Ngôn
ngữ và Não Thức
(Language
and Mind)
Noam
Chomsky
2
Những đóng góp về ngôn ngữ học cho việc nghiên cứu não thức: Hiện tại
Một khó khăn trong những khoa học tâm lý nằm trong sự quen thuộc của
những hiện tượng chúng giải quyết. Cần phải có một cố gắng trí thức nhất định
để xem – những hiện tượng như vậy có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng hay
đòi hỏi những lý thuyết giải thích phức tạp – như thế nào. Người ta có khuynh
hướng không suy nghĩ chấp nhận chúng như bình thường, hay trong cách nào
đó như “tự nhiên”.
Những tác động của sự quen thuộc này với những hiện tượng đã thường từng
được thảo luận. Thí dụ, Wolfgang Köhler đã nêu lên rằng những nhà tâm lý học
không mở ra “những khu vực hoàn toàn mới” trong phương cách của khoa học tự
nhiên, “đơn giản vì con người đã quen thuộc với hầu hết tất cả những khu vực
của đời sống tâm lý, một thời gian dài trước sự thành lập cảu khoa học tâm lý .
. bởi vì ở ngay khởi đầu công việc của họ, đã không có những sự kiện tâm lý còn
lại nào hoàn toàn chưa được biết để họ có thể khám phá”.[1]
Những khám phá cơ bản nhất của vật lý cổ điển có một giá trị chấn động nhất
định – con người không có trực giác về quỹ đạo hình elip, hay hằng số của lực hấp
dẫn. Nhưng “những sự thật tâm lý” thuộc loại ngay cả sâu xa hơn nhiều cũng
không thể được nhà tâm lý học “khám phá”,
bởi chúng là một vấn đề của sự quen thuộc về trực giác, và một khi được chỉ ra,
đều hiển nhiên, do đó có vẻ như không cần khám phá mới.
Cũng còn có một tác động tinh tế hơn. Những hiện tượng có thể là quá quen
thuộc đến nỗi chúng ta thực sự không nhìn thấy chúng gì cả, một vấn đề đã được
những nhà lý luận văn học và triết học thảo luận nhiều. Thí dụ, Viktor
Shklovskij vào đầu những năm 1920, đã phát triển ý tưởng rằng chức năng của
nghệ thuật thi ca là “làm cho đối tượng được mô tả trở nên kỳ lạ”. “Những gười
sống ở vùng bờ biển trở nên quen với tiếng sóng rì rào đến nỗi họ như không bao
giờ nghe thấy nó. Tương tự như vậy, chúng ta hiếm khi nghe thấy những lời mà chúng
ta thốt ra. . . Chúng ta nhìn nhau, nhưng chúng ta không còn thấy nhau nữa. Cảm
nhận của chúng ta về thế giới đã khô héo; những gì còn lại chỉ là nhận thức nông
cạn”. Vì vậy, mục đích của nghệ sĩ là để chuyển những gì được mô tả sang “lĩnh
vực của nhận thức mới”; như một thí dụ, Shklovskij trích dẫn một câu chuyện của
Tolstoy trong đó những phong tục và thể chế xã hội được “làm cho thành lạ lùng”
bằng cách trình bày chúng từ điểm nhìn của một tưởng thuật, xảy là của một con
ngựa. [2]
Nhận xét “chúng ta nhìn nhau nhưng không còn thấy nhau nữa” có lẽ tự thân
nó đã đạt đến trạng thái của “những lời chúng ta thốt ra nhưng hiếm khi nghe
thấy”. Nhưng sự quen thuộc, cũng như trong trường hợp này, không nên làm lu mờ
sự quan trọng của cái nhìn trực giác sâu xa.
Wittgenstein đưa ra một nhận xét tương tự, chỉ ra rằng “những phương diện của nhữngsự vật viêc quan
trọng nhất với chúng ta bị ẩn giấu vì tính đơn giản và quen thuộc của chúng
(người ta không thể nhận thấy điều gì đó – vì nó luôn ở trước mắt người ta)”. [3] Người
này tự đặt ra cho mình để “đem cho . . . nhận xét về lịch sử tự nhiên của loài
người: tuy nhiên, chúng ta không đóng góp những sự tò mò nhưng là những nhận
xét mà không ai nghi ngờ, nhưng lại không được chú ý chỉ vì chúng luôn ở trước mắt
chúng ta”.[4]
Ít được ghi nhận là sự kiện chúng ta cũng quên mất nhu cầu giải thích
khi những hiện tượng đều quá quen thuộc và “hiển nhiên”. Chúng ta có khuynh hướng quá dễ
dàng để giả định rằng những giải thích phải sáng sủa và gần với mặt nổi ngoài.
Với tôi, thiếu xót lớn nhất của triết học cổ điển về não thức, cả duy lý lẫn duy
nghiệm, là giả định không nghi ngờ của nó rằng những thuộc tính và nội dung của
não thức có thể nghiên cứu được bằng sự tự quán sát nội tâm [5] ; là
điều ngạc nhiên khi thấy giả định này hiếm khi bị thách thức, trong chừng mực
liên quan đến tổ chức và chức năng của những khả năng trí thức, ngay cả với
cách mạng theo Freud. Tương ứng, những nghiên cứu sâu rộng về ngôn ngữ được
thực hiện dưới ảnh hưởng của thuyết
duy lý Descartes đã chịu một thất bại, là không thẩm định giá trị được về tính
trừu tượng của những cấu trúc vốn “hiện diện trong não thức”, khi một lời nói
được tạo ra hay được hiểu, hay chiều dài và phức tạp của chuỗi những hoạt động
liên quan đến những cấu trúc tâm lý biểu hiện nội dung ngữ nghĩa của lời nói qua
thể hiện vật chất.
Một thiếu xót tương tự đã làm hỏng việc nghiên cứu ngôn ngữ và não thức
trong thời ngày nay. Với tôi, có vẻ như nhược điểm cơ bản trong những nghiên
cứu giải quyết của thuyết cấu
trúc và thuyết hành vi với
những đề tài này là tin cậy vào sự nông cạn của những giải thích, tin tưởng
rằng cấu trúc của não thức phải là đơn giản hơn trong cấu trúc của nó so với bất
kỳ cơ quan sinh lý nào được biết và rằng những giả định nguyên sơ nhất như vậy phải
là đủ để giải thích bất kỳ hiện tượng nào có thể được quan sát. Do đó, điều
hiển nhiên là không có biện luận hay bằng chứng nào (hay được trình bày là đúng
theo định nghĩa) rằng ngôn ngữ là một “cấu trúc do thói quen” [6]
hay một mạng lưới của những kết nối, hay kiến thức về ngôn ngữ chỉ đơn thuần là
một vấn đề “biết cách thức/biết làm thế nào”, một kỹ năng được thể hiện như một hệ thống của
việc tuỳ tiện dùng những phản ứng. Theo đó, kiến thức của ngôn ngữ phải phát
triển từ từ, qua sự lập đi lập lại và rèn luyện, sự phức tạp rõ ràng bên ngoài của
nó là kết quả của sự gia tăng của những yếu tố rất đơn giản nhưng không phải từ
những nguyên tắc sâu xa hơn của tổ chức tâm lý mà có thể không thể nghiên cứu
giải quyết được bằng quán sát nội tâm, như những cơ năng tiêu hóa hay phối hợp vận
động. Mặc dù không có gì là vô lý về cơ bản trong một cố gắng để giải thích
kiến thức và cách dùng ngôn ngữ trong những điều kiện này, nhưng nó cũng không
có tính hợp lý đặc biệt hay một sự biện minh tiên nghiệm nào. Không có lý do gì
để phản ứng với thái độ khó chịu hay hoài nghi nếu việc nghiên cứu kiến thức của
ngôn ngữ và cách dùng kiến thức này sẽ dẫn đến một hướng hoàn toàn khác.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [W.
Köhler, Dynamics in Psychology (New
York: Liveright, 1940)].
[2] [Xem V.
Ehrlich, Russian Formalism, bản sửa đổi thứ 2.
edn. (New York: Nhân văn, 1965), trang 176–77]
[3] [Ludwig
Wittgenstein, Philosophical Investigations (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1953), Phần 129]
[4] [Như trên,
Mục 415.]
[5] Introspection : tự quán
sát nội tâm là tiến trình xem
xét và suy ngẫm về những suy nghĩ, cảm xúc và trạng thái tinh thần của chính
mình. Về cơ bản, đó là "nhìn vào bên trong" để nhận thức được những
gì đang diễn ra trong não thức ở một thời điểm nhất định. Quán sát nội tâm từng là một phương pháp chính trong tâm lý
học ban đầu, đặc biệt trong những trường phái như cấu trúc, nhưng nó có những
giới hạn vì dựa vào việc tự xem xét thuật
kể chủ quan, điều này có thể không đáng tin cậy.
[6] Habit structure: ngôn
ngữ học được qua tập quán, thói quen – qua sự lặp đi lặp lại nhữngkhuoon mẫu ăn
nói, hay phản ứng tự động khi ứng đáp