(Language and Mind)
Noam Chomsky
1
Những đóng góp về ngôn ngữ học cho
việc nghiên cứu não thức: Quá khứ
Trong những bài
giảng này, tôi muốn tập trung chú ý vào câu hỏi, Việc nghiên cứu ngôn ngữ có
thể đóng góp gì cho sự hiểu biết của chúng ta về bản chất con người? Trong thể hiện này hay thể hiện khác,
câu hỏi này chạy xuyên qua lịch sử tư
tưởng phương Tây. Trong một thời đại đã ít tập trung vào tự thân và những hình ảnh bản
thân, và ít phân chia thành những lĩnh vực chuyên môn hơn thời đại của chúng ta, bản chất của ngôn ngữ, những phương diện trong đó ngôn ngữ phản
ảnh những tiến trình tâm lý của con người hay định hình dòng chảy và tính chất
của suy nghĩ – đây đã là những đề tài để
nghiên cứu và giả thuyết của những học giả và những người không chuyên môn tài năng với một loạt rộng lớn những sở thích, quan điểm và nền tảng trí thức khác nhau.
Và trong thế kỷ 19 và 20, khi ngôn ngữ học, triết học và tâm lý học đã cố gắng, dù không dễ dàng, để tự khẳng
định là những ngành riêng biệt, những vấn đề cổ điển về ngôn ngữ và não thức đã
liên tục xuất hiện trở lại. Những vấn đề dai dẳng này không chỉ kết nối những lĩnh vực khác biệt này nhưng còn cung cấp cho chúng trọng tâm và ý nghĩa trong
những nỗ lực đang diễn ra của chúng. Đã có những dấu hiệu trong mười năm vừa qua rằng sự
phân biệt có phần giả
tạo giữa những
ngành học có thể đi đến một chấm dứt. Không còn coi là vinh dự nữa cho việc mỗi ngành học chứng minh sự độc lập tuyệt đối của nó với
những ngành khác,
và những quan tâm mới đã xuất
hiện, đã làm cho những vấn đề cổ
điển được trình bày trong những
cách mới lạ và đôi khi những ý tưởng sáng tạo – chẳng hạn như qua lăng kính
của khoa học điều khiển học [1] và
khoa học truyền thông, và phản lại bối cảnh
của những phát triển trong
tâm lý học so sánh và sinh lý vốn thách
thức những xác quyết lâu đời và giải
phóng trí tưởng tượng khoa học khỏi những xiềng xích nhất định đã trở thành một
phần quen thuộc trong môi trường trí thức của chúng ta đến mức gần như vượt ngoài nhận thức. Tất cả điều này là rất đáng khích lệ.
Tôi tin rằng tâm lý học nhận thức, đặc biệt là trong lĩnh vực ngôn ngữ học,
đang trải qua một giai đoạn hoạt động mới mẻ và năng động chưa từng thấy trong
nhiều năm. Một trong những diễn biến đầy hứa hẹn nhất là sự hoài nghi mới này
với những hệ thống chính thống trong quá khứ, được kết hợp với sự thừa nhận về những rủi ro của
việc hình thành những học thuyết mới khô
cứng quá nhanh. Nhận thức này, nếu tiếp tục có thể ngăn chặn việc thiết lập của những giáo
điều tẻ nhạt
và trì trệ mới.
Rất dễ bị lầm lạc trong một thẩm
định giá trị về quanh cảnh tình hình hiện
tại; tuy nhiên, với tôi, có vẻ như sự giảm thiểu thuyết giáo điều và đi kèm với tìm kiếm cho những
phương pháp nghiên cứu giải quyết mới với những vấn đề cũ và thường vẫn còn khó
kiểm soát là điều không thể nhầm lẫn, không chỉ trong ngôn
ngữ học nhưng trong tất cả những ngành liên quan với nghiên cứu về não thức. Tôi nhớ khá rõ cảm giác
không an tâm của tôi như một sinh viên trước sự kiện, có vẻ như, rằng
những vấn đề cơ bản của lĩnh vực này đã được giải quyết, và rằng những gì còn lại đã là
tinh luyện và cải tiến những kỹ thuật của phân tích ngôn ngữ vốn được hiểu khá rõ và để áp dụng chúng vào một phạm vi rộng hơn của những tài liệu ngôn ngữ. Trong
những năm sau chiến tranh, đây là một thái độ chủ đạo trong hầu
hết những trung tâm nghiên cứu hoạt động tích cực. Tôi
nhớ đã được một nhà nhân chủng-ngôn
ngữ học [2] nổi tiếng bảo tôi, vào năm 1953,
rằng ông không có ý định làm việc qua một
bộ sưu tập khổng lồ của những tài liệu vốn ông đã tập hợp được vì trong vòng vài năm nữa chắc
chắn có thể prôgram cho máy cômputơ để xây dựng một ngữ pháp từ một khối dữ
liệu lớn bằng cách dùng những kỹ thuật đã được chính thức cấu trúc rõ ràng nhất quán khá tốt. Vào thời điểm đó, đây dường như không phải
là một thái độ vô lý, mặc dù viễn cảnh đó gây buồn cho bất kỳ ai cảm thấy, hay
ít nhất hy vọng, rằng nguồn lực trí thức của con người có phần sâu xa hơn những
gì những quy trình và kỹ thuật này có thể vén mở lên cho thấy. Tương ứng, có sự sụt giảm nổi bật trong những nghiên cứu của phương pháp về ngôn ngữ vào đầu những năm 1950 khi những bộ óc lý
thuyết tích cực nhất chuyển sang vấn đề của làm thế nào một khối kỹ thuật khép kín về cơ bản có
thể được áp dụng cho một số lĩnh vực mới – chẳng hạn như với việc phân tích việc nói viết ngôn ngữ đã kết nối, hay với những hiện tượng văn hóa khác ngoài ngôn ngữ. Tôi
đến Harvard với tư cách là một sinh viên nghiên cứu ngay sau khi B. F. Skinner
trình bày bài giảng của William James, sau này được xuất bản trong quyển sách Verbal Behavior / Hành
Vi Ngôn Từ của ông. Trong số
những người hoạt động trong khảo cứu triết học hay tâm lý học của ngôn ngữ, khi đó
có chút nghi ngờ rằng mặc dù còn thiếu những chi tiết và mặc dù vấn đề có thể thực sự không đơn giản như thế, tuy nhiên một khung cấu trúc khái niệm về hành vi học thuộc
loại mà Skinner đã đại cương sẽ chứng tỏ khá đầy đủ để đáp ứng toàn bộ phạm vi của việc dùng ngôn ngữ. Bây giờ, có ít lý do để đặt câu hỏi về xác quyết của Leonard Bloomfield, Bertrand Russell và những
nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học và triết gia theo thuyết thực chứng nói tổng quát, rằng khung cấu trúc khái niệm của tâm lý học về phản ứng-kích
thích sẽ sớm được mở rộng đến điểm ở đó nó
có thể đem cho một giải thích hài lòng cho những bí
ẩn nhất của khả năng con người. Những tinh thần cấp tiến nhất cảm thấy rằng có lẽ, ngõ hầu để công bằng với những
khả năng này, người ta phải đặt ra những chữ s và r nhỏ bên trong não, bên cạnh những chữ S và R lớn viết hoa vốn có
thể mở ra để xem xét ngay
lập tức, nhưng sự mở rộng này đã không mâu thuẫn với bức tranh tổng quát. [3]
Những tiếng nói
phê phán, ngay cả những tiếng nói có uy tín đáng trọng, đã đơn
giản là không được lắng nghe. Thí dụ, Karl Lashley đã đưa ra một phê bình xuất
sắc về khuôn khổ thịnh hành của những ý tưởng trong năm
1948, lập luận rằng bên dưới hiện tượng dùng
ngôn ngữ – và tất cả những hành vi có tổ chức – phải có những cơ chế trừu tượng
thuộc loại nào đó không thể phân tích được theo những điều kiện của sự kết hợp, và
rằng nó không thể đã phát
triển được bằng bất kỳ phương tiện đơn giản nào như vậy. Nhưng những lập luận
và nêu lên của ông, dù vững chắc và nhạy bén sâu xa, lại
hoàn toàn không có tác dụng gì với sự phát triển của lĩnh vực này và không được
chú ý ngay cả tại trường đại học của ông (Harvard), khi đó là trung tâm dẫn đầu về nghiên cứu ngôn ngữ học tâm lý. Mười năm
sau, đóng góp của Lashley đã bắt
đầu được hiểu rõ giá trị, nhưng chỉ sau
khi những cái nhìn trực giác sâu xa của
ông đã thành tựu nhưng độc
lập trong một nội dung khác.
Những tiến bộ kỹ thuật của những năm 1940 chỉ đơn
giản là làm vững mạnh thêm sự phấn khởi chung. Máy cômputơ đã ở chân trời, và sự sẵn có sắp tới của chúng đã làm vững mạnh tin tưởng rằng chỉ cần đạt được một hiểu biết lý thuyết về những hiện tượng đơn giản
nhất và hiển nhiên nhất là đủ – mọi gì khác sẽ chỉ chứng minh là “cũng giống
như trước”, một sự phức tạp rõ ràng sẽ được tháo gỡ bằng những kỳ diệu của điện toán. Máy phổ ký âm thanh [4], đã phát triển trong chiến tranh, đã đem cho hẹn tương tự cho việc phân tích vật lý những âm
thanh của tiếng nói.
Những hội nghị liên ngành về phân tích tiếng nói vào đầu những năm 1950 là tài liệu ngày nay đọc thích thú. Đã có rất ít người quá u tối đến mức đặt câu hỏi về khả năng, trên thực tế là
tính cấp thiết, của một giải pháp cuối cùng cho vấn đề chuyển đổi tiếng nói
thành văn bản bằng kỹ thuật kỹ thuật hiện có. Và chỉ vài năm sau, người ta vui
mừng tìm ra rằng máy dịch và khả năng tóm
tắt tự động cũng sắp ra đời. Đối với những người tìm kiếm một công thức toán
học hơn về những tiến trình cơ bản, đã có lý thuyết toán học mới được phát
triển về truyền thông mà vào
đầu những năm 1950, người ta rộng rãi rằng đã cung cấp một khái niệm cơ bản –
khái niệm “thông tin” – sẽ thống nhất những khoa học xã hội và hành vi và cho
phép phát triển một lý thuyết toán học vững chắc và thỏa đáng về hành vi của
con người trên một cơ sở xác
suất thống kê. Vào cùng thời đó, lý thuyết về máy tự động [5] đã phát
triển như một nghiên cứu độc lập, đem dùng
những khái niệm toán học có liên quan chặt chẽ. Và nó đã được liên kết ngay lập
tức và khá phù hợp với những thăm dò trước đó
về lý thuyết của mạng lưới nơ-ron. Có những người – như John von Neumann – cảm
thấy rằng toàn bộ sự phát triển này là đáng ngờ và ít nhất là không vững chắc, và có
lẽ là khá sai lầm, nhưng những nghi ngờ như vậy không đi đủ mạnh để xua
tan cảm giác rằng toán học, kỹ thuật, ngôn ngữ học hành vi và tâm lý học đang
hội tụ trên một cái nhìn rất đơn giản, rất rõ ràng và hoàn toàn thỏa đáng để cung cấp một sự hiểu biết cơ bản về những gì
truyền thống đã để lại, còn che giấu trong bí ẩn.
Ít nhất ở nước Mỹ
ngày nay có một ít dấu vết của những ảo tưởng của những năm đầu
thời hậu chiến. Nếu chúng ta xem xét hiện trạng của
phương pháp học về ngôn ngữ cấu trúc,
ngôn ngữ học về tâm lý kích
thích-phản ứng (dù có hay không mở
rộng sang “thuyết trung gian” [6]), hay những mô hình lý thuyết xác suất hay lý
thuyết tự động cho việc dùng ngôn ngữ, chúng ta thấy rằng trong mỗi trường hợp
đều có một phát triển song song đã diễn ra: phân tích chi tiết đã đã cho thấy rằng
trong phạm vi đến mức hệ thống những khái niệm và nguyên tắc được nêu ra có thể được định
nghĩa chính xác, thì trong nền tảng cơ bản nó có thể được chứng minh là không
đầy đủ. Những loại cấu trúc có thể
thể hiện được theo những điều kiện của những lý thuyết này đều đơn giản không phải là những cấu trúc phải được nêu lên để làm cơ
sở cho việc dùng ngôn ngữ, nếu muốn đầy đủ đáp ứng những điều kiện thực nghiệm. Hơn nữa, tính chất của sự thất
bại và không đầy đủ là như vậy khiến cho không có nhiều lý do để tin rằng những phương pháp nghiên cứu giải quyết này đi đúng hướng. Nghĩa là, trong mỗi trường hợp, người
ta đã lập luận – theo ý kiến của tôi, khá thuyết phục – rằng phương pháp nghiên
cứu giải quyết này không những chỉ không
đầy đủ nhưng còn sai lạc về
những cơ bản và trong những đường lối quan
trọng. Tôi tin rằng điều này đã trở nên khá rõ ràng rằng nếu chúng ta có từng muốn hiểu ngôn ngữ được dùng hay tiếp nhận như thế
nào, khi đó chúng
ta phải trừu tượng hóa để nghiên cứu riêng rẽ và độc lập một hệ thống nhận thức, một hệ thống
kiến thức và tin tưởng, nó phát
triển trong thời thơ ấu và nó tác
động hỗ tương với nhiều yếu tố khác để ấn định
những loại hành vi vốn chúng ta quan sát được;
Để giới thiệu một từ ngữ kỹ thuật, chúng ta phải tách biệt và nghiên cứu hệ
thống của khả năng ngôn ngữ [7] làm nền tảng cho hành vi
nhưng không được nhận ra theo bất kỳ cách trực tiếp hay đơn giản nào trong hành vi. Và hệ thống khả năng ngôn ngữ này
khác biệt về phẩm tính với bất kỳ gì có thể được mô tả dưới dạng những phương
pháp phân loại của ngôn ngữ học cấu trúc, những khái niệm về tâm lý học S-R [8] hay những khái niệm được phát triển trong lý thuyết
toán học về truyền thông hay lý thuyết về
máy tự động đơn giản. Những lý thuyết và mô hình đã được phát triển để mô tả những hiện tượng đơn giản và
được đưa ra ngay lập tức không thể kết hợp được hệ thống khả năng ngôn ngữ
thực; “suy rộng” cho những mô tả đơn giản không thể là phương pháp đi đến được thực tai của khả
năng ngôn ngữ ; những cấu trúc tâm lý không chỉ đơn giản là “cũng giống như trước”
nhưng còn khác biệt về phẩm tính so với những mạng lưới và cấu trúc phức tạp vốn có thể đã được phát
triển bằng khai triển những khái niệm
vốn đã nhìn
như rất hứa hẹn với nhiều nhà khoa
học chỉ cách đây vài năm. Những gì liên quan không phải là một vấn đề mức độ của phức tạp nhưng đúng hơn là phẩm tính của phức tạp. Tương ứng, không có lý do gì để kỳ
vọng rằng kỹ thuật hiện có có thể mang lại sự hiểu biết sâu xa hay những thành
tựu có ích đáng kể; đáng chú ý là nó đã không làm được điều đó, và trong thực
tế, sự đầu tư đáng kể về thời gian, khả năng và tiền bạc vào việc dùng máy
cômputơ để nghiên cứu ngôn ngữ – đáng kể theo tiêu chuẩn của một lĩnh vực nhỏ
như ngôn ngữ học – đã không mang lại bất kỳ tiến bộ có ý nghĩa nào trong sự hiểu
biết của chúng ta về cách dùng hay bản chất của ngôn ngữ. Những phán xét này
khắt khe, nhưng tôi nghĩ chúng chính xác. Và những thất bại
này cũng thế, có phương diện tích cực của chúng: chúng đã giúp kích thích và làm
để mài dũa, trong những
cách quan trọng, sự bất mãn tổng quát với
khuôn khổ dường như rất hứa hẹn chỉ vài năm trước, và như thế chúng đã giúp nuôi dưỡng sự lên men mà tôi đã nhắc trước đó.
Nói vắn tắt, xem dường với tôi, vào thời điểm này, nói tổng quát,
trong sự phát triển của ngôn ngữ học và tâm lý học, có vẻ khá thích hợp để quay
lại những câu hỏi cổ điển và hỏi xem những hiểu biết mới nào đã đạt được vốn chúng mang theo và những vấn đề cổ điển có thể cung cấp hướng đi cho sự nghiên cứu thời nay như thế nào.
Khi chúng ta quay sang lịch sử của nghiên
cứu và giả thuyết liên quan đến bản chất của não thức, và cụ thể hơn , bản chất của ngôn ngữ con người, chu ý của chúng ta hoàn toàn tự nhiên đi đến tập trung trên thế kỷ XVII, “thế kỷ của những thiên tài”, trong đó những nền tảng của khoa học thời nay đã thiết lập vững
chắc và những vấn đề vẫn còn làm chúng
ta bối rối đã được hình thành với diễn đạt rõ ràng và trong sáng đáng ghi nhận.
Có nhiều phương diện mang ý nghĩa sâu xa trong đó bầu không khí trí thức ngày nay giống với bầu không khí trí thức của Tây Âu thế kỷ XVII. Một phương diện, đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay , là sự quan
tâm rất lớn đến những tiềm
năng và những khả năng của automata,
[9] một vấn đề đã làm say mê trí thức thế kỷ XVII cũng như chúng ta ngày nay. Tôi đã nhắc ở trên rằng có một sự nhận thức dần
dần sáng tỏ rằng một khoảng cách đáng kể – chính xác hơn là một vực sâu lớn
–cách biệt hệ thống những
khái niệm mà một mặt chúng ta thấu hiểu khá
rõ ràng , và bản chất của trí thông minh con người, về một mặt khác. Một nhận thức tương tự nằm ở cơ bản của triết học phái Descartes. Descartes cũng đã đi, khá sớm trong những nghiên cứu của ông, đến kết luận rằng nghiên cứu về
não thức đặt chúng ta đối mặt với một
vấn đề của phẩm tính của phức tạp, nhưng không đơn thuần chỉ là mức độ của phức
tạp. Ông cảm thấy ông đã chứng minh rằng hiểu biết và ý chí, hai thuộc tính nền tảng của não thức con người, đã gồm những khả năng
và nguyên lý vốn ngay cả những automata phức tạp nhất cũng không thể thực
hiện được.
Là điều đặc biệt thích thú để truy nguyên sự phát
triển của luận chứng này trong những
tác phẩm của những triết gia thứ yếu phái Descartes, và
giờ đã bị bỏ quên,
như Cordemoy, người đã viết một chuyên luận thu hút, mở rộng một vài nhận xét của Descartes về ngôn
ngữ, hay La Forge, người đã viết Traité de l’esprit de l’homme , một luận thuyết dài và chi tiết, với một số lý do, ông tuyên bố, trình bày những
gì Descartes có thể đã nói về đề tài này
nếu như Descartes đã còn sống,
để mở rộng lý thuyết của ông về con người vượt ngoài sinh lý học. Người ta có thể đặt câu hỏi về những chi tiết của
luận chứng này, và người ta
có thể cho thấy nó đã bị những tàn
dư nhất định của học thuyết kinh viện cản trở và bóp méo như thế nào – thí dụ
như khung cấu trúc khái niệm về thực chất
và phương thức. [10] Nhưng cấu trúc chung của lập luận không phải là
không hợp lý; trong thực tế, nó khá giống với lập luận chống lại khung cấu trúc
khái niệm tư tưởng của những năm đầu thời hậu
chiến vốn tôi đã nhắc đến ở
phần đầu bài giảng này. Những người phái Descartes đã cố gắng cho thấy rằng khi lý thuyết về cơ thể hữu hình được mài
giũa, làm rõ và mở rộng đến những giới
hạn của nó, nó vẫn không có khả năng giải thích những sự kiện vốn chúng hiển nhiên vói sự quán sát
nội tâm và cũng được sự quan sát của chúng ta về những hành động của người khác xác nhận. Đặc biệt, nó không thể giải thích cách
dùng thông thường của ngôn ngữ con người, cũng như nó không thể giải thích
những thuộc tính cơ bản của suy nghĩ. Do đó, cần phải đưa ra một nguyên lý hoàn toàn mới – theo từ ngữ của Descartes, để đưa
ra giả thuyết về một thực thể thứ hai có bản chất là suy tưởng, bên cạnh cơ thể, với những thuộc tính
thiết yếu của cơ thể là chiếm giữ không gian và
chuyển động [11]. Nguyên lý mới
này có một “phương diện sáng
tạo”, được chứng minh rõ ràng nhất trong những gì vốn chúng ta có thể gọi là “phương diện sáng tạo của việc dùng
ngôn ngữ”, khả năng đặc biệt của con người trong việc diễn đạt những suy nghĩ
mới và hiểu những cách diễn đạt suy nghĩ hoàn toàn mới, trong phạm vi khung cấu
trúc khái niệm của một “ngôn ngữ được thiết lập”, một ngôn ngữ là một sản phẩm
văn hóa tuân theo những quy luật và nguyên tắc một phần duy nhất với nó và một
phần phản ảnh những thuộc tính tổng quát của
não thức. Người ta khẳng định rằng những định luật và nguyên tắc này không thể
xây dựng được ngay cả dưới dạng mở rộng phức tạp nhất của những khái niệm thích
hợp cho việc phân tích hành vi và tác động hỗ tương của những vật thể vật lý,
và chúng không thể thực hiện được ngay cả bởi máy tự động phức tạp nhất. Trong
thực tế, Descartes lập luận rằng dấu hiệu chắc chắn duy nhất cho thấy một cơ
thể khác sở hữu một não thức con
người, rằng nó thì không chỉ đơn thuần là một máy tự động, là khả năng dùng ngôn ngữ theo
cách thông thường của nó ; và ông biện luận rằng khả năng này không thể tìm thấy được trong một động vật hay một máy tự động, vốn trong những phương diện khác, cho thấy những dấu hiệu của sự thông minh rõ ràng vượt xa của một con người, mặc dù một sinh vật hay máy móc như vậy
có thể được ban cho đầy đủ những cơ quan sinh lý thiết
như một con người để tạo ra lời nói. [12]
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] cybernetics
[2] anthropological
linguist: nghiên cứu quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, tập trung
vào cách thức ngôn ngữ định hình và được định hình bởi những hoạt động xã hội
và văn hóa. Ngôn ngữ học nhân chủng học là một phân ngành của cả nhân chủng học
và ngôn ngữ học, và liên quan đến việc xem xét cách thức ngôn ngữ ảnh hưởng đến
hành vi của con người, cấu trúc xã hội, chuẩn mực văn hóa và bản sắc định tính.
[3]
tâm lý học kích thích-phản ứng (S-R), một khung cấu trúc khái niệm liên
quan đến thuyết hành
vi, nổi bật vào đầu đến giữa thế kỷ 20. Stimulus-response (S-R) psychology Tâm lý học kích
thích-phản ứng (S-R): lý thuyết bắt nguồn từ thuyết hành vi, cho rằng mọi
hành vi đều là những phản ứng
với những kích thích cụ thể trong môi trường. Nó bắt nguồn từ đầu thế kỷ 20 khi
những nhà tâm lý học tìm cách nghiên cứu hành vi theo phương cách khoa học hơn và có thể quan sát, được tập
trung trên quan hệ
giữa những kích thích bên ngoài và những phản ứng có thể quan sát được (phản
ứng) mà chúng kích động. Nguồn
gốc: (a) Ivan Pavlov: Một trong những nhân
vật chính yếu trong sự phát triển của tâm lý học S-R, những thí nghiệm của
Pavlov với những con chó vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã chứng minh được tiến trình điều kiện hóa cổ điển, trong đó một kích thích
trung tính (như tiếng chuông) có thể liên kết với một kích thích không điều
kiện (như thức ăn) để tạo ra phản ứng có điều kiện (chảy nước bọt). (b) John B. Watson: Dựa trên công trình của Pavlov,
Watson, trong tuyên ngôn năm 1913 của ông “Tâm lý
học như cái nhìn của thuyết hành vi”,
lập luận rằng tâm lý học nên tập trung vào hành vi có thể quan sát được, chứ
không những trạng
thái tinh thần/tâm lý bên
trong. Ông đã đặt ra thuật ngữ behaviorism / thuyết hành vi và thúc đẩy ý tưởng rằng hành vi của
con người có thể được giải thích hoàn toàn bằng những liên kết S-R. (c) B.F.
Skinner: Sau đó, Skinner đã mở rộng tâm lý học S-R với công trình nghiên cứu
của ông về điều kiện hóa tác động, trong đó những hành vi by ảnh hưởng bởi
những hậu quả (sự làm vững mạnh thêm hoặc hình phạt) theo sau chúng. Tâm lý học S-R cho rằng hành vi là kết quả trực
tiếp của những kích thích môi trường, không cần phải xem xét đến những suy nghĩ
hoặc cảm xúc bên trong. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này đã đặt nền tảng
cho sự phát triển của thuyết hành vi như một trường phái tư tưởng ưu thắng
trong tâm lý học trong nửa đầu thế kỷ 20.
[4] sound spectrograph
[5] automata
[6]
Mediation
Theory / Thuyết
trung gian: Để giải thích cho những hành vi phức tạp hơn mà không thể giải
thích chỉ bằng những chuỗi kích thích-phản ứng đơn giản, những người theo thuyết tâm lý học hành vi đã đưa ra ý tưởng về “trung
gian”. Khái niệm này cho rằng những sự kiện nhận thức bên trong, như suy nghĩ
hoặc ký ức, đóng vai trò là trung gian giữa một kích thích và hành vi kết quả. Thí
dụ, khi bạn nghe một từ (kích thích), khái niệm liên quan trong tinh thần bạn
(người trung gian) dẫn đến phản ứng bằng lời nói hoặc hành vi. Noam Chomsky đã phê bình những thuyết như vậy, lập
luận rằng về cơ bản chúng không đủ để giải thích những cấu trúc và nguyên tắc
cơ bản của ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh rằng việc dùng ngôn ngữ liên quan đến những quy luật trừu tượng, có tính sáng tạo mà không thể được nắm
bắt đầy đủ bằng những mô hình kích thích-phản ứng hoặc những liên hệ được trung
gian hóa.
[7] linguistic
competence
[8] S-R
psychology
[9]
Khái niệm
automata / máy tự động để chỉ những thiết bị hoặc hệ thống cơ khí được thiết kế
để thực hiện những nhiệm vụ hoặc mô phỏng hành vi một cách độc lập. Theo truyền
thống, automata là những máy móc phức tạp được chế tạo để bắt chước hành động
của con người hoặc động vật, chô thấy một quan tâm
thích thú trong cả tiềm năng và những giới hạn của những máy móc bắt chước lập lại những chức năng giống con người. Lĩnh vực automata đã tiến triển đáng kể với việc
tạo ra những thiết bị cơ khí tinh vi của những nhân vật như nhà làm đồng hồ người Swiss, Jaquet-Droz (1721–1790) và nhà phát minh người
France, Jacques de Vaucanson (1709–1782).
Thí dụ, De Vaucanson đã phát triển một con vịt máy, có khả năng mô phỏng việc ăn uống và tiêu hóa. Sự phát triển của automata được thúc đẩy bởi những
tiến bộ trong kỹ thuật cơ khí và sự say mê bắt chước chuyển động của con người
và động vật. Những thiết bị này chủ yếu được dùng để giải trí, trình diễn hoặc
khám phá những nguyên lý cơ học.
[10] The framework of
substance and mode: khung cấu trúc khái niệm về thực thể và phương thức: một khái niệm triết học bắt
nguồn từ học thuyết kinh viện, đặc biệt là trong tác phẩm của Descartes và
Spinoza.(a) Thực thể: chỉ bản chất cơ bản của một
gì đó, yếu tính hoặc
thực tại cơ
bản của nó.(b) Phương
thức chỉ những trạng
thái, tính chất hoặc biến đổi cụ thể mà một thực thể có thể có. Khung này là trung tâm của
nhiều tư tưởng siêu hình trong truyền thống kinh viện, có ảnh hưởng đến triết học
hiện đại ban đầu.
[11] properties of extension and motion:, “sự mở rộng” chỉ những thuộc tính
vật lý của một
vật thể, đặc biệt là sự chiếm giữ không gian của nó. Khái niệm này, từ triết lý
của Descartes, rằng một thực thể có
kích thước (dài, rộng, cao) và có thể được đo lường theo những đặc điểm không gian của nó.
Ngược lại, “suy tưởng” là một thuộc tính của não thức hoặc ý thức/tinh thần, không trong không gian ý và không thể được đo lường
hoặc mở rộng.
Trong thuyết nhị nguyên của Descartes, não thức
được coi là một thực thể nhưng phi-vật chất,
khác biệt về nền tảng với cơ thể. Ông lập luận rằng tư tưởng là yếu tính của não
thức, và không giống cơ thể, não thức không tồn tại trong không gian vật lý. Não
thức không có những chiều như dài, rộng, cao (mà
Descartes gọi là phần mở rộng/chiếm hữu không
gian), cũng không thể được phân chia hoặc đo lường theo cách mà những vật
thể vật lý có thể. Vì vậy,
theo Descartes, não thức hoặc ý thức nằm ngoài phạm vi vật lý của không gian và
vật chất. Nó tương tác với cơ thể nhưng không nằm trong không gian vật lý như
cơ thể hoặc vật thể. Quan điểm này đặt ra những câu hỏi phức tạp, chẳng hạn như
làm thế nào một não thức phi không gian có thể tương tác với cơ thể không gian,
mà Descartes đã cố gắng giải quyết thông qua khái niệm tuyến tùng (the pineal gland) như một điểm tương tác. Tóm lại, đối với Descartes, não thức không tồn tại
trong không gian như những vật thể vật lý những thay vào đó là một thực thể riêng
biệt, phi không gian.
[12] Descartes lập luận rằng khả năng dùng ngôn ngữ một cách có ý nghĩa là dấu hiệu đáng tin cậy duy nhất của trí tuệ con người. Ông tuyên bố rằng, ngay cả khi một loài động vật hoặc máy móc có vẻ rất thông minh hoặc có khả năng sinh lý cho tiếng nói, thì chúng cũng không thể thực sự dùng ngôn ngữ như một con người. Khả năng giao tiếp sáng tạo và linh hoạt độc đáo này là những gì phân biệt con người với những động vật hay những máy móc.