vẫn khó hiểu với con người.

 

N 15. 2, Bea 85

Tốt lành và xấu ác đều phổ quát pha trộn và hòa lẫn; sung sướng khổ sở, khôn ngoan với điên rồ, đức hạnh và tội lỗi, không bao giờ tìm thấy tách biệt. Không có gì thì thuần khiết và là hoàn toàn một sự vật việc. Mọi ưu điểm đều kèm theo nhược điểm. Một sự bù trừ phổ quát chi phối tất cả những điều kiện của sự sống và hiện hữu. Và chúng ta, ngay cả với những ao ước hão huyền nhất của chúng ta, cũng không thể hình thành được ý niệm về một vị trí hay hoàn cảnh hoàn toàn đáng mong muốn. Những số phận của cuộc đời, như tưởng tượng của nhà thơ, đều luôn luôn được pha trộn từ những chiếc bình trên mỗi tay của thần Jupiter: một chứa toàn phúc lành, một chứa toàn bất hạnh. Hoặc nếu nếu một cái chén rót ra được hoàn toàn thuần khiết, thì nó đến chỉ từ bình bên trái, như nhà thơ đó nói, chứa toàn bất hạnh. [26]

 

N 15. 3, Bea 85

Bất kỳ tốt lành nào, ngay cả khi chúng ta được ban cho chỉ một tơ hào, càng tuyệt vời bao nhiêu, thì xấu ác đi kèm với nó càng sắc bén bấy nhiêu; và thấy ít có những ngoại lệ với quy luật bất biến này của tự nhiên. Thông minh sống động nhất thì rất gần với điên rồ; những dâng trào sung sướng nhất sản sinh những sầu muộn sâu thẳm nhất; những lạc thú mê đắm nhất chắc chắn đi kèm với mệt mỏi và chán chường nhất; những hy vọng tôn lên cao nhất sẽ nhường chỗ cho những thất vọng nặng nề nhất rơi xuống. Và trong tổng quát, không đường đời nào có an toàn như (vì hạnh phúc không phải là điều có thể mơ ước mà được), con đường điều độ và ôn hòa, vốn duy trì một sự tầm thường và một loại của vô cảm, càng nhiều càng tốt trong tất cả sự vật việc.

 

N 15. 4, Bea 86

Trong khi cái tốt lành, cái lớn lao, cái siêu phàm, cái mê đắm được tìm thấy rõ ràng trong những nguyên lý chính thực của tôn giáo tin chỉ một Gót; từ sự tương tự của tự nhiên, người ta có thể mong đợi rằng cái thấp hèn, phi lý, cái xấu xa, cái đáng sợ cũng sẽ được tìm thấy trong nhũng hư cấu và ảo tưởng tôn giáo.

 

N 15,5, Bea 86

Khuynh hướng phổ biến tin vào quyền năng thông minh, vô hình, nếu không là một bản năng nguyên thủy, thì ít nhất là một đi theo chung của bản chất con người, có thể coi như một loại nhãn hiệu hoặc dấu đóng vốn người thợ thiêng liêng đã đặt lên những tác phẩm của người này; và chắc chắn không gì có thể làm loài người vinh hạnh hơn là được chọn như thế từ tất cả những phần khác của sự sáng tạo, và mang hình ảnh hay ấn tượng của vị sáng tạo phổ quát. Nhưng thămhình ảnh này, như nó xuất hiện trong những tôn giáo phổ thông của thế giới. Vị gót bị biến dạng đến thế nào trong những biểu hiện của chúng ta về ngài! Thật là thất thường, phi lý và vô đạo đức đã được gán cho vị này! Ngài đã bị hạ thấp không biết đến mức nào, ngay cả còn dưới nhân cách vốn chúng ta, trong đời sống thường ngày, tự nhiên sẽ gán cho một người có lý trí và đức hạnh!

 

N 15. 6, Bea 86

Thật là một đặc ân cao quý cho lý trí con người khi đạt được kiến ​​thức về Đấng tối cao! Và từ những công trình hữu hình của thiên nhiên, có thể suy ra một nguyên lý siêu phàm như sự hiện hữu của Đấng sáng tạo tối cao của nó! Nhưng hãy lật ngược tấm huy chương. Quan sát hầu hết những quốc gia và hầu hết những thời đại. Xem xét những nguyên lý tôn giáo, trong thực tế, đã thịnh hành trên thế giới. Bn sẽ khó có thể tin rằng chúng là gì khác ngoài những giấc mơ của những người bệnh: Hoặc có lẽ sẽ coi chúng giống như những trò hề tinh nghịch của loài khỉ trong hình dạng con người, hơn là những khẳng định nghiêm trang, tích cực, giáo điều của một sinh vật vốn tự tôn vinh với danh xưng của con người lý trí.

 

N 15. 7, Bea 86

Hãy lắng nghe những phản đối của tất cả mọi người: Không có gì vững chắc bằng những nguyên lý tôn giáo của họ. Nhưng hãy nhìn vào đời sống của họ, bạn sẽ khó có thể nghĩ rằng họ đã đặt một tin tưởng nhỏ nhất nào vào chúng.

 

N 15. 8, Bea 86

Nhiệt thành lớn nhất và chân thật nhất không đem cho chúng ta sự bảo đảm trước sự đạo đức giả: Sự bất kính vô đạo công khai nhất đi kèm với một khiếp sợ và sự ăn năn thầm kín.

 

N 15. 9, Bea 86

Không có những phi lý gót học nào quá lộ liễu đến nỗi đôi khi, những người có hiểu biết sâu xa và uyên bác nhất lại không chấp nhận chúng. Không có những giới luật tôn giáo nào quá nghiêm ngặt đến nỗi những con người phóng túng và đồi bại nhất lại không chấp nhận

 

N 15. 10, Bea 86

Sự ngu dốt là mẹ của lòng sùng đạo: Một châm ngôn mang tính tục ngữ và được kinh nghiệm tổng quát khẳng định. Hãy tìm một dân tộc hoàn toàn không tôn giáo: Nếu bạn tìm thấy họ, hãy yên tâm rằng họ cách với loài thú vật chỉ vài mức độ.

 

N 15. 11, Bea 86

Có gì thuần khiết hơn một số giáo lý đạo đức tìm thấy trong một số hệ thống gót học nhất định? Tuy nhiên, có gì đồi bại hơn một số thực hành vốn chính những hệ thống này đã phát sinh?

 

N 15. 12, Bea 87

Những viễn cảnh an ủi thể hiện qua tin tưởng của kiếp sống tương lai, thật mê hoặc và say đắm. Nhưng nhanh chóng biết bao, biến mất khi những kinh hoàng của nó xuất hiện, vốn chúng vẫn giữ được một sở hữu vững chắc và bền bỉ hơn trong não thức con người!

 

N 15. 13, Bea 87

Toàn bộ là một câu đố, một ẩn số vô cùng khó hiểu, một bí ẩn không giải thích được. Hoài nghi, không cơ sở chắc chắn, tạm hoãn phán đoán hiện ra như kết quả duy nhất của sự xem xét kỹ lưỡng, chính xác nhất của chúng ta, liên quan với đề tài này. Nhưng lý trí con người vốn yéu đuối như vậy, và sự tiêm nhiễm khôn cưỡng của quan điểm như vậy, khiến ngay cả sự hoài nghi thận trọng này cũng khó có thể được duy trì; nếu chúng ta không mở rộng cái nhìn của chúng ta, và đặt một loại mê tín này chống lại một loại khác, để chúng rơi vào một bất hòa; trong khi chính chúng ta, giữa thịnh nộ và xung đột của chúng, may mắn trốn thoát vào những vùng tĩnh lặng, mặc dù có phần mơ hồ không chắc, của triết học.

 


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jan/2025)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com




[1] cụ thể là qua lăng kính của sợ hãi.

[2] Hume lập luận rằng trong những xã hội ông mô tả là “man rợ và ngu dốt” (phản ảnh thành kiến ​​lấy châu Âu làm trung tâm của thế kỷ 18), mọi người có thể tôn thờ một vị thần vốn chính họ coi là độc ác và đáng ghê tởm. Tuy nhiên, mặc dù nhận ra sự độc ác của vị thần này, họ vẫn tiếp tục tôn thờ, có thể là vì sợ bị trả thù. Hume cho rằng những người tôn thờ như vậy có thể nhìn nhận bản chất độc ác của vị thần trong riêng tư nhưng không công khai chỉ trích vị thần đó – đặc biệt là trong những bối cảnh tôn giáo – vì sợ vị thần đó có thể nghe được và trừng phạt họ. Điều này củng cố lập luận rộng hơn của ông rằng tin tưởng tôn giáo ban đầu được thúc đẩy nhiều hơn bởi sợ hãi và mê tín hơn là lý trí hoặc ngưỡng mộ về đạo đức đối với thần thánh.

[3] [N 13. 5n83, Bea 78 Mem. lib. i. ]

[4] [N 13. 5n84, Bea 78

Người xưa coi đó là một nghịch lý triết học rất phi thường, rằng sự hiện diện của những thần linh không chỉ giới hạn ở trên trời nhưng còn mở rộng ra khắp nơi; như chúng ta biết được từ Lucian Hirmotimus sive De sectis . ]

Ở Hellas thời cổ, người ta thường nghĩ rằng những vị gót có kiến thức chọn lọc và chủ yếu ở trên trời cao. Tuy nhiên, Socrates đã bác bỏ ý tưởng rằng những vị gót có kiến thức giới hạn. Thay vào đó, ông lập luận rằng những vị gót là toàn năng, biết mọi sự vật việc, gồm mọi hành động, lời nói và ngay cả cả những suy nghĩ. Đây là một sự thay đổi triệt để so với tin tưởng thông thường rằng những vị gót có thể không biết một số sự vật việc nhất định hoặc chỉmột kiến thức chọn lọc. Quan điểm của Socrates được coi là một nghịch lý triết học, vì nó thách thức hiểu biết truyền thống về kiến thức và quyền năng của thần thánh. Thêm nữa, Socrates cũng nêu lên rằng những vị gót có hiện diện trải rộng khắp mọi nơi, không giới hạn chỉ trên trời cao. Ý tưởng này phản ảnh môht quan điểm của thuyết panentheism: tin gót ở khắp mọi nơi – rằng thần thánh hiện diện trong tất cả sự vật việc và không chỉ hạn hẹp ở một địa điểm cụ thể. Tin tưởng vào sự hiện diện khắp mọi nơi của những vị gót sau đó đã được nhắc lại trong Hirmotimus sive De sectis của Lucian, một đối thoại châm biếm, chỉ trích nhiều trường phái tư tưởng tôn giáo và triết học khác nhau. Lucian cũng thảo luận về quan niệm rằng những vị gót hiện diện ở khắp mọi nơi, tương tác và quan sát thế giới ở mọi nơi và mọi lúc. Do đó, quan điểm của Socrates đã góp phần vào bàn luận triết học rộng hơn, đặt câu hỏi trên những ý tưởng tôn giáo truyền thống về bản chất của những vị gót và quan hệ của họ với loài người. ]

[5] [N 13. 5n85, Bea 78 Plutarch. de Superstit]

[6] dæmonism : Trong Hume, dæmonism chỉ những tin tưởng vào những thế lực hoặc hồn linh siêu nhiên độc ác hoặc đáng sợ. Khái niệm này khác với “daimonion. Socrates nổi tiếng với việc tin vào “daimonion” – một giọng nói bên trong thiêng liêng hoặc hồn thiêng dẫn đường – mà ông mô tả là một dạng hướng dẫn thiêng liêng ảnh hưởng đến những quyết định của ông, thường báo trước cho ông một số hành động nhất định.

[7] Hume lập luận rằng khi mọi người nâng cao khái niệm về thần thánh, họ có xu hướng nhấn mạnh đến quyền năng và kiến ​​thức của Gót hơn là lòng tốt của Người. Cảm giác cao độ về sự toàn năng và thẩm quyền của Gót làm tăng thêm nỗi sợ hãi của họ, vì họ tin rằng không có suy nghĩ hay hành động nào có thể che giấu được Người. Kết quả là, họ cảm thấy buộc phải chỉ ca ngợi và ngưỡng mộ, ngay cả khi họ gán cho Gót những hành động mà ở con người, sẽ bị coi là tàn nhẫn hoặc bất công. Ông cho rằng những tôn giáo phổ biến, đặc biệt là trong não thức của những người có tin tưởng tôn giáo bình thường, giống như một hình thức thờ quỷ thần (“dæmonism”) – nơi mà vị thần càng được coi là càng nhiều quyền năng và hiểu biết thì vị này càng tỏ ra ít tử tế và nhân từ. Trong khi những người thờ phụng dùng những lời ca ngợi, thì trái tim họ lại âm thầm từ chối những khía cạnh khắc nghiệt và thù hận mà họ gán cho Gót, tạo ra một cuộc xung đột nội tâm. Cuộc đấu tranh này – giữa tình cảm đạo đức chân chính và sự ngưỡng mộ tôn giáo bị ép buộc – chỉ làm sâu xa thêm sợ hãi và đau khổ của họ dưới sự mê tín.

[8] [N 13. 7n86, Bea 79 Necyomantia. ]

[9] [N 13. 7n87 Xem GHI CHÚ [EEE].

[N 13. 7n87. 1, Bea 79 

BACCHUS, một thần linh, được thần thoại ngoại giáo mô tả như người phát minh của vũ điệu và sân khấu. những vở kịch cổ xưa ngay cả còn là một phần của việc thờ cúng công cộng trong những dịp trang trọng nhất và thường được thực hiện trong thời kỳ dịch bệnh để xoa dịu những thần linh cho là đã bị xúc phạm. Nhưng những thời sau này, chúng đã bị những người sùng đạo nhiệt thành cấm đoán; và nhà diễn kịch, theo một học giả uyên bác về tôn giáo, là hiên nhà của hỏa ngục.

[N 13. 7n87. 2, Bea 79-80

Nhưng để cho thấy hiển nhiên hơn, rằng điều là có thể cho một tôn giáo để hình dung thần thánh trong một ánh sáng còn vô đạo đức và khó thương hơn vị này đã được những người xưa tô vẽ, chúng ta sẽ dẫn một đoạn văn dài của một tác giả văn phong tao nhã với diễn đạt sáng tạo sống động, người chắc chắn không là kẻ thù của đạo Kitô. Đó là Chevalier Ramsay, một nhà văn, người có một khuynh hướng đáng khen, tuân giữ những giáo lý truyền thống, đến mức lý trí của ông đã không thấybất kỳ khó khăn nào khi chấp nhận, ngay cả những học thuyết vốn những người tự do tư tưởng có hoài nghi nhất, đó là những giáo thuyết về Gót ba ngôi, sự nhập thể và sự chuộc tội: Nhân ái và ý thức đạo đức của ông, vốn ông dường như có một kho tàng lớn, đã nổi loạn chống lại những học thuyết về sự nguyền rủa vĩnh cửu và tiền định (tin tưởng rằng một số hồn người bị kết án nguyền rủa ngay từ đầu, không có hy vọng được cứu rỗi). Ông bày tỏ suy nghĩ của ông như sau:Một triết gia India hay Tàu sẽ có những ý tưởng kỳ lạ đến thế nào về tôn giáo thiêng liêng của chúng ta?”, ông tự hỏi, nếu sự hiểu biết của họ về tôn giáo này chỉ đến từ những mô tả của những người tự do tư tưởng thời nay (những người, từ chối thẩm quyền tôn giáo, diễn giải nó qua một lăng kính hoàn toàn hoài nghi, thường mô tả nó theo cách khắc nghiệt hoặc thiếu nhân ái) và từ những nhà gót học cứng nhắc, tự cho mình là đúng, của nhiều giáo phái khác nhau (những nhân vật, giống) như những người Pharisi thời xưa? Theo như hệ thống ghê tởm và quá thô tục của những người hoài nghi chế giễu và bác bỏ tôn giáo một cách khinh miệt, và của những ngòi bút cả tin mù quáng chấp nhận và truyền bá giáo điều của nó với không hoài nghi thắc mắc, vị Gót của người Jew là một một sinh vật độc ác tàn nhẫn, bất công, thiên vị và viển vông nhất. Khoảng 6000 năm trước, Vị sáng thế này đã tạo ra một người nam và một người nữ, và đặt họ trong một khu vườn tuyệt đẹp ở châu Á, nơi (ngày nay) không còn dấu tích nào. Khu vườn này được trang bị đủ loại cây cối, đài phun nước và cỏ hoa. Ngài cho phép họ dùng tất cả những loại trái cây trong vườn xinh đẹp này, ngoại trừ một loại trồng giữa khu vườn, và có trong đó một đức tính bí mật là bảo vệ cho họ được luôn khỏe mạnh và cường tráng về thể chất và tinh thần, tăng cường khả năng tự nhiên của họ và khiến họ thành khôn ngoan. Ma quỉ đã nhập vào cơ thể một con rắn, và nó đã dụ dỗ người nữ đầu tiên ăn trái cấm này; bà cũng đã khiến người chồng làm như vậy. Để trừng phạt sự tò mò nhỏ nhoi và ham muốn tự nhiên này, về sự sống và kiến thức, Gót không chỉ đuổi tổ tiên đầu tiên của chúng ta ra khỏi thiên đường, nhưng còn kết án tất cả con cháu của họ phải chịu đau khổ trần gian, và phần lớn trong số họ sẽ phải chịu đau khổ vĩnh viễn, dù những hồn của những đứa trẻ vô tội này không liên quan gì với hồn người của Adam hơn là với của Nero và Mahomet; vì theo những nhảm nhí của giới học giả, những người viết truyện ngụ ngôn và những nhà thần thoại học kinh viện, tất cả hồn người đều được tạo ra trong sạch và được truyền vào trong những cơ thể phàm trần, ngay khi thai nhi được hình thành. Để thực hiện sắc lệnh thiên vị man rợ của sự tiền định và trừng phạt hỏa ngục, Gót đã bỏ mặc tất cả những dân tộc trong bí mật đen tối, thờ linh tượng và mê tín, không có được bất kỳ kiến thức cứu rỗi hay ân sủng cứu chuộc nào; ngoại trừ một dân tộc cụ thể, vốn Gót đã chọn như dân tộc đặc biệt của ngài. Tuy nhiên, dân tộc được chọn này lại là dân tộc ngu xuẩn, vô ơn, phản nghịch và ngoan cố nhất trong tất cả những dân tộc.

Sau khi Gót như thế, đã giữ rất đông loài người trong gần 4000 năm, trong một tình trạng đáng ghê tởm, – bị ruồng bỏ, không ơn cứu rỗi – Ngài thình lình thay đổi, đã thể hiện lòng ưu ái với những dân tộc khác, ngoài dân tộc Jew. Khi đó, Ngài đã sai đứa con một của Ngài xuống thế gian, dưới dạng của một con người, để xoa dịu thịnh nộ của Ngài, thỏa mãn công lý oán thù của Ngài, và chết cho sự tha thứ tội lỗi của Ngài. Tuy nhiên, rất ít dân tộc đã nghe đượctin lành” này, và tất cả những dân tộc còn lại, mặc dù bị bỏ trong ngu muội không thể vượt, đều bị nguyền rủa nhưng không có ngoại lệ, hay bất kỳ khả năng nào để được tha thứ.

Phần đông đảo nhất của những người đã nghe nói về nó, đã thay đổi chỉ trong một số khái niệm mang tính luận đoán về Gót và một số hình thức thờ phụng bên ngoài: Vì, trong những phương diện khác, phần lớn những người đạo Kitô vẫn tiếp tục sa đọa về đạo đức của họ như phần loài người còn lại; Thật vậy, họ trở nên suy đồi về đạo đức và tội lỗi hơn, vì kiến ​​thức lớn hơn và hiểu biết sâu hơn của họ về những lời dạy thiêng liêng (ánh sáng'của họ) đáng lẽ phải dẫn họ đến sống những đời tốt đẹp hơn, nhưng họ đã thất bại, không làm như vậy. Trừ khi đó là một số rất nhỏ đã được chọn, tất cả những người Kitô khác, như những người ngoại đạo, không-Kitô, sẽ bị nguyền rủa mãi mãi; sự hy sinh lớn lao đã dâng lên vì họ sẽ thành không, và vô tác dụng; Gót sẽ thích thú mãi mãi trong sự thống khổ và phạm thượng của họ; và mặc dù ngài có thể thay đổi trái tim họ bằng một lệnh truyền, nhưng họ sẽ mãi mãi không được hoán cải và không thể cải đạo, bởi vì ngài sẽ mãi mãi không thể làm cho nguôi được và không thể hòa giải được. Đúng là tất cả những sự việc này làm Gót đáng ghê tởm, là một kẻ ghét những hồn người hơn là một người yêu thương chúng; một bạo chúa độc ác, đầy thù hận, một yêu quái bất lực hay phẫn nộ, hơn là một người cha toàn năng, nhân từ của những hồn người. Thế nhưng tất cả những sự việc này là một bí ẩn. Ngài có những lý do bí mật cho hành vi của ngài, những lý do con người không thể hiểu thấu; và mặc dù Ngài có vẻ bất công và man rợ, nhưng chúng ta phải tin ngược lại, bởi vì những gì như bất công, tội ác, tàn ác và ác ý đen tối nhất trong chúng ta, thì trong Ngài lại là công lý, thương xót và thiện lành tối cao. Thế nên, những nhà tư tưởng-tự do hoài nghi, những người Kitô Juda-hóa, và những học giả về thuyết định mệnh  đã làm biến dạng và làm ô nhục những huyền nhiệm cao cả của tin tưởng tôn giáo linh thiệng của chúng ta; như vậy họ đã làm lẫn lộn bản chất của và ác; đã biến những tình cảm quái dị nhất thành những thuộc tính thiêng liêng, và vượt qua những người ngoại giáo trong sự tính báng bổ, bằng coi bản chất vĩnh cửu, như những toàn hảo, là nhữngtạo ra những tội ác khủng khiếp nhất giữa con người. Những người ngoại giáo thô thiển hơn bằng lòng với sự thần thánh hóa dục vọng, loạn luân và ngoại tình; nhưng những học giả về tiền định đã thần thánh hóa sự tàn ác, phẫn nộ, giận dữ, báo thù và tất cả những tệ nạn đen tối nhất”. Xem Những Nguyên Lý Triết Học Về Tôn Giáo Tự Nhiên Và Sự Vén lên cho thấy Huyền bí của Chevalier Ramsay, Phần II. P. 401.]

The Judaizing Christians: những người theo đạo Kitô tuân thủ hoặc thúc đẩy những nghi lễ và luật lệ tôn giáo của người Jew, thường nhấn mạnh rằng đức tin của người theo đạo Kitô vẫn phải bị ràng buộc bởi những yếu tố của Luật Mosaic (ví dụ, cắt bao quy đầu, luật ăn kiêng). Trong nội dung này, họ có thể bị coi là bóp méo đạo Kitô bằng áp đặt những truyền thống theo thuyết duy luật.

The Fatalistic Doctors : Những tiến sĩ theo thuyết định mệnh – Có lẽ điều này ám chỉ đến những nhà gót học nhấn mạnh vào thuyết định mệnh, tin tưởng rằng mọi sự kiện, bao gồm cả hành động của con người, đều được ý Gót định sẵn và không thể tránh khỏi. Theo nghĩa tôn giáo, điều này chỉ trích những người dạy về thuyết tiền định cực đoan, cho rằng ý chí tự do của con người là vô nghĩa. The Predestinarian Doctors: Những “tiến sĩ” theo thuyết tiền định” – Đây là những học giả tôn giáo ủng hộ mạnh mẽ thuyết tiền định, học thuyết cho rằng Gót đã định sẵn số phận của mọi linh hồn, bao gồm cả những người sẽ được cứu rỗi hay bị nguyền rủa. Đoạn văn này chỉ trích họ vì đã mô tả Gót là tàn nhẫn và bất công bằng biến sự cứu rỗi phụ thuộc vào sắc lệnh của Gót hơn là hành động hoặc lựa chọn đạo đức của con người.

Ramsay, Chevalier (Andrew Michael), 1686-1743). The Philosophical Principles of Natural and Revealed Religion. Part II. London: Printed for the author, 1731

[N 13. 7n87. 3, Bea 80\

Cũng chính tác giả này khẳng định, trong những chỗ khác, rằng những hệ thống gót học của Arminius Molina hầu như không có tác dụng gì trong việc hàn gắn vấn đề: Và do đó, sau khi đã tự ném mình ra khỏi tất cả những giáo phái được nhìn nhận của đạo Kitô, ông buộc phải phát triển một hệ thống của riêng ông, vốnmột biến thể của gót học Origen, và giả định rằng hồn của cả người và thú vật đều hiện hữu từ trước, cũng như sự cứu rỗi và cải đạo vĩnh cửu của tất cả loài người, thú vật và ma quỷ. Nhưng khái niệm này, là đặc biệt của ông nên chúng ta không cần phải bàn thêm. Tôi nghĩ những ý kiến của tác giả tài tình này rất đáng tò mò tìm hiểu; nhưng tôi không tuyên bố bảo đảm sự chính xác của chúng. ]

Origenism – Một hệ thống gót học từ Origen (khoảng năm 185–253 sau Công nguyên), dạy về sự hiện hữu trước của hồn ngườivà sự cứu rỗi phổ quát, nơi mà tất cả chúng sinh, thậm chí cả ma quỷ, cuối cùng đều được hòa giải với Gót. Arminianism – Một học thuyết của Jacobus Arminius (1560–1609) phản đối thuyết tiền định của Calvin, nhấn mạnh ý chí tự do của con người trong việc chấp nhận hoặc từ chối ân sủng của Gót . Molinism – Một học thuyết của Luis de Molina (1535–1600) tìm cách cân bằng quyền tối cao của Gót và ý chí tự do của con người, đề xuất rằng Gót có kiến ​​thức trung gian về mọi lựa chọn có thể mà con người có thể đưa ra.

[10] Những nguyên lý đạo đức chỉ thuần túy khi chúng là thiết yếu đối với sự hiện hữu của xã hội, phản ánh quan điểm về hợp đồng xã hội, trong đó đạo đức nảy sinh từ sự cần thiết chứ không phải từ chân lý tuyệt đối. Những nhà triết học như (a) Thomas Hobbes lập luận trong Leviathan (1651) rằng nếu không có khuôn khổ đạo đức vững chắc, xã hội sẽ sụp đổ trong hỗn loạn, khiến đạo đức trở thành một sự cần thiết thực tế. (b) David Hume coi đạo đức là nền tảng trong tình cảm của con người và nhu cầu của xã hội chứ không phải là thần quyền thiêng liêng.

[11] [N 13. 7n88, Bea 80 Ovid . Metam. lib. ix. 501. ]

[12]Sunt superis sua jura, Latin: “Những vị thần có luật lệ riêng” hoặc “Những vị thần có quyền riêng”. Nó ngụ ý rằng những vị thần không bị ràng buộc bởi luật lệ đạo đức của con người và có thể hành động theo ý muốn thiêng liêng của riêng họ, bất kể quan niệm đúng sai của con người.

[13] Sadder: Có lẽ nhắc đến những tác phẩm tôn giáo của đạo thờ Zoroaster, tóm tắt những nghĩa vụ đạo đức và tôn giáo, có thể là từ Saddar Nasr, một bình luận sau này về Zend-Avesta. Pentateuch: Năm quyển sách đầu tiên của Kinh thánh Hebrew (Genesis, Exodus, Leviticus, Numbers, Deuteronomy), còn gọi là Torah trong đạo Juda.

[14] [N 14. 1n89, Bea 81 Called Dictator clavis figendæ causa. T. Livii, l. vii. c. 3. ]

[15] Hume nhắc đến một nghi lễ tôn giáo Rôma thời cổ trong đó một nhà độc tài được chỉ định thực hiện một nghi lễ đóng đinh vào đền thờ Jupiter Optimus Maximus. Nghi lễ này, được gọi là clavus annalis (“đinh đóng hằng năm”), được cho là có sức mạnh apotropaic (bảo vệ) hoặc sám hối (chuộc tội). Người Rôma nghĩ rằng nghi lễ đơn giản này có thể xua đuổi cơn thịnh nộ của thần linh, gồm cả bệnh dịch hoặc những tai họa khác, thay vì đổ lỗi cho những bất hạnh của họ do những khiếm khuyết về mặt đạo đức, hay tìm cách sửa đổi hành vi của họ. Hume dùng ví dụ này để minh họa cho một lời chỉ trích rộng hơn về khuynh hướng tôn giáo: rằng mọi người thường tìm kiếm sự ưu ái của thần linh qua những hành động nghi lễ hoặc mê tín hơn là qua hành vi đạo đức.

[16] [N 14. 2n90, Bea 81 Lib. vi. ]

[17] Hume nhấn mạnh sự trớ trêu trong nhận thức tôn giáo về tội lỗi qua lời kể của Herodotus về một hành động tàn bạo ở Ægina. Một phe phái chính trị, có lẽ trong một tranh giành quyền lực, đã thảm sát 700 người, nhưng những vị thần được coi là bị xúc phạm không phải bởi thảm sát mà là hành động kéo một kẻ chạy trốn khỏi đền thờ, chặt tay anh ta, rồi giết anh ta. Điều này cho thấy rằng hành vi xâm phạm không gian linh thiêng, chứ không phải giết người hàng loạt, mới được coi là hành vi vi phạm thực sự. Mặc dù ngôi đền chính xác vẫn chưa chắc chắn, nhưng có khả năng nó được dành riêng cho Zeus, Apollo hoặc một vị thần chính khác. Hume chỉ trích cách những truyền thống tôn giáo thường ưu tiên sự thanh khiết trong nghi lễ hơn là những tội ác đạo đức cơ bản, đặt sai vị trí những ưu tiên về mặt đạo đức.

[18] [N 14. 3n91, Bea 82 To be found in Diod. Sic. lib. Xii]

[19] Zaleucus là một nhà lập pháp từ Locri Epizephyrii, một thuộc địa của Greece, miền nam nước Ý, được ghi nhận là người đã tạo ra một trong những bộ luật thành văn sớm nhất. Bất chấp sự giới thiệu cao viễn về luật pháp của ông, Hume lập luận rằng người Locrian, cư dân của Locri, không có cái nhìn sáng suốt hơn về sự ưu ái của Gót so với những người Greece khác. Điều này làm nổi bật lời chỉ trích của Hume về luật pháp và những hoạt động tôn giáo cổ xưa thường không thúc đẩy được sự hiểu biết thực sự về đạo đức.

[20] Pennances of the Brachmans and Talapoins = Những thực hành khổ hạnh nghiêm ngặt của những Brahmin đạo Hindu và những nhà sư Phật giáo Theravāda ở vùng Đông Nam Á, gồm ăn chay, tự kỷ luật và những nghi thức nghiêm ngặt. Rhamadan = tháng thứ 9 trong lịch Islam, dành cho thờ cúng, cầu nguyện, chay tịnh, và học Kinh Qur'an, đặc những người Muslim không được phép ăn hoặc uống (kể cả nước) trong những ngày của tháng Râmdan, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn. Lents of the Muscovites = Những “mùa Chay” những thời gian dành việc cầu nguyên và nhịn ăn uống, trong đạo Chính thống Nga, gồm Great Lent, với những hạn chế nghiêm ngặt về chế độ ăn uống và cầu nguyện.

Talapoin - Một từ ngữ đã được những nhà du hành châu Âu (thế kỷ 17–19) dùng để chỉ những nhà sư Theravāda, gặp ở vùng Đông Nam Á (Thái Lan, Myanmar, Campuchia). - Từ nguyên: Có khả năng đã đem vào tiếng Portugual hay tiếng Pháp. Nó có thểgốc từ : (a) “tala” (cây cọ) + “poi” (nhà tu) từ những ngôn ngữ Đông Nam Á. (b) Biến thể từ tiếng Sanskrit “tapasvin” (người khổ hạnh, người thực hành khổ hạnh). Những nhà thám hiểm, nhà buôn, và nhà truyền đạo đến từ châu Âu đã đặt ra từ này để chỉ những nhà sư đạo Phật Theravāda. Những nhà truyền đạo Catô đã dùng thuật ngữ này trong những thường thuật về những phong tục đạo Phật. Khi kiến thức của người châu Âu về đạo Phật cải thiện, những học giả đã dùng những thuật ngữ chính xác như “bhikkhu” (Pali), nên sang thế kỷ 19–20, không còn dùng từ talapoin này nữa.

[21] sentiment of order” : trong Hume, “tình cảm về trật tự” có thể được hiểu là ý thức tự nhiên về trật tự—một cảm giác cơ bản của con người rằng thế giới, gồm những mối quan hệ xã hội và đạo đức, nên tuân theo một sự sắp xếp có cấu trúc, công bằng và hài hòa. Đối với Hume, tình cảm này không chỉ xuất phát từ lý trí mà còn từ chính bản chất con người. Nó hoạt động cùng với nghĩa vụ đạo đức và tình cảm tự nhiên (như tình yêu dành cho gia đình và bạn bè) để hướng dẫn mọi người hoàn thành nhiệm vụ của mình nhưng không cần nỗ lực hay đấu tranh. Nói cách khác, “tình cảm trật tự” ám chỉ một cảm giác bẩm sinh của con người rằng mọi sự vật việc nên công bằng, có cấu trúc và ở đúng vị trí của chúng.

[22] [N 14. 7n92, Bea 83 Diod. Sic. lib. Xv . ]

[23] [N 14. 7n93, Bea 83 Cic. Catil. i. Sallust. de bello Catil. ]

[24] Bomilcar là một quý tộc Carthage và nhà chỉ huy quân sự hoạt động vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN. Ông đã âm mưu ám sát toàn bộ thượng viện Carthage và giành quyền kiểm soát nhà nước nhưng cuối cùng đã thất bại, vì sự chú ý liên tục của ông vào những điềm báo và tiên tri khiến ông bỏ lỡ cơ hội của mình. Catiline (Lucius Sergius Catilina) là một thượng nghị sĩ Rôma và cựu chiến binh vào thế kỷ thứ 1 TCN, nổi tiếng nhất với vai trò lãnh đạo. Âm mưu Catilinarian (năm 63 TCN), một nỗ lực bất thành nhằm lật đổ Cộng hòa Rôma. Những sợ hãi và lo lắng ngày càng tăng đã khiến ông áp dụng những tập tục tôn giáo mới và không chính thống, gồm cả lời thề máu và hiến tế người, nhằm ràng buộc những người theo ông và tìm kiếm sự ưu ái của thần thánh cho nổi loạn của ông. Những nghi lễ này khác với những nghi lễ tôn giáo truyền thống của Rôma, phản ánh sự tuyệt vọng và tin tưởng của Catiline rằng sự can thiệp siêu nhiên là cần thiết cho mục đích của ông.

[25] Nguyên văn “undivided

[26] Vessels of Jupiter: Vessels of Jupiter: hai cái bình đựng của Jupiter (Zeus), một đựng phúc lành, một đựng bất hạnh, để phân phát số phận cho con người. Đời sống như một trộn lẫn của cả hai, chúng được “đổ”, vào đời người. Nếu chỉ lấy từ bình đựng bên trái, số phận là bất hạnh thuần túy. Ý tưởng này có từ Iliad của Homer (Quyển 24, dòng 527–533). Hume, ở trên và trong luận văn The Sceptic (1742), đã dùng huyền thoại này để cho nhấn mạnh, nếu có ngoại lệ, là không pha trộn với hạnh phúc!