(Language and Thought)
Noam Chomsky
Tôi nghĩ là có ích để mở rộng hiểu biết lịch sử của
chúng ta bằng xem xét “cuộc
cách mạng nhận thức đầu tiên”, lý thuyết Descartes về cơ thể và não thức, thay vì chỉ tập trung vào những ý tưởng của Frege sau này. Descartes đưa ra một giải thích
sơ lược của thế giới vật chất trong những từ
ngữ của “triết
học cơ học” [1]; về cơ bản, cái nhìn cho rằng mọi sự vật việc ảnh
hưởng lẫn nhau qua tiếp xúc.
Ông cố gắng cho thấy rằng trong những từ ngữ này, người ta có thể
giải thích mọi sự vật việc trong thế giới vô cơ cũng như phần lớn thế giới hữu
cơ, gồm mọi sự vật việc về thực vật và động vật cũng như phần lớn hoạt động của
con người, cho đến những yếu tố của cảm giác và nhận thức.
Trong
tiến trình phác lược này,
Descartes đã đặt những nền móng cho sinh lý học thần
kinh thời nay, cùng với những đóng góp khác. Ông cũng phá bỏ lý thuyết kinh
viện-mới [2] về nhận thức, lý thuyết cho rằng
cho rằng hình dạng của một vật thể được nhận thức, bằng cách nào đó đã tự cấy ghép
một cách thần bí vào não – rõ ràng là không phù hợp với triết lý cơ học. Lý thuyết thay thế Descartes gọi đến một loại của lý thuyết tính toán của não thức.
Một chuỗi của những sự
kiện vật lý, luôn luôn liên
quan chỉ với tiếp xúc
trực tiếp, kích thích võng mạc (bàn tay, v.v. ). và những nguồn
lực tính toán
bên trong tạo dựng một hình ảnh – chẳng hạn như một hình tam giác, hay những người đang đi trong
đám đông – trên cơ sở của những kích thích phân tán rải rác này [3]. Những đề nghị này có một hơi hướng giống với những lý thuyết ngày nay, và chúng đã tác động chủ yếu trong những lĩnh vực đã phát triển mạnh
mẽ trong sự hồi sinh của những khái niệm như vậy, từ những năm 1950: nhận thức thị
giác và ngôn
ngữ.
Nhưng
Descartes ghi nhận rằng
một số hiện tượng dường như không nằm trong lĩnh vực của triết học cơ học. Cụ thể, ông
biện luận,
không có vật thể nhân tạo nào
có thể thể hiện những thuộc tính thông thường của việc dùng
ngôn ngữ: sự kiện là là nó
không bị giới hạn về phạm vi,
không bị những
kích thích bên ngoài hay những trạng thái bên trong ấn định, không ngẫu nhiên nhưng nhất quán mạch lạc và thuận hợp với những hoàn cảnh dù hỗn loạn do chúng gây ra, gợi lên những
suy nghĩ vốn người nghe có thể đã diễn đạt theo cách tương tự – một tập hợp
những thuộc tính vốn chúng ta có thể gọi là “phương diện sáng tạo của việc dùng
ngôn ngữ”. Theo đó, một số nguyên tắc mới phải được viện dẫn; với phái Descartes, một thực thể thứ hai
vốn bản chất của nó là suy tưởng. Descartes cho rằng “sức mạnh nhận thức được
gọi một cách chính xác là não thức”, khi nó thể hiện phương diện
sáng tạo này, vì nó “hình thành những ý tưởng mới” hay “tham dự vào những ý tưởng đã được hình
thành”, ngoài kiểm soát của giác quan, tưởng tượng hay ký ức.
Sau đó, chúng ta gặp thách thức
trong việc xác định bản chất của res cogitans [4] này, và chúng ta phải đối mặt với
vấn đề thống nhất nảy sinh trong những ngành khoa học tự nhiên: chứng minh cách não thức và cơ thể tác động
lẫn nhau,
trong diễn đạt truyền thống. Phương pháp nghiên cứu giải quyết
mà chúng ta áp dụng về cơ bản là phương pháp nghiên cứu giải quyết của khoa học
tự nhiên, và dòng lý luận này vẫn nhất quán khi chúng ta chuyển từ những máy móc nhân tạo đã thu hút những nhà tư tưởng thế kỷ 17, sang những kỹ thuật nhân tạo đang gây những
câu hỏi và suy đoán tương tự trong trong khoa học ngày nay.
Chúng ta cũng có vấn đề của xác định – không biết một đối tượng khác có. một não
thức như của chúng ta hay không – Descartes và những người theo ông, đặc biệt là Geraud de Cordemoy ,
đã phác họa những thử nghiệm có thể dùng để trả lời câu
hỏi này, tập trung trên việc dùng
ngôn ngữ. Cordemoy biện luận rằng
“nếu một
sinh vật nào đó vượt qua những thí nghiệm khó khăn nhất, tôi có thể nghĩ ra để
kiểm tra xem liệu nó có thể biểu đạt và diễn giải những suy nghĩ mới
như tôi hay không, thì sẽ là “vô lý” nếu hoài nghi rằng nó có não thức giống
như tôi”. Lưu ý
rằng sự việc này là bình thường; thực hành khoa học đơn giản, phổ biến như thiết lập một phương pháp để
thử độ axit bằng giấy quỳ [5]: công việc là để xác định xem một trong những
thành phần thực của thế giới có hiện diện trong một trường hợp nhất định như tính axit, hay một não thức hay không; Thật đáng chú ý để so sánh những thử nghiệm Descartes về sự hiện hữu của những trí tuệ khác với sự phụ
thuộc hiện tại trên thử nghiệm Turing để xác định “duy nghiệm” liệu một cỗ máy có thể
thực hiện một số hành động thông minh nào đó hay không (chẳng hạn như chơi cờ-chess). Lại nữa, tôi nghĩ rằng có thể nói một
cách công bằng về một sự thoái
hóa về khái niệm
kể từ cuộc
cách mạng nhận thức trong thế kỷ
17, một sự thay đổi từ khoa học hợp lý (mặc dù không chính xác) sang một phương
pháp nghiên cứu giải quyết vốn xa lạ với những phương pháp hay
những quan tâm
của khoa học. [6]
Vấn đề tinh thần/thể xác truyền
thống thường bị hiểu sai trong việc làm sống dậy nó gần đây. Do đó, Herbert Simon lập
luận trong tự truyện của ông rằng một chương trình năm 1956 để chứng minh những định lý của toán mệnh đề lôgích (propositional calculus/phép tính lôgích) đã giải quyết được vấn đề về não
thức/cơ thể lâu đời, giải
thích một hệ thống gồm vật chất có thể có những thuộc tính của não thức như thế nào, bằng xem những ký hiệu như những mẫu thức vật chất. Tuy nhiên, khi đánh giá
thành tích, nó không nhắc đến đến vấn đề tinh thần/cơ thể truyền thống, cả
những phương diện vừa được nhắc đến hay những phương diện khác (chẳng hạn như
bản chất của ý thức).
Như đã biết, chương trình
Descartes đã sụp đổ chỉ trong một thế hệ. Ngày nay người ta
thường chế diễu nó như sự tin tưởng
rằng có “một con ma
trong cỗ máy”.
nhưng kết luận đó đã nhầm lẫn về những gì đã xảy ra. Đó là lý thuyết Descartes về cơ thể đã
sụp đổ; nhưng lý thuyết
về não thức, như nó vốn có, vẫn không bị ảnh hưởng. Newton đã chứng minh rằng
lý thuyết Descartes về thế giới vật chất thì thiếu sót trầm trọng, không thể
giải thích được cho hầu hết những
tính chất cơ bản nhất của chuyển động. Newton không nói gì về con ma trong cỗ máy; ông trừ tà cho cỗ máy, nhưng không cho con ma.
Newton
tìm thấy rằng
những vật thể
có những thuộc tính ma
quái bất ngờ; “tính chất huyền bí” của hành động của chúng ở khoảng cách xa, vượt lên trên khái niệm thông thường về vật thể
hay đối tượng vật chất.
Giống như nhiều nhà khoa học hàng đầu thời bấy giờ, Newton đã thấy rằng những kết quả này gây bất an, đáng lo ngại, đồng ý với những
người theo Descartes rằng “Thật không thể tưởng tượng được rằng Vật chất thô sơ
vô tri vô giác lại có thể, nếu không có sự Trung gian của một gì đó khác, vốn không phải là vật
chất, hoạt động và ảnh hưởng đến vật chất khác, nhưng không có sự tiếp xúc (trực tiếp)
với nhau”; ý
tưởng về hành động ở một khoảng
cách xa, qua chân
không, là “một
sự Phi lý lớn đến mức tôi tin rằng không một Người nào nếu có khả năng suy nghĩ về những vấn đề triết học lại có thể rơi vào trong đó”.
Newton đã kết luận rằng chúng ta phải chấp
nhận rằng lực thu hút suy nghĩ phổ quát tồn tại, ngay cả khi chúng ta không thể
giải thích nó bằng những khái niệm
của triết học cơ học, vốn được coi là hiển nhiên và không thể nghi ngờ.. Trong
khi “Newton dường như vén bức màn lên khỏi một số những bí ẩn của tự nhiên”, Hume viết
trong Lịch sử nước Anh , “ông đồng thời đã chỉ ra những khiếm khuyết của
triết học cơ học, và qua đó, đã
trả lại những bí ẩn cuối cùng của tự nhiên về lại sự tối tăm, nơi chúng đã ở trong đó và sẽ mãi mãi còn ở trong đó”. Như nhiều nhà bình luận đã nhận
xét, động tác trí thức này “đặt ra một cái nhìn mới của khoa học”, trong đó mục tiêu “không
là tìm những giải thích cuối cùng” nhưng là tìm cách giải thích lý thuyết
tốt nhất vốn chúng ta có thể có về những hiện tượng của kinh nghiệm và thí nghiệm
(Bernard Cohen). Từ đó trở đi,
sự phù hợp với kiến thức thực tiễn thông thường sẽ bị gạt qua bên, như một tiêu chuẩn cho sự tìm hiểu duy lý. Nếu việc nghiên
cứu tính chất huyền bí của Newton có dẫn tới việc đưa ra định đề về
không-thời gian
cong, thì cứ chấp nhận là thế, dù cho kiến thức thực tiễn thông thường
có thể bị xúc
phạm đến đâu đi nữa.
Những
động tác này cũng
tước đi của chúng ta bất kỳ khái niệm tất định nào về cơ thể hay vật chất.
Thế giới là những gì nó vốn có, với bất
kỳ những thuộc
tính kỳ lạ nào vốn nó có,
gồm cả những thuộc tính trước đây được gọi là “tinh thần”. Những khái niệm như “thuyết
vật lý” hay “thuyết
duy vật loại trừ” [7] không còn ý nghĩa rõ ràng nữa.
Thuyết nhị nguyên siêu hình trở nên không thể phát biểu rõ ràng được, cũng như quan điểm cho rằng
“những giải thích triết học về não thức, kiến thức, ngôn ngữ của chúng ta cuối
cùng phải liên tục và hài hòa với những khoa học tự nhiên” (Daniel Dennett),
một quan điểm vốn T.R. Baldwin gọi (tán thành) “thuyết
tự nhiên siêu hình” [8]. Không có vị trí nào trong số
này có thể được định nghĩa rõ ràng nếu không chỉ rõ “thế giới vật chất” là gì, được khoa học tự nhiên
nghiên cứu. Nhưng “thế giới vật chất”chính xác là gì? Nó chắc chắn không phải
là những gì được gọi là “vật lý học” cách đây một thế kỷ, hay ngay cả ngày hôm qua, và nó có thể không
bao giờ có một định nghĩa cố định.
Chúng ta
tìm kiếm để mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và để hợp nhất những gì chúng ta tìm thấy với
những khoa học tự nhiên nền tảng trong một cách thức nào đó, có lẽ sửa đổi chúng khi tiến hành tiến trình tìm hiểu. Những ý tưởng
mang lại kiến thức và thấu hiểu trực giác sâu xa được cho là hợp lý, phần của sự thật được
cho là về thế giới, tiêu chuẩn của chúng
ta về tính
hợp lý và tính dễ hiểu cũng
có thể phát triển và cải thiện khi hiểu biết của chúng ta tăng lên. Nếu con người có “những thuộc tính ma quái” ngoài những thuộc tính chung cho tất cả vật chất,
thì đó là một sự kiện về thế
giới, vốn chúng ta
phải cố gắng để hiểu
trong phương cách của
khoa học, tức là, bằng thăm dò duy lý trong cách duy nhất chúng ta biết.
Tương tự như vậy, nếu kết quả của hóa học thế kỷ 19 không thể được làm cho phù hợp
với vật lý
học ngày nay, thì thật vô lý khi bác bỏ bảng tuần hoàn, hóa trị, lý thuyết về
phân tử hữu cơ, v.v., trên cơ sở này; cũng không kém phần phi lý khi bác bỏ kết
luận rằng những thuộc tính đáng
chú ý về hình thức và ý nghĩa trong ngôn ngữ tự nhiên được giải thích bằng
những tiến trình
tính toán, thường theo những cách khá xa rộng, trên những nền tảng rằng sinh học ngày nay không đưa ra những cơ sở rõ ràng nào cho những kết
luận này. Về phần sự phân biệt
não thức / cơ thể,
nó không thể được trình bày theo bất kỳ cách nào giống như cách thức của
Descartes; hay bất kỳ cách nào khác, theo như tôi thấy, ngoại trừ như một
phương tiện về từ ngữ để
phân biệt những phương diện khác nhau của thế giới tự nhiên.
Ở điểm
này, chúng ta có thể chuyển sang một phê bình tiêu chuẩn với mô hình Frege vì
sự thừa nhận
thuyết Plato của nó, vốn được coi là vi phạm những điều kiện của thuyết tự
nhiên siêu hình. Như Baldwin phát biểu lời phê bình,
“giả thuyết của Frege không “liên tục
với” [9] những giả thuyết được khoa học tự nhiên đưa ra”.
Lý do nằm trong giả thuyết của Frege rằng việc
nắm giữ một ý nghĩ…
là một
tiến trình vốn nó diễn ra
trong chính những giam hãm của tinh
thần và vì lý do đó, nó không
thể hiểu được hoàn toàn từ quan điểm tâm lý thuần túy. Vì trong việc nắm giữ quy luật, một gì đó hiện
ra trong cái nhìn vốn bản
chất của nó thôi không còn
là tinh thần theo đúng nghĩa, đó là suy nghĩ; và tiến trình này thì có lẽ là bí ẩn nhất của tất cả.
Baldwin
đồng ý, quan điểm của Frege mâu thuẫn với học thuyết cho rằng “tất cả những lực
cơ bản đều là vật chất” bằng
cách đưa lên một suy
nghĩ vốn là độc lập khách
quan nhưng không phải vật chất, và bằng việc thừa nhận một tiến trình “nắm giữ
một suy nghĩ” không thể kết hợp được trong những khoa học tự nhiên. Phê bình
rằng “thuyết tự nhiên siêu hình” là một học thuyết dễ hiểu, dựa trên một số
giới hạn về lĩnh vực “vật lý” loại trừ “những suy nghĩ” của Frege trên nguyên
tắc, nhưng gồm những đối tượng toán học “đẩy nhau”, những hạt không có khối
lượng, không-thời gian
cong, chuỗi một chiều vô hạn trong không gian 10 chiều; và bất cứ gì sẽ được
tạo ra vào ngày mai. Nhưng cho đến khi sự phân định được giải thích, chúng
ta không thể hiểu được sự phê bình. Ít nhất, là tôi không thể.
Mặc dù
thuyết tự nhiên siêu hình dường như không thể hình thành như công
thức được,
nhưng chúng ta có thể hình thành một loại thuyết tự nhiên về phương pháp
luận, vốn nó chủ trương rằng
nghiên cứu về não thức là một điều tra vào trong những
phương diện nhất định của thế giới tự nhiên, gồm những gì vốn truyền thống đã gọi là những sự kiện tiến trình
và trạng thái tinh
thần, và rằng chúng ta nên tìm hiểu những
phương diện này của thế giới giống như chúng ta tìm hiểu bất kỳ những phương diện nào khác, sau khi cố gắng xây dựng những lý thuyết
dễ hiểu có thể giải
thích được, để đem
cho cái nhìn trực giác sâu xa và
sự hiểu biết về những hiện tượng vốn đã lựa chọn để thúc đẩy tiến bộ việc tìm kiếm những nguyên tắc
sâu xa hơn. Chúng ta không giả định có một phân chia
siêu hình khi nói về những sự kiện, tiến trình và trạng thái hóa học, và điều
tương tự như thế cũng đúng
trong lĩnh vực của tinh
thần, nếu chúng ta mượn những từ ngữ truyền thống cho mục đích mô tả. “Phương
pháp nghiên cứu giải quyết theo thuyết tự nhiên” này sẽ hướng tới sự hợp nhất cuối cùng với những ngành khoa
học tự nhiên cốt lõi, nhưng liệu điều đó có thể làm được về nguyên tắc, hay với trí thông minh của con
người hay không, là một câu hỏi thực tế chứ không phải giáo điều. Phương pháp
nghiên cứu giải quyết này – từ nay trở đi tôi sẽ gọi là “thuyết tự nhiên” – nên
được chấp nhận rộng rãi, không phải tranh luận hay có bất đồng, mặc dù phạm vi của nó
vẫn chưa được xác định.
Rõ ràng,
một phương
pháp nghiên cứu giải quyết như vậy không loại trừ những cách khác của việc cố gắng để thấu hiểu thế giới. Một người nào đó
cam kết với nó (như tôi)
có thể trước sau tin tưởng
(như tôi) rằng chúng ta học được nhiều điều thú vị hơn về cách người ta suy nghĩ, cảm nhận và hành động
như thế nào, bằng đọc
tiểu thuyết hay nghiên cứu lịch sử hơn là từ tất cả tâm lý học tự nhiên, và có
lẽ mãi mãi sẽ như
vậy; tương tự như vậy, nghệ thuật có thể đem cho một
cách thức thâm cảm về vẻ đẹp và
sự kỳ diệu của bầu trời vốn vật lý
thiên văn không thể dem cho được. Ở
đây chúng ta đang nói về sự hiểu biết lý thuyết, một phương thức hiểu biết cụ
thể. Trong lĩnh vực này, bất kỳ sự chệch hướng nào khỏi phương pháp nghiên cứu
giải quyết tự nhiên đều mang lấy một gánh nặng của biện minh. Có lẽ , có thể đưa ra một lý do, nhưng
tôi không biết có lý do
nào. Sự chệch hướng khỏi phương pháp nghiên cứu giải quyết tự nhiên này không
phải là hiếm, gồm, theo tôi, nhiều công trình suy tưởng và cân nhắc kỹ lưỡng nhất trong
triết học ngôn ngữ và não thức, một
thực tế đáng để suy nghĩ, nếu đúng.
Một phương
pháp nghiên cứu giải quyết theo chủ nghĩa tự nhiên sẽ giả định rằng giống như những hệ thống
phức tạp khác, bộ óc con người có thể được nhìn, trong một cách
hữu ích, như một
kết tập của những thành
phần con hỗ tương, có
thể được nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau: atom, tế bào, cụm tế bào, mạng nơ-ron,
hệ thống tính toán, như ban
đầu được những người theo Descartes khai mở trước, v.v.. Chúng ta không thể biết
trước phương pháp nghiên cứu giải quyết nào (nếu có) trong số những phương pháp
nghiên cứu giải quyết này sẽ đem cho một hiểu
biết trực giác sâu xa và
hiểu biết toàn diện, có hệ thống. Trong một số lĩnh vực, gồm ngôn ngữ, những phương pháp nghiên cứu giải quyết
tính toán hiện có tuyên xưng mạnh mẽ
nhất về vị thế khoa học, ít nhất là trên những cơ sở tự nhiên.
Chúng ta
có thể hỏi liệu một nghiên cứu về bộ óc dùng những khái
niệm, khuôn khổ hay phương pháp giải quyết cụ thể như thế, thì có là không đúng đắn hay gây tranh luận hay
không. Nếu không, chúng ta sẽ hỏi liệu những lý thuyết được phát triển có đúng
hay không. Trong thực tế, bộ óc có kiến trúc, những hệ thống phụ/con, những trạng thái, những thuộc tính như được mô tả trong một lý thuyết cụ
thể nào đó không ? Với câu hỏi đầu tiên,
hầu như không có gì phải bàn cãi khi cho rằng bộ óc, giống như những hệ thống
phức tạp khác, có những hệ thống con với những trạng thái và thuộc tính. Những
thuộc tính được gán cho trong
những lý thuyết tính toán nhìn chung đã được hiểu rõ. Dường như không có vấn đề
khái niệm tổng quát nào nảy
sinh, chỉ có những câu hỏi về sự thật, câu hỏi thứ hai vốn chúng ta có thể tạm đặt sang một bên ở đây.
Người ta
thường cố gắng xoa dịu sự lo
ngại về những
phương pháp dựa trên cômputơ, bằng viện dẫn những mô hình
cômputơ để cho thấy rằng chúng ta có những trường hợp vững mạnh, thực dụng dựa
trên thực tại, [10]: sau đó tâm lý học nghiên cứu
những vấn đề phần mềm. Đó là một động thái đáng ngờ. Những đối tượng nhân tạo đặt ra đủ loại câu hỏi không nảy
sinh trong trường hợp những vật thể tự nhiên. Việc một đối tượng nào đó là một chiếc chìa khóa,
một cái bàn hay một máy cômputơ
đều phụ thuộc vào mục đích của người thiết kế, cách dùng tiêu chuẩn, phương
thức diễn giải, v.v. Những cân nhắc tương tự cũng nảy sinh khi chúng ta hỏi
liệu thiết bị có bị trục trặc hay không, có tuân theo một quy luật nào không, v.v. Không có trường
hợp tự nhiên điển hình, hay
trường hợp chuẩn mực thông
thường nào. Sự khác biệt giữa phần cứng – phần mềm là vấn đề diễn giải, không
chỉ đơn giản là cấu trúc vật lý, mặc dù với những giả định sâu hơn về mục đích,
thiết kế và cách dùng, chúng ta có thể làm nó rõ hơn. Những câu hỏi như vậy
không nảy sinh khi nghiên cứu những phân tử hữu cơ, loài Giun tròn, khả năng ngôn ngữ hay những đối
tượng tự nhiên khác, được xem (trong phạm vi chúng ta có thể có được quan điểm
này) như những gì chúng là, chứ không trong một không gian
rất phức tạp và luôn thay đổi của những lợi ích
và những quan tâm của con
người. Tin tưởng rằng có một vấn đề cần giải quyết, ngoài những vấn đề thông
thường, phản ảnh một sự rời bỏ thuyết tự nhiên một cách không chính đáng; giải
pháp được đưa ra sẽ đưa chúng ta từ một chiếc chảo rán có thể trông chừng khi
nấu nướng được, đến một ngọn lửa bùng ngoài tầm kiểm soát. [11]
Một cách
tự nhiên, chúng ta muốn giải quyết vấn đề thống nhất, tức là liên hệ những
nghiên cứu về bộ óc đã được thực hiện
ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi sự thống nhất sẽ mang tính giản lược, như khi
phần lớn sinh học được kết hợp trong phạm vi hoạt động sinh-hóa học đã biết; đôi khi nó có thể đòi
hỏi sự sửa đổi căn bản của bộ ngành “nền tảng” hơn, như khi vật lý đã “mở rộng” trong lý thuyết quantum
mới, cho nó khả năng giải
thích những thuộc tính đã được những nhà hóa học khám phá và giải thích. Chúng
ta không thể biết trước sự thống nhất sẽ diễn ra theo hướng nào, liệu nó có
thành công hay không.
Nếu có
những trả lời cho những câu hỏi chúng ta nêu ra thì không có gì bảo đảm rằng
chúng ta có thể tìm thấy chúng; hay rằng chúng ta có khả năng đặt đúng những câu
hỏi ngay từ đầu. Bất kỳ
sinh vật nào cũng có những cách nhất định để nhận thức và giải thích thế giới,
một “Umwelt” hay “không gian nhận thức” nhất định, được xác định phần lớn bởi bản chất cụ thể của nó và bởi những thuộc
tính tổng quát của những hệ thống sinh học. Với một sinh
vật có hệ thống nhận thức đặc biệt, chúng ta có thể xác định một phân loại của “những hoàn cảnh có vấn đề” vốn nó có thể thấy chính mình
trong đó: một
loạt những hoàn cảnh vốn nó
nhận thức và diễn giải theo một cách nhất định nhờ vào bản chất, lịch sử trước
đó của nó, gồm (với con người) những câu hỏi được đặt ra cũng như tin tưởng và
sự hiểu biết nền tảng được áp dụng cho
chúng, và ngay cả cả những hoàn cảnh có vấn đề. được xây dựng trên cơ sở những cân nhắc dựa trên lý thuyết và được
nghiên cứu giải quyết với một mức độ tự
nhận thức – hoạt động
vốn chúng ta gọi là “khoa học”. Một số hoàn cảnh có vấn đề nằm trong khả năng
nhận thức của động vật, một số khác
thì không. Chúng ta hãy gọi chúng lần lượt là những “vấn
đề” và “bí ẩn”. Những khái niệm này có liên quan đến một sinh vật: những gì bí ẩn với chuột có thể chỉ là khó khăn với con khỉ và ngược lại. Với một con
chuột, “mê cung số nguyên tố” (rẽ phải ở mọi điểm chọn theo những nguyên tố), hay ngay cả những mê
cung đơn giản hơn nhiều, là một bí ẩn vĩnh viễn; con chuột không có khả năng nhận thức để giải quyết nó, mặc dù con người thì có thể. Ngược lại, một mê cung
xuyên tâm (trục trung tâm và một số lối ra như nan hoa của bánh xe) đặt ra một bài toán vốn một con chuột có thể giải
quyết khá tốt. Những khác biệt
không cần phải là tuyệt đối, nhưng chúng khó có thể
là không
thực.
Nếu con
người là một phần của thế giới tự nhiên, không phải những thiên thần, thì điều
đó cũng đúng với họ: có những vấn đề vốn chúng ta có thể hy vọng giải quyết
được và những bí ẩn sẽ mãi mãi nằm ngoài tầm nhận thức của chúng ta. Là những
sinh vật có suy ngẫm [12], chúng ta rất có thể tìm kiếm những giải pháp cho những bí ẩn, nhưng luôn luôn thất bại. Ngay
cả có thể nảy sinh một ngành học dành riêng cho công việc này, tách khỏi khoa học tự nhiên
khi chúng ngày càng trở nên tự ý thức và tập trung vào những vấn đề. Trong tác
phẩm sắp xuất bản, Colin McGinn
nêu lên rằng thực
sự có một môn học như vậy: triết học, cân nhắc về những câu hỏi vốn hiện ra có chiều sâu và “khó khăn” đặc biệt, là những bí ẩn-với-con người. Những câu hỏi triết
học khi đó sẽ là “những bí ẩn-thành hình được” (với con người). [13]
Chúng ta
có thể nghĩ về khoa học tự nhiên như một loại của hội tụ tình cờ giữa những phương
diện của thế giới tự nhiên và những thuộc tính của não thức/bộ óc con người, đã
cho phép một số tia sáng xuyên qua bóng tối tổng quát; sự hội tụ ngẫu nhiên,
trong đó không có gì trong tự nhiên đã “thiết kế” chúng ta để đối phó với những
tình thế khó khăn vốn chúng ta phải đối mặt và đôi khi có thể hình thành.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
mechanical
philosophy = science , trong nội dung
trên (Phương pháp nghiên cứu giải quyết của Descartes là nền tảng cho sự phát
triển của tư tưởng khoa học hiện đại. Nỗ lực giải thích những hiện tượng tự
nhiên qua những tác động cơ học của ông đã đặt nền tảng cho những phương pháp
thực nghiệm và cơ học, đặc trưng cho khoa học ngày nay. Một đại
diện nổi bật của thuyết tự nhiên
siêu hình là Daniel Dennett
(1942-2024): nhà triết học và nhà khoa học nhận thức nổi tiếng,
người Mỹ. Ông cho rằng những lý thuyết triết học về não thức, tâm trí, kiến thức và ngôn ngữ phải liên tục và hài hòa
với khoa học tự nhiên. Công trình của ông thường nhấn mạnh sự quan trọng của việc giải thích những hiện tượng tinh thần theo những tiến trình vật
lý và thuyết tiến hóa.
[2] neo-scholastic
[3] Nói đơn giản, “computational /tính toán” chỉ việc dùng những
tiến trình tương
tự như trong cômputơ.
Nó gồm việc dùng những phương pháp từng bước một, và algorithm để tiến hành
giải quyết dữ liệu thông
tin.
[4]
res cogitans = chất tư
tưởng/ chất suy nghĩ. Những khái niệm về res
cogitans (chất tư tưởng) và res extensa (chất mở rộng) do René
Descartes giới thiệu đã được Baruch Spinoza tiếp thu trong tác phẩm Ethics
của ông. Trong Ethics, Spinoza diễn giải lại những khái niệm nhị nguyên
Descartes này trong khuôn khổ nhất nguyên của riêng ông. Trong khi Descartes duy trì thuyết nhị nguyên giữa
não thức (res
cogitans) và cơ thể (res extensa), Spinoza lập luận cho một thực thể duy nhất, gồm cả tư tưởng và sự mở rộng. Theo Spinoza, chỉ có
một thực thể, nhưng ông xác định là Gót hoặc
Thiên nhiên, và thực thể này có vô số thuộc tính. Con người chỉ nhận thức được
hai trong số những thuộc tính này: tư tưởng và sự mở rộng. Chủ nghĩa nhất nguyên (monism ) của Spinoza cho rằng não thức(tư tưởng) và cơ thể
(sự mở rộng) là hai phương diện của cùng một thực tại cơ bản. Chúng không phải là
những thực thể riêng biệt và cũng không phải là sự mở rộng của thực thể kia;
thay vào đó, chúng là những biểu hiện khác nhau của cùng một thực thể duy nhất. Quan điểm này là một dạng nhất nguyên siêu hình,
trái ngược hẳn với thuyết nhị nguyên Descartes.
[5] litmus test: phép thử tính axit hoặc
tính kiềm bằng giấy quỳ.
[6] sự thoái lui: chỉ
sự chuyển dịch từ những phương pháp triết học, toàn diện (như thử nghiệm của
Descartes) thăm dò sâu
trong bản
chất của một não thức,
sang những thử
nghiệm thực tiễn hơn,
dựa trên hiệu năng (như
thử nghiệm Turing), chỉ
tập trung vào hành vi có thể quan sát được. Phê bình rằng thử nghiệm hiện đại ít
nghiêm ngặt hơn và không giải quyết những câu hỏi sâu xa hơn về những gì cấu thành một não
thức.
[7] physicalism & eliminative materialism (or
eliminativism)
[8]
metaphysical
naturalism: Thuyết tự nhiên siêu hình: quan điểm triết học cho rằng mọi hiện hữu đều là một phần của thế giới tự nhiên và có thể
được nghiên cứu và giải thích bằng khoa học tự nhiên. Theo quan điểm này, tất
cả những hiện
tượng, gồm những trạng
thái tinh thần, ý thức và kinh nghiệm
của con người, cuối cùng phải được hiểu theo những tiến =trình vật lý và quy luật tự nhiên, không cần viện
dẫn đến những giải
thích siêu nhiên.
[9]
không phù hợp hoặc không nằm trong khuôn khổ và nguyên tắc của khoa học tự
nhiên. Giả
thuyết của Frege liên quan đến sự hiện hữu của những
thực thể trừu tượng, phi vật lý (những suy nghĩ)
và một tiến trình “nắm bắt” những suy nghĩ này nhưng không thể giải thích hoặc
kết hợp được trong
những phương pháp luận và nguyên tắc của khoa học tự nhiên. Do đó, những ý
tưởng của ông được xem là không
liên tục với những lý thuyết khoa học, vốn đặt nền tảng trong thực tại vật chất và nghiên
cứu thực nghiệm. Sự không liên tục này là một điểm phê bình quan trọng vì nó cho thấy phương pháp nghiên cứu giải quyết
của Frege đưa vào những yếu tố
vốn đều khác biệt cơ bản
với loại giải thích của khoa học
tự nhiên.
[10] hard-headed
[11] từ một tình trạng khó khăn
nhưng có thể quản lý sang một tình trạng tồi tệ hơn nhiều và không thể kiểm
soát được
[12] “reflective beings”: con người biết suy nghĩ sâu xa về sự hiện hữu, bản chất của chính mình, và thế giới xung quanh.
[13] Colin McGinn. Problems
in Philosophy: The Limits of Inquiry, Blackwell (Cambridge, MA), 1993.