(Language and Mind)
(Bản in thứ ba)
Noam Chomsky
Lời giới thiệu của nhà xuất bản
Đây là bản in thứ ba được chờ đợi từ lâu của tuyển
tập gồm những tiểu luận xuất sắc nổi bật về ngôn ngữ và não thức của Chomsky.
Sáu chương đầu, nguyên đã xuất bản vào những năm 1960, đã tạo một đóng góp khai
phá cho lý thuyết ngôn ngữ. Bản in mới này thêm vào một chương và một lời tựa
mới, đem phương pháp nghiên cứu giải quyết thuyết phục có ảnh hưởng quan trọng
và sâu rộng của Chomsky trong thế kỷ XXI. Những chương 1–6 trình bày công trình
ban đầu của Chomsky về bản chất và sự tiếp nhận ngôn ngữ như một hệ thống sinh
học, thừa hưởng di truyền (Ngữ Pháp Phổ Quát), qua những quy luật và
nguyên tắc của chúng khiến chúng ta tiếp nhận một kiến thức đã được nhập tâm (ngôn
ngữ-I). Trong 50 năm qua, khung cấu trúc khái niệm này đã khơi dậy một bùng
nổ của nghiên cứu vào trong một loạt rộng lớn gồm nhiều loại ngôn ngữ và đưa ra
một số vấn đề lý thuyết quan trọng. Chương cuối xét lại những vấn đề then chốt,
sau khi nhìn lại phương pháp nghiên cứu giải quyết “sinh-ngôn ngữ học’ vốn
đã định hướng công trình của Chomsky từ khi bắt đầu cho đến ngày nay, đồng thời
nêu lên một số thách thức mới và thích thú với việc nghiên cứu ngôn ngữ và não
thức.
(Nhà xuất bản Đại học
Cambridge, 2002).
NỘI DUNG
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
ba
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhì
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhất
1 Những đóng góp của ngữ học
cho việc nghiên cứu não thức: Quá khứ
2 Những đóng góp của ngữ học
cho việc nghiên cứu não thức: Hiện tại
3 Những đóng góp của ngữ học
cho việc nghiên cứu não thức: Tương lai
4 Dạng thức và ý nghĩa trong
những ngôn ngữ tự nhiên
5 Bản chất dạng thức của ngôn
ngữ
6 Ngữ học và Triết học
7 Sinh-ngôn ngữ học và khả năng con người
Chỉ Mục
Ngôn ngữ và Não Thức [1]
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
ba
Sáu chương in đầu sau đây, đều
đã là từ cuối những năm 1960, phần lớn đã dựa trên những bài nói chuyện tổng
quát dành cho giới đại học, do
đó tương đối tự nhiên bình thường. Chương cuối cùng viết từ năm 2004, dựa trên
một bài nói chuyện dành cho công chúng. Tiểu luận gần đây này, xem xét “phương
pháp nghiên cứu sinh-ngôn ngữ học “ đã định hướng công việc này từ nguồn gốc
của nó cách đây nửa thế kỷ, một số phát triển quan trọng trong những mười năm
gần đây, và phương pháp nghiên cứu giải quyết tổng quát ngày nay trông như thế
nào – ít nhất với tôi.
Phương pháp nghiên cứu giải
quyết ưu thắng của những câu hỏi về ngôn ngữ và não thức trong những năm 1950
là của tâm lý học theo thuyết hành vi. Như từ ngữ này đã chỉ định, đối tượng
của khảo sát là hành vi, hay với Ngữ học, những sản phẩm của hành vi: có lẽ một tập hợp
dữ liệu ngôn ngữ hay một kho ngữ liệu vốn những nhà nghiên cứu có được bằng
những kỹ thuật “gợi mở” trong những chương trình đào tạo thực tiễn – thu thập,
phiên âm và phân tích dữ liệu ngôn ngữ thông thường của dân bản địa ngay trong
địa phương sinh hoạt của họ. Lý thuyết ngữ học vào thời đó chủ yếu gồm những
tiến trình phân tích dữ liệu này, như chia nhỏ dữ liệu thành những phân đoạn và
phân loại những phân đoạn đó. Những phân tích này được thực hiện với giả định
tối thiểu về cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ hay cách những thành phần của ngôn
ngữ được tổ chức. Nhà ngữ học nổi
tiếng Martin Joos hầu như không quá lời trong một trình bày năm 1955 khi ông
xác định “hướng đi quyết định” của ngôn ngữ học cấu trúc đương thời là quyết
định rằng ngôn ngữ có thể “được mô tả nhưng không có bất kỳ sơ đồ sẵn có nào
trước đó về việc ngôn ngữ phải như thế nào, ngôn ngữ phải là gì” [2].
Những phương pháp nghiên cứu
giải quyết phổ biến trong khoa học về hành vi nhìn tổng quát không có nhiều
khác biệt. Tất nhiên, không ai chấp nhận khái niệm không nhất quán của một “phiến
bảng trống”. Nhưng người ta thường cho rằng ngoài một số giới hạn ban đầu về
những thuộc tính được tìm ra trong môi trường (một “không gian định lượng”,
trong khung cấu trúc khái niệm của triết gia có ảnh hưởng lớn W.V.O. Quine), những cơ chế học tập
nào đó cũng đủ để giải thích những sinh vật, trong đó có con người, biết và làm
gì. Nguồn gen di truyền trong những lĩnh vực này dự kiến sẽ không đạt được nhiều
hơn những gì như thế.
Phương pháp nghiên cứu giải
quyết của sinh-ngôn ngữ học [3] mới nổi đã áp dụng một lập trường khác. Đối tượng
của khảo sát không là hành vi và những sản phẩm của nó, nhưng là hệ thống nhận
thức bên trong tham dự vào hành động và diễn giải, và hơn thế nữa, cơ bản trong
bản chất sinh học cố định của chúng ta cho sự tăng trưởng và phát triển của
những hệ thống bên trong này. Từ cái nhìn này, đề tài trung tâm của những quan
tâm là những gì vốn Juan Huarte, trong thế kỷ 16, đã coi như thuộc tính thiết
yếu của óc thông minh con người: khả năng của não thức con người trong việc “tạo
ra bên trong nó, bằng sức mạnh của chính nó, những nguyên tắc trên đó kiến thức
dựa vào”, [4] những ý tưởng đã được phát triển theo những cách
quan trọng trong những truyền thống khoa học-triết học của những năm sau. Với
ngôn ngữ, “những nguyên tắc trên đó kiến thức dựa vào” là những nguyên tắc của
ngôn ngữ đã được “nhập tâm” (Ngôn ngữ-I ) vốn cá nhân đã thu tập được.
Sau khi có được những nguyên tắc này, Jones, nhân vật giả tưởng của chúng ta,
có rất nhiều kiến thức, thí dụ như glink nhưng không glnik có thể
là một từ vựng trong tiếng Anh; rằng John is too angry to talk to (Mary)/ John thì quá giận để nói chuyện với (Mary), có nghĩa là John sẽ nói chuyện (nếu
Mary vắng mặt) nhưng John là người nói chuyện (nếu Mary có mặt); rằng
ông có thể được dùng để chỉ John trong câu “I
wonder who John expects to see him /Tôi tự hỏi John trông đợi ai để gặp ông”, nhưng không phải thế, nếu “I wonder who / tôi tự hỏi ai” thì bị bỏ mất (John expects to see him); [5] rằng nếu John sơn ngôi nhà màu nâu thì ông
sơn mặt bên ngoài mặc dù ông có thể sơn ngôi nhà bên trong màu nâu; rằng khi John
leo núi, ông đã leo lên mặc dù ông có thể leo xuống núi; rằng những
quyến sách theo một nghĩa nào đó vừa trừu tượng vừa riêng biệt như trong
câu John
memorized and then burned the book/ John đã ghi nhớ rồi đốt quyển sách ; và cứ thế , ... trên một phạm vi vô hạn. “Sức
mạnh tạo ra/gây nên” những nguyên tắc ngôn ngữ-I vốn trên đó những trường hợp riêng
biệt của kiến thức như vậy thì được hiểu là thành phần của nguồn gen di truyền
vốn giải thích cho sự tăng trưởng và phát triển của chúng.
Ngữ học, được nhận thức như
vậy, tìm để khám phá những lý thuyết thực của những ngôn ngữ-I (grammars)) riêng biệt, và ở mức độ sâu hơn, lý thuyết của di
truyền cơ bản cho sự tiếp thu ngôn ngữ (Ngữ Pháp Phổ Quát, UG, dùng một
từ truyền thống cho một cách dùng mới). Những hệ thống nhận thức khác, đã được
giả định , nên được nhận thức theo những đường hướng tương tự, mỗi hệ thống với
những nguyên tắc và những khả của năng phát sinh riêng của chúng.
Trong khung cấu trúc khái niệm
này, thực vậy, hệ thống nhận thức được hiểu là những cơ quan của cơ thể, chủ
yếu là não, để được nghiên cứu trong nhiều cách thức như những thành phần
nhỏ-phụ khác với những thuộc tính đăc biệt vốn tác động hỗ tương
trong sự sống của tổ chức sinh vật: hệ thống thị giác, hệ thống vận động, hệ
thống tuần hoàn máu, v.v. Cùng với vai trò của chúng trong hành vi, những “cơ
quan nhận thức” tham dự vào trong những hoạt động thường được coi như thuộc về
tâm lý : suy nghĩ, trù tính kế hoạch, diễn giải, cân nhắc đánh giá, v.v. Từ
ngữ “về tâm lý” ở đây mang tính mô tả và không chính thức, gần giống với
những từ ngữ mô tả lỏng lẻo như “thuộc về hóa học”, “về điện”, “về quang học”
và những từ ngữ khác, vốn dùng để đặt chú ý vào những phương diện riêng biệt của thế giới vốn dường như có một tính
chất gắn kết thống nhất và đáng trừu tượng hóa cho nghiên cứu đặc biệt, nhưng
không mang bất kỳ ảo tưởng nào rằng chúng khắc vẽ những hạng loại phân chia thế
giới tự nhiên. Hành vi và những sản phẩm của nó – chẳng hạn như những bản văn –
đem cho dữ liệu vốn có thể là có ích như bằng chứng để xác định bản chất và
nguồn gốc của hệ thống nhận thức, nhưng không có vị thế ưu tiên nào cho những
thăm dò như vậy, giống như trong trường hợp những cơ quan khác của cơ thể.
Sự chuyển đổi tổng quát về quan điểm đôi khi được gọi là “cuộc
cách mạng nhận thức” những năm 1950. Tuy nhiên, vì những lý do đã thảo luận
trong những tiểu luận đầu tiên sau đây, tôi nghĩ nó có thể được nhìn đúng đắn
hơn như một sự đổi mới và phát triển hơn nữa của cuộc cách mạng nhận thức trong
thế kỷ XVII. Từ những năm 1950, nhiều câu hỏi truyền thống đã được hồi sinh –
đáng tiếc là không có sự hiểu biết về truyền thống vốn phần lớn đã bị lãng quên
hay bị trình bày sai lạc. Cũng được hồi sinh là quan điểm đã được kết tinh
trong suốt thế kỷ 18 cho rằng những thuộc tính “được gọi là thuộc về tinh thần”
là kết quả của “một loại cấu trúc hữu cơ giống như của bộ óc” (nhà hóa
học-triết gia Joseph Priestley). Sự phát triển này của “gợi ý của Locke”, như
nó được gọi trong tài liệu học thuật, là một sự kiện tự nhiên, hầu như không
thể tránh khỏi, đi kèm với cuộc cách mạng Newton, vốn đã hiệu quả phá bỏ khái
niệm quan trọng duy nhất về “cơ thể” hay “vật lý” [6]. Kết luận cơ bản đã được hiểu rõ vào thế kỷ 19.
Darwin hỏi một cách văn vẻ, rằng tại sao “suy nghĩ, là một chất tiết ra của não” lại được coi như “tuyệt vời hơn trọng lực,
một thuộc tính của vật lý”. Trong tác phẩm cổ điển về lịch sử thuyết duy vật thế kỷ 19, Friedrich
Lange nhận xét rằng những nhà khoa học đã “quen với khái niệm trừu tượng về
lực, hay đúng hơn là với một khái niệm lơ lửng trong vùng tối huyền bí giữa
trừu tượng và hiểu biết riêng biệt”, một “bước ngoặt” trong lịch sử của thuyết duy vật vốn loại bỏ những tàn
tích còn sót lại của học thuyết khỏi những ý tưởng và quan tâm của “những người theo thuyết duy vật chân chính” của thế kỷ XVII, và tước đi ý nghĩa
của chúng. và tước đi ý nghĩa của chúng. Chúng không cần phải là quan tâm đặc
biệt trong việc nghiên cứu việc nghiên cứu những phương diện của thế giới “gọi là về tinh thần”. [7]
Có lẽ đáng ghi nhận rằng cách
hiểu truyền thống này vẫn được nhìn như gây nhiều tranh luận và việc lập lại
nó, hầu như trong cùng những từ, thì thường được nêu lên như một “giả thuyết
táo bạo” hay “ý tưởng mới triệt để” trong ngành học về những lĩnh vực “gọi là
thuộc về tinh thần”. [8]
Một đặc điểm quan trọng khác
của cách mạng nhận thức ban đầu là sự nhìn nhận rằng những thuộc tính của thế
giới được gọi là thuộc về tinh thần
có thể gồm những khả năng vô tận của một cơ quan hữu hạn có giới hạn, “việc
dùng vô hạn những phương tiện hữu hạn”, theo câu nói của Wilhelm von Humboldt.
Học thuyết này đã nằm ở trung tâm của khái niệm của phái Descartes về não thức.
Nó đem cho tiêu chuẩn cơ bản để
giải quyết vấn đề “não thức khác” – để xác định liệu một sinh vật nào đó có một
não thức giống như của chúng ta hay không. Descartes và những người theo ông
tập trung vào việc đem dùng ngôn ngữ như sự minh họa rõ ràng nhất. Trong một
giòng suy nghĩ có phần tương tự, Hume sau này đã nhìn nhận rằng những phán đoán
đạo đức của chúng ta đều không có giới hạn trong phạm vi, và phải được tạo dựng
trên những nguyên tắc tổng quát vốn là phần của bản chất chúng ta – được xác
định về di truyền, nói theo từ ngữ thời nay. Từ nhận xét đó đặt vấn đề của
Huarte trong một lĩnh vực khác và hiện nay là đề tài thu hút của nghiên cứu
thực nghiệm và phân tích khái niệm.[9]
Vào giữa thế kỷ 20, người ta
đã có thể đối mặt với những vấn đề loại như vậy một cách có thực chất hơn so
với những thời kỳ trước đó. Khi đó, đã có một hiểu biết tổng quát rõ ràng về
những hệ thống phát sinh hữu hạn với phạm vi vô hạn, vốn có thể sẵn sàng thích
ứng với việc sắp xếp lại và điều tra của những câu hỏi truyền thống vốn tất yếu
đã bị bỏ trong bóng tối. Một yếu tố có ảnh hưởng khác trong sự hồi sinh của
cuộc cách mạng nhận thức là công trình của những nhà nghiên cứu về hành vi loài
vật trong môi trường tự nhiên [10] và tâm lý học so sánh, khi đó vừa mới trở nên sẵn
sàng hơn với phương pháp nghiên cứu giải quyết, với quan tâm của nó với “những giả thuyết hoạt động bẩm sinh hiện
diện trong những sinh vật thấp hơn-người” và “con người bẩm sinh” [11] vốn tất sẽ có nhiều đặc điểm giống nhau.[12] Khung cấu trúc khái niệm đó cũng có thể được điều
chỉnh phù hợp với việc nghiên cứu những cơ quan nhận thức của con người và bản
chất được xác định về di truyền của chúng, vốn xây dựng kinh nghiệm – Umwelt
của sinh vật, theo từ ngữ của nghiên cứu về hành vi động vật học – và hướng dẫn
con đường phát triển tổng quát, giống đúng như trong tất cả những phương diện khác của sự phát triển
của những sinh vật.
Trong khi đó, những cố gắng để
nhằm mài dũa và hoàn thiện những phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết
theo thủ tục gặp phải những khó khăn nghiêm trọng, bộc lộ những thiết xót nội
tại. Một vấn đề cơ bản là ngay cả những yếu tố đơn giản nhất của nói viết của
ngôn ngữ cũng không thể được tìm ra bằng những thủ tục phân đoạn và phân loại.
Chúng không có thuộc tính “những hạt trên chuỗi” [13] cần thiết để những phương pháp như vậy hoạt động
và thường không thể định vị được ở một số phần có thể nhận dạng được của sự
kiện vật lý tương ứng với biểu hiện bên trong não thức vốn những phần tử này
hoạt động. Ngày càng rõ ràng rằng ngay cả những đơn vị đơn giản nhất – hình vị,
những thông tin về đơn vị từ vựng cơ bản, ngay cả những phân đoạn âm vị học –
chỉ có thể được xác định bằng vai trò của chúng trong những tiến trình tạo sinh
hình thành những biểu thức ngôn ngữ. Đến phiên chúng, những cách diễn đạt này
có thể được coi như “những chỉ dẫn” cho những hệ thống khác của não thức/cơ thể
được dùng cho những hoạt động tâm lý, cũng như để tạo ra lời nói và giải thích
những tín hiệu bên ngoài. Tổng quát hơn, nghiên cứu về những cơ chế của học tập
và kiểm soát hành vi được giả định trong khoa học về hành vi đã bộc lộ những
thiếu sót nền tảng, và ngay cả ở cốt lõi của ngành học đã nảy sinh những nghi
ngờ nghiêm trọng về việc liệu toàn bộ dự án có thực tiễn, ứng dụng được hay
không, ngoại trừ việc thiết kế những thí nghiệm có thể có ích cho một số mục
đích khác.
Với việc nghiên cứu ngôn ngữ,
một kết luận tự nhiên xem có vẻ là ngôn ngữ-I gần như đạt được đặc tính của một
lý thuyết khoa học: một hệ thống tích hợp những quy luật và nguyên tắc vốn từ
đó những diễn đạt của ngôn ngữ có thể được lấy ra, mỗi chúng là một tập hợp gồm những hướng dẫn. cho suy nghĩ
và hành động. Đứa trẻ, bằng nào đó, phải chọn ngôn ngữ-I từ dòng chảy của kinh
nghiệm. Vấn đề hiện ra như tương tự với những gì Charles Sanders Peirce đã gọi
là suy luận nắm bắt khi xem xét vấn đề của khám phá khoa học. [14] Và cũng như trong trường hợp của khoa học, nhiệm
vụ này là không thể có được nếu không có những gì vốn Peirce gọi là một “giới
hạn với những giả thuyết có thể chấp nhận được” cho phép chỉ có một số lý
thuyết nhất định được xem xét, nhưng không gồm một vô số những lý thuyết khác
cũng tương hợp với dữ liệu liên quan. Trong trường hợp ngôn ngữ, có vẻ như
thiên tư di truyền của khả năng ngôn ngữ phải áp đặt một dạng thức cho hệ thống
quy luật vốn đủ giới hạn để những gì tương lai được chọn của ngôn ngữ-I đều bị “phân
tán” và ngay cả chỉ một số lượng nhỏ có thể được xem xét trong tiến trình của
sự tiếp nhận ngôn ngữ. Trong công trình nghiên cứu sau này về khoa học nhận
thức, những phương pháp nghiên cứu giải quyết như vậy thường được gọi là những
khái niệm “phương pháp nghiên cứu giải quyết giống-lý thuyết”. [15] Giống như suy luận nắm bắt, và với vấn đề đó, mọi phương diện của sự tăng trưởng và
phát triển, sự tiếp thu ngôn ngữ đều phải đối mặt với vấn đề “sự nghèo nàn
của những tác nhân kích thích” [16]. Nhận xét tổng quát thì rõ ràng, rõ ràng đến mức
bên ngoài khoa học nhận thức, hiện tượng phổ biến này ngay cả còn không được
đặt tên: không ai nói về vấn đề sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích với
một phôi thai vốn bằng nào đó đã trở thành một con sâu, hay một con mèo, dựa
trên môi trường dinh dưỡng, hay trong bất kỳ phương diện nào của sự phát triển sau khi sinh ra, chẳng hạn như
trải qua thòi kỳ dậy thì.
Trong những tiểu luận từ những
năm 1960, in lại dưới đây, bản chất và sự tiếp thu ngôn ngữ được trình bày và
thảo luận đều tuân theo khung cấu trúc khái niệm chung vừa được phác thảo. Do
đó, “vấn đề lý thuyết thách thức nhất trong Ngữ học” đã được coi như là của “việc
khám phá những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát”, vốn nó “xác định việc lựa
chọn những giả thuyết” – tức là giới hạn những ngôn ngữ-I có thể phương pháp
nghiên cứu giải quyết được. Tuy nhiên, người ta cũng nhìn nhận rằng với ngôn
ngữ, cũng như với những sinh vật sinh học khác, một vấn đề còn thách thức hơn
đang ở chân trời phía trước: khám phá “những quy luật vốn xác định khả năng đột
biến thành công và bản chất của những tổ chức sinh vật phức tạp”, hoàn toàn
khác với những cơ quan nhận thức riêng biệt, hay những hệ thống hữu cơ khác
đang được nghiên cứu. [17] Như cùng ý tưởng tương tự đã được đưa ra vài năm
trước: “chắc chắn ngày nay không có lý do gì để coi trọng quan điểm coi thành
tựu phức tạp của con người hoàn toàn là do kinh nghiệm trong nhiều tháng (hay
nhiều nhất là nhiều năm) [như trong tâm lý học theo thuyết hành vi], thay vì
hàng triệu năm tiến hóa [như trong nghiên cứu về thiên tư di truyền sinh học riêng
biệt, UG trong trường hợp ngôn ngữ], hay đến những nguyên tắc của tổ chức thần
kinh có thể có nền tảng sâu xa hơn trong quy luật vật lý” [18] – một “yếu tố thứ ba” trong sự tăng trưởng và phát
triển, liên quan với những nguyên tắc hoặc ảnh hưởng cơ bản vượt ra ngoài di
truyền và môi trường, có khả năng hướng dẫn sự phát triển và bắt nguồn từ những
định luật vật lý hoặc tổ chức thần kinh, có thể độc lập với những cơ quan hoặc
sinh vật riêng biệt. Việc điều
tra yếu tố thứ ba có vẻ quá xa vời để được chú ý nhiều, và do đó hầu như không
được nhắc đến, mặc dù, trong thực tế, ngay cả một số công trình sớm nhất – thí
dụ, về việc loại bỏ sự trùng lập trong những hệ thống quy luật – cũng được ngầm
hướng dẫn bởi những quan tâm
như vậy.
Trong những năm tiếp theo, nghiên cứu đã mở rộng đáng kể ra ngoài những
lĩnh vực chỉ liên quan với ngôn ngữ, gồm nhiều đề tài hơn trong khoa học nhận
thức. Vào đầu những năm 1980, ngữ học đã trải qua một sự thay đổi lớn về quan
điểm, thoát khỏi “quan niệm
định dạng của lý thuyết ngôn ngữ” [19], đại diện
cho cách phân tích ngôn ngữ cũ hơn, có cấu trúc khô cứng hơn. Phương pháp
phương pháp nghiên cứu giải quyết này tập trung vào một tập hợp cố định những
quy luật và khuôn khổ nhằm mô tả và tạo ra tất cả những câu có thể có trong một
ngôn ngữ. Nó gồm những hệ thống quy luật chi tiết và những mô hình tĩnh được
cho là có thể áp dụng phổ biến. Tuy nhiên, khuôn khổ này đã dần bị loại bỏ để
ủng hộ phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết những nguyên tắc và
những giá trị thay đổi [20]. Phương pháp
phương pháp nghiên cứu giải quyết mới này nhằm mục đích giới hạn phạm vi ngôn
ngữ-I có thể có thành một tập hợp hữu hạn, cho phép sự điều tra linh hoạt và
thực nghiệm hơn về những cấu trúc ngôn ngữ đồng thời đặt ra những ràng buộc
chặt chẽ đối với những lựa chọn từ vựng. Mặc dù mặc dù vẫn còn bỏ ngỏ để tranh
luận về tính hợp lệ lâu dài của nó, đã chứng minh đem lại thành công cao như
một chương trình nghiên cứu. Nó đã tạo ra một làn sóng của những nghiên cứu
thực nghiệm trên nhiều loại ngôn ngữ đa dạng về mặt loại hình, đưa ra những câu
hỏi lý thuyết mới chưa từng được hình thành trước đây và thường đưa ra những
trả lời một phần. Ngoài ra, nó đã làm sống lại nghiên cứu trong những lĩnh vực
liên quan như tiến trình tiếp thu và tiến hành ngôn ngữ. Một kết quả quan trọng
của sự thay đổi này là nó đã xóa bỏ một số rào cản khái niệm cơ bản để khám phá
những vấn đề “yếu tố thứ ba'“ sâu hơn – những nguyên tắc vượt ra ngoài di
truyền và môi trường, có khả năng dựa trên những định luật vật lý hoặc tổ chức
thần kinh. Những đề tài này, được thảo luận trong bài giảng cuối cùng của tập
sách này, Chúng nêu lên những
khả năng vốn ít nhất theo quan điểm cá nhân của tôi, đề nghị những thách thức
mới lạ và thích thú, đặc biệt cho nghiên cứu về ngôn ngữ và những vấn đề
rộng hơn về não thức.Lời tựa
cho lần xuất bản thứ nhì
Sáu chương tiếp theo chia
thành hai nhóm. Ba bài đầu tiên tạo thành chuyên khảo Ngôn ngữ và Não Thức
xuất bản năm 1968. Như lời tựa của Ngôn ngữ và Não Thức, được in lại
dưới đây, giải thích, ba tiểu luận về những đóng góp của ngôn ngữ cho sự nghiên
cứu về não thức (quá khứ, hiện tại và tương lai) đều dựa trên những bài
giảng Beckman, được trình bày trước khối người nghe trong giới đại học, ở
trường tại Đại học California, Berkeley, vào tháng 1 năm 1967. Những tiểu luận
này tạo thành một đơn vị riêng biệt, khác với ba chương tiếp theo.
Chương 4, “Dạng thức và ý nghĩa trong những ngôn
ngữ tự nhiên”, là bản văn gần đúng của một bài giảng khá thân mật được đưa ra
vào tháng 1 năm 1969 tại Đại học Gustavus Adolphus ở Minnesota cho một khán giả
gồm phần lớn những học sinh và sinh viên và những giáo sư trung và đại học. Nó
xem xét lại một số khái niệm cơ bản ã trình bày trong Ngôn ngữ và Não Thức
và những tác phẩm khác, đồng thời trình bày thêm một số công trình sau này về
giải thích ngữ nghĩa của những cấu trúc cú pháp. Tôi tin rằng tài liệu này cho
thấy một số giới hạn và thiết xót của lý thuyết trước đó và đề nghị một hướng
đi trong đó lý thuyết này nên được sửa đổi lại. Nhiều nghiên cứu chuyên môn hơn
về vấn đề này và những vấn đề liên quan xuất hiện trong những chuyên khảo sắp
xuất bản của tôi, Semantics in Generative Grammar and Conditions on Rules /Ngữ Nghĩa Học Trong Ngữ pháp phát sinh Và Những
Điều Kiện Về Quy Luật, Mouton và Co xuất bản, The
Hague, vào năm 1972.
Chương 5 là một nghiên cứu
chuyên môn hơn, tham dò một số tài liệu chi tiết vốn đã giả định-trước hay chỉ
đã phát triển không chính thức trong Ngôn ngữ và Não Thức. Đối tượng
người nghe trong trường hợp này chủ yếu gồm những nhà tâm lý học và nhà tâm lý ngữ
học Chương này, ban đầu xuất hiện như một phụ lục cho Biolôgíchal
Foundations of Language /Những Cơ bản Sinh-ngôn ngữ học của Eric Lenneberg, là một cố gắng để trình bày
ngắn gọn và có hệ thống về lý thuyết ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh [21] và thăm dò ý nghĩa tiềm tàng của nó với tâm lý con
người. Những chuyên khảo vừa được dẫn đưa những nghiên cứu chuyên môn đi xa
hơn, một phần, theo những hướng được chỉ ra ngắn gọn trong chương này, vốn thực
đã được viết năm 1965 và do đó là tiểu luận sớm nhất thu thập ở đây.
Chương 6 nhắm đến một đối
tượng người nge có phần khác hơn, cụ thể là những triết gia chuyên nghiệp. Đây
là một đóng góp cho hội nghị chuyên môn về ngữ học và triết học đã tổ chức tại
Đại học New York vào tháng 4 năm 1968. Mục đích của bài giảng này là thăm dò
những điểm tiếp xúc giữa ngữ học và triết học đương thời – đặc biệt là nhận
thức học và triết học về não thức. Đề nghị được nêu lên rằng nghiên cứu hiện
nay trong ngữ học có những hiểu biết sâu xa thích thú đem cho vào trong bản chất
của kiến thức con người, cơ bản cho sự tiếp nhận của nó và những cách thức nó
được dùng một cách biểu thị đặc điểm. Một phần, tiểu luận này quan tâm với
tranh luận vốn đã nổi lên về những vấn đề này; một phần, với chính những vấn
đề.
Có một mức độ trùng lập nhất
định trong những tiểu luận này. Những chương 4, 5 và 6 đều được
viết để tương đối độc lập với nhau, nghĩa là mỗi chương trình bày nội dung của
nó, không phụ thuộc nhiều vào nội dung của những chương khác.Mỗi chương giả định trước rất ít, và
do đó một số phần giải thích trùng lập và trùng lập hơn nữa với những chương
cấu thành Ngôn ngữ và Não Thức. Tôi hy vọng rằng những trình bày có phần
khác nhau về những điểm cơ bản có thể tỏ ra có ích. Trong thực tế, ngay cả
những điểm đơn giản và cơ bản nhất được thảo luận trong những tiểu luận này
cũng đã bị hiểu sai ở nhiều nơi. Thí dụ, trong những thảo luận phổ biến có
khuynh hướng nhầm lẫn giữa “cấu trúc sâu” với “ngữ pháp phát sinh” hay với “ngữ
pháp phổ quát”. Và một số nhà ngữ học chuyên nghiệp đã nhiều lần nhầm lẫn những
gì tôi gọi ở đây là “phương diện
sáng tạo của việc dùng ngôn ngữ” với thuộc tính lập đi lập lại trở ngược: của
ngữ pháp phát sinh, một vấn đề rất khác. Với hy vọng rằng những câu hỏi như thế
này sẽ được làm sáng tỏ, tôi đã không loại bỏ những phần trùng lập trong việc
sưu tầm những tiểu luận này.
Những chương 4–6 kéo dài và mở
rộng trên những ý tưởng và tài liệu đã thảo luận trong những bài giảng Beckman.
Tất cả những tiểu luận này quan tâm chính yếu với lĩnh vực của tương giao giữa Ngữ
học, triết học và tâm lý học. Mục đích chính của chúng là chỉ ra cách nghiên
cứu chuyên môn hơn về cấu trúc ngôn ngữ có thể góp phần vào sự hiểu biết về óc
thông minh của con người. Tôi tin và cố gắng chứng tỏ trong những tiểu luận này
rằng việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ vén lên cho thấy những thuộc tính của
trí thức làm nền tảng cho việc rèn luyện khả năng tâm lý của con người trong
những hoạt động bình thường, chẳng hạn như việc dùng ngôn ngữ theo cách tự do
và sáng tạo thông thường.
Với cái giá phải trả cho một
trùng lập cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh ở đây những nhận xét trong lời tựa của Ngôn
ngữ và Não Thức liên quan với những gì gọi là “tâm lý học theo thuyết hành
vi”. Hiện nay có rất nhiều thảo luận – và không phải hiếm là có những tuyên bố,
có phần phóng đại – liên quan với những ý nghĩa của những khoa học hành vị này
đối với những vấn đề sinh hoạt của con người. Điều quan trọng cần nhớ là có rất
ít giả thuyết thực nghiệm quan trọng và có cơ sở dựa trên bằng chứng liên quan liên
quan với câu hỏi về cách con người cư xử và lý do tại sao họ có hành vi như vậy
trong những hoàn cảnh bình thường. Tôi tin rằng, người đọc khi thực hiện một
việc hữu ích là tìm kiếm tài liệu sẽ khám phá rằng không chỉ có rất ít kiến
thức khoa học có ý nghĩa trong lĩnh vực này, nhưng còn hơn thế nữa rằng khoa
học về hành vi đã thường nhấn mạnh trên một số giới hạn tùy tiện về phương pháp
khiến làm cho việc nó hầu như hoàn toàn không thể đạt được kiến thức khoa học
không mang tính chất tầm thường.
Chúng ta có thể bắt đầu để thấy kiến thức và hệ thống tin tưởng con
người có thể được tiếp nhận trong một số lĩnh vực nhất định như thế nào. Trường
hợp ngôn ngữ đặc biệt thích thú vì ngôn ngữ đóng vai trò thiết yếu trong suy
nghĩ và ứng xử, truyền thông, giao tiếp của con người, và vì trong trường hợp
này, chúng ta có thể bắt đầu mô tả hệ thống kiến thức đạt được và xây dựng một
số giả thuyết hợp lý về khả năng có sẵn bên trong của con người giúp đạt được
thành tựu này.Những tia sáng hiểu biết này tự bản thân chúng đã thích thú và
cũng gợi ý cho những nghiên cứu khác. chúng ta có thể khá chắc chắn rằng việc
điều tra quan hệ trực tiếp giữa kinh nghiệm và hành động, giữa những kích thích
và phản ứng, trong tổng quát sẽ là một nỗ lực vô ích. Trong mọi trường hợp,
ngoại trừ những trường hợp cơ bản nhất, những gì một người làm phụ thuộc phần
lớn vào những gì người này biết, tin tưởng và dự đoán. Một nghiên cứu về hành
vi của con người không dựa trên ít nhất là một công thức tạm thời về những hệ
thống kiến thức và tin tưởng có liên quan thì chắc chắn sẽ trở nên tầm thường
và không phù hợp. Nghiên
cứu về tiến trình học tập của con người chỉ có thể bắt đầu một cách nghiêm
chỉnh khi một công thức tạm thời về những hệ thống kiến thức và tin tưởng như
vậy được trình bày. Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi những hệ thống này được tiếp
thu bằng nào, dựa trên dữ liệu kinh nghiệm được đem cho. Tương tự như vậy,
nghiên cứu về hành vi của con người khó có thể được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh trừ khi chúng ta ở vị trí có thể hỏi những gì một người làm có liên quan
như thế nào với những gì người này biết, tin tưởng và mong đợi. Chỉ khi chúng
ta đã xây dựng một số giả thuyết tạm thời về những gì được học, chúng ta mới có
thể tiến hành một nghiên cứu nghiêm chỉnhvề việc học của con người; chỉ khi
chúng ta đã xây dựng một số giả thuyết tạm thời về những gì đã được học – những
gì được biết và tin tưởng – chúng ta mới có thể nghiêm chỉnh quay sang nghiên
cứu về hành vi. Trong trường hợp của ngôn ngữ, chúng ta có thể trình bày một số
công thức tạm thời nhưng khá chi tiết và phức tạp của những gì đã biết, những
gì người nói-người nghe bình thường đã học được. Vì lý do này, việc nghiên cứu
ngôn ngữ có vẻ đặc biệt quan trọng để hiểu được tiến trình học tập và hành vi
của con người.
Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng
ngôn ngữ có thể là một trường hợp khá đặc biệt. Kiến thức về ngôn ngữ thường
đạt được qua tiếp xúc ngắn gọn và đặc điểm của kiến thức thu được có thể phần
lớn được xác định trước. Người ta kỳ vọng rằng ngôn ngữ của con người sẽ phản
ảnh trực tiếp những đặc điểm về khả năng trí thức của con người, ngôn ngữ đó
phải là một “tấm gương phản chiếu não thức” trực tiếp theo những cách vốn những
hệ thống kiến thức và tin tưởng khác không thể làm được. Hơn nữa, ngay cả khi
chúng ta có thể giải thích sự tiếp thu ngôn ngữ theo hướng được thảo luận trong
những bài viết này, chúng ta vẫn sẽ gặp phải vấn đề tính toán việc thông thường
đem dùng kiến thức đã tiếp nhận. Nhưng vấn đề này hiện tại khá khó giải quyết.
Nó nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học. Tất nhiên, sẽ hoàn toàn phi lý khi
cho rằng một số hiện tượng và một số vấn đề nhất định không tồn tại, chỉ vì chúng
nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học – hiện tại, và có lẽ về bản chất là do
phạm vi của trí thức con người, vốn xét cho cùng thì nó vẫn là chính nó. được
cấu trúc và giới hạn theo những cách chưa được biết đến chi tiết. Với giai phôi
thai của nghiên cứu về con người và xã hội, cùng với sự thiếu hụt tổng quát về
chiều sâu trí thức, chúng ta chỉ có thể giả thuyết về những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến hành vi của con người. Sẽ là vô trách nhiệm nếu tuyên bố ngược lại.
Giả thuyết trong những lĩnh vực này không chỉ có thể biện minh vốn còn cần
thiết; tuy nhiên, nếu có thể, nó nên được hướng dẫn bằng những kiến thức giới
hạn và rời rạc hiện có. Nhưng giả thuyết cần được dán nhãn rõ ràng như vậy và
phân biệt rõ ràng với những thành tựu của nghiên cứu khoa học. Sự phân biệt này
rất quan trọng trong một xã hội có có khuynh hướng tin tưởng vào chuyên môn và
phán đoán của giới chuyên môn. Đặc biệt, nhà khoa học có một trách nhiệm với
công chúng trong việc làm rõ sự phân biệt này.
Học viện kỹ thuật
Massachusetts
N. C.
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhất
Ba chương của quyển sách này
là những phiên bản được khai triển phần nào của ba bài giảng – những bài giảng
Beckman – vốn tôi đã giảng tại Đại học California, Berkeley, tháng 1 năm 1967.
Chương đầu tiên là một cố gắng để thẩm định giá trị những đóng góp trong quá
khứ cho sự nghiên cứu về não thức đã có dựa trên nghiên cứu và giả thuyết về
bản chất của ngôn ngữ. Chương thứ hai dành cho những phát triển đương thời
trong ngữ học có liên quan với việc nghiên cứu não thức. Chương thứ ba là thảo
luận mang tính giả thuyết cao về những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ và não thức
có thể thực hiện trong những năm tới. Do đó, ba bài giảng đều quan tâm đến quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Với tình trạng nghiên cứu về
lịch sử Ngữ học, ngay cả cố gắng để thẩm định giá trị những đóng góp trong quá
khứ cũng phải được coi như rất tạm thời. ngữ học thời nay chia sẻ ảo tưởng –
tôi tin là từ chính xác – rằng “tâm lý học theo thuyết hành vi” thời nay, trong
một phương diện thiết yếu nào,
đó đã đạt được sự chuyển đổi từ “giả thuyết” sang “khoa học” và rằng công trình
trước đó có thể được yên tâm giao cho những người sưu tầm đồ cổ. Hiển nhiên,
bất kỳ người có suy nghĩ nào cũng sẽ chuộng phân tích chặt chẽ và thử nghiệm
cẩn thận; nhưng đến một mức độ đáng kể, tôi cảm thấy, “tâm lý học theo thuyết
hành vi” chỉ đơn thuần bắt chước những đặc điểm bề ngoài của khoa học tự nhiên;
phần lớn thuộc tính khoa học của chúng đã đạt được bằng một sự giới hạn về chủ
đề và tập trung vào những vấn đề có phần phụ, nằm ở ngoại vi. Việc thu hẹp trọng
tâm như vậy có thể hợp lý nếu nó dẫn đến những thành tựu có ý nghĩa trí thức
thực sự, nhưng trong trường hợp này, tôi nghĩ sẽ rất khó để chứng minh rằng
việc thu hẹp phạm vi đã dẫn đến những kết quả sâu xa và có ý nghĩa. Hơn nữa, đã
có một khuynh hướng tự nhiên nhưng đáng tiếc là “suy rộng ra” từ những kiến
thức mong manh thu được qua công việc thực nghiệm cẩn thận và tiến hành dữ liệu
nghiêm ngặt, những vấn đề có ý nghĩa rộng hơn nhiều và được xã hội quan tâm
lớn. Đây là một vấn đề nghịêm trọng. Những nhà chuyên môn có trách nhiệm làm rõ
những giới hạn thực sự của hiểu biết của họ và của những kết quả vốn họ đã đạt
được cho đến nay, và một phân tích cẩn thận những giới hạn này, tôi tin rằng,
sẽ chứng minh rằng trong hầu hết mọi lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học về
hành vi có kết quả đạt được cho đến nay sẽ không hỗ trợ phép “suy rộng” như
vậy. Tôi tin rằng loại phân tích như vậy sẽ cũng cho thấy rằng những đóng góp
của tư tưởng và giả thuyết trước đó không thể an toàn bị bỏ qua, rằng trong mức
độ lớn, chúng đem cho một cơ bản không thể thiếu cho công việc nghiêm chỉnh
ngày nay.
Ở đây tôi không cố gắng biện
minh cho quan điểm này trong tổng quát nhưng chỉ khẳng định rằng đó là quan
điểm làm cơ bản cho những bài giảng tiếp theo.
Trong bài giảng thứ hai, tôi
không cố gắng trình bày một cách có hệ thống những gì đã đạt được trong nghiên
cứu ngôn ngữ; đúng hơn, tôi tập trung vào những vấn đề nằm ở ranh giới của
nghiên cứu và vẫn chưa có giải pháp. Phần lớn tài liệu trong bài giảng này xuất
hiện trong một chương có tựa đề “Những vấn đề của việc giải thích trong Ngữ học”
trong Explanations
In Psychology / Những Giải Thích Trong Tâm Lý Học, do R. Borger và F. Cioffi biên tập (New York: Nhà xuất bản Đại học
Cambridge, 1967), cùng với những nhận xét phê bình thích thú của Max Black. Bài
giảng 1 và 3 dùng một số tài liệu từ một bài giảng tại Đại học Chicago vào
tháng 4 năm 1966 xuất hiện trong Changing
Perspectives on Man / Thay Đổi Những Viễn tượng Về
Con Người, do B. Rothblatt biên tập (Chicago:
Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1968). Một phần của bài giảng thứ nhất đã được
xuất bản trên Columbia
University Forum, / Diễn đàn Đại học Columbia, Mùa xuân năm 1968 (Tập XI, Số 1), và một phần của
bài giảng thứ ba sẽ xuất hiện trong số Mùa thu năm 1968 (Tập XI, Số 3).
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới
những thành viên trong phân khoa và hội sinh viên tại Berkeley vì nhiều nhận
xét và phản hồi có ích, và tổng quát hơn, vì môi trường trí thức phong phú và
đầy hứng khởi vốn trong đó tôi đã có vinh dự được dành vài tháng ngay trước
những bài giảng này. Tôi cũng cảm ơn John Ross và Morris Halle vì những nhận
xét và gợi ý có ích.
N. C.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ
nhất
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Chomsky, Noam. Language and Mind. 3rd ed.,
Massachusetts Institute of Technology, 2006.
Những chú thích trong ngoặc
vuông [... ] dịch theo nguyên bản.
Những chú thích khác, với
những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ tìm chữa sau. Tôi đặt trọng tâm trên diễn
dịch những khái niệm, luận thuyết trong tư tưởng, triết học của Chomsky
[2] [Chương 3, ghi chú 12. Joos đã
rõ ràng nhắc đến “truyền thống Boas”của thuyết
cấu trúc Mỹ, và đã chỉ đưa ra một vài bình luận, có phần khinh miệt, về thuyết
cấu trúc châu Âu. Tuy nhiên, những nhận xét của ông phần lớn cúng có thể được
áp dụng cho thuyết cấu trúc châu Âu với không thay đổ gì nhiều.]
Martin Joos (1907–1978) là một
nhà ngôn ngữ học người Mỹ có ảnh hưởng, nổi tiếng với công trình nghiên cứu về
ngôn ngữ học cấu trúc. Ông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của lý
thuyết ngôn ngữ học vào giữa thế kỷ 20. Joos đặc biệt được công nhận vì những
đóng góp của ông cho việc phân tích cấu trúc ngôn ngữ và ngữ âm, cũng như vì
ông ủng hộ ý tưởng rằng ngôn ngữ có thể được mô tả một cách khách quan dựa trên
dữ liệu quan sát được, vốn không cần dựa vào những mô hình lý thuyết có sẵn.
Một trong những tác phẩm đáng chú ý của ông là quyển Readings in
Linguistics, xuất bản năm 1957, do ông biên tập và trở thành một văn bản
quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Joos gắn liền với phương pháp nghiên
cứu cấu trúc, nhấn mạnh trên nghiên cứu ngôn ngữ một cách có hệ thống qua phân
tích những thành phần cấu thành của nó, như âm vị và hình thái, và sự sắp xếp
của chúng trong một ngôn ngữ. Công trình của ông phản ảnh những khuynh hướng
rộng hơn trong ngôn ngữ học vào thời điểm đó, tập trung vào nghiên cứu thực
nghiệm về ngôn ngữ và thường hạ thấp hay bác bỏ nhu cầu về những khuôn khổ lý
thuyết có trước.
[3] Biolinguistics: sinh-ngôn
ngữ học –
sinh học
-ngôn ngữ học là ngành nghiên cứu về những nền tảng sinh học của ngôn ngữ. Nó
xem xét ngôn ngữ được thể hiện trong não, phát triển ở cá nhân và có thể đã
tiến hóa ở loài người như thế nào. Lĩnh vực nghiên cứu này tìm hiểu những yếu
tố bẩm sinh di truyền, thần kinh và nhận thức cho phép con người tiếp nhận và
dung ngôn ngữ, thường dựa trên những hiểu biết sâu xa từ ngôn ngữ học, sinh
học, tâm lý học và khoa học nhận thức. Phương pháp nghiên cứu liên ngành này
nhằm mục đích khám phá những nguyên tắc phổ quát làm nền tảng cho mọi ngôn ngữ
con người, phản ảnh khả năng ngôn ngữ bẩm sinh, thường gắn liền với những lý thuyết
ngữ học của Noam Chomsky. Có thể coi sinh-ngôn ngữ học là kết hợp giữa sinh học
và ngôn ngữ học – do đó, tạm dịch là “sinh-ngôn ngữ học”(ngôn ngữ học về sinh học), hiểu
như một sự mở rộng của sinh học vào trong nghiên cứu ngôn ngữ.
[4] [Chương 1, trang
8–9.]
[5] Đây
là những thí dụ quen thuộc của Chomsky – Chúng ta thường hiểu ngay những câu
nói trong giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ lưỡng theo ngữ pháp
của ngôn ngữ đó (dù là tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, v.v.), thì nhiều câu
thực ra lại khá mơ hồ, không rõ ràng như chúng ta tưởng. Khi nhìn kỹ, câu nói
có thể trở nên khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong những trường hợp
như vậy, chúng ta vẫn hiểu được ý của người nói mà không cần phân tích cú pháp
của câu từ theo ngôn ngữ thông thường bên ngoài (Chomsky gọi là ngôn ngữ-E).
Thay vào đó, chúng ta hiểu theo một cách tự nhiên, ngay tức thời, và Chomsky
cho rằng điều này là do ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ-I), xuất phát từ một ngữ
pháp phổ quát chung của con người.
[6] “vật
lý”= ở đây là vật chất – khái niệm truyền thống về vật chất hoặc bản chất vật
chất.
[7] Xem thêm - Lịch
sử Triết học Duy Vật của
Friedrich Albert Lange, bản dịch của tôi -LDB - trên blog này
[8] [Để biết
những thí dụ và thảo luận, xem New Horizons in the Study of Language and
Mind / Những Chân Trời Mới Trong Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Và Não Thức của tôi
(Cambridge, 2000).]
[9] Juan
Huarte de San Juan, y sĩ và triết gia người Spain thế kỷ 16 nổi tiếng với công
trình nghiên cứu về bản chất trí thông minh của con người và quan hệ của nó với
cơ thể và não thức. Trong bối cảnh vấn đề của Huarte, nó liên quan đến thách thức
trong việc hiểu cách thức một số đặc điểm hoặc hành vi của con người, chẳng hạn
như phán đoán đạo đức, có thể được giải thích bằng những nguyên tắc hoặc khuynh
hướng vốn có, có thể là di truyền.
[10]
Ethology
[11] Human
a priori : con người tiên nghiệm – có cấu
trúc nhận thức bẩm sinh
[12] [Konrad
Lorenz; chương 3, trang 83–84, bên dưới]
[13] Chúng
thiếu một cấu trúc có thể tách biệt rõ ràng.
[14] [Xem chương
3, trang 79–81 bên dưới.]
Abduction = tôi dịch là suy luận nắm bắt – xem bản tạm dịch của tôi trên blog này – Chúng ta là loài sinh vật nào?
[15] “theory
theory”conceptions. –
[Những người ủng hộ những phương pháp nghiên cứu giải quyết này không
đồng ý, nhưng tôi tin rằng đó là một sự nhầm lẫn. Xem L. Antony và N. Hornstein
, Chomsky
and his Critics / Chomsky và
những phê bình ông (Blackwell, 2003), chương 10,
và phần trả lời.]
[16] problem of poverty of stimulus
[17] [trang. 47,
85f., bên dưới.]
[18] [Chomsky, Aspects of the Theory of
Syntax / Những phương diện của lý
thuyết cú pháp (Cambridge, Mass: MIT Press, 1965), tr. 59]
[19] the
format conception of linguistic theory: Quan niệm định dạng của lý thuyết ngôn ngữ”đề cập đến một phương pháp
nghiên cứu giải quyết cũ hơn được đặc trưng bởi phân tích ngôn ngữ có cấu trúc,
khô cứng. Khung này nhấn mạnh vào những quy luật cố định và nguyên tắc cấu
trúc, tập trung vào những cấu trúc được xác định trước và những tiến trình chi
tiết để phân tích ngôn ngữ. Nó không linh hoạt và không dễ dàng thích ứng với
sự phức tạp hoặc biến thể của ngôn ngữ. Nó nguồn gốc từ phong trào cấu trúc
luận đầu thế kỷ 20, phương pháp nghiên cứu giải quyết này được Ferdinand de
Saussure (1857–1913) định hình: Đặt nền móng cho thuyết cấu trúc, tập trung vào
ngôn ngữ như một hệ thống những ký hiệu và quan hệ cấu trúc. Leonard Bloomfield
(1887–1949): Thuyết cấu trúc tiên tiến của Mỹ với phân tích chặt chẽ, dựa trên
quy luật. Roman Jakobson (1896–1982): đóng góp cho ngôn ngữ học cấu trúc với
công trình nghiên cứu về ngữ âm và ngữ nghĩa của ông. Nikolai Trubetzkoy
(1890–1938): Nhấn mạnh những quan hệ cấu trúc giữa những âm vị trong Trường
phái Praha. Những học giả này đã phát triển một lý thuyết ngôn ngữ có cấu trúc
chặt chẽ và dạng thức, đóng vai trò trung tâm trong “quan niệm định dạng”.
[20] Principles and Parameters: Principles / Nguyên tắc”đề cập đến những quy luật hoặc hướng dẫn cơ
bản áp dụng cho tất cả những ngôn ngữ, trong khi Parameters/ cài đặt đề cập đến giá trị có thể
chọn lựa, thay đổi cho những cài đặt hoặc lựa chọn khác nhau giữa những ngôn
ngữ trong những quy luật đó.
[21] transformational-generative
grammar