Những đóng góp về ngữ học cho việc nghiên cứu não
thức: Hiện tại
Một khó khăn trong những khoa học tâm lý nằm trong
sự quen thuộc của những hiện tượng chúng giải quyết. Cần phải có một cố gắng
trí thức nhất định để xem – những hiện tượng như vậy có thể gây ra những vấn đề
nghịêm trọng hay đòi hỏi những lý thuyết giải thích phức tạp – như thế nào.
Người ta có khuynh hướng không suy nghĩ chấp nhận chúng như bình thường, hay một cách nào đó như “tự nhiên”.
Những tác động của sự quen thuộc này với những hiện
tượng đã thường từng được thảo luận. Thí dụ, Wolfgang Köhler đã nêu lên rằng
những nhà tâm lý học không mở ra “những khu vực hoàn toàn mới” trong phương
cách của khoa học tự nhiên, “đơn giản vì con người đã quen thuộc với hầu hết
tất cả những khu vực của đời sống tâm lý, một thời gian dài trước sự thành lập của khoa học tâm lý . . bởi vì ở
ngay khởi đầu công việc của họ, đã không có những sự kiện tâm lý còn lại nào
hoàn toàn chưa được biết để họ có thể khám phá”.[1] Những khám phá cơ bản nhất
của vật lý cổ điển có một giá trị chấn động nhất định – con người không có trực
giác về quỹ đạo hình elip, hay hằng số của lực hấp dẫn. Nhưng “những sự thật
tâm lý” thuộc loại ngay cả sâu xa hơn nhiều cũng không thể được nhà tâm lý học “khám
phá”, bởi chúng là một vấn đề của sự quen thuộc về trực giác, và một khi được
chỉ ra, đều hiển nhiên, do đó có vẻ như không cần khám phá mới.
Cũng còn có một tác động tế nhị hơn. Những hiện
tượng có thể quá quen thuộc đến nỗi chúng ta thực sự không nhìn thấy chúng gì
cả, một vấn đề những nhà lý luận văn học và triết học đã thảo luận nhiều. Thí
dụ, Viktor Shklovskij ,vào đầu những năm 1920, đã khai triển ý tưởng rằng chức
năng của nghệ thuật thi ca là “làm cho đối tượng được mô tả trở nên lạ lùng”. “Những
người sinh sống ở vùng bờ biển đã quá quen với tiếng sóng vỗ rì rào đến nỗi họ
không bao giờ nghe thấy nó nữa. Tương tự như vậy, chúng ta hiếm khi nghe những
lời chính mình thốt ra... chúng ta nhìn nhau, nhưng không còn thấy nhau nữa.
Nhận biết của chúng ta về thế giới đã khô héo; những gì còn lại chỉ là sự nhận
thức hời hợt” [2]. Do đó, mục tiêu của nghệ sĩ
là chuyển những gì được mô tả sang “lĩnh vực nhận thức mới”, Shklovskij trích
dẫn một câu chuyện của Tolstoy, trong đó những phong tục và thể chế xã hội được
“làm cho thành lạ lùng” bằng khéo léo trình bày chúng từ điểm nhìn của một lời
kể chuyện, xảy là của một con ngựa. [3]
Nhận xét rằng “chúng ta nhìn nhau, nhưng không còn
thấy nhau nữa” có lẽ tự thân nó đã đạt đến trạng thái của “những lời chúng ta
thốt ra nhưng hiếm khi nghe thấy”. Nhưng sự quen thuộc, cũng như trong trường
hợp này, không nên làm lu mờ sự quan trọng của cái nhìn trực giác sâu xa.
Wittgenstein đưa ra một quan sát tương tự, chỉ ra rằng “những phương diện của những sự vật viêc
quan trọng nhất với chúng ta đều bị tính đơn giản và quen thuộc của chúng che
dấu (người ta không có khả năng để ghi nhận một gì nữa– vì nó luôn luôn ở ngay trước
mắt người ta)”. [4] Người này tự đặt cho mình để “cung
cấp. . . những nhận xét về lịch sử tự nhiên của loài người: tuy nhiên, chúng ta
không đóng góp vào những tò mò muốn biết nhưng là những quan sát vốn không ai đã
nghi ngờ, nhưng lại không được chú ý chỉ vì chúng luôn ở trước mắt chúng ta”.[5]
Ít ghi nhận hơn là sự kiện rằng chúng ta cũng bỏ
qua, không chú ý đến nhu cầu cho giải thích khi những hiện tượng đều quá quen
thuộc và “hiển nhiên”. chúng ta có khuynh hướng quá dễ dàng để giả định rằng
những giải thích phải
đơn giản và rõ ràng, gần với mặt ngoài không cần
phân tích sâu. Với tôi, thiếu xót lớn nhất của triết học cổ điển về não thức,
cả duy lý lẫn duy nghiệm, là giả định không hoài nghi của nó rằng những thuộc
tính và nội dung của não thức có thể được nghiên cứu bằng quán sát nội tâm, hay
tự xem xét những suy nghĩ và cảm xúc của chính mình [6] ; là điều ngạc nhiên khi thấy
giả định này hiếm khi bị thách thức, trong chừng mực liên quan với tổ chức và
chức năng của những khả năng trí thức, ngay cả với cách mạng theo Freud. Tương
ứng, những nghiên cứu sâu rộng về ngôn ngữ được thực hiện dưới ảnh hưởng của thuyết duy lý Descartes đã có một
thất bại, là không thẩm định được giá trị về tính trừu tượng của những cấu trúc
vốn “hiện diện trong não thức”, khi một lời nói được tạo ra hay được hiểu, hay
chiều dài và phức tạp của chuỗi những hoạt động liên quan với những cấu trúc
tâm lý biểu hiện nội dung ngữ nghĩa của lời nói qua thể hiện vật chất.
Một thiếu xót tương tự đã làm hỏng sự nghiên cứu
ngôn ngữ và não thức trong thời nay. Với tôi, có vẻ như nhược điểm cơ bản trong
những nghiên cứu giải quyết của thuyết
cấu trúc và thuyết hành vi với
những đề tài này là đặt trọn tin tưởng vào sự nông cạn của những giải thích,
tin tưởng rằng cấu trúc của não thức phải là đơn giản hơn trong cấu trúc của nó
so với bất kỳ cơ quan sinh lý nào được biết và rằng những giả định nguyên sơ
nhất như vậy phải là đủ để giải thích bất kỳ hiện tượng nào có thể được quan sát.
Do đó, điều hiển nhiên là không có biện luận hay bằng chứng nào (hay được trình
bày là đúng theo định nghĩa) rằng ngôn ngữ là một “cấu trúc do thói quen” [7] hay một mạng lưới của những
kết nối, hay kiến thức về ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một vấn đề “biết cách
thức/biết làm thế nào”, một kỹ năng được thể hiện như một hệ thống của việc tuỳ
tiện dùng những phản ứng. Theo đó, kiến thức của ngôn ngữ phải phát triển từ
từ, qua lập đi lập lại và rèn luyện, sự phức tạp rõ ràng bên ngoài của nó là
kết quả của sự gia tăng của những yếu tố rất đơn giản, nhưng không phải từ
những nguyên tắc sâu xa hơn của tổ chức tâm lý vốn có thể không thể nghiên cứu
giải quyết được bằng quán sát nội tâm, như những cơ năng tiêu hóa hay phối hợp
vận động. Mặc dù không có gì là vô lý về cơ bản trong một cố gắng để giải thích
kiến thức và cách dùng ngôn ngữ trong những điều kiện này, nhưng nó cũng không
mang tính hợp lý hay một biện minh tiên nghiệm đặc biệt nào. Không có lý do gì
để phản ứng với thái độ lo ngại hay hoài nghi nếu việc nghiên cứu kiến thức của
ngôn ngữ và cách dùng kiến thức này sẽ dẫn đến một hướng hoàn toàn khác.
Tôi nghĩ rằng để đạt được tiến bộ trong nghiên cứu
ngôn ngữ và những khả năng nhận thức con người trong tổng quát, trước tiên cần
phải thiết lập “khoảng cách tâm lý” với “những sự kiện tâm lý” vốn Köhler đã
nhắc đến, sau đó khám phá những khả năng cho việc phát triển những lý thuyết
giải thích, bất cứ điều gì chúng có thể nêu lên liên quan với sự phức tạp và
trừu tượng của những cơ chế cơ bản. chúng ta phải nhìn nhận rằng ngay cả những
hiện tượng quen thuộc nhất cũng đòi hỏi giải thích và chúng ta không có ưu tiên
hiểu biết sâu xa trực tiếp nào về những cơ chế cơ bản, cũng giống như trong
sinh lý học hay vật lý. Chỉ những giả thuyết sơ bộ thăm dò, không chắc chắn,
tạm thời nhất mới có thể được đưa ra liên quan với bản chất của ngôn ngữ, cách
dùng nó và sự tiếp nhận nó. Là người nói tiếng mẹ đẻ, chúng ta có sẵn một lượng
dữ liệu rất lớn. Chỉ đúng vì lý do này vốn người ta dễ rơi vào cái bẫy tin rằng
không có gì để còn có thể còn để giải thích, rằng bất kỳ nguyên tắc tổ chức và
cơ chế cơ bản nào có thể hiện hữu, đều phải là”đã cho sẵn” như dữ liệu được đem
cho. Không gì có thể là xa sự thật hơn, và một cố gắng để mô tả chính xác hệ
thống của những quy luật chúng ta đã nắm vững cho phép chúng ta hiểu những câu
mới và tạo ra một câu mới vào một cơ hội thích hợp sẽ nhanh chóng xua tan bất
kỳ giáo điều nào về vấn đề này. Sự tìm kiếm những lý thuyết giải thích phải bắt
đầu bằng một cố gắng để xác định những hệ thống quy luật này và vén mở lên cho
thấy những nguyên tắc điều khiển chúng.
Một người đã có được kiến thức của một một ngôn
ngữ, đã hấp thụ [8] một hệ thống những qui luật
liên hệ âm thanh và ý nghĩa trong một cách riêng biệt . Trong thực tế, nhà ngữ
học xây dựng một ngữ pháp của một ngôn ngữ là đưa ra một giả thuyết liên quan
với hệ thống đã nhập tâm này. Giả thuyết của nhà Ngữ học, nếu được trình bày đủ
rõ ràng và chính xác, sẽ có những hệ quả thực nghiệm nhất định, liên quan với dạng
thức của những gì nói ra lời, và những diễn giải của người nói tiếng mẹ đẻ về ý
nghĩa của chúng. Rõ ràng, kiến thức của ngôn ngữ – hệ thống những quy luật đã
hấp thụ – chỉ là một trong nhiều yếu tố quyết định một gì nói ra lời sẽ được
dùng và hiểu thế nào trong một hoàn cảnh riêng biệt. Nhà ngữ học cố gắng để xác
định những gì cấu thành kiến thức của một ngôn ngữ – để xây dựng một ngữ pháp
chính xác – là nghiên cứu một yếu tố nền tảng vốn liên quan với thể hiện ngôn
ngữ, nhưng không là yếu tố duy nhất. Sự lý tưởng hóa này phải được ghi nhớ khi
người ta xem xét vấn đề xác nhận những ngữ pháp trên cơ bản bằng chứng thực
nghiệm. Không có lý do gì khiến người ta cũng không nghiên cứu tác động hỗ
tương của nhiều yếu tố gồm trong những hành vi tâm lý phức tạp và thể hiện thực
sự cơ bản, nhưng một nghiên cứu như vậy thì không có phần tiến được xa trừ khi
bản thân những yếu tố riêng biệt đó đã được hiểu rõ ràng.
Trong một ý hướng xây dựng, ngữ pháp do nhà ngữ học
nêu lên là một lý thuyết giải thích; nó đề nghị một giải thích cho sự kiện
(theo cách lý tưởng hóa đã nhắc đến) rằng một người nói ngôn ngữ đang giải
thích sẽ nhận thức, diễn giải, hình thành hay dùng một phát âm trong những cách
nhất định nhưng không trong những cách khác. Người ta cũng có thể tìm những lý
thuyết giải thích thuộc loại sâu xa hơn. Người nói tiếng mẹ đẻ đã tiếp nhận một
ngữ pháp, học những quy luật ngữ pháp dựa trên những thí dụ ngôn ngữ rất giới
hạn và thường không hoàn hảo. Mặc dù vậy, ngữ pháp vốn họ học được có thể được
áp dụng cho nhiều câu nói hơn so với những thí dụ riêng biệt vốn họ đã gặp. Nói
cách khác, sự hiểu biết về ngữ pháp của người nói vượt xa những bằng chứng hạn
chế vốn họ tiếp xúc trong khi học ngôn ngữ. Ở một mức độ, những hiện tượng ngữ
pháp nói đến được giải thích bằng những quy luật của chính ngữ pháp và tác động
hỗ tương của những quy luật này. Ở một mức độ sâu hơn, cùng những hiện tượng
này được giải thích bằng những nguyên tắc xác định, hướng dẫn cách một người
lựa chọn và phát triển ngữ pháp của họ dựa trên những thí dụ giới hạn và không
hoàn hảo về ngôn ngữ vốn họ được cung cấp. Về cơ bản, người này đã xây dựng sự
hiểu biết của riêng mình về ngữ pháp từ kinh nghiệm giới hạn này. Những nguyên
tắc vốn xác định dạng thức của ngữ pháp và vốn lựa chọn một ngữ pháp có dạng
thức thích hợp trên cơ bản của dữ liệu nhất định tạo thành một đề tài, tuân
theo một cách dùng truyền thống, có thể được gọi là “ngữ pháp phổ quát”. Việc nghiên
cứu về ngữ pháp phổ quát, hiểu như vậy, là một nghiên cứu về bản chất của những
khả năng trí thức của con người. Nó cố gắng để hình thành những điều kiện cần
và đủ vốn một hệ thống phải đáp ứng để đủ tiêu chuẩn trở thành một ngôn ngữ
tiềm năng của con người, những điều kiện không phải ngẫu nhiên đúng với những
ngôn ngữ hiện có của con người, nhưng đúng hơn đã có gốc trong “khả năng ngôn
ngữ” con người, và do đó cấu thành nên cấu trúc bẩm sinh quyết định những gì
được coi như kinh nghiệm ngôn ngữ và kiến thức nào về ngôn ngữ phát sinh trên
cơ bản kinh nghiệm này. Do đó, ngữ pháp phổ quát tạo thành một lý thuyết giải
thích thuộc loại sâu xa hơn nhiều so với ngữ pháp riêng biệt, mặc dù ngữ pháp riêng
biệt của một ngôn ngữ cũng có thể được coi như một lý thuyết giải thích. [9]
Trong thực hành, nhà ngữ học thì luôn luôn tham dự vào
sự nghiên cứu về cả ngữ pháp phổ quát và ngữ pháp riêng biệt. Khi ông xây dựng
một ngữ pháp mô tả, riêng biệt trong một cách này nhưng không cách khác, trên
cơ sở của những bằng chứng ông có sẵn, ông được hướng dẫn, dù có ý thức hay
không, bởi những giả định nhất định về phần dạng thức của ngữ pháp, và những
giả định này thuộc về lý thuyết của ngữ pháp phổ quát. Ngược lại, việc hình
thành những nguyên tắc ngữ pháp phổ quát của ông phải được biện minh bằng việc
nghiên cứu những hệ quả của chúng, khi áp dụng vào những ngữ pháp riêng biệt.
Vì vậy, ở một số những mức độ, nhà ngữ học tham dụ vào việc xây dựng những lý thuyết
giải thích, và ở mỗi mức độ đều có một diễn giải tâm lý rõ ràng về công trình
lý thuyết và mô tả của ông. Ở mức độ ngữ pháp đặc thù, ông cố gắng mô tả kiến
thức của một ngôn ngữ, một hệ thống nhận thức nhất định vốn đã được phát triển
– tất nhiên là vô thức – bởi người nói-người nghe điển hình bình thường. Ở mức
độ ngữ pháp phổ quát, trọng tâm chuyển sang cố gắng để thiết lập một số thuộc
tính tổng quát nhất định của trí thông minh con người. Ngữ học, với đặc điểm
như vậy, chỉ đơn giản là một lĩnh vực phụ của tâm lý học vốn giải quyết những phương diện nhận thức này của não
thức (khám phá cách thức ngôn ngữ định hình và tác động hỗ tương với hiểu biết
của chúng ta về tư tưởng và trí thông minh).
Tôi sẽ cố gắng để đem cho một vài chỉ định về loại
công việc hiện đang tiến hành vốn có mục đích, một mặt, xác định những hệ thống
quy luật vốn tạo dựng kiến thức của một ngôn ngữ, và mặt khác, vén mở cho thấy những
nguyên tắc vốn chi phối những hệ thống này. Rõ ràng, bất kỳ kết luận nào nếu có
thể đạt được ngày nay liên quan với ngữ pháp riêng biệt hay phổ quát đều phải
mang tính thăm dò tạm thời và giới hạn trong phạm vi bao quát của chúng. Và
trong một phác lược ngắn gọn như thế này, chỉ có thể chỉ ra những nét phác thảo
sơ bộ nhất. Để cố gắng mang lại chút hương vị của những gì đang được thực hiện
ngày hôm nay, tôi sẽ tập trung vào những vấn đề hiện tại ở chỗ chúng có thể
được trình bày một cách rõ ràng và được nghiên cứu, mặc dù chúng vẫn chưa có giải
pháp.
Như tôi đã cho biết trong bài giảng đầu tiên, tôi
tin rằng khung cấu trúc khái niệm tổng quát thích hợp nhất cho nghiên cứu những
vấn đề về ngôn ngữ và não thức là hệ thống của những ý tưởng đã phát triển như
phần của tâm lý học duy lý của thế kỷ XVII và XVIII, đã khai triển chi tiết trong
những phương diện quan trọng
bởi phong trào lãng mạn và sau đó phần lớn bị bỏ quên khi sự chú ý chuyển sang
những vấn đề khác. Theo như khái niệm truyền thống này, một hệ thống những mệnh
đề thể hiện ý nghĩa của một câu thì được tạo ra trong não thức, khi câu được
nhận ra như một tín hiệu vật lý, cả hai được liên kết với nhau bằng những hoạt
động dạng thức nhất định nào đó, vốn trong thuật ngữ hiện nay, chúng ta có thể
gọi là những phép biến đổi ngữ pháp. Tiếp tục với thuật ngữ hiện tại, chúng ta
có thể phân biệt giữa cấu trúc ngoài mặt của câu, và cấu trúc sâu bên dưới của
nó. Cấu trúc ngoài mặt đề cập đến tổ chức những phân loại và cụm từ có liên
quan trực tiếp đến tín hiệu vật lý—những từ chúng ta nghe hoặc nhìn thấy. Ngược
lại, cấu trúc sâu cũng gồm những phân loại và cụm từ, nhưng nó mang tính chất
trừu tượng hơn, thể hiện ý nghĩa cơ bản đằng sau câu. Thí dụ, chúng ta hãy phân
tích cấu trúc ngoài mặt của câu “a wise man is honest/một người khôn ngoan thì trung
thực”. Ở đây, chúng ta có thể chia nhỏ thành hai thành phần chính: chủ ngữ “a
wise man/ một người khôn ngoan “ và vị ngữ “is honest/ thì trung thực”. Tuy
nhiên, cấu trúc sâu cho thấy một sự sắp xếp khác. Nó lấy ra một mệnh đề cơ bản
hơn từ ý tưởng phức tạp được thể hiện trong cấu trúc ngoài mặt. Trong trường
hợp này, cấu trúc sâu sẽ thể hiện chủ ngữ là “man/người” và vị ngữ là “be wise/thì
khôn ngoan”.Theo quan điểm truyền thống, cấu trúc sâu gồm một hệ thống gồm hai
mệnh đề không được khẳng định rõ ràng nhưng có quan hệ với nhau theo cách
truyền tải ý nghĩa của câu “a wise man is honest”. chúng ta có thể minh họa sự
khác biệt này bằng cách biểu diễn cấu trúc sâu bằng một công thức và cấu trúc
ngoài mặt bằng một công thức khác, cấu trúc sâu trong trường hợp thí dụ này
bằng công thức 1 và cấu trúc ngoài mặt theo công thức 2, trong đó những cặp dấu
ngoặc vuông vuông kép được gắn nhãn để cho thấy phân loại của cụm từ vốn chúng
chứa. (Lưu ý rằng nhiều chi tiết đã bị lược bỏ để làm rõ hơn.)
1.
2
Một ký hiệu thay thế và tương đương, được dùng rộng rãi, biểu thị dấu ngoặc vuông vuông có nhãn của 1 và 2 ở dạng cây, tương ứng là 1 và 2:
1
2
Kiến thức của một ngôn ngữ gồm khả năng để gán
những cấu trúc ngoài mặt và cấu trúc sâu cho một chuỗi vô hạn của những câu, để
liên hệ những cấu trúc tương ứng này và gán một diễn giải ngữ nghĩa và một diễn
giải ngữ âm cho những cấu trúc ngoài mặt và cấu trúc sâu được ghép đôi. Đại
cương này của bản chất về ngữ pháp thì có vẻ khá chính xác như một sự xấp xỉ gần
đúng đầu tiên với sự biểu thị đặc điểm của “kiến thức của một ngôn ngữ”.
Cấu trúc ngoài mặt và cấu trúc
sâu tương quan như thế nào? Rõ ràng, trong thí dụ đơn giản đã cho, chúng ta có
thể hình thành cấu trúc ngoài mặt từ cấu trúc sâu, bằng thực hiện những phép
biến đổi cú pháp, loại như sau:
3
a. Gán dấu hiệu wh – cho
NP được nhúng chìm sâu nhất, “man”
b. thay thế NP đã gán dấu hiệu,
bằng “who/ai”
c. xóa “who is/ ai là”
d. đảo ngược “man/ người” và “khôn ngoan”.
Chỉ áp dụng những phép biến
đổi cú pháp a và b, chúng ta lấy ra được cấu trúc cơ bản của câu “một người là
người khôn ngoan thì trung thực”, vốn đây là một sự thể hiện có thể có được của
cấu trúc chìm cơ bản (1). Ngoài ra, nếu chúng ta áp dụng phép biến đổi cú pháp
c (lấy ra “một người khôn ngoan thì trung thực”), thì trong tiếng Anh, chúng ta
cũng phải áp dụng phép biến đổi cú pháp phụ d, lấy ra cấu trúc ngoài mặt (2),
sau đó nó có thể được diễn giải theo ngữ âm.
[10]
Nếu trong tổng quát, phương pháp nghiên cứu giải quyết này là đúng, khi đó một cá nhân là là người
biết một ngôn ngữ riêng biệt cụ thể, có sự điều khiển của một ngữ pháp vốn phát sinh (hay định nghĩa) tập hợp vô hạn của những cấu trúc sâu có thể có, kết nối chúng với những cấu
trúc ngoài mặt tương ứng, và xác định, gán cả ngữ nghĩa và ngữ âm những diễn
giải của những đối tượng trừu tượng này. [11] Dựa trên thông tin hiện có, có vẻ chính xác để nêu
lên rằng cấu trúc ngoài mặt hoàn toàn quyết định việc diễn giải ngữ âm, và cấu
trúc sâu biểu lộ những chức năng ngữ pháp vốn đóng một vai trò trong việc quyết
định việc diễn giải ngữ nghĩa, mặc dù một số phương diện nhất định của cấu trúc ngoài mặt cũng có thể tham dự
vào việc xác định ý nghĩa của câu trong những cách vốn tôi sẽ không thảo luận ở
đây. Do đó, một ngữ pháp của loại này sẽ quyết định một tương quan vô hạn nhất
định giữa âm thanh và ý nghĩa. Nó tạo dựng một bước đầu tiên hướng tới việc giải thích – tại sao một người có thể hiểu bất kỳ một câu nào trong ngôn ngữ của người này.
Ngay cả thí dụ được đơn giản nhân tạo này cũng dùng để minh họa một số thuộc tính của những ngữ
pháp vốn có vẻ là tổng quát. Một lớp vô hạn của những cấu trúc sâu, rất giống
như thí dụ 1, đã cho, có thể được tạo ra bằng những quy luật rất đơn giản,
biểu thị một ít chức năng
ngữ pháp thô sơ, nếu chúng ta gán cho
những quy luật này một thuộc tính lập đi lập lại trở ngược: – riêng biệt là một
thuộc tính cho phép chúng nhúng chìm vào những cấu trúc có dạng [s . . .] bên trong
những cấu trúc khác. Cuối cùng, những biến đổi ngữ pháp sẽ lập lại để tạo thành
một cấu trúc ngoài mặt có thể khá xa, tách biệt hoàn toàn với cấu trúc sâu bên dưới. Bản thân cấu trúc sâu có thể rất trừu tượng; nó có thể
không có tương quan chặt chẽ, không có bất kỳ tương quan từng điểm rõ ràng nào với thể hiện ngữ âm của nó. Kiến thức
của một ngôn
ngữ, – những gì chúng ta gọi là “khả năng ngôn ngữ “, trong nghĩa chuyên môn của từ ngữ
này đã thảo luận vắn tắt trong bài giảng đầu tiên – gồm một sự thành thạo của những
tiến trình ngữ pháp này.
Chỉ với chừng này của một khung
cấu trúc khái niệm, chúng ta có thể bắt đầu để hình thành một số vấn đề vốn gọi
đến phân tích và giải thích. Một vấn đề lớn được đặt ra bởi sự kiện là cấu trúc
ngoài mặt thường đưa ra rất ít chỉ định trong chính nó về ý nghĩa của câu. Thí dụ, có nhiều câu vốn là mơ hồ trong một số cách thức, không được cấu trúc ngoài mặt chỉ định rõ.
Xét câu 4:
4 Tôi không tán thành với việc John uống rượu.
Câu này có thể , hoặc chỉ về việc
John uống rượu hoặc về tính nết của John.
Ý nghĩa mơ hồ được giải quyết,
theo những cách khác nhau, trong câu 5 và 6:
5 Tôi không tán thành với việc John uống bia.
6 Tôi không tán thành với việc John uống rượu quá mức.
Rõ ràng là có sự tham dự của
những tiến trình ngữ pháp. Ghi nhận rằng chúng ta không thể đồng thời mở rộng
4, theo cả hai cách, đã minh họa trong 5 và 6; nếu thế việc đó sẽ cho chúng ta 7:
7 *Tôi không tán thành với việc John uống bia quá nhiều. [12]
Ngữ pháp của chúng ta gán hai
cấu trúc trừu tượng khác nhau cho 4, một trong chúng liên quan với cấu trúc làm
nền tảng cho 5, cấu trúc kia liên quan với cấu trúc làm nền tảng cho 6. Nhưng ở
mức độ cấu trúc sâu, sự khác biệt được trình bày; nó bị xóa sạch bởi những phép
biến đổi ghép tương ứng những cấu trúc sâu vào cấu trúc ngoài mặt hình thành liên
kết với 4.
Những tiến trình đã bao gồm
trong thí dụ 4, 5 và 6, chúng đều khá phổ biến trong tiếng Anh. Vì vậy, câu “Tôi
không tán thành việc nấu ăn của John” có thể ám chỉ rằng tôi nghĩ vợ John nên
nấu ăn (thay vì John), hay tôi nghĩ John dùng quá nhiều tỏi, chẳng hạn. Một lần
nữa, sự mơ hồ sẽ được giải quyết nếu chúng ta mở rộng câu theo cách được chỉ ra
trong 5 và 6.
Sự kiện câu 7 sai lệch ngữ pháp, đòi hỏi giải thích. Giải thích trong
trường hợp này, ở mức độ của ngữ pháp riêng biệt, sẽ được đem cho, bằng sự hình
thành của những quy luật ngữ pháp vốn gán cho những cấu trúc sâu thay thế và
trong mỗi trường hợp cho phép một mở rộng nhưng không những mở rộng khác cho 5
hay 6. Sau đó, chúng ta sẽ giải thích sự sai lệch của 7 và sự mơ hồ của 4 bằng
cách quy hệ thống quy luật này cho người biết ngôn ngữ, như một phương diện của kiến thức của người
này. Dĩ nhiên, chúng ta có thể cố gắng chuyển sang một mức độ giải thích sâu
hơn, hỏi như thế nào người đó đã nhập tâm những quy luật này thay vì những quy
luật khác vốn xác định một tương quan âm thanh-ý nghĩa khác biệt, và một loại
cấu trúc ngoài mặt khác biệt được tạo ra khác (gồm, có lẽ, 7). Đây là một vấn
đề của ngữ pháp phổ quát, theo nghĩa được mô tả trước đây. Dùng những thuật ngữ
của ghi chú 5, thảo luận ở mức độ của ngữ pháp riêng biệt, sẽ là một thảo luận
về mức độ đầy đủ về mô tả, và ở mức độ của ngữ pháp phổ quát, nó sẽ là một thảo
luận về mức độ đầy đủ về giải thích.
Lưu ý rằng những quy luật đã nhập
tâm của ngữ pháp tiếng Anh vẫn còn có những hệ quả xa hơn trong một trường hợp
như vừa thảo luận. Có những phép biến đổi có tính tổng quát lớn cho phép hay
yêu cầu xóa bỏ những phần tử lập lại, toàn bộ hay một phần, trong những điều
kiện được xác định rõ ràng. Áp dụng cho cấu trúc 8, những quy luật này suy ra
9, [13]
8 I don’t
like John’s cooking any more than Bill’s cooking / Tôi không
thích cách nấu ăn của John hơn cách nấu ăn của Bill
9 I don’t
like John’s cooking any more than Bill’s / Tôi không thích cách nấu ăn
của John hơn của Bill
Câu 9 thì mơ hồ, khó hiểu. Nó
có thể có nghĩa, hoặc là tôi không thích việc John nấu ăn hơn là tôi thích việc
Bill nấu ăn, hoặc tôi không thích phẩm chất nấu ăn của John hơn tôi thích phẩm chất
nấu ăn của Bill. [14] Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi không
thích phẩm chất thức ăn của John hơn là tôi thích việc Bill nấu ăn, hay ngược
lại, với “sự kiện nấu ăn” và “phẩm chất” thay thế cho nhau. Nghĩa là, trong cấu
trúc cơ bản (8), chúng ta phải hiểu những cụm từ mơ hồ “John’s cooking” và “Bill’s
cook” theo cùng một cách nếu chúng ta muốn xóa “cách nấu ăn”. Có vẻ hợp lý khi
cho rằng những gì liên quan là một điều kiện chung nào đó về khả năng áp dụng
của những phép biến đổi cú pháp xóa, chẳng hạn như điều kiện cho 9 từ 8, một
điều kiện khá trừu tượng không chỉ tính đến cấu trúc vốn phép biến đổi cú pháp
áp dụng nhưng còn cả lịch sử. nguồn gốc của cấu trúc này.
Những thí dụ khác co thẻ tìm
thấy, ở đó một nguyên tắc tương tự có vẻ cũng hoạt động. Vì vậy, hãy xem xét
câu 10, vốn được giả định trước là lấy ra từ 11 hay 12, và do đó không rõ ràng:
[15]
10 I know a
taller man than Bill /Tôi biết một người cao hơn
Bill.
11 I know a
taller man than Bill does
12 I know a
taller man than Bill is
Có vẻ rõ ràng là sự mơ hồ của câu
10 thì không bày ra trong cấu trúc ngoài mặt; Việc xóa “does” ở câu 11 đẻ lại cấu
trúc giống hệt như việc xóa “is” ở câu 12. Nhưng bây giờ hãy xem xét câu 13.
13 I know a
taller man than Bill, and so does John /Tôi biết một người cao hơn Bill và John cũng vậy.
Câu này, giống như câu 9, mơ
hồ hai-cách hơn là mơ hồ bốn-cách.
Nó có thể có nghĩa là 14 hay
15, nhưng không là 16 hay 17: [16]
14 I know a
taller man than Bill does and John knows a taller man than Bill does./Tôi biết một người cao hơn Bill (biết)
và John biết một người cao hơn Bill biết.
15 I know a
taller man than Bill is and John knows a taller man than Bill is
16 I know a
taller man than Bill is and John knows a taller man than Bill does / Tôi biết một người cao (thì) hơn Bill và John biết một người
(thì) cao hơn Bill.
17 I know a
taller man than Bill does and John knows a taller man than Bill is
Nhưng bây giờ có một vấn đề
nảy sinh, như chúng ta có thể thấy bằng xem xét kỹ lưỡng hơn sự lêch lạc ngữ
pháp của 13. Chúng ta hãy gọi hoạt động xóa, đem cho 10 từ 11 như T1, và hoạt
động xóa đem cho 10 từ 12 như T2 . Nếu áp dụng T1 cho mỗi liên kết của 14,
chúng ta sẽ lấy ra được 18:
18 I know a
taller man than Bill and John knows a taller man than Bill.
/ Tôi biết một người cao hơn Bill và John biết
một người cao hơn Bill.
Áp dụng T2 cho mỗi liên từ của
15 cũng sẽ cho kết quả 18. Nhưng áp dụng T1 cho một liên từ và T2 cho liên từ
kia trong 16 cũng sẽ cho kết quả 18, cũng như cùng tiến trình tương tự (theo
thứ tự ngược lại) khi áp dụng hai liên từ của 17. Do đó, 18 có thể được suy ra
bằng áp dụng T1 và T2 cho bất kỳ dạng nào trong bốn dạng cơ bản là 14, 15, 16
hay 17. Cấu trúc
của 18 tự nó không chỉ định dạng nào
trong những dạng này là
dạng cơ bản; sự phân biệt đã được loại bỏ
bằng những phép biến đổi cú pháp xóa T1 và T2. Những bây giờ xem hoạt động T3, hoạt động này suy ra “I saw Bill and so did John”
từ “I saw Bill and John saw Bill.” Áp dụng T3 vào 18, chúng ta suy ra 13. Tuy nhiên, chúng ta đã ghi nhận rằng 13 có thể có cách hiểu, diễn giải
của 14 hay 15, nhưng không của 16 hay 17. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng T3
chỉ có thể áp dụng cho 18, nếu 14 hay 15, nhưng không 16 hay 17, là cấu trúc cơ
bản của 18 trong những lấy ra đã cho của 18. Tuy nhiên, thông tin này không
được trình bày trong chính 18, như chúng ta vừa nhận xét. Do đó, để áp dụng T3 vào 18, ta phải biết đôi chút
về lịch sử của việc suy ra 18
– ta phải có thông tin vốn không có
trong dấu ngoặc vuông vuông có nhãn của chính 18 – chúng ta phải có thông tin không
chứa trong dấu ngoặc vuông vuông được dán nhãn của chính 18. Trong thực tế, những
gì chúng ta phải biết là hai liên từ của 18 xuất phát từ những cấu trúc cơ bản
trong đó cùng một yếu tố đã bị xóa. [17] Một lần nữa, có vẻ như phải có một số điều kiện tổng
quát về áp dụng những phép biến đổi xóa, một nguyên tắc rằng bằng cách nào đó
đưa vào xem xét lịch sử nguồn gốc của những chuỗi bị xóa, có lẽ là một số thuộc
tính nhất định của cấu trúc sâu vốn cuối cùng
chúng bắt nguồn
Để xem
vấn đề phức tạp thế nào, hãy xem xét những câu loại như “John’s intelligence, which is his most remarkable quality, exceeds his
prudence Trí thông
minh của John, là phẩm chất đáng chú ý nhất của ông, vượt quá sự thận trọng của
ông” hay “The book, which weighs five pounds, was written by John /Quyển sách, nặng năm pound, được viết bởi John”. Có lẽ, đại từ quan hệ trong mệnh đề bổ ngữ được nhúng thay thế cho cụm danh từ đã xóa và điều
kiện xóa mà chúng ta đang thảo luận ngụ ý rằng cụm danh từ này phải giống hệt
với cụm danh từ tiền tố “John’s intelligence” hay “the book” trong cấu trúc cơ bản của mệnh đề bổ ngữ. Tuy
nhiên, trong mỗi trường hợp, có thể lập luận rằng có sự khác biệt giữa tiền tố
và cụm danh từ của mệnh đề bổ ngữ. Vì vậy, trong trường hợp đầu tiên, chúng ta đang nhắc đến mức độ thông
minh của John trong mệnh đề chính nhưng nhắc đến chất lượng thông minh của
người này trong mệnh đề được nhúng chìm; và trong trường hợp thứ hai, chúng ta
coi quyển sách như một đối tượng trừu tượng trong mệnh đề chính nhưng là một
đối tượng vật lý riêng biệt trong mệnh đề được nhúng chìm; người ta có thể mong đợi những khác biệt này được
thể hiện trong cấu trúc sâu, do đó mâu thuẫn với nguyên tắc mà chúng ta dường
như bị thúc đẩy bởi những ví dụ trước đó. Tôi sẽ không tiếp tục thảo luận này ở
đây, nhưng nếu người đọc tiếp
tục tìm hiểu, sẽ thấy rằng vấn đề trở nên dày nặng hơn khi xem xét một lớp phong phú gồm nhiều trường hợp hơn.
Trong thực tế, nguyên tắc chính xác thì không được biết trong những trường hợp như thế này, mặc dù một số điều kiện vốn nó phải đáp ứng thì rõ
ràng. Vấn đề những thí dụ này đặt ra là một vấn đề khá điển hình. Chú ý đến sự
kiện ngôn ngữ vén lên cho thấy những thuộc tính nhất định của những câu, liên
quan với âm thanh, ý nghĩa, lệch lạc (ý nghĩa) của chúng, v.v. Rõ ràng là sẽ không có giải thích nào cho những sự
kiện này được đưa ra, chừng
nào chúng ta còn tự giới hạn trong việc thảo luận những khái niệm mơ hồ như “tập quán/thói quen”, “kỹ năng” và “khuynh hướng phản ứng” hay về sự hình thành câu “bằng loại suy”. Chúng ta không có “thói quen” hiểu những câu 4, 9 và 13 theo
một cách nhất định: có nhiều phần xảy ra là người đọc chưa từng gặp những câu
gần giống như thế này, nhưng lại hiểu chúng theo một cách rất cụ thể. Gọi những
tiến trình liên quan như “tương tự” chỉ đơn giản là đặt một tên cho những gì vẫn
còn là một bí ẩn. Để giải thích những hiện tượng như vậy, chúng ta phải khám
phá những quy luật vốn liên kết với âm thanh và ý nghĩa của ngôn ngữ đang được
nhắc đến – ngữ pháp đã được người biết ngôn ngữ tiếp nhận nhập tâm – và những
nguyên tắc tổng quát xác định tổ chức và chức năng của những quy luật này.
Tính chất gây lầm lẫn và không
đầy đủ của cấu trúc ngoài mặt trở nên rõ ràng, ngay khi nghiên cứu ngay cả
những mô hình đơn giản nhất. Thí dụ, hãy xem câu 19 – một lần nữa, một thí dụ
đơn giản nhân tạo:
19 John was
persuaded to leave. / John được thuyết phục để
rời đi.
cấu trúc sâu nền tảng bên dưới
câu này phải chỉ ra rằng quan hệ chủ ngữ-vị ngữ giữ đúng trong một mệnh đề cơ
bản thuộc dạng 20 (Giả định những chức năng ngữ pháp được biểu hiện theo cùng
cách đã nêu trước đó) và rằng quan hệ động từ-tân ngữ giữ đúng trong một mệnh
đề cơ bản, có dạng 21:
20 [S [NP John] NP] VP leave ] VP] S
21 [S [NP ...... ] NP [VP persuade] NP John
] NP] VP] S
Do đó, “John” được hiểu là chủ
ngữ của “leave” và tân ngữ của “persuade” trong 19, và những sự kiện này được
diễn đạt đúng trong cấu trúc sâu bên dưới 19, nếu cấu trúc sâu này thể hiện những
mệnh đề được trình bày không chính thức như 20 và 21. Mặc dù cấu trúc sâu phải
được cấu thành từ những mệnh đề như vậy, nhưng nếu phương pháp nghiên cứu giải
quyết được phác thảo một cách lỏng lẻo trước đó là đúng thì sẽ không có dấu vết
nào của chúng trong cấu trúc ngoài mặt của lời nói ra. Những phép biến đổi khác
nhau tạo ra số 19 đã xóa sạch hoàn toàn hệ thống của những quan hệ ngữ pháp và những
chức năng xác định ý nghĩa của câu.
Vấn đề còn trở nên rõ ràng hơn
nếu chúng ta ghi nhận sự đa dạng của những câu, vốn nhìn bề ngoài có vẻ giống câu
19, nhưng lại khác biệt rất nhiều trong những cách chúng được hiểu, và những phép
biến đổi cú pháp áp dụng cho chúng. Giả định rằng “persuaded /thuyết phục” ở
câu 19 được thay thế bằng một trong những từ sau: [18]
22 expected, hired, tired, pleased, happy, lucky,
eager, certain, easy / (mong đợi,
được thuê, mệt mỏi, vui lòng, hạnh phúc, may mắn, háo hức, chắc chắn, dễ dàng
Với “expected” thay thế
“persuaded”, câu có thể có nghĩa đại khái là sự kiện John rời đi đã được mong
đợi; nhưng không thể nói về sự kiện John rời đi là được thuyết phục. Với
“hired”, câu có nghĩa hoàn toàn khác, đại khái là mục đích thuê John là để anh
ta rời đi – một cách diễn giải trở nên tự nhiên hơn nếu chúng ta thay “leave”
bằng một cụm từ như “fix the roof”. Khi “tired” được thay thế, chúng ta sẽ có
một câu không hợp lệ; nó trở thành một câu nếu “too tired” thay thế
“persuaded”, câu này bây giờ ngụ ý rằng John đã không rời đi. Từ “pleased” vẫn
khác. Trong trường hợp này, chúng ta có thể có “too pleased”, ngụ ý rằng John
đã không rời đi, nhưng chúng ta cũng có thể mở rộng câu thành “John was too
pleased to leave to suit me”, điều này là không thể trong những trường hợp
trước đó. “Happy” khá giống với “pleased”, mặc dù người ta có thể lập luận rằng
quan hệ động từ-tân ngữ là đúng giữa “please” và “John”.
Câu “John was lucky to leave”
được diễn giải theo một cách khác nữa. Nói một cách đại khái, nó có nghĩa là
John may mắn vì anh ấy đã rời đi, một cách diễn giải không thể có trong những
trường hợp trước đó; hơn nữa, chúng ta có thể xây dựng những câu như “John was
a lucky fellow to leave (so early),” nhưng không có ví dụ nào trước đó có thể
thay thế “lucky” trong những câu như vậy. “John was eager to leave” khác với
những trường hợp trước đó ở chỗ nó được liên kết chính thức với những cách diễn
đạt như “John was eager for Bill to leave” và “John’s eagerness (for Bill) to
leave.” “John was certain to leave” có thể được diễn giải lại là “it was
certain that John would leave”; trong những ví dụ khác, chỉ có “expected” là
tuân theo cách diễn giải này, nhưng “expected” rõ ràng khác với “certain” ở
nhiều phương diện khác – ví dụ, nó xuất hiện trong một câu như “They expected
John to leave.” Tất nhiên, từ “easy” hoàn toàn khác; trong trường hợp này và
chỉ trường hợp này, quan hệ động từ-tân ngữ giữ nguyên giữa “leave” và “John”.
Nói vắn tắt, rõ ràng là cấu
trúc ngoài mặt thường gây hiểu lầm và thiếu thông tin, và kiến thức về ngôn ngữ
của chúng ta liên quan với những thuộc tính thuộc một tính chất trừu tượng hơn
nhiều, không được biểu thị trực tiếp trong cấu trúc ngoài mặt. Hơn nữa, ngay cả
những thí dụ đơn giản, nhân tạo như thế này cũng cho thấy sẽ vô vọng như thế
nào khi cố gắng giải thích năng lực ngôn ngữ theo những từ ngữ “thói quen”, “khuynh
hướng”, “biết cách” và những khái niệm khác liên quan với nghiên cứu về hành vi,
như thí dụ này. nghiên cứu đã bị giới hạn, hoàn toàn không có sự bảo đảm, trong
những năm gần đây.
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [W. Köhler, Dynamics in Psychology (New York: Liveright, 1940)].
[2] một sự thay đổi từ việc thực sự
nhìn thấy sang chỉ đơn giản là sự nhận
dạng
[3] [Xem V. Ehrlich, Russian Formalism, bản sửa đổi thứ 2. edn. (New York: Nhân văn,
1965), trang 176–77]
[4] [Ludwig Wittgenstein, Philosophical Investigations (New York: Nhà xuất bản Đại học
Oxford, 1953), Phần 129]
[5] [Như trên, Mục 415.]
[6]
Introspection : quán sát nội tâm, tự xem xét
những suy nghĩ và cảm xúc, hay rộng hơn những trạng thái
tinh thần. Về cơ bản, đó là một người tự “nhìn vào bên trong” để nhận biết những
gì đang xảy ra trong chính não thức của mình, ở một thời điểm nhất định. Tự xem xét những suy nghĩ và cảm xúc cùa chính mình
từng là một phương pháp chính trong tâm lý học ban đầu, đặc biệt trong những
trường phái như cấu trúc, nhưng nó có những giới hạn vì dựa vào việc tự xem xét
thuật kể chủ quan, điều này có thể không đáng tin cậy.
[7] Habit
structure: ngôn ngữ học được qua tập quán, thói quen – qua sự lặp đi lập lại những
khuôn mẫu ăn nói, hay phản ứng tự động khi ứng đáp
[8]
internalize
[9] [Để làm nổi bật sự khác biệt trong chiều sâu của
giải thíchnày, tôi đã nêu lên trong Current Issues in Linguistic Theory
(New York: Humanities, 1965) của tôi, rằng từ ngữ “mức độ thích hợp về mô tả”
có thể được dùng cho nghiên cứu liên hệ giữa những ngữ pháp và dữ liệu, và từ
ngữ “mức độ giải thích thỏa đáng” cho liên hệ giữa lý thuyết của ngữ pháp phổ
quát và những dữ liệu này].
[10] Quan hệ
giữa cấu trúc sâu và cấu trúc ngoài mặt trong ngôn ngữ, như được mô tả ở đây,
có thể được hiểu qua ngữ pháp chuyển đổi
(transformational grammar), một khái niệm Noam Chomsky phát triển. Sau đây là
một phân tích đơn giản:
(a) Cấu trúc sâu biểu thị cấu
trúc cú pháp cơ bản của một câu, nơi ý nghĩa cốt lõi và quan hệ giữa những ý
tưởng được thiết lập. Đó là cấp độ trừu tượng, cơ bản hơn của một câu.
(b) Cấu trúc ngoài mặt đề cập đến
dạng thức cuối cùng, bên ngoài của câu, dạng thức được nói hoặc viết. Đó là
phiên bản mà chúng ta thực sự gặp phải trong giao tiếp.
Hai điều này có liên quan qua một loạt những quy tắc chuyển đổi, là
những hoạt động hoặc tiến trình sửa đổi
cấu trúc sâu để tạo ra cấu trúc ngoài mặt. Những chuyển đổi này có thể bao gồm
những điều như:
(a) Di chuyển những thành phần:
Thay đổi thứ tự của những từ (thí dụ: hình thành câu hỏi bằng cách di chuyển
động từ trợ động trong tiếng Anh, “You are leaving” thành “Are you leaving?”).
(b) Chèn hoặc xóa những thành
phần: Thêm hoặc xóa những từ để phù hợp với những mẫu ngữ pháp (thí dụ, thêm “do”
để nhấn mạnh hoặc phủ định: “I go” trở thành “I do go” hoặc “I don't go”).
(c) chuyển sang thể thụ động: Thay đổi câu từ chủ động sang thụ động (thí
dụ, “The cat chased the mouse” trở thành “The mouse was chased by the cat”).
Những hoạt động chuyển đổi này chuyển đổi cấu trúc sâu, biểu thị ý nghĩa
của câu, thành cấu trúc ngoài mặt phù hợp với những quy tắc ngữ pháp của một
ngôn ngữ cụ thể.
[11] [Để biết thêm chi tiết về quan điểm này, xem J. Katz
và P. Postal, An Integrated Theory of Linguistic Descriptions
(Cambridge, Mass.: MIT Press, 1964) và Aspects of the Theory of Syntax
(Cambridge, Mass. : Nhà xuất bản MIT, 1965). Xem thêm Peter S. Rosenbaum, The Grammar of English Predicate Complement Constructions / Ngữ pháp của những cấu
trúc bổ sung vị ngữ tiếng Anh (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1967). Chúng chứa
những tham chiếu đến công việc trước đó mà chúng mở rộng và sửa đổi. Đã có rất
nhiều công việc trong vài năm qua mở rộng và sửa đổi phương pháp nghiên cứu
giải quyết tổng quát này và khám phá những giải pháp thay thế. Hiện tại, mỏ
đang trong giai đoạn sôi sục đáng kể và có lẽ sẽ phải mất một thời gian nữa bụi
mới bắt đầu lắng xuống và một số vấn đề tồn đọng ngay cả còn tạm thời được giải
quyết. Công việc hiện tại quá rộng để có thể tham khảo chi tiết trong một bản
phác thảo như thế này. Một số ý tưởng về phạm vi và hướng chung của nó có thể
được lấy từ những bộ sưu tập như R. Jacobs và PS Rosenbaum, eds., Readings
in English Transformational Grammar (Waltham, Mass.: Ginn and Company,
1970).]
[12] [Tôi dùng dấu hoa thị (*) theo cách thông thường để
biểu thị một câu đi chệch khỏi quy luật ngữ pháp ở một phương diện nào đó] –
Câu “I disapprove of John’s overdose drinking the beer” không đúng (chệch khỏi quy luật ngữ
pháp) vì nó cố gắng kết hợp hai cấu trúc ngữ pháp khác nhau thường được tách
biệt. Câu 5 (“I
disapprove of John’s drinking the beer”) đề cập đến một hành động cụ thể—John
drinking the beer. Câu 6 (“I
disapprove of John’s Excessive drinking”) đề cập đến cách thức hoặc mức độ uống
rượu của John—hành vi quá mức của John nói chung. Trong câu
7, nỗ lực kết hợp cả hai nghĩa—hành động cụ thể (uống bia) và hành vi chung
(uống quá mức)—tạo ra xung đột vì ngữ pháp không thể đồng thời diễn đạt hai ý
riêng biệt này trong một câu. Ngữ pháp nội tại gán những cấu trúc sâu riêng
biệt cho mỗi nghĩa (hành động cụ thể trong câu 5, hành vi chung trong câu 6) và
khi cố gắng kết hợp chúng, nó tạo ra một câu không đúng ngữ pháp (tiếng Anh)
[13] [Từ nay trở đi, tôi thường sẽ xóa những dấu ngoặc
vuông để đưa ra cấu trúc sâu, bề mặt hay trung gian, để điều này không dẫn đến
nhầm lẫn. Người ta nên nghĩ về 8 và 9 vì mỗi số đều có một dấu ngoặc vuông được
gắn nhãn đầy đủ đi kèm với nó. Ghi nhận rằng 8 tất nhiên không phải là một cấu
trúc sâu nhưng là kết quả của việc áp dụng những phép biến đổi cho một đối
tượng trừu tượng nguyên thủy hơn]
[14] [Cũng có thể có những cách giải thích khác, dựa trên
những sự mơ hồ khác trong cấu trúc “cách nấu ăn của John” – cụ thể là cách giải
thích ăn thịt người và cách giải thích “nấu ăn” là “thứ được nấu chín”.]
[15] [Tôi cần nhấn mạnh rằng khi tôi nói một câu như đã chuyển
hóa từ một câu khác, tôi đang nói một cách lỏng lẻo và không hoàn toàn chính
xác. Điều tôi nên nói là cấu trúc liên quan đến câu đầu tiên thì bắt nguồn từ
cấu trúc cơ bản của câu thứ hai. Do đó, trong trường hợp đang thảo luận, chính
cấu trúc ngoài mặt của câu 10 vốn được lấy ra, theo một phân tích, từ cấu trúc
trừu tượng mà nếu nó trải qua một sự phát triển chuyển hóa biến đổi khác, sẽ
được chuyển đổi thành cấu trúc ngoài mặt của 11. Rằng những câu không bắt nguồn
từ những câu khác nhưng thay vào đó là từ những cấu trúc bên dưới chúng đã được
nhìn nhận một cách rõ ràng kể từ công trình đầu tiên về ngữ pháp phát sinh
chuyển đổi khoảng mười lăm năm trước, nhưng những phát biểu không chính thức
như những phát biểu trong bản văn ở đây đã đánh lừa nhiều người đọc và dẫn đến
một quan niệm sai lầm. rất nhiều sự nhầm lẫn trong văn học. Có lẽ thêm vào sự
nhầm lẫn là thực tế là một lý thuyết rất khác về những quan hệ chuyển đổi được
phát triển bởi Zellig Harris, Henry Hiz và những người khác, trong thực tế lại
coi những hoạt động chuyển đổi được áp dụng cho những câu. Thí dụ, xem ZS
Harris, “Sự xuất hiện và biến đổi trong cấu trúc ngôn ngữ”, trong Ngôn ngữ,
Tập. 33, số 3, 1957, trang 283-340, và nhiều ấn phẩm sau này. Với tôi và hầu
hết những người nói khác, câu 12 là sai lệch. Tuy nhiên, cấu trúc liên kết làm
nền tảng cho điểm 10 trong một phân tích phải được nhìn nhận, có lẽ bắt nguồn
từ cấu trúc liên quan đến ““I know a man who is taller than Bill is”]
[16] [Nó cũng không thể có nghĩa ““I know a taller man than Bill and John likes ice cream”. Do đó, nếu cấu trúc sâu xác
định ý nghĩa (trong chừng mực có liên quan đến những quan hệ ngữ pháp), thì
phải có thứ gì đó như 14 hay 15 là cấu trúc cơ bản ngay lập tức cho 13. Thuộc
tính chung của những hoạt động chuyển đổi xóa có liên quan đến một số loại khả
năng phục hồi, a vấn đề không tầm thường với những hậu quả thực nghiệm thích
thú. Để biết một số thảo luận, xem Những vấn đề hiện tại của tôi, Phần 2.2 và
Những phương diện, Phần 4.2.2.
Vấn đề đặt ra trong những thí dụ như 9 và 13 đã được John Ross chỉ ra cho tôi.
Tài liệu tham khảo đầu tiên về khả năng lịch sử phái sinh có thể đóng một vai
trò trong việc xác định khả năng áp dụng những phép biến đổi xuất hiện trong RB
Lees, The Grammar of English Nominalizations (New York:
Humanities, 1960), p. 76, liên quan đến thảo luận của ông – cũng là thảo luận
đầu tiên – về vấn đề đồng nhất cấu trúc thành phần như một yếu tố quyết định
khả năng ứng dụng của những phép biến đổi]
[17] [Nếu bản thân số 18 chỉ mơ hồ hai chiều thì trong
thực tế, một vấn đề đã nảy sinh ở một thời điểm ngay cả còn sớm hơn. Tính không
tự nhiên của số 18 khiến cho việc xác định điều này một cách chắc chắn khó có
thể xảy ra.]
[18] [Xem RB Lees, “Cấu trúc tính từ mơ hồ đa dạng trong
tiếng Anh”, trong Ngôn ngữ, Tập. 36, Số 2, 1960, trang 207-21, để thảo luận về
những cấu trúc như vậy].