(Language and Mind)
(Bản in thứ ba)
Noam Chomsky
Lời giới thiệu của nhà xuất
bản
Đây là bản in thứ ba được chờ
đợi từ lâu của tuyển tập những tiểu luận nổi tiếng của Chomsky về ngôn ngữ và
não thức. Sáu chương đầu, nguyên đã xuất bản trong những năm 1960, đã tạo một
đóng góp khai phá cho lý thuyết ngôn ngữ. Bản in thứ ba này thêm vào một chương
và một lời tựa mới, đem phương pháp nghiên cứu giải quyết có ảnh hưởng quan
trọng và sâu rộng của Chomsky vào thế kỷ XXI. Những chương 1–6 trình bày công
trình ban đầu của Chomsky về bản chất và sự tiếp thu ngôn ngữ như một hệ thống
sinh học, bẩm sinh di truyền (Ngữ Pháp Phổ Quát), qua những quy luật và
nguyên tắc của chúng khiến chúng ta tiếp nhận một kiến thức được nhập tâm (ngôn
ngữ-I). Trong 50 năm qua, khung cấu trúc khái niệm này đã khơi dậy một bùng
nổ của nghiên cứu vào trong một loạt rộng lớn của những ngôn ngữ và đã đem lại
một số vấn đề lý thuyết rất quan trọng. Chương cuối duyệt lại những vấn đề then
chốt, sau khi xem lại phương pháp nghiên cứu giải quyết “sinh-ngôn ngữ học’
vốn đã định hướng công trình của Chomsky từ khi bắt đầu cho đến ngày nay, đồng
thời nêu lên một số thách thức và phấn khích mới cho việc nghiên cứu ngôn ngữ
và não thức.
(Nhà xuất bản Đại học
Cambridge, 2002).
NỘI DUNG
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
ba
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhì
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhất
1 Những đóng
góp của ngữ học cho việc nghiên cứu não thức: Quá khứ
2 Những đóng
góp của ngữ học cho việc nghiên cứu não thức: Hiện tại
3 Những đóng
góp của ngữ học cho việc nghiên cứu não thức: Tương lai
4 Dạng thức
và ý nghĩa trong những ngôn ngữ tự nhiên
5 Bản chất
cấu trúc và qui luật của ngôn ngữ
6 Ngữ học và
Triết học
7 Sinh-ngôn
ngữ học và khả năng con người
Chỉ Mục
Ngôn ngữ và Não Thức [1]
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
ba
Sáu chương đầu tiên sau đây,
đều từ cuối những năm 1960, hầu hết dựa trên những bài nói chuyện tổng quát cho
giới đại học, thế nên tương đối
cởi mở trực tiếp. Chương cuối là từ năm 2004, dựa trên một bài nói chuyện dành
cho công chúng.Tiểu luận mới đây này, xem xét lại “phương pháp nghiên cứu
sinh-ngôn ngữ học” vốn đã hướng dẫn công việc này từ khởi nguồn của nó cách đây
nửa thế kỷ, một số phát triển quan trọng trong những mười năm gần đây, và
phương pháp nghiên cứu giải quyết tổng quát ngày nay trông như thế nào – ít
nhất là với tôi.
Phương pháp nghiên cứu giải
quyết có ảnh hưởng nhất của những câu hỏi về ngôn ngữ và não thức trong những
năm 1950 là của khoa học hành vi [2].
Như từ ngữ này đã chỉ định, đối tượng của khảo sát là hành vi, hay với ngữ học,
những sản phẩm của hành vi: có lẽ kho ngữ liệu vốn những nhà nghiên cứu đã có
bằng những kỹ thuật “gợi mở” được dạy trong những khóa học nghiên cứu thực
địa.– qua việc thu thập, phiên âm và phân tích dữ liệu ngôn ngữ thông thường
của dân địa phương trong sinh hoạt hàng ngày của họ. Lý thuyết ngữ học vào thời
đó chủ yếu gồm những tiến trình phân tích dữ liệu này, như chia nhỏ dữ liệu
thành những phân đoạn và phân loại những phân đoạn đó. Những phân tích này được
thực hiện với giả định tối thiểu về cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ, hay cách
những thành phần của ngôn ngữ được tổ chức. Nhà ngữ học nổi tiếng Martin Joos
hầu như không quá lời trong một trình bày năm 1955, khi ông xác định “hướng đi
quyết định” của ngôn ngữ học cấu trúc đương thời như quyết định rằng ngôn ngữ
có thể “được mô tả nhưng không có bất kỳ lược đồ có trước nào về một ngôn ngữ
phải là gì” [3].
Những phương pháp nghiên cứu giải quyết phổ biến trong khoa học hành vi nhìn
tổng quát không có nhiều khác biệt. Dĩ nhiên, không ai chấp nhận khái niệm
không nhất quán của một “phiến bảng trống”. Nhưng đã là thông thường để giả
định rằng ngoài một số giới hạn ban đầu của những thuộc tính đã tìm ra trong
môi trường (một “không gian chất lượng”, [4]
trong khung cấu trúc khái niệm của triết gia có ảnh hưởng lớn W.V.O. Quine), những hệ thống phân
tích và lựa chọn học tập nào đó cũng đủ để giải thích những sinh vật, trong đó
có con người, biết và làm gì. Nguồn gen di truyền trong những lĩnh vực này dự
kiến sẽ không đạt được nhiều hơn những gì như thế.
Phương pháp nghiên cứu giải
quyết của sinh-ngôn ngữ học [5]
mới nổi đã áp dụng một lập trường khác. Đối tượng của khảo sát không là hành vi
và những sản phẩm của nó, nhưng là hệ thống nhận thức bên trong tham dự vào
hành động và diễn giải, và xa hơn nữa, cơ bản trong bản chất sinh học cố định
của chúng ta cho sự tăng trưởng và phát triển của những hệ thống bên trong này.
Từ cái nhìn này, đề tài trung tâm của những quan tâm là những gì vốn Juan
Huarte, trong thế kỷ 16, đã coi như thuộc tính thiết yếu của óc thông minh con người:
khả năng của não thức con người trong việc “tạo ra bên trong nó, bằng sức mạnh
của chính nó, những nguyên tắc vốn kiến thức dựa trên đó”, [6]
những ý tưởng đã được phát triển theo những cách quan trọng trong những truyền
thống khoa học-triết học của những năm sau. Với ngôn ngữ, “những nguyên tắc
trên đó kiến thức dựa vào” là những nguyên tắc của ngôn ngữ đã được “nhập tâm”
(Ngôn ngữ-I ) vốn cá nhân đã thu tập được. Sau khi có được những nguyên
tắc này, Jones, nhân vật giả tưởng của chúng ta, có rất nhiều kiến thức, thí dụ
như glink nhưng không glnik có thể là một từ vựng trong tiếng
Anh; rằng John is too angry to talk to (Mary)/ John thì quá
giận để nói chuyện với (Mary), có
nghĩa là John sẽ nói chuyện (nếu Mary vắng mặt) nhưng John là
người nói chuyện (nếu Mary có mặt); rằng ông có thể được dùng để chỉ John trong
câu “I wonder who John
expects to see him /Tôi tự hỏi John trông đợi ai để gặp ông”, nhưng không
phải thế, nếu “I wonder who / tôi tự hỏi ai” thì bị bỏ
mất (John expects to see him); [7]
rằng nếu John sơn ngôi nhà màu nâu thì ông sơn mặt bên ngoài mặc dù ông
có thể sơn ngôi nhà bên trong màu nâu; rằng khi John leo núi, ông đã leo
lên mặc dù ông có thể leo xuống núi; rằng những quyến sách theo một
nghĩa nào đó vừa trừu tượng vừa riêng biệt như trong câu John
memorized and then burned the book/ John đã ghi nhớ rồi đốt quyển
sách ; và cứ thế , ... trên một
phạm vi vô hạn. “Sức mạnh tạo ra/gây nên” những nguyên tắc ngôn ngữ-I vốn trên
đó những trường hợp riêng biệt của kiến thức như vậy thì được hiểu, là thành
phần của nguồn gen di truyền vốn giải thích cho sự tăng trưởng và phát triển
của chúng.
Ngữ học, được hình thành như
vậy, tìm để khám phá những lý thuyết thực của những ngôn ngữ-I (grammars)) riêng biệt, và ở một mức độ sâu hơn, lý thuyết của di truyền cơ bản
cho sự tiếp thu ngôn ngữ (Ngữ Pháp Phổ Quát, UG, dùng một từ truyền
thống cho một cách dùng mới). Những hệ thống nhận thức khác, đã được giả định,
sẽ được hình thành theo những đường tương tự, mỗi hệ thống với những nguyên tắc
và những khả của năng phát sinh riêng của chúng.
Trong khung cấu trúc khái niệm
này, thực vậy, hệ thống nhận thức được hiểu là những cơ quan của cơ thể, chủ
yếu là bộ óc, để được nghiên cứu theo cách tương tự như những thành phần
nhỏ-phụ khác với những thuộc tính đăc biệt vốn có tác động hỗ tương trong sự sống của tổ chức sinh vật: hệ
thống thị giác, hệ thống vận động, hệ thống tuần hoàn của máu, v.v. Cùng với
vai trò của chúng trong hành vi, những “cơ quan nhận thức” tham dự vào trong
những hoạt động thường được coi như thuộc về tâm lý : suy nghĩ, trù tính
kế hoạch, diễn giải, cân nhắc đánh giá, v.v. Từ ngữ “về tâm lý” ở đây
mang tính mô tả và không chính thức, gần giống với những từ ngữ mô tả lỏng lẻo
như “về hóa học”, “về điện”, “về quang học” và những từ ngữ khác, vốn dùng để
đặt chú ý vào những phương diện
riêng biệt của thế giới vốn dường như có một tính chất gắn kết thống nhất và
đáng được trừu tượng hóa cho nghiên cứu đặc biệt, nhưng không mang bất kỳ ảo
tưởng nào rằng chúng khắc vẽ những hạng loại phân chia thế giới tự nhiên. Hành
vi và những sản phẩm của nó – chẳng hạn như những bản văn – đem cho dữ liệu vốn
có thể là có ích như bằng chứng để xác định bản chất và nguồn gốc của hệ thống
nhận thức, nhưng không có vị thế ưu tiên nào cho những thăm dò như vậy, giống
đúng như trường hợp những cơ quan khác của cơ thể.
Sự chuyển đổi tổng quát về quan điểm đôi khi được gọi là “cách mạng nhận thức” những
năm 1950. Tuy nhiên, vì những lý do đã thảo luận trong những tiểu luận đầu tiên
sau đây, tôi nghĩ nó có thể được nhìn đúng đắn hơn như một sự đổi mới và phát
triển hơn nữa của cách mạng nhận thức trong thế kỷ XVII. Từ những năm 1950,
nhiều câu hỏi truyền thống đã được hồi sinh – đáng tiếc là không có sự hiểu
biết về truyền thống vốn phần lớn đã bị lãng quên hay trình bày sai lạc. Cũng
được hồi sinh là quan điểm đã được kết tinh trong suốt thế kỷ 18 cho rằng những
thuộc tính “được gọi là thuộc về tinh thần” là kết quả của “một loại cấu trúc
hữu cơ giống như của bộ óc” (nhà hóa học-triết gia Joseph Priestley). Sự phát
triển này của “đề nghị của Locke”, như nó được gọi trong tài liệu học thuật, là
một sự kiện tự nhiên, hầu như không thể tránh khỏi, đi kèm với cách mạng
Newton, vốn đã hiệu quả phá bỏ khái niệm quan trọng duy nhất về “cơ thể” hay
“vật lý” [8].
Kết luận cơ bản đã được hiểu rõ vào thế kỷ 19. Darwin hỏi một cách văn vẻ, rằng
tại sao “suy nghĩ, là một chất tiết ra của não” lại được coi như “tuyệt diệu hơn trọng lực, một thuộc tính của
vật lý”. Trong tác phẩm cổ điển về lịch sử thuyết duy vật thế kỷ 19, Friedrich Lange nhận xét rằng những
nhà khoa học đã “quen với khái niệm trừu tượng về lực, hay đúng hơn là với một
khái niệm lơ lửng trong vùng tối huyền bí giữa trừu tượng và hiểu biết riêng
biệt”, một “bước ngoặt” trong lịch sử của thuyết duy vật vốn loại bỏ những tàn tích còn sót lại của học
thuyết khỏi những ý tưởng và quan tâm
của “những người theo thuyết
duy vật chân chính” của thế kỷ XVII, và tước đi ý nghĩa của chúng. Chúng không
cần phải là quan tâm đặc biệt trong nghiên cứu về những phương diện của thế giới “gọi là về tinh thần”. [9]
Có lẽ đáng lưu ý rằng cách
hiểu truyền thống này vẫn được nhìn như gây nhiều tranh luận và việc lập lại
nó, hầu như trong cùng những từ, thì thường được nêu lên như một “giả thuyết
táo bạo” hay “ý tưởng mới triệt để” trong ngành học của những lĩnh vực “gọi là
về tinh thần”. [10]
Một đặc điểm quan trọng khác
của cách mạng nhận thức ban đầu là sự nhìn nhận rằng những thuộc tính của thế
giới được gọi là về tinh thần
có thể gồm những khả năng vô tận của một cơ quan hữu hạn, “việc dùng vô hạn của
những phương tiện hữu hạn”, trong lời của Wilhelm von Humboldt. Học thuyết này
đã là ở trung tâm của khái niệm của phái Descartes về não thức. Nó đem cho tiêu chuẩn cơ bản để giải quyết vấn
đề của những “não thức khác” – để xác định liệu một sinh vật nào đó có một não
thức giống như của chúng ta hay không. Descartes và những người theo ông tập
trung vào việc đem dùng ngôn ngữ như sự minh họa rõ ràng nhất. Trong một giòng
suy nghĩ có phần tương tự, Hume sau này đã nhìn nhận rằng những phán đoán đạo
đức của chúng ta đều không có giới hạn trong phạm vi, và phải được tạo dựng
trên những nguyên tắc tổng quát vốn là phần của bản chất chúng ta – được xác
định về di truyền, nói theo từ ngữ thời nay [11].
Từ nhận xét đó đặt vấn đề của Huarte trong một lĩnh vực khác và hiện nay là đề
tài thu hút của nghiên cứu thực nghiệm và phân tích khái niệm.[12]
Vào giữa thế kỷ 20, đã trở
thành có thể đối mặt với những vấn đề loại như vậy một đưởng lối có thực chất
hơn những thời kỳ trước đó. Khi đó, đã có một hiểu biết tổng quát rõ ràng về
những hệ thống phát sinh hữu hạn với phạm vi vô hạn, vốn có thể sẵn sàng thích
ứng với việc sắp xếp lại và điều tra của những câu hỏi truyền thống vốn nhất
thiết đã bị bỏ lại trong bóng tối. Một yếu tố có ảnh hưởng khác trong sự hồi
sinh của cách mạng nhận thức là công trình của những nhà nghiên cứu về hành vi
loài vật trong môi trường tự nhiên [13]
và tâm lý học so sánh, khi đó vừa mới trở nên sẵn sàng hơn với phương pháp
nghiên cứu giải quyết, với quan tâm
của nó với “những giả thuyết hoạt động bẩm sinh hiện diện trong những sinh vật hạ
đẳng” và “con người tiên nghiệm” [14]
vốn tất sẽ có nhiều đặc điểm giống nhau.[15]
Khung cấu trúc khái niệm đó cũng có thể được điều chỉnh phù hợp với việc nghiên
cứu những cơ quan nhận thức của con người và bản chất đã xác định di truyền của
chúng, vốn xây dựng kinh nghiệm – Umwelt của sinh vật, theo từ ngữ của
nghiên cứu về hành vi động vật học – và hướng dẫn con đường phát triển tổng
quát, giống đúng như trong tất cả những phương
diện khác của sự phát triển của tất cả những sinh vật sống.
Trong khi đó, những cố gắng để
mài dũa và hoàn thiện những phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết theo
thủ tục đã gặp những khó khăn nghiêm trọng, bộc lộ những thiết xót nội tại. Một
vấn đề cơ bản là ngay cả những yếu tố đơn giản nhất của nói viết của ngôn ngữ
cũng không thể dò biết được bằng những thủ tục của phân đoạn và phân loại.
Chúng không có thuộc tính “những hạt rời trong một sâu chuỗi” [16]
cần thiết để những phương pháp như vậy hoạt động, và thường không thể định vị
trí được ở một số phần có thể nhận dạng được của sự kiện vật lý tương ứng với
biểu hiện bên trong não thức vốn những phần tử này hoạt động. Ngày càng rõ ràng
rằng ngay cả những đơn vị đơn giản nhất – hình vị, những đơn vị thông tin từ
vựng cơ bản, ngay cả những phân đoạn âm vị học – chỉ có thể được xác định bằng
vai trò của chúng trong những tiến trình tạo sinh hình thành những biểu thức
ngôn ngữ. Đến phiên chúng, những cách diễn đạt này có thể được coi như “những
chỉ dẫn” cho những hệ thống khác của não thức/cơ thể được dùng cho những hoạt
động tâm lý, cũng như để tạo ra lời nói và giải thích những tín hiệu bên ngoài.
Tổng quát hơn, nghiên cứu về những hệ thống phân tích và lựa chọn của học tập
và kiểm soát hành vi được giả định trong khoa học hành vi đã bộc lộ những thiếu
sót nền tảng, và ngay cả ở cốt lõi của ngành học đã nảy sinh những nghi ngờ
nghiêm trọng về việc liệu toàn bộ dự án có thực tiễn, ứng dụng được hay không,
ngoại trừ việc thiết kế những thí nghiệm có thể có ích cho một số mục đích
khác.
Với việc nghiên cứu ngôn ngữ,
một kết luận tự nhiên xem có vẻ là ngôn ngữ-I gần như đạt được đặc tính của một
lý thuyết khoa học: một hệ thống tích hợp những quy luật và nguyên tắc vốn từ
đó những diễn đạt của ngôn ngữ có thể được lấy ra, mỗi chúng là một tập hợp gồm những hướng dẫn. cho suy nghĩ và hành động. Đứa trẻ,
bằng cách nào đó, phải chọn ngôn ngữ-I từ dòng chảy của kinh nghiệm. Vấn đề
hiện ra như tương tự với những gì Charles Sanders Peirce đã gọi là suy luận nắm bắt khi xem xét vấn đề của khám phá khoa học. [17]
Và cũng như trong trường hợp của khoa học, nhiệm vụ này là không thể có được
nếu không có những gì vốn Peirce gọi là một “giới hạn với những giả thuyết có
thể chấp nhận được” cho phép chỉ có một số lý thuyết nhất định được xem xét,
nhưng không gồm một vô số những lý thuyết khác cũng tương hợp với dữ liệu liên quan.
Trong trường hợp ngôn ngữ, có vẻ như thiên tư di truyền của khả năng ngôn ngữ
phải áp đặt một dạng thức cho hệ thống quy luật vốn đủ giới hạn để những gì
tương lai được chọn của ngôn ngữ-I đều bị “phân tán” và ngay cả chỉ một số
lượng nhỏ có thể được xem xét trong tiến trình của sự tiếp thu ngôn ngữ. Trong
công trình nghiên cứu sau này về khoa học nhận thức, những phương pháp nghiên
cứu giải quyết như vậy thường được gọi là những khái niệm “lý thuyết về lý
thuyết”. [18]
Giống như suy luận nắm bắt, và với vấn đề đó, mọi phương diện của sự tăng trưởng và phát triển, sự tiếp thu ngôn
ngữ đều phải đối mặt với vấn đề “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích”
[19].
Nhận xét tổng quát thì rõ ràng, rõ ràng đến mức bên ngoài khoa học nhận thức,
hiện tượng phổ biến này ngay cả còn không được đặt tên: không ai nói về vấn đề
của sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích cho một phôi thai vốn bằng cách
nào đó đã phải trở thành một con sâu, hay một con mèo, dựa trên môi trường dinh
dưỡng, hay trong bất kỳ phương diện
nào của phát triển sau khi sinh ra, chẳng hạn như trải qua thời kỳ dậy thì.
Trong những tiểu luận từ những
năm 1960, in lại dưới đây, bản chất và sự tiếp thu ngôn ngữ được trình bày và
thảo luận đều tuân theo khung cấu trúc khái niệm tổng quát vừa được phác thảo.
Do đó, “vấn đề lý thuyết thách thức nhất trong ngữ học” đã được coi như là của
“việc khám phá những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát”, vốn nó “xác định việc
lựa chọn những giả thuyết” – tức là giới hạn những ngôn ngữ-I có thể nghiên cứu
giải quyết được. Tuy nhiên, người ta cũng nhìn nhận rằng với ngôn ngữ, cũng như
với những sinh vật sống khác, một vấn đề còn thách thức hơn đang ở chân trời
phía trước: khám phá “những quy luật vốn xác định khả năng đột biến thành công
và bản chất của những sinh vật sống phức tạp”, hoàn toàn khác với những cơ quan
nhận thức riêng biệt, hay những hệ thống hữu cơ khác đang được nghiên cứu. [20]
Như cùng ý tưởng tương tự đã được đưa ra vài năm trước: “chắc chắn ngày nay
không có lý do gì để coi trọng quan điểm coi thành tựu phức tạp của con người
hoàn toàn là do kinh nghiệm trong nhiều tháng (hay nhiều nhất là nhiều năm)
[như trong khoa học hành vi], thay vì hàng triệu năm tiến hóa [như trong nghiên
cứu về thiên tư di truyền cụ thể , UG trong trường hợp ngôn ngữ], hay đến những
nguyên tắc của tổ chức thần kinh có thể có nền tảng sâu xa hơn trong quy luật
vật lý” [21] –
một “yếu tố thứ ba” trong sự tăng trưởng và phát triển, liên quan với những
nguyên tắc hoặc ảnh hưởng cơ bản vượt ra ngoài di truyền và môi trường, có khả
năng hướng dẫn sự phát triển và bắt nguồn từ những định luật vật lý hoặc tổ
chức thần kinh, có thể độc lập với những cơ quan hoặc sinh vật riêng biệt. Việc
điều tra yếu tố thứ ba có vẻ quá xa vời để được chú ý nhiều, và do đó hầu như
không được nhắc đến, mặc dù, trong thực tế, ngay cả một số công trình sớm nhất
– thí dụ, về việc loại bỏ sự trùng lập trong những hệ thống quy luật – cũng
được ngầm hướng dẫn bởi những quan tâm
như vậy.
Trong những năm tiếp theo,
nghiên cứu đã mở rộng đáng kể ra ngoài những lĩnh vực chỉ liên quan với ngôn
ngữ, gồm nhiều đề tài hơn trong khoa học nhận thức. Vào đầu những năm 1980, ngữ
học đã trải qua một sự thay đổi lớn về quan điểm, thoát khỏi “quan niệm định dạng của lý thuyết ngôn ngữ” [22], đại diện cho cách phân tích ngôn ngữ cũ hơn, có cấu trúc khô cứng hơn.
Phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết này tập trung vào một tập hợp cố
định những quy luật và khuôn khổ nhằm mô tả và tạo ra tất cả những câu có thể
có trong một ngôn ngữ. Nó gồm những hệ thống quy luật chi tiết và những mô hình
tĩnh được cho là có thể áp dụng phổ biến. Tuy nhiên, khuôn khổ này đã dần bị
loại bỏ để hỗ trợ phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết những nguyên
tắc và những giá trị thay đổi [23].
Phương pháp phương pháp nghiên cứu giải quyết mới này nhằm mục đích giới hạn
phạm vi ngôn ngữ-I có thể có thành một tập hợp hữu hạn, cho phép sự điều tra
linh hoạt và thực nghiệm hơn về những cấu trúc ngôn ngữ đồng thời đặt ra những
ràng buộc chặt chẽ đối với những lựa chọn từ vựng. Mặc dù mặc dù vẫn còn bỏ ngỏ
để tranh luận về tính hợp lệ lâu dài của nó, đã chứng minh đem lại thành công
cao như một chương trình nghiên cứu. Nó đã tạo ra một làn sóng của những nghiên
cứu thực nghiệm trên nhiều loại ngôn ngữ đa dạng về phương diện loại hình, đưa
ra những câu hỏi lý thuyết mới chưa từng được hình thành trước đây và thường
đưa ra những trả lời một phần. Ngoài ra, nó đã làm sống lại nghiên cứu trong
những lĩnh vực liên quan như tiến trình tiếp thu và tiến hành ngôn ngữ. Một kết
quả quan trọng của sự thay đổi này là nó đã xóa bỏ một số rào cản khái niệm cơ
bản để khám phá những vấn đề “yếu tố thứ ba'“ sâu hơn – những nguyên tắc vượt
ra ngoài di truyền và môi trường, có khả năng dựa trên những định luật vật lý
hoặc tổ chức thần kinh. Những đề tài này, được thảo luận trong bài giảng cuối
cùng của tập sách này, Chúng nêu lên những khả năng vốn ít nhất theo quan điểm
cá nhân của tôi, đề nghị những thách thức mới lạ và đáng chú ý, đặc biệt cho
nghiên cứu về ngôn ngữ và những vấn đề rộng hơn về não thức.
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhì
Sáu chương tiếp theo chia
thành hai nhóm. Ba bài đầu tiên tạo thành chuyên khảo Ngôn ngữ và Não Thức
xuất bản năm 1968. Như lời tựa của Ngôn ngữ và Não Thức, được in lại
dưới đây, giải thích, ba tiểu luận về những đóng góp của ngôn ngữ cho sự nghiên
cứu về não thức (quá khứ, hiện tại và tương lai) đều dựa trên những bài
giảng Beckman, được trình bày trước khối người nghe trong giới đại học, ở
trường tại Đại học California, Berkeley, vào tháng 1 năm 1967. Những tiểu luận
này tạo thành một đơn vị riêng biệt, khác với ba chương tiếp theo.
Chương 4, “Dạng thức và ý nghĩa trong những ngôn ngữ tự nhiên”, là bản
văn gần đúng tương tự của một bài giảng khá thân mật được đưa ra vào tháng 1
năm 1969 tại Đại học Gustavus Adolphus ở Minnesota cho một khán giả gồm phần lớn
là những học sinh và sinh viên và những giáo sư trung và đại học. Nó xem xét
lại một số khái niệm cơ bản đã trình bày trong Ngôn ngữ và Não Thức và
những tác phẩm khác, đồng thời trình bày thêm một số công trình sau này về giải
thích ngữ nghĩa của những cấu trúc cú pháp. Tôi tin rằng tài liệu này cho thấy
một số giới hạn và thiết xót của lý thuyết trước đó và đề nghị một hướng đi
trong đó lý thuyết này nên được sửa đổi lại. Nhiều nghiên cứu chuyên môn hơn về
vấn đề này và những vấn đề liên quan xuất hiện trong những chuyên khảo sắp xuất
bản của tôi, Semantics in Generative Grammar and Conditions
on Rules, Mouton và Co.. xuất bản, The
Hague, năm 1972.
Chương 5 là một nghiên cứu
chuyên môn hơn, thăm dò một số chi tiết về tài liệu vốn đã giả định-trước hay
chỉ đã khai triển không chính thức trong Ngôn ngữ và Não Thức. Đối tượng
người nghe trong trường hợp này chủ yếu gồm những nhà tâm lý học và nhà tâm lý
ngữ học Chương này, ban đầu xuất hiện như một phụ lục cho Biological
Foundations of Language của Eric Lenneberg, là một cố gắng để đem cho một trình bày ngắn gọn và
hệ thống của lý thuyết ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh [24]
và để thăm dò tiềm tàng ý nghĩa quan trọng của nó với tâm lý con người. Những
chuyên khảo vừa được dẫn đưa những nghiên cứu chuyên môn đi xa hơn, một phần,
theo những hướng được cho thấy vắn tắt trong chương này, vốn thực đã được viết
năm 1965 và do đó là tiểu luận sớm nhất đã thu thập ở đây.
Chương 6 được nhắm đến một đối
tượng người nghe có phần khác hơn, cụ thể là những triết gia chuyên nghiệp. Đây
là một đóng góp cho một hội thảo chuyên môn về ngữ học và triết học đã tổ chức
ở Đại học New York, tháng 4 năm 1968. Mục đích của bài giảng này là thăm dò
những điểm tiếp xúc giữa ngữ học và triết học đương thời – đặc biệt là nhận
thức học và triết học về não thức. Đề nghị được nêu lên rằng nghiên cứu hiện
nay trong ngữ học có những hiểu biết sâu xa đáng chú ý, để đem cho vào trong
bản chất của kiến thức con người, cơ bản cho sự tiếp nhận của nó và những đường
lối biểu thị đặc điểm nó được dùng. Một phần, tiểu luận này quan tâm với tranh
luận vốn đã nổi lên từ những vấn đề này; một phần, với chính những vấn đề.
Có một mức độ trùng lập nhất
định trong những tiểu luận này. Những chương 4, 5 và 6 đều đều ít nhiều mang
tính độc lập, nghĩa là mỗi chương trình bày nội dung của nó, không tùy thuộc
nhiều vào nội dung của những chương khác. Mỗi chương có rất ít những giả định
trước, và do đó một số khai triển giải thích lập lại, và lập lại thêm nữa với
những chương cấu thành Ngôn ngữ và Não Thức. Tôi hy vọng rằng những
trình bày có phần khác nhau về những điểm cơ bản có thể tỏ ra có ích. Trong
thực tế, ngay cả những điểm đơn giản và cơ bản nhất được thảo luận trong những
tiểu luận này cũng đã bị hiểu sai ở nhiều chỗ. Thí dụ, trong những thảo luận
phổ biến có khuynh hướng nhầm lẫn giữa “cấu trúc sâu” với “ngữ pháp phát sinh”
hay với “ngữ pháp phổ quát”. Và một số nhà ngữ học chuyên nghiệp đã nhiều lần
nhầm lẫn những gì tôi gọi ở đây là “phương
diện sáng tạo của việc dùng ngôn ngữ” với thuộc tính lập lại cùng quy
tắc với những kết quả trước của ngữ pháp phát sinh, một vấn đề rất khác. Với hy
vọng rằng những câu hỏi như thế này sẽ được làm sáng tỏ, tôi đã không loại bỏ
những phần trùng lập trong khi sưu tập những tiểu luận này.
Những chương 4–6 kéo dài và mở
rộng trên những ý tưởng và tài liệu đã thảo luận trong những bài giảng Beckman.
Tất cả những tiểu luận này quan tâm chính yếu với lĩnh vực của tương giao giữa
ngữ học, triết học và tâm lý học. Mục đích chính của chúng là để cho thấy cách
nghiên cứu chuyên môn hơn về cấu trúc ngôn ngữ có thể góp phần vào sự hiểu biết
về óc thông minh của con người như thế nào. Tôi tin và cố gắng để cho thấy
trong những tiểu luận này rằng việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ vén mở lên cho
thấy những thuộc tính của trí thức ẩn chìm làm nền tảng cho việc rèn luyện khả
năng tinh thần của con người trong những hoạt động bình thường, chẳng hạn như
việc thông thường dùng ngôn ngữ trong cách thức tự do và sáng tạo.
Với cái giá phải trả cho một
trùng lập cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh ở đây những nhận xét trong lời tựa của Ngôn
ngữ và Não Thức liên quan với những gì gọi là “khoa học hành vi”. Hiện nay
có rất nhiều thảo luận – và không phải hiếm là có những tuyên bố, có phần phóng
đại – liên quan với những ý nghĩa của những khoa học hành vị này đối với những
vấn đề sinh hoạt của con người. Điều quan trọng cần nhớ là có rất ít giả thuyết
thực nghiệm quan trọng và có cơ sở dựa trên bằng chứng liên quan với câu hỏi về
cách con người cư xử và lý do tại sao họ có hành vi như vậy trong những hoàn
cảnh bình thường. Tôi tin rằng, người đọc thực hiện bài tập hữu ích là tìm kiếm
tài liệu sẽ khám phá rằng không chỉ có rất ít kiến thức khoa học có ý nghĩa
trong lĩnh vực này, nhưng còn hơn thế nữa, là khoa học hành vi đã thường nhấn
mạnh trên một số giới hạn tùy tiện về phương pháp khiến cho việc đạt được kiến
thức khoa học không mang tính chất tầm thường trở nên hầu như không thể làm
dược.
Chúng ta có thể bắt đầu để
thấy kiến thức và hệ thống tin tưởng con người có thể được tiếp nhận trong một
số lĩnh vực nhất định như thế nào. Trường hợp ngôn ngữ đặc biệt đáng chú ý vì
ngôn ngữ đóng vai trò thiết yếu trong suy nghĩ và ứng xử, truyền thông, giao
tiếp của con người, và vì trong trường hợp này, chúng ta có thể bắt đầu mô tả
hệ thống kiến thức đạt được và xây dựng một số giả thuyết hợp lý về khả năng có
sẵn bên trong của con người giúp đạt được thành tựu này.Những tia sáng hiểu
biết này tự bản thân chúng đã đáng chú ý và cũng đề nghị cho những nghiên cứu
khác. Chúng ta có thể khá chắc chắn rằng việc điều tra quan hệ trực tiếp giữa
kinh nghiệm và hành động, giữa những kích thích và phản ứng, trong tổng quát sẽ
là một nỗ lực vô ích. Trong mọi trường hợp, ngoại trừ những trường hợp cơ bản
nhất, những gì một người làm tùy thuộc phần lớn vào những gì người này biết,
tin tưởng và dự đoán. Một nghiên cứu về hành vi của con người không dựa trên ít
nhất là một công thức tạm thời về những hệ thống kiến thức và tin tưởng có liên
quan thì chắc chắn sẽ trở nên tầm thường và không phù hợp. Nghiên cứu về tiến
trình học tập của con người chỉ có thể bắt đầu một cách nghiêm chỉnh khi một
công thức tạm thời về những hệ thống kiến thức và tin tưởng như vậy được trình
bày. Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi những hệ thống này được tiếp thu bằng cách
nào, dựa trên dữ liệu kinh nghiệm được đem cho. Tương tự như vậy, nghiên cứu về
hành vi của con người khó có thể được thực hiện một cách nghiêm chỉnh trừ khi
chúng ta ở vị trí có thể hỏi những gì một người làm có liên quan như thế nào
với những gì người này biết, tin tưởng và mong đợi. Chỉ khi chúng ta đã xây
dựng một số giả thuyết tạm thời về những gì được học, chúng ta mới có thể tiến
hành một nghiên cứu nghiêm chỉnhvề việc học của con người; chỉ khi chúng ta đã
xây dựng một số giả thuyết tạm thời về những gì đã được học – những gì được
biết và tin tưởng – chúng ta mới có thể nghiêm chỉnh quay sang nghiên cứu về
hành vi. Trong trường hợp của ngôn ngữ, chúng ta có thể trình bày một số công
thức tạm thời nhưng khá chi tiết và phức tạp của những gì đã biết, những gì
người nói-người nghe bình thường đã học được. Vì lý do này, việc nghiên cứu
ngôn ngữ có vẻ đặc biệt quan trọng để hiểu được tiến trình học tập và hành vi
của con người.
Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng
ngôn ngữ có thể là một trường hợp khá đặc biệt. Kiến thức về ngôn ngữ thường
đạt được qua tiếp xúc ngắn gọn và đặc điểm của kiến thức thu được có thể phần
lớn được ấn định trước. Người ta kỳ vọng rằng ngôn ngữ của con người sẽ phản
ảnh trực tiếp những đặc điểm về khả năng trí thức của con người, ngôn ngữ đó
phải là một “tấm gương phản chiếu não thức” trực tiếp theo những cách vốn những
hệ thống kiến thức và tin tưởng khác không thể làm được. Hơn nữa, ngay cả khi
chúng ta có thể giải thích sự tiếp thu ngôn ngữ theo hướng được thảo luận trong
những bài viết này, chúng ta vẫn sẽ gặp phải vấn đề giải thích cho việc đem
dùng bình thường kiến thức thu được. Nhưng vấn đề này hiện tại khá khó giải
quyết. Nó nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học. Dĩ nhiên, sẽ hoàn toàn phi lý
khi cho rằng một số hiện tượng và một số vấn đề nhất định không hiện hữu chỉ vì
chúng nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học – hiện tại, và có lẽ về bản chất là
do phạm vi của trí thức con người, vốn xét cho cùng thì nó vẫn là chính nó, đã
cấu trúc và giới hạn trong những cách chưa được biết đến chi tiết. Với giai
phôi thai của nghiên cứu về con người và xã hội, cùng với sự thiếu hụt tổng
quát về chiều sâu trí thức, chúng ta chỉ có thể giả thuyết về những yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến hành vi của con người. Sẽ là vô trách nhiệm nếu tuyên bố
ngược lại. Giả thuyết trong những lĩnh vực này không chỉ có thể biện minh vốn
còn cần thiết; tuy nhiên, nếu có thể, nó nên được hướng dẫn bằng những kiến
thức giới hạn và rời rạc hiện có. Nhưng giả thuyết cần được dán nhãn rõ ràng
như vậy và phân biệt rõ ràng với những thành tựu của nghiên cứu khoa học. Sự
phân biệt này rất quan trọng trong một xã hội có có khuynh hướng tin tưởng vào
chuyên môn và phán đoán của giới chuyên môn. Đặc biệt, nhà khoa học có một
trách nhiệm với công chúng trong việc làm rõ sự phân biệt này.
Học viện kỹ thuật
Massachusetts
N. C.
Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhất
Ba chương của quyển sách này
là những phiên bản được khai triển phần nào của ba bài giảng – những bài giảng
Beckman – vốn tôi đã giảng tại Đại học California, Berkeley, tháng 1 năm 1967.
Chương đầu tiên là một cố gắng để thẩm định giá trị những đóng góp trong quá
khứ cho sự nghiên cứu về não thức đã có dựa trên nghiên cứu và giả thuyết về
bản chất của ngôn ngữ. Chương thứ hai dành cho những phát triển đương thời
trong ngữ học có liên quan với việc nghiên cứu não thức. Chương thứ ba là thảo
luận mang tính giả thuyết cao về những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ và não thức
có thể thực hiện trong những năm tới. Do đó, ba bài giảng đều quan tâm đến quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Với tình trạng nghiên cứu về
lịch sử ngữ học, ngay cả cố gắng để thẩm định giá trị những đóng góp trong quá
khứ cũng phải được coi như rất tạm thời. Ngữ học thời nay chia sẻ ảo tưởng –
tôi tin là từ ngữ chính xác – rằng “khoa học hành vi” thời nay, trong một phương diện thiết yếu nào, đó đã đạt
được sự chuyển đổi từ “giả thuyết” sang “khoa học” và rằng công trình trước đó
có thể được yên tâm giao cho những người sưu tầm đồ cổ. Hiển nhiên, bất kỳ
người có suy nghĩ nào cũng sẽ chuộng phân tích chặt chẽ và thử nghiệm cẩn thận;
nhưng đến một mức độ đáng kể, tôi cảm thấy, “khoa học hành vi” chỉ đơn thuần
bắt chước những đặc điểm bề ngoài của khoa học tự nhiên; phần lớn thuộc tính
khoa học của chúng đã đạt được bằng một sự giới hạn về chủ đề và tập trung vào
những vấn đề có phần phụ, nằm ở ngoại vi. Việc thu hẹp trọng tâm như vậy có thể
hợp lý nếu nó dẫn đến những thành tựu có ý nghĩa trí thức thực sự, nhưng trong
trường hợp này, tôi nghĩ sẽ rất khó để chứng minh rằng việc thu hẹp phạm vi đã
dẫn đến những kết quả sâu xa và có ý nghĩa. Hơn nữa, đã có một khuynh hướng tự
nhiên nhưng đáng tiếc là “suy rộng ra” từ những kiến thức mong manh thu được
qua công việc thực nghiệm cẩn thận và tiến hành dữ liệu nghiêm ngặt, những vấn
đề có ý nghĩa rộng vượt ngoài phạm vi quan tâm về học thuật hay lý thuyết và đề
cập đến những vấn đề quan trọng đối với toàn xã hội. Đây là một vấn đề nghịêm
trọng. Những nhà chuyên môn có trách nhiệm làm rõ những giới hạn thực sự của
hiểu biết của họ và của những kết quả vốn họ đã đạt được cho đến nay, và một
phân tích cẩn thận những giới hạn này, tôi tin rằng, sẽ chứng minh rằng trong
hầu hết mọi lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học hành vi có kết quả đạt được
cho đến nay sẽ không hỗ trợ phép “suy rộng” như vậy. Tôi tin rằng loại phân
tích như vậy sẽ cũng cho thấy rằng những đóng góp của tư tưởng và giả thuyết
trước đó không thể an toàn bị bỏ qua, rằng trong mức độ lớn, chúng đem cho một
cơ bản không thể thiếu cho công việc nghiêm chỉnh ngày nay.
Ở đây tôi không cố gắng biện
minh cho quan điểm này trong tổng quát nhưng chỉ khẳng định rằng đó là quan
điểm làm cơ bản cho những bài giảng tiếp theo.
Trong bài giảng thứ hai, tôi
không cố gắng trình bày một cách có hệ thống những gì đã đạt được trong nghiên
cứu ngôn ngữ; đúng hơn, tôi tập trung vào những vấn đề nằm ở ranh giới của
nghiên cứu và vẫn chưa có giải pháp. Phần lớn tài liệu trong bài giảng này xuất
hiện trong một chương có tựa đề “Những vấn đề của việc giải thích trong ngữ
học” trong Explanations In Psychology, do R. Borger và F. Cioffi biên
tập (New York: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1967), cùng với những nhận xét
phê bình đáng chú ý của Max Black. Bài giảng 1 và 3 dùng một số tài liệu từ một
bài giảng tại Đại học Chicago vào tháng 4 năm 1966 xuất hiện trong Changing
Perspectives on Man, do B. Rothblatt biên tập (Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1968).
Một phần của bài giảng thứ nhất đã được xuất bản trên Columbia
University Forum, Mùa xuân năm 1968 (Tập XI, Số 1), và một phần của bài giảng thứ ba sẽ
xuất hiện trong số Mùa thu năm 1968 (Tập XI, Số 3).
Tôi muốn bày tỏ những cảm ơn
của tôi đến những nhân viên trong phân khoa và khối sinh viên ở Berkeley vì
nhiều nhận xét và phản hồi có ích, và tổng quát hơn, vì môi trường trí thức
phong phú và đầy hứng khởi vốn trong đó tôi đã có vinh dự được dành vài tháng
ngay trước những bài giảng này. Tôi cũng rấ mang ơn John Ross và Morris Halle
vì những nhận xét và đề nghị có ích.
N. C.
Lời Người Dịch Bản Tiếng Việt
Language and Mind: Một Khám
Phá Toàn Diện Của Noam Chomsky
A.
Trong Language and Mind,
Noam Chomsky trình bày một tập hợp những bài viết đi sâu vào bản chất của ngôn
ngữ và tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, lập luận cho một “ngữ pháp phổ quát”
(UG) được phú bẩm về di truyền, hỗ trợ khả năng học bất kỳ một ngôn ngữ nào của
con người. Bản văn này xem xét lại và mở rộng những tác phẩm trước đó của
Chomsky từ những năm 1960, [25] nhấn mạnh khái niệm về khả năng ngôn ngữ bẩm sinh và ý nghĩa của nó với
khoa học nhận thức. Chomsky đối chiếu phương pháp nghiên cứu giải quyết
sinh-ngôn ngữ học của ông với quan điểm khoa học hành vi, làm nổi bật những
giới hạn của những mô hình kích thích-phản ứng trong việc giải thích những
phương diện sáng tạo của việc dùng ngôn ngữ. Quyển sách cũng xem xét lịch sử
của tư tưởng ngôn ngữ học từ thế kỷ 17 đến nay và thăm dò quan hệ giữa ngữ học
và triết học, đặc biệt liên quan đến sự tiếp thu kiến thức và những giới hạn
của những giải thích triết học cơ học về nhận thức con người.
Lập luận trung tâm của Chomsky
là ngôn ngữ không đơn thuần là một dụng cụ cho việc truyền đạt suy nghĩ nhưng là một khả năng nhận thức bẩm sinh vốn định hình cách chúng ta suy nghĩ
và hiểu thế giới. Điều này chất vấn ý niệm duy trì lâu đời rằng ngôn ngữ chủ
yếu được học qua kinh nghiệm tác động với môi trường sinh hoạt. Thay vào đó,
Chomsky giới thiệu khái niệm Ngữ pháp phổ quát (UG) như một khuôn khổ
vốn có trong não con người. Khuôn khổ này trang bị cho cá nhân một khả năng bẩm
sinh khiến cho con người có khả năng để tiếp thu và dùng ngôn ngữ, đặc biệt khả
năng phát sinh và sáng tạo ngôn ngữ.
Một trong những khái niệm cốt
lõi được giới thiệu trong quyển sách là sự khác biệt giữa năng lực ngôn ngữ và
hiệu năng. Năng lực ngôn ngữ đề cập đến kiến thức cơ bản của người nói-nghe về
ngôn ngữ, một hệ thống những quy luật và nguyên tắc tinh thần chi phối việc
hình thành và diễn giải những câu. Mặt khác, hiệu năng bao gồm việc dùng ngôn
ngữ thực sự trong những hoàn cảnh thực tại, có tính đến những yếu tố như giới
hạn về trí nhớ cá nhân và bối cảnh xã hội. Sự khác biệt này cho phép những nhà
ngôn ngữ học tập trung vào việc nghiên cứu hệ thống những quy luật trừu tượng
cấu thành kiến thức ngôn ngữ của chúng ta nhưng không bị sa lầy vào sự phức tạp
của việc dùng ngôn ngữ trong thế giới thực tại.
Quyển sách này biện luận cho ngữ
pháp phát sinh [26] như là khuôn khổ
tối ưu để phân tích ngôn ngữ. Ngữ pháp phát sinh dùng một hệ thống quy luật chính
thức để phát sinh ra những câu ngữ pháp của một ngôn ngữ, vượt ra ngoài mô tả
đơn thuần để cung cấp một hiểu biết sâu xa hơn về những nguyên tắc cơ bản chi
phối cấu trúc ngôn ngữ. Phương pháp tiếp cận này tìm cách khám phá những biểu
hiện và hoạt động tinh thần cho phép người nói tạo ra và hiểu những câu mới.
Khái niệm về cấu trúc sâu
minh họa thêm cho sự nhấn mạnh của quyển sách về quan hệ giữa cấu trúc ngôn ngữ
và ý nghĩa. Cấu trúc sâu đề cập đến biểu diễn cú pháp cơ bản của một câu, bao
hàm ý nghĩa cốt lõi của nó. Những cấu trúc sâu được chuyển đổi thành những câu
mà chúng ta thốt ra và nghe (cấu trúc ngoài mặt) thông qua một loạt những hoạt
động ngữ pháp được gọi là chuyển đổi. Bằng cách làm nổi bật vai trò của cấu
trúc sâu, Chomsky thách thức quan điểm đơn giản cho rằng ý nghĩa chỉ được xác
định bởi sự sắp xếp những từ trong một câu. Ông khẳng định rằng cấu trúc cú
pháp cơ bản đóng vai trò tích cực trong việc định hình cách chúng ta diễn giải
những câu.
Ý tưởng của Chomsky thách thức
quan niệm truyền thống cho rằng tư tưởng hiện hữu độc lập với ngôn ngữ và ngôn
ngữ chỉ đơn giản phản ảnh những suy nghĩ đã hiện hữu từ trước. Thay vào đó, ông
nêu lên rằng ngôn ngữ và tư tưởng có liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó ngôn
ngữ ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của chúng ta và định hình cách chúng ta
nhận thức, khái niệm hóa và tác động qua lại với thế giới.
Trọng tâm của quyển sách về cơ
sở sinh học của ngôn ngữ đã gây hứng khởi cho sự phát triển của quan điểm
sinh-ngôn ngữ học. Quan điểm này định vị ngôn ngữ là sản phẩm của bộ não con
người và tìm cách tổng hợp những khám phá từ ngôn ngữ học, khoa học thần kinh
và sinh học tiến hóa để làm sáng tỏ nền tảng sinh học của ngôn ngữ. Phương pháp
nghiên cứu giải quyết này phù hợp với triết học duy lý của thế kỷ 17 và 18, coi
ngôn ngữ là sự phản ảnh những đặc tính bẩm sinh của não thức con người.
Language and Mind đã gây những tranh luận sôi nổi và thúc đẩy những hướng nghiên cứu mới
về ngôn ngữ học, tâm lý học và triết học về não thức. Những ý tưởng khai phá của
Chomsky đã biến đổi lĩnh vực ngôn ngữ học và tiếp tục ảnh hưởng quan trọng đến
sự hiểu biết của chúng ta về ngôn ngữ và nhận thức.
B.
Những lập luận chính trong Language
and Mind:
1. Ngôn ngữ của con người là một hệ thống độc đáo và phức tạp không
thể giải thích bằng những lý thuyết hành vi hoặc cấu trúc đơn giản. Để hiểu
ngôn ngữ, chúng ta phải nghiên cứu hệ thống nhận thức cơ bản hoặc năng lực ngôn
ngữ, cho phép người nói tạo ra và hiểu một số lượng không giới hạn những phát
ngôn mới. Năng lực ngôn ngữ này khác về mặt tính chất so với bất kỳ gì khác có
thể giải thích được theo những khái niệm về tâm lý học kích thích-phản ứng hoặc
lý thuyết toán học về truyền thông..
2. Nghiên cứu về ngôn ngữ có thể cung cấp những hiểu biết sâu
xa về bản chất của não thức con người. Tác giả lập luận rằng những nhà triết
học duy lý của thế kỷ 17 và 18, như Descartes, đã đúng khi tin rằng ngôn ngữ là
một hệ thống sáng tạo và được quản lý theo quy luật, phản ảnh những đặc tính
bẩm sinh của não thức con người. Nghiên cứu về cấu trúc ngôn ngữ, đặc biệt là
ngữ pháp phát sinh, có thể vén mở lên cho thấy những nguyên tắc cơ bản chi phối
suy nghĩ và hành vi của con người.
3. Ngữ pháp phổ quát (UG): Có một ngữ pháp phổ quát
(UG) làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ của con người. UG này cung cấp một
khuôn khổ cho những ngữ pháp có thể có của những ngôn ngữ của con người và là
sự phản ảnh của khả năng ngôn ngữ bẩm sinh của con người. Bằng chứng về sự hiện
hữu của UG xuất phát từ việc nghiên cứu nhiều loại ngôn ngữ và nghiên cứu về
tiến trình tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ em. Khái niệm UG đã được khám phá từ thế kỷ
17 trong truyền thống ngữ pháp triết học, nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản
chi phối cấu trúc của tất cả những ngôn ngữ.
4. Tiếp thu ngôn ngữ và UG: Nghiên cứu về tiếp thu ngôn
ngữ có thể cung cấp cái nhìn sâu xa về bản chất của UG. Vì trẻ em tiếp thu ngôn
ngữ nhanh chóng và dễ dàng mặc dù dữ liệu chúng tiếp xúc có hạn và không hoàn
hảo, chúng phải được trang bị một khả năng ngôn ngữ bẩm sinh hướng dẫn việc học
của chúng. Khả năng ngôn ngữ bẩm sinh này cung cấp một tập hợp những giả thuyết
về ngữ pháp có thể có của ngôn ngữ loài người, và nhiệm vụ của trẻ là chọn ngữ
pháp phù hợp nhất với dữ liệu chúng tiếp xúc.
5. Quan điểm sinh-ngôn ngữ học: Quan điểm sinh-ngôn ngữ
học cung cấp một khuôn khổ đầy hứa hẹn cho việc nghiên cứu ngôn ngữ như một
phần của sinh học con người. Quan điểm này xem ngôn ngữ là sản phẩm của bộ não
con người và tìm cách hiểu cách cấu trúc ngôn ngữ được định hình bởi những ràng
buộc sinh học của hệ thống nhận thức của con người. Quan điểm sinh-ngôn ngữ học
phù hợp với những phát hiện của khoa học thần kinh hiện đại và sinh học tiến
hóa.
C
Tương quan phức tạp giữa tư
tưởng và ngôn ngữ trong Language and Mind:
Đặc biệt, trong Language and Mind, Noam Chomsky thách thức quan niệm truyền thống cho rằng tư
tưởng có trước ngôn ngữ và ngôn ngữ chỉ là dụng cụ để diễn đạt những suy nghĩ
đã hiện hữu từ trước. Quan điểm thông thường này coi từ ngữ là nhãn đơn giản
cho những khái niệm được hình thành độc lập. Tuy nhiên, những lý thuyết của
Chomsky, đặc biệt là khái niệm Ngữ pháp phổ quát (UG) của ông, trình bày một
quan hệ phức tạp hơn giữa ngôn ngữ và tư tưởng, cho rằng ngôn ngữ thực sự định
hình nên chính tư tưởng. Sau đây là những lập luận chính:
1. Khả năng nhận thức và sự phát triển ngôn ngữ: Sự xuất hiện đột ngột của những khả năng nhận thức độc đáo của con người trùng với sự phát triển của ngôn ngữ. Tác giả của Language and Mind lập luận rằng sự xuất hiện của “năng lực con người” đối với tư tưởng sáng tạo, biểu diễn biểu tượng, toán học và những hoạt động xã hội phức tạp diễn ra cùng với sự phát triển của ngôn ngữ. Tương quan này cho thấy ngôn ngữ có thể là động lực thúc đẩy những tiến bộ về nhận thức này, thay vì chỉ là dụng cụ để diễn đạt chúng.
2. Ngữ nghĩa và hoạt động tinh thần: Ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ được đan xen với những hoạt động tinh thần vượt ra ngoài những tham chiếu đối tượng đơn giản. Ngay cả những đơn vị mang ý nghĩa cơ bản nhất trong ngôn ngữ cũng bao gồm những hoạt động và diễn giải tinh thần vượt ra ngoài những tham chiếu đối tượng đơn giản. Điều này cho thấy rằng ngôn ngữ không chỉ phản ánh những suy nghĩ đã có từ trước mà còn tích cực định hình sự hiểu biết của chúng ta về thế giới.
3. Sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích: Lập luận “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích” của Chomsky cho thấy một cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh ảnh hưởng đến tư tưởng. Lập luận này cho rằng trẻ em tiếp thu ngôn ngữ mặc dù tiếp xúc hạn chế với dữ liệu ngôn ngữ, cho thấy một khả năng ngôn ngữ bẩm sinh (UG) hướng dẫn việc học của chúng. Cấu trúc bẩm sinh này ngụ ý rằng ngôn ngữ không chỉ là sản phẩm của những trải nghiệm bên ngoài. Thay vào đó, nó bị ảnh hưởng bởi những khuôn khổ nhận thức đã có từ trước định hình nên khái niệm hóa và phân loại thế giới của chúng ta.
4. Cấu trúc sâu: Khái niệm “cấu trúc sâu” của Chomsky cho rằng những cấu trúc ngôn ngữ tác động đến ý nghĩa và cách diễn giải. Lý thuyết này cho rằng những cấu trúc cú pháp cơ bản của câu góp phần vào ý nghĩa của chúng. Điều này ngụ ý rằng ngôn ngữ không chỉ là một lớp bề ngoài để diễn đạt suy nghĩ. Những cấu trúc của nó chủ động định hình sự hiểu biết và cách diễn giải thông tin của chúng ta.
Những lập luận và quan sát này
nhấn mạnh rằng ngôn ngữ không phải là dụng cụ trung lập để diễn đạt suy nghĩ.
Nó tham gia tích cực vào việc định hình khả năng nhận thức của chúng ta và cách
chúng ta hiểu thế giới. Điều này trực tiếp thách thức quan điểm truyền thống
cho rằng suy nghĩ hoàn toàn có trước ngôn ngữ và ngôn ngữ chỉ phản ánh những
khái niệm tinh thần đã hiện hữu từ trước.
Những ý tưởng trình bày trong
Language and Mind đã tạo ra những tranh luận sâu rộng và thúc đẩy những hướng
nghiên cứu mới trong ngôn ngữ học, tâm lý học và triết học về não thức. Công
trình của Chomsky vẫn có ảnh hưởng lớn và tiếp tục định hình sự hiểu biết của
chúng ta về não thức con người và bản chất của ngôn ngữ.
LDB
Dec/2024
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Dịch từ Chomsky, Noam. Language and Mind. 3rd
ed., Massachusetts Institute of Technology, 2006.
Những chú thích trong ngoặc
vuông [... ] dịch theo nguyên bản.
Những chú thích khác, với
những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ tìm chữa sau. Tôi đặt trọng tâm trên diễn
dịch những khái niệm, luận thuyết trong tư tưởng, triết học của Chomsky
[2] Behavioural sciences
[3] [Chương 3, ghi chú 12. Joos đã
rõ ràng nhắc đến “truyền thống Boas”của thuyết
cấu trúc Mỹ, và đã chỉ đưa ra một vài bình luận, có phần khinh miệt, về thuyết
cấu trúc châu Âu. Tuy nhiên, những nhận xét của ông phần lớn cúng có thể được
áp dụng cho thuyết cấu trúc châu Âu với không thay đổ gì nhiều.]
Martin Joos (1907–1978) là một
nhà ngôn ngữ học người Mỹ có ảnh hưởng, nổi tiếng với công trình nghiên cứu về
ngôn ngữ học cấu trúc. Ông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của lý thuyết
ngôn ngữ học vào giữa thế kỷ 20. Joos đặc biệt được công nhận vì những đóng góp
của ông cho việc phân tích cấu trúc ngôn ngữ và ngữ âm, cũng như vì ông ủng hộ
ý tưởng rằng ngôn ngữ có thể được mô tả một cách khách quan dựa trên dữ liệu
quan sát được, vốn không cần dựa vào những mô hình lý thuyết có sẵn. Một trong
những tác phẩm đáng chú ý của ông là quyển Readings in Linguistics, xuất
bản năm 1957, do ông biên tập và trở thành một văn bản quan trọng trong nghiên
cứu ngôn ngữ học. Joos gắn liền với phương pháp nghiên cứu cấu trúc, nhấn mạnh
trên nghiên cứu ngôn ngữ một cách có hệ thống qua phân tích những thành phần
cấu thành của nó, như âm vị và hình thái, và sự sắp xếp của chúng trong một
ngôn ngữ. Công trình của ông phản ảnh những khuynh hướng rộng hơn trong ngôn
ngữ học vào thời điểm đó, tập trung vào nghiên cứu thực nghiệm về ngôn ngữ và
thường hạ thấp hay bác bỏ đòi hỏi về những khuôn khổ lý thuyết có trước.
[4] quality space: Trong nội dung
triết học của
Quine và khoa học hành vi, “không gian chất lượng” đề cập đến tập hợp những phẩm chất cảm giác hoặc
nhận thức mà một sinh vật có thể phát hiện và phân biệt trong môi trường của nó
[5] Biolinguistics: sinh-ngôn
ngữ học –
sinh học-ngôn
ngữ học là ngành nghiên cứu về những nền tảng sinh học của ngôn ngữ. Nó xem xét
ngôn ngữ được thể hiện trong não, phát triển ở cá nhân và có thể đã tiến hóa ở
loài người như thế nào. Lĩnh vực nghiên cứu này tìm hiểu những yếu tố bẩm sinh
di truyền, thần kinh và nhận thức cho phép con người tiếp nhận và dung ngôn ngữ,
thường dựa trên những hiểu biết sâu xa từ ngôn ngữ học, sinh học, tâm lý học và
khoa học nhận thức. Phương pháp nghiên cứu liên ngành này nhằm mục đích khám
phá những nguyên tắc phổ quát làm nền tảng cho mọi ngôn ngữ con người, phản ảnh
năng lực ngôn ngữ bẩm sinh, thường gắn liền với những lý thuyết ngữ học của
Noam Chomsky. Có thể coi sinh-ngôn ngữ học là kết hợp giữa sinh học và ngôn ngữ
học – do đó, tạm dịch là “sinh-ngôn ngữ học”(ngôn ngữ học về sinh học), hiểu
như một sự mở rộng của sinh học vào trong nghiên cứu ngôn ngữ.
[6] [Chương 1,
trang 8–9.]
[7] Đây
là những thí dụ quen thuộc của Chomsky – Chúng ta thường hiểu ngay những câu
nói trong giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ lưỡng theo ngữ pháp
của ngôn ngữ đó (dù là tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, v.v.), thì nhiều câu
thực ra lại khá mơ hồ, không rõ ràng như chúng ta tưởng. Khi nhìn kỹ, câu nói
có thể trở nên khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong những trường hợp
như vậy, chúng ta vẫn hiểu được ý của người nói mà không cần phân tích cú pháp
của câu từ theo ngôn ngữ thông thường bên ngoài (Chomsky gọi là ngôn ngữ-E).
Thay vào đó, chúng ta hiểu theo một cách tự nhiên, ngay tức thời, và Chomsky
cho rằng điều này là do ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ-I), xuất phát từ một ngữ
pháp phổ quát chung của con người.
[8] “vật
lý”= ở đây là vật chất – khái niệm truyền thống về vật chất hoặc bản chất vật
chất.
[9] Xem thêm – Lịch sử Triết học Duy Vật của Friedrich
Albert Lange, bản dịch của tôi – LDB – trên blog này
[10] [Để biết
những thí dụ và thảo luận, xem New Horizons in the Study of Language and
Mind / Những Chân Trời Mới Trong Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Và Não Thức của tôi
(Cambridge, 2000).]
[11] Hume nhận
ra rằng những phán đoán đạo đức – khả năng
đánh giá hành động, hành vi hoặc tình cảnh của chúng ta là “đúng” hay “sai” – là không
giới hạn về phạm vi, nghĩa là chúng không bị giới hạn trong một tập hợp những
tình cảnh hoặc nội dung cố định. Thay vào đó, con người có thể áp dụng lý luận
đạo đức vào vô số trường hợp mới và
khác lạ. Sự
linh hoạt này cho thấy rằng năng lực đạo đức của chúng ta không chỉ đơn thuần
được học từ môi trường hoặc những kinh nghiệm cụ thể mà
thay vào đó dựa trên những nguyên tắc tổng quát vốn có trong bản chất con người. Theo
thuật ngữ hiện đại, những nguyên tắc tổng quát này có
thể được hiểu là được xác định về mặt di truyền – được viết sẵn trong
chúng ta như một phần di sản tiến hóa của chúng ta. Điều này hàm ý rằng đạo
đức phát sinh từ những phương diện bẩm sinh của nhận thức con người, được hình
thành bởi sinh lý của chúng
ta, thay vì chỉ là kết quả của tiến trình học
tập về văn hóa hoặc môi trường.
[12] Juan
Huarte de San Juan, y sĩ và triết gia người Spain thế kỷ 16 nổi tiếng với công
trình nghiên cứu về bản chất trí thông minh của con người và quan hệ của nó với
cơ thể và não thức. Trong bối cảnh vấn đề của Huarte, nó liên quan đến thách thức
trong việc hiểu cách thức một số đặc điểm hoặc hành vi của con người, chẳng hạn
như phán đoán đạo đức, có thể được giải thích bằng những nguyên tắc hoặc khuynh
hướng vốn có, có thể là di truyền.
[13]
Ethology
[14] Human
a priori : con người tiên nghiệm – có cấu trúc nhận thức bẩm sinh
[15] [Konrad
Lorenz; chương 3, trang 83–84, bên dưới]
[16] Chúng
thiếu một cấu trúc có thể tách biệt rõ ràng.
[17] [Xem chương
3, trang 79–81 bên dưới.]
Abduction = tôi dịch là suy luận nắm bắt – xem bản tạm dịch của tôi trên blog này – Chúng ta là loài sinh vật nào?
[18] “theory
theory”conceptions. – “Lý thuyết về lý thuyết” thực sự là một
khái niệm về cách chúng ta hình thành lý thuyết, nhưng nó cụ thể hơn. Trong
khoa học nhận thức, “lý thuyết lý thuyết” đề cập đến ý tưởng rằng con người (kể
cả trẻ nhỏ) tìm hiểu về thế giới và tiếp thu kiến thức (như ngôn ngữ) bằng
cách xây dựng và thử nghiệm những lý thuyết tinh thần về cách mọi thứ hoạt
động, giống như những nhà khoa học làm.
[Những người ủng hộ những phương pháp nghiên cứu giải quyết này không
đồng ý, nhưng tôi tin rằng đó là một sự nhầm lẫn. Xem L. Antony và N. Hornstein
, Chomsky
and his Critics / Chomsky và
những phê bình ông (Blackwell, 2003), chương 10,
và phần trả lời.]
[19] problem of poverty of stimulus
[20] [trang. 47,
85f., bên dưới.]
[21] [Chomsky, Aspects of the Theory of
Syntax / Những phương diện của lý
thuyết cú pháp (Cambridge, Mass: MIT Press, 1965), tr. 59]
[22] the
format conception of linguistic theory: Quan niệm định dạng của lý thuyết ngôn ngữ”đề cập đến một phương pháp
nghiên cứu giải quyết cũ hơn được đặc trưng bởi phân tích ngôn ngữ có cấu trúc,
khô cứng. Khung này nhấn mạnh vào những quy luật cố định và nguyên tắc cấu
trúc, tập trung vào những cấu trúc được xác định trước và những tiến trình chi
tiết để phân tích ngôn ngữ. Nó không linh hoạt và không dễ dàng thích ứng với
sự phức tạp hoặc biến thể của ngôn ngữ. Nó nguồn gốc từ phong trào cấu trúc
luận đầu thế kỷ 20, phương pháp nghiên cứu giải quyết này được Ferdinand de
Saussure (1857–1913) định hình: Đặt nền móng cho thuyết cấu trúc, tập trung vào
ngôn ngữ như một hệ thống những ký hiệu và quan hệ cấu trúc. Leonard Bloomfield
(1887–1949): Thuyết cấu trúc tiên tiến của Mỹ với phân tích chặt chẽ, dựa trên
quy luật. Roman Jakobson (1896–1982): đóng góp cho ngôn ngữ học cấu trúc với
công trình nghiên cứu về ngữ âm và ngữ nghĩa của ông. Nikolai Trubetzkoy
(1890–1938): Nhấn mạnh những quan hệ cấu trúc giữa những âm vị trong Trường
phái Praha. Những học giả này đã phát triển một lý thuyết ngôn ngữ có cấu trúc
chặt chẽ và dạng thức, đóng vai trò trung tâm trong “quan niệm định dạng”.
[23] Principles and Parameters: Principles / Nguyên tắc”đề cập đến những quy luật hoặc hướng dẫn cơ
bản áp dụng cho tất cả những ngôn ngữ, trong khi Parameters/ cài đặt đề cập đến giá trị có thể
chọn lựa, thay đổi cho những cài đặt hoặc lựa chọn khác nhau giữa những ngôn
ngữ trong những quy luật đó.
[24] transformational-generative
grammar
[25] Syntactic
Structures (1957) This seminal work introduced the
concept of generative grammar and challenged behaviorist theories of language & Aspects
of the Theory of Syntax (1965): This book further
developed the theory of generative grammar, introducing the concepts of deep
structure and surface structure, which are key to Chomsky's theory of language
and its relationship to thought
[26] Đã có dịch là ngữ pháp tạo sinh (generative grammar) – những tôi nghĩ – như đã viết ở nơi khác - “phát” (generate) thì hợp với ý tác giả hơn là “tạo” > ngữ pháp phát sinh.
Trong nội dung của ngữ
pháp phát sinh,
từ ngữ “phát sinh
(generative” chỉ tiến trình một tập hợp những
quy luật chính thức xây dựng hoặc sinh ra tất cả những câu đúng ngữ pháp của một
ngôn ngữ. Những quy luật này không tạo ra những câu mới từ đầu nhưng chỉ định
cách những thành phần ngôn ngữ hiện có có thể được kết hợp để tạo thành những câu
hợp thức. Tiến trình này phản ảnh khả năng sáng tạo và phát sinh vốn có của
ngôn ngữ con người