Tuesday, November 7, 2023

Russell – Thông điệp chính trị cuối cùng

Thông điệp chính trị cuối cùng của Bertrand Russell

về Palestine (1970)

Bertrand Russell

 

 

 




1.

Bertrand Russell mất ngày 2 tháng 2 năm 1970, thọ 98 tuổi. Hai ngày trước đó, ông đã soạn một thông điệp gửi tới Hội Nghị Quốc Tế Những Dân Biểu Quốc Hội, sắp họp ở Cairo, đương khi những không kích của Israel đang tiến sâu vào lãnh thổ Egypt. (Chiến tranh Tiêu hao giữa Israel-Egypt, 1967-1970, sau Chiến tranh Sáu ngày,1967). Thông điệp này của Russell đã được đọc trong hội nghị, sau khi ông đã mất một ngày trước đó (ở Wales, U.K). Trong thông điệp chính trị này, ông đã nhận xét rằng:

 

Bi kịch của người dân Palestine là đất nước của họ đã bị một thế lực ngoại bang “trao” cho một dân tộc khác để thành lập một nhà nước mới. Kết quả là hàng trăm ngàn người dân vô tội bị biến thành vô gia cư vĩnh viễn. Với mỗi xung đột mới, số lượng của họ lại tăng lên”.

 

Russell nói với nhiệt tình nhân đạo và khách quan chính trị trong sáng của ông. Hơn 50 năm đã trôi qua, thảm kịch bất công gây ra cho những người dân Palestine, như ông mô tả, vẫn tồn tại và ngày càng sâu dày hơn. Giờ đây, con số đau thương những người sống đày ải trên quê hương của chính họ đã tăng lên trăm vạn lần. Thảm họa Nakba,tên gọi thảm họa lịch sử của cướp đất, chết chóc và lưu vong của dân Palestine, từ lâu đã chuyển thành một thảm kịch diệt chủng được chế độ chế độ a-pac-thai Israel tiến hành khốc liệt trong những vùng Palestine chiếm đóng và phong tỏa, như đang diễn ra ở Gaza: Nhà Tù Ngoài Trời hay cũng gọi là Trại Cưỡng Bách Tập Trung Lộ Thiên lớn nhất thế giới hiện nay.

 

2.


Hơn 50 năm đã qua, từ thời điểm những phát biểu trên của Russell. Xung đột Palestine-Israel ngày càng trở nên tàn khốc, hủy diệt. Kể từ tháng 10 năm 2023, Tâm điểm của xung đột hiện nay tập trung vào những gì đang xảy ra ở Gaza. Sau cuộc đột kích bất ngờ thành công lớn của những chiến sĩ cảm tử kháng chiến Hamas, từ Gaza vào Israel, ngày 7/10/2023. Israel đã đáp trả bằng xiết chặt phong tỏa, kéo quân đến bao vây và bắn phá bằng những không kích, tên lửa và ném bom trong ba tuần liên tục đêm ngày. Sau đó, một chiến dịch quân sự trên bộ đã bắt đầu tiến vào Gaza, Israel thực hiện một sự trả thù tập thể và quy mô, tàn sát khủng khiếp nhằm vào dân cư Gaza. Những hình ảnh trong video quay từ drone này, chỉ cho thấy phần nào được sự tàn phá kinh hoàng ở Gaza – đặc biệt là ở Al-Zahraa, khu vực đông dân cư phía đông nam Thành phố Gaza. Những tàn tích còn sót lại của khu phố Alara giờ đây chỉ tồn tại dưới dạng những đống gạch, vữa, cát, đá, vỡ vụn… cốt sắt, bê tông bị phá hủy, không còn dấu hiệu nào của sự sống. Một hoang địa, không người –. Những cư dân ở đó mới tháng trước, trẻ già, nam, nữ, tật nguyền, tất cả đều hoặc đã bị chết, hay bị thương, hay đã chạy thoát khỏi chốn địa ngục khiếp đảm này, một biểu hiện của lòng cuồng hận thuần  thú tính dã man chưa từng thấy trong thời hiện đại. (Video của Mohamed El-Saife, Max Blumenthal thực hiện – Nov 29, 2023:

https://www.youtube.com/watch?v=k0pOaRsfxYc)

Lời dẫn của video:

“… Đây là những gì còn lại của khu phố Alara phía đông nam Thành phố Gaza. Đoạn phim quay bằng drone này cho bạn thấy nó trông như thế nào sau nhiều ngày bị Israel bắn phá, thả bom. Chắc chắn, đây chỉ là một phần nhỏ trong sự tàn phá Israel đã gây ra ở miền Bắc của Dải Gaza, nơi này có 1,1 triệu người sinh sống và khoảng 60.000 công trình nhà cửa dân cư đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc một phần, không có nơi nào để sống, không có nước chảy, không có điện thắp sáng, và không có bếp, lò sưởi khi mùa đông mưa lạnh đang đến gần. Quân đội Israel thề sẽ bắn bất cứ ai cố gắng trở về nhà, tuyên bố khu vực này là khu quân sự đóng kín.


Israel đã sát hại hơn 8.000 trẻ em và phụ nữ ở Gaza kể từ khi chiến tranh nổ ra ngày 7/10. Khi đoạn phim này quay được trong thời gian ngừng bắn tạm thời vào cuối tháng 11, Israel đã giết hại tổng cộng khoảng 15.000 thường dân. Hàng ngàn người khác đang chôn vùi dưới những đống đổ nát. Theo tờ New York Times, tỷ lệ tử vong trong cuộc tấn công này của Israel hiếm có tiền lệ nào xảy ra trong thế kỷ này, vì số dân thường đang bị giết với một tốc độ lịch sử. Iraq Body Count, một nhóm độc lập của Anh, tìm biết được rằng số trẻ em và phụ nữ được báo cáo thiệt mạng trong vòng chưa đầy hai tháng nhiều hơn con số 7.700 thường dân bị lực lượng Mỹ và Anh giết hại trong năm đầu tiên xâm lược Iraq 2003.

Tổ chức Giám sát Nhân quyền Euro-Med cũng cho biết rằng trong tuần xung đột đầu tiên, Israel đã giết chết 14 thường dân mỗi giờ, biến những vùng đất rộng lớn của Dải Gaza bị bao vây, thành những địa ngục không thể ở được. Bộ trưởng Di sản Israel Amihai Eliahu đã nói rằng một cách để đối phó với những người dân Gaza là giết tất cả họ bằng bom hạt nhân. Đến cuối tháng 11, Israel đã thả hơn 40.000 tấn chất nổ xuống Dải Gaza đông dân cư, nhiều hơn mức tương đương với một quả bom hạt nhân 20 kiloton.

Đoạn phim mà bạn nhìn thấy được thực hiện trong thời gian tạm ngừng bắn. Theo Politico, chính quyền Biden (US) có một số lo ngại về hậu quả không lường trước được của việc tạm dừng giao tranh – rằng nó sẽ cho phép những nhà báo tiếp cận rộng rãi hơn với Gaza, và có cơ hội làm sáng tỏ thêm sự tàn phá ở đó, và hướng dư luận (phản đối) về Israel. Cho đến nay, những nhà báo nước ngoài đã bị chặn quyền tiếp cận tự do vào Dải Gaza. Đoạn phim này được nhà báo Muhammad El-Saife độc quyền cung cấp cho The GrayZone. Xin (đừng quay mặt đi) Đừng nhìn đi chỗ khác.

 

Người dịch tiếng Việt 

 

 


Thông điệp cuối cùng của Bertrand Russell

về chiến tranh Palestine-Israel. [1]

Bertrand Russell







Phát biểu này về Trung Đông đã viết ngày 31 tháng 1 năm 1970 và đã đọc, trong một buổi họp của Hội nghị Quốc tế những dân biểu quốc hội, ở Cairo, Egypt, vào ngày 3 tháng 2, 1970.



Giai đoạn mới nhất của chiến tranh không tuyên bố ở Trung Đông dựa trên một tính toán sai lầm sâu xa. Những trận thả bom vào sâu trong lãnh thổ Egypt sẽ không thuyết phục được những người dân thường đầu hàng, nhưng sẽ củng cố sự quyết tâm kháng cự của họ. Đây là bài học của tất cả những cuộc oanh tạc từ trên không.

 

Người Việt Nam đã phải chịu đựng nhiều năm thả bom hạng nặng của US, họ đã đáp trả không bằng đầu hàng nhưng bằng bắn rơi thêm nhiều máy bay địch.[2] Năm 1940, đồng bào U.K. của tôi cũng đã chống lại những trận thả bom của Hitler với sự đoàn kết và quyết tâm chưa từng có. Vì lý do này, những tấn công hiện tại của Israel sẽ thất bại trong mục đích cơ bản của chúng, nhưng đồng thời chúng phải bị lên án mạnh mẽ trên toàn thế giới.

 

Sự phát triển của khủng hoảng ở Trung Đông vừa nguy hiểm, vừa đem cho những bài học về quan hệ quốc tế, động lực của quyền lực và chiến thuật vốn những đế quốc dùng trong chiến tranh thực dân xâm lược. Trong hơn 20 năm, Israel đã bành trướng bằng vũ lực chính trị và quân sự. Sau mỗi giai đoạn trong tiến trình bành trướng này, Israel đều đã kêu gọi “lý trí” và đã đề nghị “đàm phán”. Đây là vai trò truyền thống của quyền lực đế quốc, bởi vì nó mong muốn củng cố một cách ít khó khăn nhất những gì nó đã chiếm đoạt được bằng bạo lực. Mỗi chinh phục mới đều trở thành cơ sở mới cho đàm phán được đề nghị từ sức mạnh, bỏ qua sự bất công của xâm lược trước đó. Hành động xâm lược của Israel phải bị lên án, không chỉ vì không quốc gia nào có quyền sáp nhập lãnh thổ nước ngoài, nhưng vì mỗi bành trướng là một thí nghiệm để dò xem thế giới sẽ có thể nhẫn nại chịu đựng thêm sự xâm lược đến mức nào. [3]

 

Gần đây, nhà báo I.F. Stone của Washington đã mô tả những người tị nạn quanh Palestine với số lượng hàng trăm nghìn người như “cái cối đá đạo đức tròng quanh cổ những người Jew trên thế giới”. Nhiều người tị nạn hiện đã bước vào thập kỷ thứ ba của đời sống bấp bênh trong những khu định cư tạm thời. Bi kịch của người dân Palestine là đất nước của họ đã bị một thế lực ngoại bang “trao” cho một dân tộc khác để thành lập một Nhà nước mới. Kết quả là hàng trăm ngàn người dân vô tội bị biến thành vô gia cư vĩnh viễn. Với mỗi xung đột mới, số lượng của họ lại tăng lên. [4] Thế giới còn khoan dung và chịu đựng cảnh tượng tàn ác vô độ này bao lâu nữa? Rõ ràng là những người tị nạn có mọi quyền được trở về quê hương nơi họ bị đuổi ra khỏi đó, và việc từ chối quyền này là tâm điểm của xung đột đang tiếp diễn. Không một người dân nào trên thế giới chấp nhận bị trục xuất tập thể khỏi chính đất nước của họ; làm sao một ai có thể yêu cầu người dân Palestine phải chấp nhận một hình phạt vốn không ai khác có thể dung thứ được? Một sự định cư công bằng lâu dài trên quê hương của họ là một thành phần thiết yếu của bất kỳ chương trình định cư thực sự nào ở Trung Đông.

 

Chúng ta thường được khuyên rằng chúng ta phải thông cảm với Israel vì sự đau khổ của người Jew ở Europe, dưới bàn tay của Nazis. Tôi thấy trong ý nêu lên này không có lý do gì để kéo dài bất kỳ sự đau khổ nào. Những gì Israel đang làm ngày nay không thể tha thứ được, và viện dẫn những kinh hoàng trong quá khứ (của họ) để biện minh cho những kinh hoàng (của Palestine) trong hiện tại là đạo đức giả trắng trợn. Israel không chỉ buộc một số lượng lớn. những người tị nạn phải chịu khốn khổ; không chỉ nhiều người Ả Rập trong vùng đất chiếm đóng bị kết án tù đày dưới sự cai trị của quân đội; nhưng Israel cũng buộc những quốc gia Ả Rập khác, vốn chỉ mới thoát khỏi tình trạng thuộc địa gần đây, phải tiếp tục kéo dài tình trạng nghèo đói suy kém kinh tế, khi những nhu cầu quân sự chiếm ưu tiên trong sự phát triển quốc gia (của họ).

 

Tất cả những ai muốn chấm dứt sự đổ máu ở Trung Đông phải bảo đảm rằng bất kỳ giải pháp dàn xếp nào cũng không chứa đựng mầm mống của xung đột trong tương lai. Công lý đòi hỏi rằng bước đầu tiên hướng tới một giải pháp phải là một sự rút quân Israel khỏi tất cả những vùng lãnh thổ đã chiếm đóng vào tháng 6 năm 1967. Cần có một vận động mới trên thế giới, để giúp vào việc mang lại công lý cho dân chúng đang chịu đau khổ đã từ lâu ở Trung Đông. [5]

 

Bertrand Russell

Jan, 1970

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Nov/2023)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com




[1] Dịch từ Message to New York Session of the Russell Tribunal on Palestine – Bertrand Russell Peace Foundation – http://www.russfound.org/RToP/RToP%20BRPF%20Message.htm.

Toàn bài văn ở đây: https://www.connexions.org/CxLibrary/Docs/CX5576-RussellMidEast.htm

 


[2] Viết năm 1970, ở đây Russell nói về Chiến dịch Sấm Rền (Operation Rolling Thunder): chiến dịch thả bom của US xuống miền Bắc VN, kéo dài từ năm 1965 đến năm 1968. Một trong số những phi công US, sau nổi tiếng, đã bị bắn rơi trong chiến dịch này là John McCain. Cũng nhắc lại, sau đó là những trận thả bom khốc liệt hơn và thường được nhắc nhở nhiều hơn – như Chiến dịch Linebacker (Operation Linebacker, I & II). Linebacker II, nổi tiếng với tên gọi Christmas Bombing (Vụ thả bom ngày Giáng sinh), diễn ra vào Dec18-29, 1972, đặc biệt nhắm vào Hà Nội và Hải Phòng, bằng những đợt oanh tạc dữ dội từ trên không.

Những trận oanh tạc, nhằm đẩy miền Bắc Việt Nam “trở lại thời đồ đá” (bắt đầu mãnh liệt từ 1965) đã là một trong những yếu tố quan trọng, thúc đẩy Bertrand Russell (UK), và Jean-Paul Sartre (France), cùng với hỗ trợ của những nhà trí thức và hoạt động nhân quyền nổi tiếng khác trên thế giới (như Noam Chomsky (US).đi đến thành lập Tòa án Tội phạm Chiến tranh Quốc tế, còn gọi là Tòa án Russell (the International War Crimes Tribunal, hay The Russell Tribunal, hay Russell–Sartre Tribunal, hay Stockholm Tribunal). Bắt đầu với phiên tòa đầu tiên ở Stockholm vào năm 1966, Tòa án đã triệu tập ở nhiều thành phố khác nhau trên thế giới, gồm Roskilde (Denmark), Rome và Paris. Trong những phiên tòa này, những nhân chứng, chuyên gia và nạn nhân đã cung cấp lời khai và bằng chứng về tội ác chiến tranh ở Việt Nam, trình bày nhiều tài liệu và tường thuật của những nhân chứng trực tiếp về chiến tranh đang diễn ra ở Việt Nam. Tòa án kết luận US đã vi phạm luật pháp quốc tế và gây những tội ác chiến tranh, như dùng vũ khí hóa học (chất độc khai quang màu da cam), cố tình nhắm vào dân thường, thả bom xuống làng mạc và những mục tiêu phi quân sự, vi phạm luật nhân đạo quốc tế. Tòa án khẳng định những tội ác chiến tranh này của US trong Chiến tranh US-Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ oanh tạc miền Bắc Việt Nam.




[3] Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, diễn ra giữa Israel và những nước láng giềng Egypt, Jordan và Syria, dẫn đến sự “bành trướng bằng vũ lực chính trị và quân sự” của Israel với sự chiếm đóng những vùng lãnh thổ, gồm Bán đảo Sinai và Gaza (từ Egypt). West Bank Đông Jerusalem (từ Jordan), cũng như Cao nguyên Golan (từ Syria).

[4]

A.

Khủng hoảng của người tị nạn Palestine đã nổi lên sau Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, được người Palestine gọi là Nakba (tiếng Ả Rập: النكبة, > Nakbah: “thảm họa”), hay gọi rõ là Thảm họa của dân Palestine, là sự cưỡng bách di cư và cướp đất tập thể của chính quyền Israel với người Palestine bản địa, qua đó hủy hoại xã hội, văn hóa, bản sắc, tự chủ chính trị và khát vọng dân tộc của họ. Ngày nay Nakba biểu tượng cho bản sắc văn hóa và dân tộc, và ý thức tập thể về bản thân và lịch sử của những người Palestine. Nakba đã khiến hàng trăm nghìn người Palestine phải gánh chịu thảm họa mất đất đai nhà cửa, sau đó sống tị nạn và tù đày ngay trên chính quê hương của họ. Ước tính về số người tị nạn Palestine theo tài liệu rộng rãi công nhận cho thấy hàng trăm nghìn người đã buộc phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trong và sau xung đột năm 1948. Nhiều người đã chạy nạn, với hy vọng trở lại sau xung đột, hay hay bị trục xuất ra khỏi những vùng đất mới thành quốc gia Israel. Người Palestine hoặc phải di tản trong Palestine, đến West Bank và Gaza, hoặc đông đảo phải tị nạn tập thể ở những nước láng giềng, như Jordan, Lebanon và Syria. Ngoài ra, những người tị nạn đã thành lập những cộng đồng ở Egypt và những quốc gia khác, trên thế giới, tạo thành một tập thể Palestine hải ngoại rộng khắp, sau biến cố Nakba 1948.

UNRWA - Cơ quan Cứu trợ và Hoạt động Xã hội của UN dành cho Người tị nạn Palestine ở Cận Đông : thành lập năm 1949 để giải quyết những nhu cầu cấp thiết của hàng chục nghìn người tị nạn Palestine chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi nơi cư trú của họ trong chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948. Sự chạy loạn tập thể này - Nakba,- dẫn đến sự thành lập UNRWA vói nhiệm vụ cung cấp cứu trợ tức thời và hỗ trợ phát triển hoạt động nhân đạo lâu dài cho những người tị nạn Palestine.Những dịch vụ của UNRWA mở rộng tới 5,9 triệu người tị nạn Palestine cư trú ở nhiều khu vực khác nhau, gồm West Bank, Đông Jerusalem, Gaza, cũng như ở những nước lân cận Jordan, Lebanon và Syria, nơi đông đảo người tìm Palestine sinh sông sau thảm họa Nakba. UNRWA hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau để nhằm giảm bớt những khổ nạn chiến tranh vốn những người tị nạn Palestine gánh chịu cố gắng duy trì và phát triển những dịch vụ nhân đạo lâu dài – y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội – cho người tị nạn Palestine. Quyền hồi hương của những người tị nạn Palestine và con cháu của họ trở về vùng đất tổ tiên của họ trong những khu vực ngày nay là Israel và Palestine bị chiếm đóng, dược UN khẳng định nhưng Israel quyết liệt từ chối với lý do là nếu những người tị nạn Palestine được hồi hương sẽ làm suy yếu tính-Jew (của Ziônnít Israel) và khiến những người Jew mất đa số trong thành phần dân chúng Israel.

B.



Lịch sử của Palestine, gồm dải đất Gaza, và liên hệ củavới nhà nước Israel thì gắn buộc sâu chặt với hai ý hệ: Zionismchủ thuyết dân tộc phục quốc của người Jew, và chủ thuyết dân tộc tự chủ của người Ả Rập. Lịch sử Palestine, đã đánh dấu bằng những sự kiện và sách lược chính trị quan trọng. Ý hệ Ziônnít có gốc từ Đông và Trung Âu cuối thế kỷ 19, nhưng về nhiều mặt, nó là tiếp nối của sự gắn bó sẵn có từ lâu trước đó, của những người Jew theo đạo Juda với vùng đất lịch sử Palestine, thấy trong “Zion”, vốn là tên của Jerusalem thời cổ; biểu tượng cho khát vọng dân tộc của người Jew. Mục tiêu chính của ý hệ Zion-nít là thành lập và duy trì một nhà nước cho dân Jew ở Palestine, quê hương cổ xưa của họ (Eretz Yisraʾel, “Đất của Israel”). Như một một phong trào chính trị và tư tưởng chủ yếu trong những cộng đồng người Jew Europe, Ý hệ Ziônnít nổi lên như phản ứng với tư tưởng bài Jew (anti-semitism) và sự đàn áp công khai những cộng đồng người người Jew Europe. Mặt khác, chủ thuyết dân tộc Ả Rập là một phong trào chính trị để đoàn kết tất cả những dân tộc Ả Rập dựa trên ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa Islamchung. Những người theo chủ thuyết dân tộc Ả Rập nhìn ý hệ Ziônnít như một đe dọa với sự toàn vẹn lãnh thổ của thế giới Ả Rập.

 

Năm 1916 và Thế chiến thứ nhất đang bùng nổ lớn. Đế quốc Ottoman, sau 617 năm, và đang trên bờ vực sụp đổ. Người UK và người Pháp, tìm sự hỗ trợ của người Ả Rập chống lại đế quốc Ottoman, đã đưa ra những hứa hẹn về chủ quyền cho người Ả Rập với Bán đảo Ả Rập và vùng Trung đông. Người Ả Rập, chấp nhận hứa hẹn này với hy vọng, đã tham gia chiến đấu và đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh bại quân đội Ottoman. Tuy nhiên, khi chiến thắng mở ra, một cuộc họp bí mật giữa người UK và người Pháp đã tiết lộ Thỏa thuận Sykes-Picot, một kế hoạch chia phân cắt những vùng Ottoman đã chiếm giữ thành những khu vực ảnh hưởng của UK và Pháp. Theo sắp xếp này, Palestine, Jordan và miền Nam Iraq nằm dưới kiểm soát của Anh, trong khi miền đông nam Türkiye, miền bắc Iraq, Syria và Lebanon được dành cho Pháp. Việc tiết lộ thỏa thuận bí mật này đã gây thất vọng lớn cho người Ả Rập, khi thấy đã bị lừa dối. Họ đã tin rằng họ chiến đấu để lật đổ những người cai trị Islam không-Ả Rập (Türkiye), để rồi thấy chính họ lại phải chịu sự cai trị của những cường quốc thực dân KiEurope.

Trong một hành động bất ngờ năm 1917, nước UK công khai tuyên bố ý định thành lập một quê nhàcho người Jew ở Palestine (Tuyên bố Balfour,1917). Palestine, khi đó, chủ yếu gồm 90% người Palestine bản địa, đã được người UK bàn giao cho nhà nước của những người Ziônnít , phần lớn mới đến định cư từ Europe. Mặc dù dân số Jew ở Palestine chưa đến 10%, nhưng người UK đã tạo điều kiện cho việc nhập cư đáng kể từ Europe từ năm 1922 đến năm 1935, nâng dân số Jew lên 27%. Số đông này tăng thêm lo ngại của dân Palestine bản địa, dẫn đến những biểu tình phản đối chính quyền Anh. Người UK đề nghị phân chia Palestine, thậm chí còn dùng vũ lực để loại trừ những người Ả Rập, làm xung đột căng thẳng thêm trầm trọng. Người Palestine từ chối chấp nhận kế hoạch bất công này, nổi dậy chống lại người Anh, dẫn đến những đàn áp bạo động và khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Năm 1947, mệt mỏi vì xung đột không ngừng diễn ra, người UK đã nhường trách nhiệm quản trị Palestine cho UN. UN đề nghị một kế hoạch phân chia mới, giao 55% đất đai cho người Jew, mặc dù họ chỉ chiếm 1/3 dân số. Người Ả Rập cũng bác bỏ đề nghị này, nhưng những người Ziônnít đã tạm thời chấp nhận và đồng thời vẫn đòi thêm đất đai. Năm 1948, lực lượng dân quân Ziônnít đã chiếm giữ những làng mạc và thành phố của người Palestine, khiến hàng nghìn người bị mất nhà cửa, cùng ngày người UK chính thức rút lui. Tuyên bố thành lập nhà nước Israel mới, ngày 15 tháng 5 năm 1948, đánh dấu ngày Nakba, hay Thảm Họa, với người Palestine, biểu thị sự mất nước, cùng bản sắc và đất đai, làng mạc, quê nhà của họ. Sự thành lập của nhà nước Israel đã dẫn đến việc 1,9 triệu người Palestine phải di tản tập thể cưỡng bách, sau khi 530 ngôi làng của họ bị phá hủy và khoảng 15.000 người bị giết hại trong hàng loạt những xung đột vũ lực tàn bạo.


Xung đột giữa hai ý hệ tư tưởng này lên cao nhất với sự thiết lập của Nhà nước Israel năm 1948. Sự kiện nàymột quốc gia cho những Jew sau hơn 2.000 năm cho những người Jews ‘lang thang lưu lạc’, đã bùng nổ thành Chiến tranh Israel Ả Rập 1948. Kết thúc,. Hơn 700.000 người Palestine đã rời bỏ hoặc buộc phải bỏ chạy khỏi làng mạc, nhà cửa của họ trong quốc gia Israel mới lập. Nhiều trong số này đến cuối, đã tị nạn ở Gaza. Năm 1967, Chiến tranh Sáu ngày bùng nổ, Israel giành thêm quyền kiểm soát Gaza cùng với những vùng lãnh thổ khác. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn chiếm đóng lâu dài của Israel. Hiệp định Oslo năm 1993 và 1995 tìm một giải pháp hòa bình, qua những đàm phán giữa Palestine và Israel, kêu gọi Israel rút quân khỏi Gaza và những khu vực khác. Việc rút quân này cuối cùng đã diễn ra vào năm 2005. Tuy nhiên, hòa bình vẫn còn trốn chạy.

Trong lịch sử này của Palestine, đế quốc Ottoman và sự uỷ trị của UK đóng những vai trò quan trọng. Đế quốc Ottoman cai trị Palestine từ 1516 đến 1918, khi Thế chiến thứ nhất chấm dứt. Dưới thời đế quốc Ottoman, Palestine được tổ chức thành ba quốc gia, Jerusalem, Gaza và Nablus, tất cả liên kết với chính quyền Damascus. Khu vực này đã trải qua một thời kỳ tương đối ổn định và không có những biến động lớn trong thời Ottoman. Ủy trị Palestine của Anh, được Hội Quốc Liên phê chuẩn, ủy quyền cho chính quyền UK quản lý những vùng lãnh thổ Palestine và Transjordan. Những lãnh thổ này đã được Ottoman nhường lại, khi Thế chiến thứ nhất chấm dứt. Thời thời kỳ ủy trị từ 1923 đến 1948. Đáng chú ý, trong thời kỳ này, hai vận động của dân tộc chủ thuyết đã xuất hiện trong khu vực: của những người Jew định cư, và của những người Ả Rập Palestine bản địa. Sau đó là thời kỳ với những sách lược ngoại giao của US với Trung đông và Israel. Những chiến lược ngoại giao của US đã đóng một vai trò then chốt trong định hình xung đột Israel-Palestine, từ những chiến tranh bành trướng của Israel với những nước láng giềng, đến những chiến tranh đàn áp liên tục lớn nhỏ với dân Palestine nội địa. Xung đột đã thể hiện qua những hoạt động quân sự lớn nhỏ khác loại, từ những không kích, bắn phá tấn công trên bộ đến đụng độ biên giới. Dẫn đến thương vong lớn lao, và tàn phá khốc hại cho dân chúng Palestine ngay trên những cư trú của họ. Israel áp đặt những phong tỏa và hạn chế di chuyển hàng hóa, thực phẩm và con người, gần đây tập trung vào Gaza, làm ngày thêm trầm trọng căng thẳng, khiến gần đây Gaza thành trọng điểm của xung đột, đặc biệt sau khi tổ chức kháng chiến Hamas thắng trong bầu cử lập pháp ở Gaza năm 2006.

C.



Biến cố lịch sử Nakba này đã đánh dấu sự khởi đầu của hơn 70 năm chiếm đóng đất nước của người Palestine. Kể từ đó, một chu kỳ xung đột và chiến tranh dai dẳng đã diễn ra. Điều này dẫn đến sự phá hủy nhà cửa, tịch thu tài nguyên, cưỡng bức di cư, thiết lập những trạm kiểm soát quân sự, xây dựng những tường rào ngăn cách, thực hiện kế hoạch lâu dài với kỳ thị chủng tộc cùng thanh lọc sắc tộc và thúc đẩy sự bành trướng lãnh thổ của Israel qua bạo lực chống lại người dân Palestine. Tất cả những thể hiện này xảy ra hàng ngày ngay trên chốn cư trú khốn cùng của họ. Người Palestine đã phải chịu thảm cảnh của áp bức, tàn sát, giam cầm, tù đày ngày sau khi đất nước bị chiếm đóng, quê hương bị cướp mất, chịu đựng đau khổ chồng chất đến từ biến cố Nakba. Tác động lâu dài của lịch sử tiêu cực này, thường bị báo chí Tây phương che dấu tinh vi với dư luận chính trị những ngước phương Tây. Nhưng vẫn không thể che dấu hết được bản chất của tình hình Trung đông ở Palestine, thường trực có nguy cơ chiến tranh, liên tục những bùng nổ bạo động, đến từ những bất công cực đoan trong chính trị, thể hiện rõ trong tình trạng máu lửa thảm khốc hiện tại của những người Palestine, những người sống xót và con cháu của họ từ biến cố Nakba 1948.

 


A.

1.

Xung đột Palestine-Israel có thể được nhìn/hiểu qua năm mô hình.

1. Mô hình thứ nhất: một xung đột Đặc Biệt Duy Nhất (sui Generis). Cho rằng nó là độc nhất nên không thể đặt nó trong những phạm trù hay khuôn khổ đã thiết lập thường dùng để phân tích và tìm hiểu những xung đột lịch sử . Chủ trương này nhấn mạnh trên trường hợp lập quốc đặc biệt (sau 2000 năm về vùng ‘đất hứa’ Israel) của những người Ziônnít (Zionism). hình này mang nhiều thiên kiến, có những sai lầm và thiếu xót khi loại trừ bối cảnh thực tại lịch sử.

2. Mô hình thứ hai: một xung đột Tôn Giáo: Đâynhận định sai lạc phổ thông rằng xung đột chủ yếu là tôn giáo. Thực sự, tôn giáo đóng một vai trò biểu tượng trong tranh chấp (như những nhà thờ thánh địa Jeruzalem), nhưng không phải là cốt lõi của xung đột.


3. Mô hình thứ ba: một xung đột giữa những Quốc Gia: Nhìn như xung đột giữa quốc gia Israel với những quốc gia Ả Rập và (đặc biệt) Iran. Mô hình này đã giảm thiểu sự quan trọng của xung đột cốt lõi giữa những người Jew-Ziônnít and và những người Ả Rập-Palestine

4. Mô hình thứ tư: một xung đột sắc tộc hoặc Dân Tộc: Nêu bật cuộc đấu tranh giữa dân Jews và dân Ả Rập Palestine trên cùng một vùng đất (đất Palestine như ‘the Land of Israel/đất Israel’, haythe Holy Land/đất thiêng’). Vấn đề trung tâm của xung đột xoay quanh vấn đề những lãnh thổ bị chiếm đóng, Jerusalem, những khu định cư và quyền của những người tị nạn Palestine

5. Mô hình thứ năm: Một xung đột giữa người định cư và thuộc địa: Tập trung vào những người định cư Jews đến sau, từ châu Âu, nhằm thay thế người dân bản địa Palestine qualực, và những biện pháp xâm chiếm, thống trị. Mô hình này giải thích được nguồn gốc trực tiếp của những xung đột trong việc xua dân/cướp đất và tản cư/định cư thành tị nạn vĩnh viễn.

 

Mô hình thuộc địa-định cư (Mô hình 5) này bao quát hơn, vì dựa trên thực tại lịch sử rộng lớn của nó. Nó đem cho một hiểu biết thựcsâu hơn, bằng xem xét:

a.      Nguồn gốc của những người định cư Jews, chủ yếu đến từ châu Âu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Cho thấy làn sóng người định cư châu Âu đến Palestine không chỉ nhằm mục đích cai trị nhưng còn thay thế người dân bản địa, ngấm ngầm thực hiện thanh lọc sắc tộc (Ethnic cleansing)

b.      Vai trò quan trọng của chủ thuyết đế quốc UK trong việc hỗ trợ sự thu tóm đất đai, định hình chính trị kinh tế và những chiến tranh đi đến trục xuất người Palestine (sau đó là sự ủng hộ tuyệt đối của Germany ắt hẳn từ mặc cảm tội lỗi ‘diệt chủng’ của Nazis ở nước này, và sự ủng hộ đặc biệt về chính trị quân sự kinh tế của US với Israel, từ ý định thực dân – dùng Israel như một ‘tiền đồn’ kiềm chế những quốc gia Ả Rập, duy trì đặc quyền kinh tế trong khai thác dầu khí ở Trung Đông.

c.      Nỗ lực liên tục trong việc xua dân cướp đất và thiết lập những nông trường kibbutz ban đầu đến những vùng đất chiếm đóng, và những khu định cư đô thị, bao quanh những vùng cư dân Palestine, thu hẹp địa bàn sinh sống của người Palestine. Tất cả cho thấy sự tàn khốc này đã gây những intifada, từ bất bạo động đến bạo động trong tranh chấp phản kháng này

 


Mô hình này có nhiều tương đồng, khi so sánh chế độ apartheid Israel hiện nay với chế độ apartheid ở Nam Phi trước đây (Trong chế độ apartheid ở Nam Phi, Israel là nước ủng hộ mạnh mẽ và đáng chú ý nhất cho Nam Phi, mở rộng hỗ trợ quân sự, kinh tế và ngoại giao mạnh mẽ cho chính phủ Nam Phi. Chủ yếu gồm trợ giúp về chiến lược quốc phòng và an ninh, tình báo quân sự, và bán vũ khí nhằm kiểm soát và ngăn chặn phản kháng của dân chúng bản địa.). So sánh như trên cho thấy những đặc điểm lịch sử chung của chủ thuyết thực dân-định cư và những xung đột liên tục bùng nổ đến từ những nguồn gốc này. Cả hai khu vực Palestine và South Africa đều diễn ra quá trình cưỡng bách di cư/ định cư của những người châu Âu, dẫn đến sự mất quyền sở hữu đất đai của dân bản địa. Tuy nhiên, điều kiện cụ thể và động lực của chúng khác nhau. Ở Nam Phi, chế độ apartheid đã thể chế hóa sự kỳ thị chủng tộc được trong một thời gian cho đến khi chế độ này xụp đổ (1994). Trong khi xung đột Israel-Palestine của chế độ apartheid Israel xoay quanh vấn đề lấn chiếm lãnh thổ, nhân quyền của dân tị nạn, đặc biệt là quyền hồi hương, và những tranh chấp về chủ quyền đất đai cho đến nay vẫn chưa thể giải quyết. Cả hai chế độ kỳ thị chủng tộc đều là biểu hiện những tác động lâu dài của chủ thuyết thực dân-định cư và thách thức trong việc giải quyết những xung đột này có nguồn gốc sâu xa bắt nguồn từ những nền tảng lịch sử.

 

2.


Những nguồn gốc phức tạp của xung đột Israel-Palestine đã dệt thành một tấm thảm từ những yếu tố chính trị, tôn giáo và xã hội. Chúng đưa đến tính chất dai dẳng và phức tạp của tranh chấp. Dưới đây là một số yếu tố chính:

a.      a.  Chủ thuyết dân tộc: Xung đột bắt nguồn sâu xa từ khát vọng của những chủ thuyết dân tộc. Ý hệ Ziônnít, như một chủ thuyết dân tộc, nhằm thiết lập một quê hương cho những người Jew ở Palestine. Trong khi chủ thuyết dân tộc Ả Rập, với mục đích đoàn kết những người Ả Rập, dựa trên ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa chung. Hai hệ tư tưởng dân tộc đối lập này đã đặt nền móng cho sự căng thẳng và cạnh tranh lãnh thổ.

b.      Tôn giáo: Mặc dù không chỉ là xung đột tôn giáo nhưng ý nghĩa tôn giáo sâu xa của vùng đất này đóng một vai trò then chốt. Vùng đất này là thiêng liêng với người Jew đạo Juda, người Ả Rập đạo Islam và người Ả Rập đạo Kitô, và mỗi nhóm đều có liên hệ lịch sử và tôn giáo chặt chẽ với vùng đất Palestine.Tình cảm tôn giáo tạo thêm nhiều lớp cảm xúc và phức tạp về lịch sử cho tranh chấp

c.      Chủ thuyết thực dân và chủ thuyết đế quốc: Di sản của chủ thuyết thực dân và chủ thuyết đế quốc đã định hình xung đột. Sự ủy trị Palestine của UK và Tuyên bố Balfour năm 1917, thể hiện sự ủng hộ của UK với một “quê nhà cho người Jew ở Palestine, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xung đột. Sự can thiệp của những đế quốc tạo tiền đề cho những đấu tranh địa chính trị tiếp theo. Trên thực tế, chủ thuyết thực dân ở Palestine mang hình thức một chủ thuyết thực dân của người định cư (Settler Colonialism), liên quan đến việc thành lập những cộng đồng Jew trên những vùng đất truyền thống của người Palestine, gồm việc chiếm đoạt đất đai, di cư dân bản địa và áp đặt văn hóa/chính trị của người định cư.

d.      Những khu định cư và tranh chấp đất đai: Việc thành lập những khu định cư của Israel ở West Bank và Gaza, những lãnh thổ bị Israel chiếm đóng từ Chiến tranh Sáu ngày 1967, là một điểm gây tranh chấp lớn. Người Palestine coi những khu định cư này là một hình thức của chủ thuyết thực dân-định cư và là trở ngại lớn cho giải pháp hai nhà nước. Việc mở rộng những khu định cư đang diễn ra làm trầm trọng thêm căng thẳng và làm phức tạp thêm những đàm phán tìm giải pháp hòa bình.

e.      Di tản và Người tị nạn: Thảm họa Nakba xảy ra trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, dẫn đến di tản hàng loạt người Palestine và tạo một lượng lớn người tị nạn trong và ngoài Palestine. Vấn đề chưa được giải quyết về quyền hồi hương của những người tị nạn này vẫn là một bất bình sâu sắc và căng thẳng dai dẳng, là vấn đề then chốt trong giải quyết xung đột

f.       Tư cách nhà nước và công nhận nhà nước: Khát vọng của người Palestine về một nhà nước độc lập, và việc từ chối thừa nhận tính hợp pháp của nhau với tư cách là những thực thể có chủ quyền góp phần tạo nên tính chất kéo dài của xung đột.

 


3.

Đến nay, có rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu tranh chấp lịch sử này – đặc biệt là nó bị vùi dấu trong những thuật kể sai lạc, những huyền thoại ngụy biện, nhằm biện minh cho những chủ trương kỳ thị cực đoan của một phong trào chính trị và ý hệ với kế hoạch thiết lập một quốc gia dành riêng cho dân Jew, trên ‘đất hứa’ Palestine, như trong huyền sử Cựu ước.

 

Trong Mười huyền thoại về Israel (Ten Myths About Israel), 2017. Tác giả Ilan Pappe – sử gia người Israel và giáo sư tại Đại học Exeter, UK. – đưa ra những thách thức trước những thuật kể và huyền thoại phổ biến này, vốn Israel dùng để biện minh cho những chính sách kỳ thị chủng tộc của nó với người Palestine. Quyển sách phơi bày những sai lầm, xuyên tạc và thiếu sót về lịch sử và thực tại, vốn làm nền tảng cho những huyền thoại này, đồng thời đưa ra một giải thích thay thế và chính xác hơn về xung đột Israel-Palestine. Ilan Pappe trình bày những ngụy biện tạo những huyền thoại sau đây:

 

a.      Huyền thoại 1: Palestine là một vùng đất trống vào thời điểm Tuyên bố Balfour: Huyền thoại của “một vùng đất không dân cư cho một dân tộc không có đất ở / a land with no people for a people without a land” thường cho là của những người theo Zionism thời kỳ đầu, tuyên truyền ý tưởng rằng việc thành lập quê hương Jew ở Palestine sẽ mang lại một giải pháp cho những người tị nạn và người nhập cư Jew, đặc biệt là ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ý tưởng rằng Palestine là một vùng đất dân cư thưa thớt hay không người, như chờ sẵn cho những người Jew định cư. Tuy nhiên, khi lịch sử diễn ra, khẩu hiệu này và thuật kể liên quan đã bị chỉ trích vì đơn giản hóa quá mức thực tại lịch sử và thống kê dân số phức tạp của Palestine:. Tuyên bố Balfour năm 1917, khi hứa hẹn thành lập một quê nhà cho người Jew ở Palestine, đã không tham khảo ý kiến hay tôn trọng những quyền và nguyện vọng của người Palestine bản địa. Thách thức huyền thoại này, Ilan nhấn mạnh trên sự hiện hữu những cộng đồng Ả Rập Palestine. Dựa trên bằng chứng lịch sử từ hồ sơ, tài liệu lưu trữ và di sản văn hóa của Ottoman, Pappe cho thấy cuộc sống phong phú và tích cực gồm những hoạt động văn hóa, xã hội và kinh tế. có nguồn gốc lâu đời trong những cộng đồng Ả Rập Palestine bản địa.


b.      Huyền thoại 2: Người Jew là một dân tộc không có đất sống trở về quê hương của tổ tiên họ, Huyền thoại này cho rằng người Jew là một dân tộc đồng nhất và cổ xưa, có ràng buộc lịch sử và văn hóa đặc biệt duy nhất và không hề cắt đứt với vùng đất Israel. Huyền thoại duy trì khái niệm của một bản sắc định tính dân tộc Jew thuần nhất và cổ xưa, đặc biệt gắn liền với vùng đất Israel (“một dân tộc được chọn cho một đất hứa / a chosen people for a promised land” thường gắn liền với người Jew, đặc biệt trong tường thuật Kinh thánh. Nó là niềm tin vào một giao ước thiêng liêng với Yahweh và rằng người Jew đã được chỉ định cho một vùng đất sống, thường xác định là khu vực lịch sử của Judea, nay là đất Palestine. Khái niệm này là nền tảng cho bản sắc định tính tôn giáo và văn hóa của người Jew). Tuy nhiên, người Jew ngày nay rất đa dạng, tân tiến và có nhiều nguồn gốc, ngôn ngữ và giáo phái khác nhau. Ý tưởng thành lập một quê nhà Jew ở Palestine bắt nguồn từ Zionism, một phong trào chính trị và tôn giáo với tư tưởng của ý hệ chủ nghĩa.dân tộc,cuối thế kỷ 19, không có cơ sở trên bằng chứng lịch sử hay trực tiếp từ Kinh thánh. Ilan Pappe đi sâu vào lịch sử phức tạp của sự di cư của người Jew đến Palestine, thách thức quan niệm về tình trạng thiếu quê nhà với người Jew. Bằng nêu nguồn gốc đa dạng và quan hệ lịch sử phức tạp của cộng đồng Jew lưu vong với khu vực này, chống lại huyền thoại về một sự quay trở lại ‘quê nhà’ liên tục và độc quyền. Phê phán quan điểm về một dân tộc Jew cổ xưa và đồng nhất với một liên hệ cho rằng không gián đoạn với vùng đất Palesstine, Pappe thách thức niềm tin rằng bản sắc Jew nói chung có liên hệ liên tục trong lịch sử Israel. Ông nhấn mạnh trên sự đa dạng trong những cộng đồng Jew lưu vong và tính chất phức tạp trong liên hệ lịch sử của họ. Pappe nêu lên rằng trình bày bản sắc định tính Jew là đơn nhất và không thay đổi đã đơn giản hóa quá mức lịch sử phức tạp của những mô hình di cư và định cư của người Jew. Những cộng đồng Jew, có nguồn gốc từ khắp nơi trên thế giới, đã thích nghi với bối cảnh những khu vực khác nhau, đã phát triển những tập quán văn hóa và ngôn ngữ độc đáo. Điển hình, người Jew Ashkenazi và Sephardic, định hình bởi những vị trí địa lý khác nhau, đều tự hào viowis những yếu tố văn hóa riêng biệt. Hoàn cảnh lịch sử, từ thịnh vượng đến bị đàn áp và lưu vong, cũng đã định hình nên bản sắc và khả năng phục hồi của cộng đồng Jew. Những giáo phái đa dạng trong đạo Juda cũng góp phần tạo nên sự đa dạng tôn giáo, mỗi giáo phái có những cách tiếp cận riêng biệt. Trong suốt lịch sử, những cộng đồng Jew đã tương tác và hòa nhập với văn hóa khu vực cư trú của họ, kết hợp những phong tục địa phương vào bản sắc rộng lớn hơn của họ. Những sự kiện di cư trên toàn thế giới, dù tự nguyện hay bắt buộc, đều đã dẫn đến thành lập những cộng đồng độc đáo, góp phần tạo nên đặc điểm chung của diaspora / cộng đồng lưu vong hải ngoại. Gồm nhiều nguồn gốc sắc tộc và chủng tộc, những cộng đồng Jew góp phần tạo nên sự không đồng nhất của diaspora Jew rộng lớn hơn.

c.           Huyền thoại 3: Zionism Judaism. Huyền thoại này đánh đồng Ziônnít, một hệ tư tưởng chủ thuyết dân tộc và chủ thuyết thực dân, với đạo Juda, một tôn giáo và một văn hóa. Ziônnít không phải là biểu hiện duy nhất hoặc đích thực về bản sắc Jew, và nhiều người Jew đã phản đối hoặc chỉ trích Ziônnít trên cơ sở tôn giáo, đạo đức hoặc chính trị. Ziônnít cũng không đại diện cho lợi ích hay quan điểm của tất cả người Jew, đặc biệt là những người sống ngoài Israel.

d.      Huyền thoại 4 : Ziônnít không là chủ thuyết thực dân. Huyền thoại này phủ nhận bản chất thực dân chiếm thuộc địa của Ziônnít, vốn nhằm tạo ra một nhà nước Jew trên một vùng đất đã có dân tộc khác sinh sống. Ziônnít dựa vào sự hỗ trợ và can thiệp của những cường quốc đế quốc, như UK và Pháp, để thiết lập và mở rộng sự hiện diện ở Palestine. Ziônnít cũng dùng những phương pháp và thực tiễn của chủ thuyết thực dân, như xâm chiếm, cướng bách di cư, phân rẽ và kỳ thị, để khuất phục và đàn áp người Palestine.

e.      Huyền thoại 5: Người Palestine tự nguyện rời bỏ quê hương của họ năm 1948. Huyền thoại này đổ lỗi cho người Palestine về việc họ bị trục xuất và lưu đày, đồng thời miễn trừ mọi trách nhiệm hoặc tội lỗi cho những người Ziônnít. Sự thật là người Palestine đã buộc phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình do một chiến dịch thanh lọc sắc tộc có chủ đích và có hệ thống của lực lượng dân quân Ziônnít, những người đã tàn sát, khủng bố và đe dọa người dân Palestine. Người Palestine không chọn trở thành người tị nạn nhưng bị kế hoạch xua dân chiếm đất của Ziônnít nên thành người tị nạn. tị nạn.



f.       Huyền thoại 6: Chiến tranh tháng 6 năm 1967 (The June 1967 War) là trận chiến không có lựa chọn. Huyền thoại này trình bày Israel như nạn nhân của xâm lược của người Ả Rập và là quốc gia bảo vệ sự tồn tại của nó, quốc gia không có lựa chọn nào khác ngoài tiến hành một tấn công phủ đầu chống lại những kẻ thù. Thực tế, Israel là một cường quốc quân sự (ngầm có vũ khí nguyên tử) trong khu vực, đã khởi xướng một chiến tranh có lựa chọn và mở rộng chống lại những nước láng giềng. Israel lập kế hoạch và thực hiện chiến tranh để đạt những mục tiêu chiến lược và lãnh thổ, đồng thời củng cố quyền kiểm soát của nó với người Palestine.

g.      Huyền thoại 7: Israel là nhà nước dân chủ duy nhất ở Trung Đông. Huyền thoại này ca ngợi Israel là mô hình của dân chủ và nhân quyền, đồng thời đối lập nước này với những chế độ độc tài và áp bức trong thế giới Ả Rập. Tuy nhiên, huyền thoại này đã bỏ qua sự thật rằng Israel không là một chế độ dân chủ cho mọi công dân nhưng chỉ cho những người Jew. Israel kỳ thị với công dân Israel gốc Palestine, những người này bị từ chối những quyền và cơ hội bình đẳng, đồng thời phải chịu sự phân biệt chủng tộc và đàn áp. Israel cũng từ chối bất kỳ quyền hoặc tự do cơ bản nào của người Palestine dưới sự chiếm đóng của họ, cai trị Palestine bằng vũ lực quy luật quân sự.

h.      Huyền thoại 8: Hiệp định Oslo năm 1993 là một tiến trình hòa bình thực sự. Huyền thoại này coi Hiệp định Oslo là một thỏa thuận mang tính lịch sử và hy vọng, mang đến cơ hội hòa bình và hòa giải giữa người Israel và người Palestine. Sự thật là Hiệp định Oslo là một tiến trình thiếu sót và thất bại, không giải quyết được những vấn đề cốt lõi của xung đột, như vấn đề tị nạn, định cư, biên giới và tình trạng của Jerusalem. Hiệp định Oslo cũng không chấm dứt sự chiếm đóng của Israel, nhưng tái cơ cấu và củng cố nó, tạo ra một hệ thống phân mảnh và thống trị với người Palestine.

i.       Huyền thoại 9: Intifada lần thứ hai năm 2000 là một hành động khủng bố. Huyền thoại này coi người Palestine là những kẻ khủng bố bạo động và phi lý, những người đã từ chối đề nghị hòa bình hào phóng của Israel và phát động một chiến dịch thả bom liều chết và tấn công đẫm máu nhằm vào dân thường Israel. Thực tại là Intifada lần thứ hai là một cuộc nổi dậy tự phát và phổ biến, được kích dộng bởi chuyến thăm đầy khiêu khích của Ariel Sharon tới khu nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa, và được thúc đẩy bởi sự thất vọng và tuyệt vọng của người Palestine trong điều kiện áp bức và nhục nhã của hiệp định Oslo. Intifada thứ hai không phải là một hoạt động khủng bố mà là một phong trào kháng chiến, dùng nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh khác nhau, gồm vũ trang và không vũ trang, bạo lực và bất bạo động, chống lại sự chiếm đóng của Israel.

j.       Huyền thoại 10: Sự chiếm đóng của Israel là nguồn gốc duy nhất của xung đột. Huyền thoại này cho rằng xung đột có thể được giải quyết bằng cách chấm dứt sự chiếm đóng của Israel ở West Bank và Đông Jerusalem, đồng thời thành lập một nhà nước Palestine cùng với Israel. Tuy nhiên, huyền thoại này bỏ qua thực tại rằng sự chiếm đóng không phải là nguyên nhân sâu xa của xung đột mà là một triệu chứng và hậu quả của xung đột. Xung đột bắt nguồn từ hệ tư tưởng và kế hoạch của Ziônnít, vốn phủ nhận sự tồn tại và những quyền của người Palestine, đồng thời tìm cách xóa bỏ và thay thế họ bằng một nhà nước Jew. Xung đột chỉ có thể được giải quyết bằng giải quyết sự bất công về lịch sử và đạo đức vốn Ziônnít gây ra cho người Palestine, đồng thời bằng công nhận và tôn trọng những quyền dân tộc và nhân quyền của họ.

 


B.

1.

Xung đột Israel-Palestine đã diễn ra hơn 100 năm qua, Trong The Hundred Years' War on Palestine: A History of Settler Colonialism and Resistance, 1917–2017 (Cuộc chiến trăm năm ở Palestine: Một Lịch sử của chủ thuyết thực dân của người định cư và sự phản kháng, 1917–2017) Rashid Khalidi trình bày một phân tích lịch sử của sự xung đột giữa Ý hệ tư tưởng chủ thuyết dân tộc phục quốc của người Jew (Zionism) và chủ thuyết dân tộc Palestine (Palestinian nationalism) từ quan điểm của người Palestine bản địa.

Ông cho thấy Ý hệ tư tưởng chủ thuyết dân tộc phục quốc của người Jew đã cấu thành một hình thức của chủ thuyết thực dân định cư (settler colonialism), được đế quốc UK và US lần lượt hỗ trợ, với mục tiêu tước quyền chiếm hữu và thống trị dân Palestine. Khalidi phác họa lịch sử xung đột qua sáu giai đoạn quan trọng vốn ông gọi chúng như “những tuyên chiếnvới Palestine, bắt đầu từ Tuyên bố Balfour năm 1917 và đến gần đây chính quyền Trump công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel năm 2017. Ngược với những thuật kể qui ước, mô tả xung đột như một đụng độ bi thảm giữa hai phong trào quốc gia, Khalidi thách thức những quan điểm này bằng cung ứng một tường thuật thuyết phục và tinh tế về sự phản kháng và quật cường của người Palestine trước sự áp bức và tước đoạt thực dân. Quyến sách đem cho một quan điểm của người Palestine về những sự kiện lịch sử, nhấn mạnh tác động lâu dài của chủ thuyết thực dân định cư với người Palestine trong suốt thế kỷ. Theo Khalidi, lịch sử 100 năm chiến tranh Israel-Palesstine gồm những thời kỳ và chủ đề chính như sau:

a.      Tuyên bố Balfour (1917): Ban hành trong Thế chiến thứ nhất, bày tỏ sự ủng hộ của UK với một “quê nhà cho người Jew” ở Palestine do Ottoman kiểm soát. Đặt nền móng cho khát vọng của ý hệ tư tưởng dân tộc chủ thuyết phục quốc của người Jew (Zionism), gây căng thẳng giữa cộng đồng người Jew và người Ả Rập.

b.       Ủy trị của UK (1920-1948): Ủy trị của Hội Quốc Liên (League of Nations): đã trao cho UK sau Thế chiến thứ nhất, dẫn đến sự quản lý của UK ở Palestine. Thay đổi về cơ cấu thành phần dân cư: Dòng người nhập cư Jew làm gia tăng căng thẳng giữa những cộng đồng đang tìm quyền tự quyết.

c.      Nakba (1948): Thành lập Israel: Kết quả từ Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948. Sự di tản của người Palestine: Hàng trăm ngàn người phải trải qua sự di tản cưỡng bức, được gọi là Nakba

d.       Chiếm đóng và kháng chiến (1948-1967): Người tị nạn Palestine: Nakba dẫn đến việc thành lập những trại tị nạn. những cuộc tấn công của những fedayeen (những chiến sĩ tranh đấu cho tự do): Thời kỳ được đánh dấu bởi sự kháng cự của người Palestine, gồm cả những cuộc tấn công của những Fedayeen nhằm vào những mục tiêu của Israel.

e.      Chiến tranh sáu ngày (1967): Sự bành trướng của Israel: Giành quyền kiểm soát West Bank, Đông Jerusalem, Dải Gaza, Bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan. Sự chiếm đóng xác định bởi sự kiểm soát của Israel với những vùng lãnh thổ này, hình thành sự xung đột.

f.       Chiếm đóng và định cư (1967-nay): những khu định cư của người Israel: Sự xây dựng khu định cư trên những lãnh thổ bị chiếm đóng đã dẫn đến những tranh chấp đang diễn ra. Những Lãnh thổ Palestine: West Bank, Đông Jerusalem và Dải Gaza nằm dưới sự kiểm soát của Israel trong những mức độ khác nhau.

g.      Những nổi dậy Intifada: Intifada lần thứ nhất (1987-1993): nổi dậy của quần chúng đánh dấu bằng những biểu tình, bất tuân dân sự và xung đột. Intifada lần thứ hai (2000-2005): Đặc trưng bởi bạo lực gia tăng, gồm thả bom tự sát và những chiến dịch quân sự.

h.      Tiến trình hòa bình và Hiệp định Oslo (thập niên 1990): Hiệp định Oslo: những thỏa thuận giữa Israel và Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) nhằm giải quyết xung đột. Thách thức: Mặc dù lạc quan nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm cả việc xây dựng khu định cư đang diễn ra.

i.       Những vấn đề đương thời (sau 2005): Phong tỏa Gaza: Do Israel áp đặt, góp phần gây ra những khó khăn trong cứu trợ nhân đạo. Tiếp tục mở rộng khu định cư: Việc xây dựng đang diễn ra ở West Bank vẫn còn gây tranh luận. Nỗ lực ngoại giao: những sáng kiến quốc tế nhằm giải quyết xung đột.

Quyến sách xuất bản năm 2020 nên chưa nói về chiến tranh diễn ra gần đây, giữa Israel và quân kháng chiến Hamas ở Gaza.

 

2.

Có thể nhìn xung đột phức tạp này với góc nhìn của phía những trí thức tiến bộ người gốc Jew. Trong môt bài giảng mới đây nhất, ở đại học Massachusetts, Amherst, 17 /10 /2023) giáo sư học giả và cũng là nhà khoa học chính trị nổi tiếng đương thời, người US, Norman Finkelstein, vắn tắt câu chuyện lịch sử về xung đột Israel-Palestine như sau:

 

Năm 1947, Palestine là nơi sinh sống của 2 nhóm dân cư riêng biệt: Yishuv, cộng đồng những người Jew với khoảng 600.000 người, và cộng đồng người Ả Rập Palestine với khoảng 1.300.000. Sự chung sống được đánh dấu bằng sự cạnh tranh căng thẳng và xung đột gia giữa người Ả Rập Palestine bản địa và những người Jew định(Khi số người Jew đến Palestine định cư tăng lên đáng kể sau Thế chiến I, đặc biệt sau Tuyên bố Balfour 1917). Sự cạnh tranh về đất đai và tài nguyên tạo tiền đề cho những phức tạp về sau của xung đột Israel-Palestine. Hậu quả của Thế chiến II chứng kiến sự chấm dứt quyền ủy trị của UK với Palestine, mở đường cho sự tham gia của UN. Nghị quyết 181 của UN, được gọi là nghị quyết phân vùng (the partition resolution), đề nghị phân chia Palestine, với 56% cho cộng đồng Jew và 44% cho những người Ả Rập. Phía Ả Rập bác bỏ đề nghị này, nhấn mạnh họ là đa số và là dân bản địa. Sự từ chối này đã dẫn đến Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ nhất 1948, chiến trận bùng nổ công khai dẫn đến biến cố Nakba, trục xuất khoảng 90% người Ả Rập Palestine, trong đó 250.000 người cuối cùng chạy đến Gaza, biến nơi này thành vùng tập trung nững dân cư chủ yếu là những người tị nạn.

Sau năm 1948, Israel tự tuyên bố là một quốc gia, mở rộng biên giới bao trùm 80% lãnh thổ Palestine, ngoại trừ West Bank, Đông Jerusalem và Gaza. Nhưng chiến tranh tháng 6 năm 1967, còn gọi là Chiến tranh Sáu ngày, đã mở rộng hơn nữa quyền kiểm soát của Israel với West Bank, Đông Jerusalem và Gaza. Nghị quyết 242 của UN nhấn mạnh việc không thể chấp nhận việc giành lãnh thổ bằng chiến tranh, đặt nền móng cho khuôn khổ lấy đất đổi hòa bình. Đến đầu những năm 1970, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO), do Yasser Arafat lãnh đạo, đã phải chấp nhận Nghị quyết 242 của UN, công nhận tư cách nhà nước của Israel. Đổi lại, họ đòi quyền tự quyết ở West Bank, Đông Jerusalem và Gaza. Năm 1982, Israel phải đối mặt với tình thế khó khăn khi PLO theo đuổi một tấn công hòa bình. Phát động chiến tranh ở Lebanon, Israel đã gây thương vong hàng loạt, buộc PLO phải lưu vong. Vấn đề Palestine dường như không còn được quốc tế chú ý, khiến West Bank và Gaza phải tự vật lộn với số phận của mình. Điều này đã thay đổi vào tháng 12 năm 1987 khi một nổi dậy dân sự bất bạo động nổ ra, được gọi là intifada đầu tiên. Người Palestine, nhận thấy thiếu áp lực quốc tế với Israel, đã tìm cách khẳng định quyền lợi của mình.

Chuyển sang 1993, Hiệp định Oslo được ký kết, với việc PLO chính thức công nhận Israel trên giấy tờ. Tuy nhiên, người Palestine nhận được rất ít và giải pháp dự kiến ​​trong thời gian tạm thời 5 năm đã không thành hiện thực. Sang thế kỷ 21, Gaza phải đối mặt với tình trạng phong tỏa vào năm 2006 sau khi Hamas chiến thắng trong bầu cử quốc hội ở đây. Những năm sau đó chứng kiến những hành quân tàn bạo của Israel, mở liên tục những chiến dịch càn quét quân sự như Cast Lead (2008), Protective Edge (2012) và Protective Edge (2014) dẫn đến thương vong và tàn phá lớn lao cho dân cư Gaza. Năm 2018, Cuộc Tuần Hành Trở Về Vĩ Đại (Great March of Return), một hành động bất tuân dân sự, đã vấp phải tấn công tàn khốc của Israel (nhắm bắn vào trẻ em, nhân viên y tế, nhà báo và người tàn tật) Tình trạng phong tỏa dai dẳng này khiến Thủ tướng UK David Cameron mô tả Gaza là một “nhà tù ngoài trời”, và nhà xã hội học người Israel, Baruch Kimmerling còn đi xa hơn, mô tả đây là “trại tập trung lớn nhất từ ​​trước đến nay”. Gaza, là biểu tượng của sự phản kháng và đấu tranh cho những quyền và phẩm giá của người Palestine, nhưng cũng là nơi được đánh dấu của sự đau khổ và tuyệt vọng. Tất cả dân cư ở đây là nan nhân của một sự trả thù cực đoan qua sự trừng phạt tập thể (collective punishment), và như lời đương kim Tổng thư ký LHQ nói, Gaza (hiện) trở thành ‘một nghĩa địa của những trẻ em’ (Nov/2023).

 


3.

Chiến tranh  thường trực ở Palestine, như nói trên, đến từ xung đột giữa Ý hệ tư tưởng chủ thuyết dân tộc phục quốc của người Jew (Zionismvà chủ thuyết dân tộc Ả Rập (Arab Nationalism) của người Palestine, đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt từ biến động Nakba, Russell, trong thông điệp chính trị này, đã nói về những gì vẫn gọi là Vấn đề Palestine (The question of Palestine): những vấn đề chính trị và lãnh thổ phức tạp, tồn tại lâu dài quanh xung đột Israel-Palestine). Nó bao trùm nhiều phương diện khác nhau, gồm sự thiết lập nhà nước Israel, xua dân chiếm đất khiến dân bản địa Palestine – hàng trăm ngàn người dân vô tội bị biến thành vô gia cư vĩnh viễn. Với mỗi xung đột mới, số lượng của họ lại tăng lên”, tình trạng phân cắt của Jerusalem, những biên giới của Israel, cũng như những quyền (hồi cư) và chủ quyền lãnh thổ của dân Palestine. – tất cả đòi hỏi một giải pháp chính trị công bằng, không phải những xâm lăng chiếm đóng quân sự – “muốn chấm dứt sự đổ máu ở Trung Đông phải bảo đảm rằng bất kỳ giải pháp dàn xếp nào cũng không chứa đựng mầm mống của xung đột trong tương lai. Công lý đòi hỏi rằng bước đầu tiên hướng tới một giải pháp phải là một sự rút quân Israel khỏi tất cả những vùng lãnh thổ đã chiếm đóng”. 

 

Tất cả như vang vọng những gì Clausewitz đã nói về chiến tranh, – chiến tranh thực sự là một sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp bạo lực, được thúc đẩy bởi những động lực chính trị và đạo đức. (“War is nothing but a duel on an extensive scale… an act of violence intended to compel our opponent to fulfill our will, …War is merely the continuation of politics by other means”). Khi bàn về “bộ ba nghịch lý” (paradoxical trinity): những sức mạnh của tình cảm, cơ may/ngẫu nhiên và lý trí trong chiến tranh, Clausewitz cũng nhìn nhận một phương diện về đạo đức của nó, khi nhấn mạnh trên bản chất nghiêm trọng và bạo động của chiến tranh vốn do những nguyên tắc chính trị và tiêu chuẩn đạo đức dẫn đường. Điều sau – những tiêu chuẩn đạo đức – đã hoàn toàn bị những phe phái chính trị làm ngơ, trực tiếp dẫn đến thảm kịch tàn khốc hiện đang diễn ra cho những người dân Palestine ở Gaza. Nạn nhân của một trừng phạt tập thể, từ cuồng hận, tất cả trong những bước tiệm tiến, khởi từ Nakba, của một kế hoạch thanh lọc sắc tộc qui mô, với ý định như cuối cùng chiếm chỗ của một dân tộc, dùng mọi hình thức bạo lực xua đuổi họ, ra khỏi nơi sinh sống vốn từ hàng nghìn năm nay vẫn là quê hương duy nhất của họ

 

4.

ĐỌC THÊM:

 

Ở Israel-Palestine, đảng quyền lực đã thành công trong việc tự vẽ mình như những nạn nhân, trong khi những người bị giết và bị thương lại trở thành những kẻ khủn bố tàn ác.  (Gabor Maté, Giấc Mơ Đẹp Của Israel Đã Trở Thành Một Ác Mộng)

 

Những quyển sách sau đây là tham khảo chính cho bài dịch này – chúng đem cho một nội dung lịch sử, chính trị và văn hóa để có thể hiểu được nền tảng cơ bản của vấn đề Palestine phức tạp, đặc biệt là chiến tranh hiện nay ở Gaza, giữa quân đội khủng bố của chính quyền apartheid Israel và quân kháng chiến Hamas.

 


Thuật ngữ “khủng bố” đã được gán cho nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới, không chỉ dành riêng cho Hamas ở Palestine, nhưng hoàn toàn tùy tiện chủ quan, theo những quan điểm và chính sách của những thế lực chính trị khác nhau. Gọi Hamas là nhóm chiến binh hay tổ chức khủng bố tùy thuộc vào những lập trường trong những nội dung chính trị khác nhau, thường là đối lập cực đoan. Một số người coi Hamas là một phong trào kháng chiến hợp pháp, chiến đấu chống lại những gì họ coi là chiếm đóng/định cư bất hợp pháp và đàn áp khắc nghiệt của Israel, trong khi những người khác coi tổ chức này là một tổ chức khủng bố do họ dùng chiến thuật với chủ ý nhắm thiệt hại dân thường. Hamas [Hamas (حماس) = “nhiệt huyết/sôi nổi/nóng bỏng, viết tắt của “Harakat al-Muqawamah al-Islamiyyah” (حركة المقاومة الإسلامية) = Phong trào Kháng chiến Islam) ] là một tổ chức chính trị quân sự của kháng chiến Palestine. Trong một phỏng vấn trực tiếp, E. Said đã từ chối không dùng từ “khủng bố” để gọi nhóm Hamas – gặng hỏi, ông nói thêm từ này dành cho quân lính Israel, ngồi trên máy bay trực thăng nhắm bắn vào những trẻ em, dân thường Palestine. Theo ý ông, một người gốc Palestine, Hamas là những chiến binh Palestine cảm tử, tên tuổi của họ bị báo chí phương Tây bôi nhọ. Giống như trước và gần đây: như tổ chức Palestine Liberation Organization (PLO) với Yasser Arafat, và African National Congress (ANC) với Nelson Mandela đều đã từng bị xem/gọi là những người hay tổ chức ‘khủng bố’ – Trường hợp Hamas hiện nay, vẫn có những người giữ trung lập hay khách quan đã chỉ đơn giản gọi Hamas là (a) những “chiến binh” (Militant =  cá nhân hoặc nhóm tích cực tham gia vào những hành động đối kháng hay gây hấn, thường vì những mục đích chính trị hay ý thức hệ hay (b) tổ chức dân quân kháng chiến dùng chiến thuật khủng bố, vì đó là phương sách duy nhất còn lại có thể liều chết thực hiện được trong tư thế của kẻ yếu cùng quẫn phải nổi dậy phản kháng. (như Walter L. Hixson)

 

Như nói trên, “khủng bố” thực ra bắt đầu với những người Jew, ở Palestine. Nhóm dân quân Lehi trong thời Ủy trị Palestine của UK, đã bị chính quyền UK coi là một tổ chức khủng bố do những hoạt động quân sự của họ, gồm những vụ ám sát nổi tiếng. Họ đã ám sát Lord Moyne, Bộ trưởng UK thường trú tại Trung Đông, 1944 và sau đó, năm 1948, ám sát Bá tước Folke Bernadotte, nhà ngoại giao Sweden và hòa giải UN). Nhóm này cũng hợp tác với Phát xít Italy và Nazi Germany, và đặc biệt tấn công những thường dân Ả Rập (vụ thảm sát Deir Yassin khét tiếng, năm 1948, khiến hơn khoảng 100 đến 120 dân làng Palestine, gồm cả phụ nữ và trẻ em, đã bị giết chết. Cuộc tấn công và thảm sát này đã tác động lớn đến diễn biến của xung đột Israel-Palestine, gây sợ hãi và hoảng loạn dẫn góp phần vào những động cơ của biến cố Nakba.

 

(a) Fateful Triangle: The United States, Israel, and the Palestinians / Tam giác định mệnh: US, Israel và người Palestine, 1983 của của Noam Chomsky là một phê phán toàn diện chính sách đối ngoại của US ở Trung Đông. Fateful Triangle đem cho một cái nhìn bao quát về mạng lưới phức tạp của những động lực chính trị trong xung đột Israel-Palestine. Điều tra của Chomsky vượt trên những tài liệu lịch sử đơn thuần, đi sâu vào những yếu tố địa chính trị. Ông mổ xẻ nền tảng lịch sử, chính trị và chiến lược của liên hệ đặc biệt US-Israel. Liên hệ này đã đóng một vai trò quan trọng, ấn định tiến trình lịch sử và xác định những động lực của xung đột Israel-Palestine.

Trọng tâm đào sâu của Chomsky nằm ở sự ủng hộ nhất quán và vững chắc US dành cho Israel. Trong lịch sử, US coi Israel như một đồng minh chính trị và kinh tế quan trọng ở Trung Đông và đã viện trợ cho Israel với mức hỗ trợ tài chính và quân sự cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào khác. Ông mổ xẻ những nền tảng lịch sử, chính trị và chiến lược của sự hỗ trợ đặc biêt này, cho thấy tác động hỗ tương phức tạp giữa những quyền lợi quan trọng trong Chiến tranh Lạnh và xa hơn, Có thể tóm lược những điểm chính nhìn theo chiều hướng của xung đột Israel-Palestine như sau: (a) Liên minh chiến lược: Israel là đồng minh chiến lược của US chống lại ảnh hưởng của USSR ở Trung Đông. (b) Tiếp cận tài nguyên: Đảm bảo quyền tiếp cận những nguồn tài nguyên dầu khí của khu vực vốn quan tâm cốt yếu của những cường quốc toàn cầu. (c) Ảnh hưởng địa chính trị: US nhằm mục đích duy trì ảnh hưởng và kiểm soát lâu dài những vùng lãnh thổ quan trọng ở Trung Đông. (d) Đấu tranh ý hệ trong Chiến tranh Lạnh: Hỗ trợ Israel phù hợp với chiến lược của US nhằm kiềm chế ảnh hưởng của USSR. (e) Động lực tranh dành quyền lực: xung đột Israel-Palestine trở nên vướng vào sự tranh giành quyền lực toàn cầu rộng lớn giữa US và USSR. (f) Công nghiệp An ninh và Quốc phòng: Viện trợ quân sự của US cho Israel không chỉ phục vụ những mục tiêu địa chính trị và an ninh nhưng còn mang ý nghĩa kinh tế với ngành công nghiệp quốc phòng của US. Động lực này tạo ra quan hệ cùng có lợi giữa những lĩnh vực quốc phòng của US và Israel. Khía cạnh kinh tế thể hiện rõ ở chỗ một phần đáng kể viện trợ được Israel sử dụng để mua thiết bị và dịch vụ quân sự từ US, cung cấp một thị trường ổn định và sinh lợi cho ngành công nghiệp quốc phòng US. Do đó, khoản viện trợ này góp phần mang lại phúc lợi tài chính cho những nhà thầu quốc phòng US, những người đảm bảo hợp đồng với Israel về nhiều loại vũ khí quốc phòng. Cho thấy những lợi ích kinh tế gắn liền với viện trợ quân sự, nhấn mạnh sự tương tác phức tạp giữa những cân nhắc về địa chính trị, lợi nhuận của ngành công nghiệp quốc phòng và động lực rộng lớn hơn của xung đột Israel-Palestine trong cơ cấu quyền lực toàn cầu.

 

Nhân đây – như một phụ chú cho điểm (f) này – một quyển sách mới của Antony Loewenstein, The Palestine Laboratory: How Israel Exports the Technology of Occupation Around the World / Phòng Thí Nghiệm Palestine Israel Đã Xuất Cảng Kỹ Thuật Quân Sự Của Sự Chiếm Đóng Khắp Thế Giới Như Thế Nào 2023. Loewenstein đi sâu vào lĩnh vực công nghiệp-quân sự của Israel, tiết lộ rằng những vùng Palestine bị chiếm đóng đã trở thành nơi thí nghiệm vũ khí và kỹ thuật tình báo giám sát. những kỹ nghệ này thường gồm những vũ khí tiên tiến, hệ thống giám sát và chiến thuật được thiết kế cho những hoạt động chiến tranh đô thị và chống nổi dậy. Như drone, camera giám sát đám đông theo dõi nhận diện cá nhân, thiết bị kiểm soát đám đông (tear gas rubber bullets, water cannons, acoustic weapons, stun grenades, and bean bag rounds và những thiết bị quân sự và an ninh công nghệ cao khác. Theo Loewenstein, những công nghệ này, từng được thí nghiệm trên dân chúng Palestine, sau đó sẽ xuất khẩu trên toàn thế giới thu lợi nhuận rất cao. Cuốn sách nhấn mạnh rằng Israel đã bán những vũ khí này cho hơn 130 quốc gia, cho thấy tác động toàn cầu của những đổi mới quân sự được phát triển qua những hoạt động an ninh và quân sự áp dụng trên lãnh thổ Palestine (Israel là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ 10, chiếm 1,4% doanh số bán vũ khí toàn cầu trong giai đoạn 2018-22).

 

Chomsky cũng đưa lên những câu hỏi thách đố về mặt đạo đức trong sự tán thành của US với những sách lược của Israel, bất chấp sự chỉ trích rộng rãi của hầu như tất cả luận quốc tế, đặc biệt liên quan với sự bành trướng lãnh thổ (Greater Israel) và sự đối xử kỳ thị bất công với người Palestine.

 

Chuyển hướng lăng kính phê phán, Chomsky xem xét những động lực bên trong Palestine, đặc biệt chú ý đến Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Trong khi thừa nhận những đấu tranh lịch sử và sự phản kháng chính đáng của Palestine, Chomsky không né tránh việc chỉ trích sự chia rẽ nội bộ và những thất bại về lãnh đạo trong chính quyền Palestine. Quan điểm nhìn từ nhiều mặt này cũng thừa nhận cả những áp lực bên ngoài và những thách thức bên trong đã hình thành nên câu chuyện của Palestine.

 

Fateful Triangle không chỉ giới hạn trong phân tích những sự kiện lịch sử; những cũng tích cực khai triển những vấn đề đương thời và đưa ra những quan điểm thay thế, nhằm đi đến một hòa bình công bằng và lâu dài. Là tác giả của Manufacturing Consent, 1988, Chomsky đã xem xét kỹ lưỡng những hình ảnh truyền thông có khuynh hướng làm nổi bật một cách không cân đối những phương diện nhất định của xung đột, tác động sai lệch nhận thức của công chúng. Chomsky lập luận rằng hầu hết giới truyền thông và trí thức US đều có thành kiến “pro-Zionist”, công khai và triệt để ủng hộ Zionism. Ông cho rằng thành kiến này làm sai lệch những thuật kể, chúng chạy theo hướng có lợi cho Israel và phản lại những gì thuộc về Palestine. Ông cho rằng thiên vị này đã định hình nhận thức công chúng về xung đột ở Trung Đông. Điển hình và phổ thông là những phương tiện truyền thông thường có khuynh hướng tập trung vào những sự việc riêng biệt nhưng không cung cấp bối cảnh lịch sử cần thiết nhấn mạnh trên một số khía cạnh nhất định trong khi hạ thấp những khía cạnh khác. Tất cả khiến người đọc.không thể có được diễn giải trung thực không nắm bắt được những khía cạnh phức tạp của vấn đề Israel-Palestine. Theo ông, giới truyền thông vẫn tiếp tục duy trì và củng cố những thiên vị. Chomsky thách thức những thuật kể một chiều thịnh hành, trong đó mô tả xung đột Israel-Palestine theo những cách vốn theo ông, bóp méo sự thật tận nền tảng. Một trong những câu chuyện như vậy là mô tả Israel như duy nhất là nạn nhân ở đây, và thường trình bày người Palestine như phi lý, có khuynh hướng bạo động. Chomsky lập luận rằng tường thuật một chiều quá mức này đã đơn giản sự phức tạp của xung đột, bỏ qua những yếu tố lịch sử và địa chính trị, góp phần vào tạo thêm căng thẳng.

 

Mục tiêu bao quát của Chomsky nhằm mang cho người đọc một hiểu biết toàn diện về những vấn đề lịch sử và thời sự của xung đột Israel-Palestine. Bằng truy tìm nguồn gốc của nó từ cuối thế kỷ 19 với sự trỗi dậy của Zionism, ông đã đặt những căng thẳng giữa cộng đồng Jews và Ả Rập vào trong bối cảnh lịch sử. Fateful Triangle đào sâu những sự kiện lịch sử quan trọng như sự thành lập của Israel vào năm 1948 và những chiến tranh Ả Rập-Israel. Phân tích quan hệ phức tạp giữa ba thực thể này. Chomsky cho rằng US đã đóng vai trò then chốt trong việc tạo điều kiện và hỗ trợ Israel chiếm đóng kéo dài những vùng lãnh thổ Palestine, gây những hậu quả nghiêm trọng cho vấn đề Palestine.

 

 

 (b) Orientalism / Cái nhìn về phương Đông của phương Tây của Edward Said

Edward Said, nhà phê bình văn hóa nổi tiếng người US gốc Palestine và là giáo sư lý thuyết văn học tại Columbia, người đã nêu khái niệm Orientalism trong quyển sách cùng tên có ảnh hưởng lớn năm 1978 của ông. Trong “Orientalism”, Said đi sâu vào việc xây dựng lịch sử và văn hóa “Phương Đông” của những học giả, văn nghệ sĩ phương Tây. Orientalism ở đây dùng như một khái niệm phê phán sự mô tả nhiều tô vẽ thường có tính miệt thị của phương Tây với văn hóa Phương Đông. Orientalism của Said vượt ra ngoài phạm vi phê phán đơn thuần; ông coi nó như một hệ thống kiến thức và quyền lực đã định hình nhận thức của phương Tây về phương Đông Theo Said, nhận thức méo mó này đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau, gồm văn học, lịch sử, nhân chủng học và chính trị. Lập luận của ông xoay quanh khẳng định rằng những trình bày của phương Tây về phương Đông thấm nhuần với những động lực về quyền lực của đế quốc, chịu ảnh hưởng sâu đậm của lý thuyết thực dân và những thành kiến về văn hóa thuộc địa. Khái niệm Orientalism quan trọng này của Said đã gây tác động sâu rộng đến những nghiên cứu hậu-thuộc địa, nghiên cứu văn hóa và những thảo luận liên quan đến quan hệ giữa phương Tây (Euurope) và Trung Đông, trong đó gồm Palestine.

 

Sự xung đột, thách thức hay giữa những mô tả của phương Đông và phương Tây về thế giới là một tranh chấp.bên trong cũng như bên ngoài (xung đột hay căng thẳng giữa những mô tả của phương Đông và phương Tây về thế giới không chỉ là vấn đề về sự khác biệt bên ngoài về ý thức hệ, xung đột văn hóa hay quan điểm đối nghịch, nhưng còn là vấn đề bên trong mỗi cá nhân, đến từ những khác biệt về văn hóa, tư tưởng hoặc địa chính trị với bản sắc và nhận thức cá nhân ). Edward Said trong nhiều năm đã là tiếng nói quan trọng trung tâm. trong Orientalism, ông đã phân tích dùng những từ của chính ông – sự liên kết giữa kiến thức với quyền lực. Tác phẩm này, – nếu có thể gói gọn trong một câu, – thảo luận về những học giả trong thời kỳ Đế quốc (Europe) đã như thế nào giúp vào việc tạo nên hình ảnh phương Đông, những hình ảnh này cung cấp một biện minh cho ý hệ tư tưởng thượng đẳng (supremacy) của chủ thuyết đế quốc”. (lời Salman Rushdie , 1986)

 

Edward Said phân tích quan hệ giữa phương Tây, chủ yếu đại diện bởi Châu Âu Ki tô và phương Đông, chủ yếu là những xã hội Trung Đông Islam. Ông phê phán cách thức những học giả, nhà văn nghệ sĩ phương Tây mô tả về phương Đông trong lịch sử, duy trì một thế giới quan thứ bậc với những duy trì những quan niệm thiên vị (văn hóa phương Tây ưu việt và tiến bộ hơn văn hóa phương Đông, …), rập khuôn (những nhân vật đến từ Trung Đông thường là -kỳ lạ, khác thường cuốn hút (exotic) cho thấy một sự rập khuôn, nhấn mạnh trên sự khác biệt đông/tây, trên-dưới,…) và những quan điểm thiên lệch về phương Đông (một cái nhìn ‘gia trưởng’ cho rằng ‘mâu quốc’ thực dân có thẩm quyền trong việc ấn định những diễn biến của những sự kiện và xác định những thuật kể của dân thuộc địa).. Said lập luận rằng Cái nhìn về phương Đông của phương Tây này, được thái độ thực dân và động lực của những quyền lực đế quốc hình thành, đã góp phần tạo ra những quan niệm sai lệch về vùng Cận Đông và gây ra những hậu quả trong thế giới thực tại, đặc biệt trong bối cảnh xung đột Israel-Ả Rập và những thuật kể về Palestine.

 

Said cho biết: Ngay từ đầu của những nghiên cứu, luận thuyết, suy nghĩ, viết nói của phương Tây về Phương Đông, một điều vốn Phương Đông không thể làm là tự nói, tự trình bày chính mình. Trong lịch sử, Phương Đông không sức mạnh hay tự chủ để xác định và trình bày những câu chuyện của riêng mình. Trong Orientalism, Said lập luận rằng quyền lực để trình bày và diễn giải Phương Đông được những học giả, nghệ sĩ và trí thức phương Tây nắm giữ, thế nên, nhũng hình ảnh về Phương Đông chủ yếu được định hình bởi những quan điểm phương Tây, đặc biệt và được kiểm duyệt trong những công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu chuyên môn về Phương Đông (Orientalists). Said giải thích cho thấy hoạt động của chủ nghĩa thực dân, không chỉ qua quân sự nhưng còn qua văn học; không chỉ qua chinh phục lãnh thổ nhưng còn qua nhân loại học; không chỉ qua sự áp bức, nhưng còn được biện minh qua thuật kể (văn học, tư tưởng). Ông đã cho thấy phương Tây vẽ bức tranh 'Phương Đông như thế nào: – rập khuôn, một chiều – như trong hình ảnh những người thổi kèn dụ rắn, vũ nữ múa bụng, những tên trộm – những nhân vật lạ thường, bí ẩn (exotic) những hậu cung xa họa gợi nhục dục, sa đọa (harem). Said đã quan sát sự mô tả này trong văn học phương Tây thế kỷ 19, và những tiếng vang vẫn tồn tại trong văn hóa hiện đại. Bật tivi, đọc báo, xem phimảnh – bạn đang được kể câu chuyện gì? 'Chúng ta' đối lại với 'bọn họ', 'lý trí' đối lại với 'phi lý', văn minh đối lại với man rợ. Điển hình, người châu Phi thường được dán nhãn như những kẻ chuyên quyền tham nhũng hay những nạn nhân chết đói, người Mỹ Latinh như những trùm ma túy, những cầu thủ bóng đá hay những nhà độc tài, Những người Ả Rập như những kẻ khủng bố hoặc những người đa thê, hay khinh phụ nữ, [Said còn viết Culture and Imperialism / Văn hóa và chủ thuyết đế quốc (1993). Nhũng ý tưởng trong Orientalism mở rộng trọng tâm khám phá, tìm xem văn học và văn hóa, ngoài những trình bày của phương Tây về phương Đông, đóng những vai trò quan trọng thế nào trong việc duy trì những ý hệ tư tưởng đế quốc và những cơ cấu quyền lực. Nhưng ở đây, tôi không thể đi xa đến thế]

 

Những quan điểm thiên vị thường gán những đặc điểm tiêu cực cho người Palestine, lập lại những mẫu rập khuôn (stereotypes) ​​bất công. Trong xung đột Israel-Palestine, Said vạch trần những thành kiến và tiêu chuẩn kép – áp dụng cho người nhưng không cho mình – phổ biến trên những phương tiện truyền thông, trong giới học thuật và những nói viết chính trị phương Tây. Ông chỉ trích việc bóp méo thuật kể của người Palestine, mô tả họ như có bản chất bạo động, khuynh hướng gây hấn. Trong khi mô tả Israel như một quốc gia dân chủ và văn minh, bị vây khổn giữa khối Ả Rập thù địch đông đảo. Những mô tả một chiều và sai lạc như vậy, nhấn mạnh vào xung đột chính trị nhưng bỏ qua bối cảnh rộng hơn của văn hóa. Đôi khi chúng liên kết một cách bất công chủ yếu với những hành động khủng bố, đơn giản hóa quá mức những vấn đề địa chính trị phức tạp và nguồn gốc lịch sử của xung đột. Một đặc điểm tiêu cực khác là mô tả xã hội Palestine như lạc hậu, chậm tiến, và xem thường những thành tựu vốn thách thức những mẫu rập khuôn này. Ngoài ra, những mô tả thiên vị có thể nhấn mạnh vào những tin tưởng tôn giáo hoặc chính trị trong một cách thức định hình người Palestine như cuồng tín hoặc không khoan nhượng, bỏ qua sự đa dạng của những quan điểm trong chính dân chúng Palestine Những hành động chống lại sự chiếm đóng của Israel có thể sẵn sàng bị coi là xâm lược’/’khủng bố’, không công nhận sự chống áp bức của họ như một quyền tự nhiên, hay không xem xét bối cảnh lịch sử rộng lớn của xung đột giữa Israel-Palestine. Lập luận của Said không phải để xác nhận những mô tả này nhưng để thách thức chúng, ủng hộ một cách nhận hiểu tế nhị và quân bình hơn về thuật kể của người Palestine. Kêu gọi hãy để người Palestine tự trình bày những thuật kể hành động cá nhân hay cộng đồng, những bày tỏ quan điểm, kinh nghiệm và câu chuyện của riêng họ, không để bị ảnh hưởng hay tác động bóp méo từ bên ngoài. Trong đấu tranh của người Palestine hãy để họ có được tiếng nói đại diện đích thực, trả lại câu chuyện của họ cho chính họ, để có được những trình bày đi đến một hiểu biết chân thực hơn về lịch sử, văn hóa và những khát vọng của họ

 

Edward Said còn viết thêm về Israel và Palestine, trong The Question of Palestine / Vấn đề về Palestine (1979), The Politics of Dispossession / Chính trị của sự chiếm hữu (1994), và The End of the Peace Process / Bế tắc của tiến trình hòa bình (2000). Trong chúng, ông đi sâu vào xung đột lâu dài giữa Israel.và Palestine Theo Said, nguồn gốc của xung đột mở rộng sang những lĩnh vực lịch sử và chính trị, đặc biệt chịu ảnh hưởng những yếu tố như chủ thuyết thực dân, chủ thuyết dân tộc và những động lực địa chính trị. Sự tập trung của ông vào hệ tư tưởng Zionism, những can thiệp từ bên ngoài và sự mất cân bằng quyền lực, nhấn mạnh tác động của chúng trong việc định hình xung đột. Said phê phán việc tước quyền sở hữu của người Palestine, phân tích hậu quả của những quyết định chính trị và ủng hộ một giải pháp công bằng, đề cao quyền sống và phẩm giá của người Palestine. Tác phẩm của ông thách thức những thuật kể thịnh hành, kêu gọi một hiểu biết sâu xa, toàn diện hơn về sự phức tạp tiềm ẩn trong xung đột Israel-Palestine.

 

Trong nghiên cứu của Said, những khía cạnh văn hóa và lịch sử chiếm vị trí trung tâm. Ông đưa ra những hiểu biết độc đáo khác biệt với những phân tích địa chính trị của Chomsky. Said giới thiệu một bài phê bình văn hóa qua khái niệm Orientalism của ông, tiết lộ cách những đại diện của phương Tây về phương Đông, bao gồm cả Palestine, được định hình như thế nào bởi những thành kiến sâu xa và động lực quyền lực đế quốc. Ông lập luận rằng những thành kiến này đóng một vai trò then chốt trong việc hình thành nhận thức về xung đột. Hơn nữa, Said khám phá cách những quan điểm của Orientalism duy trì sự bóp méo thuật kể của người Palestine bằng tác động đến những cấu trúc lịch sử và văn hóa. Sự bóp méo này, bắt nguồn từ những mô tả quá đơn giản và thiên vị, tác động đến sự hiểu biết toàn bộ và quyết định những chính sách. Ủng hộ sự tự trình bày Said kêu gọi người Palestine lấy lại lời kể của họ. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của việc cho phép những cá nhân và cộng đồng thể hiện kinh nghiệm và thuật kể của họ một cách chân thực, không bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đặt xung đột trong một bối cảnh rộng hơn, Said xem xét tác động hỗ tương giữa chủ thuyết thực dân, chủ thuyết dân tộc và những động lực địa chính trị, cung cấp một sự hiểu biết toàn diện về sự phức tạp của nó. Ông thu hẹp khoảng cách giữa văn hóa và chính trị, tiết lộ những thành kiến văn hóa, như được phản ánh trong Orientalism, có những hậu quả cụ thể như thế nào với những quyết định chính trị, nhận thức của công chúng và hoạch định chính sách.

 

Những công trình của Said nổi bật vì ông đã nhân văn hóa những kinh nghiệm của Palestine, thách thức những định kiến ​​tiêu cực và ủng hộ một sự hiểu biết nhạy cảm và công bằng hơn, hướng đến một thừa nhận về sự đa dạng và phức tạp của xã hội Palestine. Những tác phẩm này của ông đóng góp vào việc đưa ra một xem xét phân tích nhiều mặt về xung đột Israel-Palestine, làm phong phú những viết nói về Palestine với những hiểu biết về văn hóa, lịch sử và chính trị.

 


(c ) Gaza in Crisis / Gaza trong khủng hoảng của Noam Chomsky và Gaza: An Inquest into Its Martyrdom /Gaza: Một điều tra về sự thống khổ và cái chết bi thảm của nó của Norman G. Finkelstein là hai quyển sách đề cập đến xung đột Israel-Palestine, đặc biệt là tình hình Gaza. Cả hai quyển sách đều chỉ trích những chính sách và hành động của Israel, đồng thời tó cáo những vi phạm nhân quyền cũng như tội ác chiến tranh mà Israel đã gây ra với dân chúng Palestine. Cả hai quyển sách cũng phân tích vai trò của Mỹ và những cường quốc phương Tây khác (UK, France, Germany) trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho sự xâm lược của Israel cũng như việc những phương tiện truyền thông bóp méo và thao túng sự thật. Cả hai quyển sách đều dựa trên nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn như báo cáo nhân quyền, nghị quyết của Liên hợp quốc, lời kể của nhân chứng và tài liệu lịch sử.

 

Gaza Trong Khủng Hoảng là một tập hợp những cuộc phỏng vấn và tiểu luận của Noam Chomsky, đề cập trực tiếp về lịch sử và tình hình hiện tại của sung đột Israel-Palestine tập trung hiện nay ở Gaza, cũng như những triển vọng và thách thức với một giải pháp hòa bình và công bằng cho xung đột dai dẳng ngày càng khốc liệt này.

 


(d) Gaza: An Inquest into Its Martyrdom / Gaza: Một điều tra về sự thống khổ và cái chết bi thảm của nó là quyển sách của Norman G. Finkelstein (một nhà khoa học chính trị, giáo sư đại học, và con của một gia đình sống sót Holocaust) trình bày một điều tra được nghiên cứu tỉ mỉ về sự tuẫn đạo của Gaza. Quyển sách bao gồm khoảng thời gian từ 2004 đến 2016, trong đó Israel tiến hành 8 chiến dịch tàn khốc nhằm vào Gaza, giết chết hàng nghìn dân thường, tàn bạo phá hủy những cơ sở hạ tầng và áp đặt lệnh phong tỏa khắc nghiệt. Quyển sách cũng xem xét vai trò của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những tổ chức nhân quyền, trong việc không bảo vệ và chống đỡ được cho Gaza. Quyển sách là một tôn vinh cho sự kiên cường và dũng cảm của người dân Gaza, những người đã chịu đựng những đau khổ không thể tưởng tượng được và tiếp tục chống lại áp bức.

 

Trong The Holocaust Industry: Reflections on the Exploitation of Jewish Suffering / Kỹ nghệ của thảm sát diệt chủng Holocaust: Suy ngẫm về việc khai thác đau thương của người Jew (2000), Norman Finkelstein đã đặt ra thuật ngữ “Kỹ nghệ của thảm sát diệt chủng Holocaust” để mô tả những gì ông coi là việc lạm dụng ký ức tập thể về thảm họa diệt chủng của những người Jew ở Europe thời Nazi để nhằm đạt những quyền lợi chính trị và thu hoạch tài chính. Theo Finkelstein, việc khai thác như một ‘kỹ nghệ’này chủ yếu do những tổ chức tổ chức lãnh đạo và những nhân vật cầm đầu trong cộng đồng Jew ở US dàn dựng..

 

Lập luận của Finkelstein vượt xa từ ngữ; ông cho rằng Holocaust, ban đầu là một thảm kịch lịch sử, đã chuyển thành một ý hệ tư tưởng. Theo quan điểm của ông, sự chuyển đổi này đã làm băng hoại văn hóa Jew và sự tưởng nhớ chân thực về Holocaust, khiến ông gọi nó là “kỹ nghệ khai thác Holocaust”. Trong phân tích, Finkelstein mổ xẻ cẩn thận hoạt động của ‘kỹ nghệ khai thác’này. Ông lập luận rằng việc bày tỏ quan tâm với đau khổ của người Jew trong Thế chiến thứ hai chỉ đạt được động lực sau khi thành lập “Kỹ nghệ khai thác Holocaust”. Finkelstein nêu lên chiến lược tính toán đúng thời điểm này đã lên khung hình ảnh Israel như một quốc gia “nạn nhân”, bất chấp những gì ông cho là những vi phạm nhân quyền của Israel, đặc biệt liên quan đến những sách lược và hành động của quốc gia này với dân chúng Palestine (“Sự xúc phạm lớn nhất với ký ức về nạn diệt chủng không phải là phủ nhận nó mà lấy nó làm cái cớ để biện minh cho nạn diệt chủng người dân Palestine”).  Finkelstein giới thiệu thêm khái niệm “vét túi hai lượt”. Thuật ngữ này đề cập đến việc khai thác kép, tìm kiếm sự bồi thường tài chính từ cả những nước châu Âu và những người Jew có yêu sách hợp pháp (nạn nhân của Nazi). Ông chỉ trích vơ vét hai lớp này là một hình thức bóc lột trong ngành kỹ nghệ khai thác Holocaust. Kết luận mạnh mẽ của ông là kỹ nghệ khai thác Holocaust đã phát triển thành một nơi tống tiền trắng trợn, gây ra những lo ngại về mặt đạo đức về hoạt động của nó cũng như tác động của nó với những câu chuyện lịch sử và việc bồi thường nạn nhân Holocaust.

 

 

(e) The Ethnic Cleansing of Palestine / Thanh lọc sắc tộc ở Palestine của Ilan Pappé

…. Lúc đầu, đây là những người Palestine thế tục, những người Palestine theo đạo Ki, những người đã tạo ra phong trào kháng chiến của người Palestine. Đó không phải chỉ là những người Muslim. Đố đã không phải là chính trị. Islam. do dẫn đến đấu tranh vũ trang của người Palestine không phải vì họ bài Jew, muốn giết người Jew, hay thù ghét người Jew. Họ buộc phải làm vậy vì phong trào Zionism đến từ Europe, như một phong trào định cư đã dùng vũ lực chiếm quê hương của họ. Và không chỉ chiếm nhưng còn bắt đầu đuổi họ ra khỏi đất của họ. Nó bắt đầu vào những năm 1920, và sau đó là đợt trục xuất lớn vào năm 1948. Và việc trục xuất tiếp tục vào năm 1967. Và kể từ năm 1967, và như chúng ta đã biết, cho đến ngày 7 tháng 10 (2023), và sau ngày 7 tháng 10, Israel vẫn tiếp tục trục xuất người Palestine, khỏi cả hai vùng đất – Gaza và West Bank. Đây là bối cảnh. Bối cảnh là người Palestine phản ứng với bạo lực. Họ không khởi xướng bạo lực. Nguồn gốc của bạo lực là hệ tư tưởng Zionism. Tôi không biện hộ cho mọi việc Hamas đã làm. Ý tôi là, Hamas đã làm những việc lẽ ra không nên làm vào ngày 7 tháng 10. Hãm hiếp phụ nữ không phải là phần của quyền tự vệ. Có những điều đã làm (của họ) mà tôi nghĩ là phản-Islam. Và đó là điều đáng tiếc. Tôi biết nó đến từ đâu; bạn đã nhốt người ta trong 17 năm. Bạn ném bom họ từ trên không, và họ thoát ra ngoài; mọi chuyện đều có thể vượt khỏi tầm tay. “Tất nhiên, điều quan trọng nhất mà tôi tìm thấy ra là người Palestine đã trở thành những người tị nạn, không phải vì chiến tranh nhưng vì họ đã bị quân đội và những nhà lãnh đạo Zionism thanh lọc sắc tộc khỏi Palestine. Và đó là một thanh lọc sắc tộc có chủ ý. Và điều đó, tất nhiên, sẽ thay đổi toàn bộ quan điểm của bạn về lý do tại sao lại có người tị nạn, tại sao lại có phản kháng của người Palestine (Ilan Pappe, lập lại trong nhiều phỏng vấn)

 

The Ethnic Cleansing of Palestine / Thanh lọc sắc tộc ở Palestine của Ilan Pappé, sử gia người Israel, giáo sư đại học Exeter, UK. Ilan Pappe đem cho một tường thuật lịch sử về những sự kiện quanh sự thành lập Nhà nước Israel năm 1948. Pappe biện luận rằng những gì xảy ra trong thời kỳ đó không chỉ là chiến tranh giữa Israel và Palestine nhưng là một kế hoạch qui mô có chủ định rhanh lọc sắc tộc. Quyển sách đi sâu vào những chiến dịch cưỡng bức di tản hàng trăm nghìn người Palestine, tàn phá hàng loạt làng mạc Palestine hậu qua là xóa bỏ lịch sử và bản sắc dân tộc của người bản địa Palestine. Pappe thách thức những thuật kể chính thức của Israel và ông trình bày một quan điểm trong đó nhấn mạnh trên sự quan trọng của việc nhìn nhận cái giá phải trả về con người và những hậu quả của những sự kiện lịch sử năm 1948. Xuất bản năm 2006, quyển sách trình bày một cái nhìn lịch sử về xung đột Israel-Palestine thách thức những tường thuật phổ biến hiện hành.

 

The Ethnic Cleansing of Palestine tập trung vào những sự kiện của chiến tranh Palestine năm 1948, trong đó khoảng 720.000 người Ả Rập Palestine trong tổng số 900.000 người sống ở những vùng đất sau trở thành Israel đã phải bỏ chạy để lánh nạn chiến tranh, hay bị trục xuất khỏi nhà cửa đang sinh sống trong phố phường, làng mạc của họ. Pappé, qua sử liệu Israel, chứng minh rằng đây không phải là những hệ quả thường lệ của chiến tranh, nhưng là mục tiêu chiến đấu có chủ đích của những đơn vị quân đội Israel thời kỳ đầu, do David Ben-Gurion (sau thành thủ tướng đầu tiên của Israel) tổ chức, người Pappé gọi là “kiến trúc sư của thanh lọc sắc tộc”. Luận điểm trọng tâm của Pappé thừa nhận rằng việc cưỡng bức di cư những người Palestine là mục đích của phong trào Zionism, vì đặc tính mong muốn của một nhà nước Israel (như tạo dựng một quê nhà cho những người Jew ở Palestine, thành lập một nhà nước Israel có chủ quyền, nuôi dưỡng một bản sắc văn hóa mạnh mẽ, và bảo đảm an ninh lâu dài cho người Jews, qua những mục tiêu là phải chiếm đa số tuyệt đối trong thành phần dân chúng của quốc gia Israel mới lập). Pappé nêu rõlà sư xua đuổi và ép buộc những người Palestine phải di cư sang những quốc gia Ả Rập lân cận là trong mục tiêu của phong trào Zionism, và là điều bắt buộc những người Zionism, phải thực hiện để có được tính chất mong muốn của nhà nướcIsrael riêng cho những người Jew. Ông nêu lên rằng việc trục xuất và bỏ chạy của người Palestine năm 1948 là kết quả của một kế hoạch thanh lọc sắc tộc ở Palestine được thực hiện bởi những nhà lãnh đạo phong trào Zionism, chủ yếu là David Ben-Gurion và mười thành viên khác trong “nhóm tư vấn” của ông. Quyển sách biện luận rằng việc thanh lọc sắc tộc đã thực hiện có hiệu lực qua việc trục xuất có hệ thống khoảng 500 ngôi làng Ả Rập, cũng như những tấn công khủng bố được thực hiện chủ yếu bởi những thành viên của những đội quân Irgun và Haganah nhằm vào dân thường (hai tổ chức bán quân sự đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ trước khi thành lập Nhà nước Israel năm 1948. Cả hai nhóm đều tham dự vào việc bảo vệ những cộng đồng Jew ở Palestine thuộc quyền quản lý của UK và góp phần thành lập Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) sau này). Pappé cũng đề cập đến Plan Dalet và những hồ sơ của những làng bị xóa như bằng chứng của kế hoạch trục xuất.

 

Kế hoạch D (Dalet): Đây là một kế hoạch được hình thành ngày 10 tháng 3 năm 19481. Pappé biện luận rằng việc thanh lọc sắc tộc không phải là một trường hợp xảy ra như tác động phụ, không tránh được, trong chiến tranh, nhưng là một mục tiêu chiến đấu có chủ ý của những đơn vị quân đội Israel trong thời kỳ đầu, do David Ben-Gurion1 tổ chức. Pappé gọi David Ben-Gurion là “kiến trúc sư thanh lọc sắc tộc”. Ông cho thấy Ben-Gurion đã gặp những người dẫn đầu phong trào Zionism và những sĩ quan quân đội Jew mới lập, ngày 10 tháng 3 năm 1948 để hoàn tất kế hoạch thanh lọc sắc tộc ở Palestine. Những kế hoạch này được triển khai trong những tháng tiếp theo, gồm “đe dọa quy mô lớn; bao vây và bắn phá những làng mạc và trung tâm dân cư; đốt nhà cửa, tài sản và hàng hóa; trục xuất; phá hủy; và cuối cùng là đặt mìn giữa đống đổ nát để ngăn chặn bất kỳ cư dân bị trục xuất nào quay trở lại. Giải thích của Pappé về Kế hoạch D đã bị nhà sử học Yoav Gelber chỉ trích. Benny Morris, một nhà sử học khác, đã nêu lên một số giải thích biện hộ khác. Ban đầu, Benny Morris, tuyên bố rằng di cư là “kết quả của chiến tranh, không phải mục đích”, nhưng sau đó ông nhìn nhận rằng những gì xảy ra năm 1948 ở Palestine là một loạt thanh lọc sắc tộc của người Jew.ở những khu vực Ả Rập Palestine.

 


The Ethnic Cleansing of Palestine bổ sung vào thảo luận đang diễn ra về xung đột Israel-Palestine qua sự trình bày một câu chuyện lịch sử được nhìn lại với phê phán phân tích và đưa ra những quan điểm mới về những sự kiện năm 1948. Về cơ bản, cuốn sách thách thức những tài liệu lịch sử đã được thiết lập, nêu bật bản chất có chủ ý của việc thanh lọc sắc tộc trong xung đột năm 1948 và tiết lộ sự tham gia của những nhà lãnh đạo phong trào Zionism có ảnh hưởng trong việc định hình những sự kiện này. Mặc dù tác phẩm của Ilan Pappe đã gây nhiều phản bác và tranh luận, nhưng nó đồng thời cũng tác động đến những thảo luận về Nakba, thúc đẩy một thẩm định lại những quan điểm lịch sử liên quan đến xung đột Israel-Palestine.

 

Trong một bài viết trên the Palestine Chronicle (2023) Ilan Pappe, tác giả của The Ethnic Cleansing of Palestine, cũng đã trình bày nguồn gốc lịch sử của Zionism, tập trung vào vai trò của những cường quốc phương Tây, đặc biệt là UK và US, trong sự hỗ trợ cho việc thành lập nhà nước Israel. Ông lập luận rằng những nỗ lực của phương Tây nhằm đền bù cho thái độ bài-Jews (anti-Semitism) trong nhiều thế kỷ đã chuyển thành một sự ủng hộ mù quáng dành cho Israel, đồng thời làm ngơ trách nhiệm của họ với một thái độ bài-Islam (Islamophobia) lịch sử, đã hình thành nên dự án Zionism, với cái giá phải trả là những hậu quả tiêu cực cho người dân Palestine và vùng đất của họ.

 

Mô hình thuộc địa của người định cư trong trường hợp của Palestine được nhấn mạnh trên bối cảnh chủ thuyết đế quốc thực dân trong đó thực hiện được dự án thuộc địa của người định cư. Ilan Pappe cho rằng nếu không có sự hậu thuẫn của đế quốc, những người định cư thực dân không thể tự lập trên lãnh thổ thuộc địa. Trách nhiệm về việc di tản  hàng loạt dân Palestine bản địa được quy cho phong trào chiếm đất, xua dân ở thuộc địa của những người định cư Jews đến từ Europe, nhưng liên minh giữa Kitô Thê phản, giới cầm quyền chính trị và lớp quý tộc UK đã tạo ra một biện minh cho dự án Zionism. Ilan Pappe lập luận rằng tiến trình Zion-hóa Palestine (thúc đẩy những mục tiêu và lý tưởng của Zionism), dẫn đến Nakba năm 1948, đã có thể thực hiện được nhờ vào một liên minh mạnh mẽ của phương Tây. Khi tiến trình giải thực dân và giải phóng Palestine thành một hiện thực, Ilan Pappe nêu lên rằng để nhìn nhận trách nhiệm của phương Tây thực có ý nghĩa hơn, những người Kitô Thê phản nên nhận trách nhiệm về vai trò của họ trong việc phá hủy Palestine. Một khía cạnh lịch sử quan trọng nhấn mạnh là Zionism ban đầu là một dự án của Kitô Thê phản, điều này thường bị bỏ qua khi tìm hiểu lý do UK ủng hộ dự án Zionism của người Jew. Kitô-Zionism ủng hộ Jew-Zionism vì một số lý do. Đầu tiên, nó dựa trên những tin tưởng gót học mạnh mẽ, xuất phát từ những lời tiên tri và giải thích trong Kinh thánh. Ngoài ra, nó gắn chặt với gót học thời tận thế , dự đoán sự trở lại của Giêsu và những sự kiện liên quan trong Kinh thánh. Kitô-Zionism cũng giải thích việc tái lập Israel là sự thực hiện những lời hứa thiêng liêng. Cuối cùng, Jew-Zionism của Kitô Thê phản bày đoàn kết với người Jews như nhắm đến giải quyết những ân hận lịch sử và vun trồng sự ủng hộ cứu cánh của họ. Liên minh giữa những người Kitô Thê phản, tầng lớp thống trị UK và giới lãnh đạo UK-Jew đã tạo những điều kiện thuận lợi cho sự khởi đầu của tiến trình thúc đẩy thực hiện những mục tiêu và lý tưởng của Zionism ở Palestine, và liên minh này tiếp tục bảo vệ Israel sau đó. Ilan Pappe đi sâu vào nguồn gốc lý thuyết của Zionism, truy ngược về những động cơ gót học của những người theo đạo Kitô Thê phản, gồm sự kết hợp giữa bài-Jews (anti-Semitism) và ngường mộ/đề cao-Jews (Philo-Semitism). Xu hướng của Đạo Kitô Thê phản đóng khung đạo Juda như một chủng tộc hoặc quốc gia, đã ảnh hưởng đến sự xuất hiện của những ý tưởng tương tự trong giới trí thức Jew ở Europe giữa thế kỷ 19. Sự quan trọng chiến lược của Palestine ở Trung Đông, và mong muốn loại bỏ người Jew ở Europe đã khiến những người Kitô Thê phản ở UK ủng hộ một Palestine của người Jew. Liên minh giữa tầng lớp quý tộc Jew và những nhà lãnh đạo chính trị, đặc biệt là Arthur Balfour, đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chính phủ UK hướng tới chiến lược thành lập một nhà nước Jew ở Palestine. Chính sách chính thức của UK nhằm biến Palestine thành một quốc gia Anh-Jew được thành lập vào năm 1915 và được công bố trong Tuyên bố Balfour năm 1917. Sự thành công của những nỗ lực vận động hành lang cho Zionism, bắt đầu với những người Kitô Thê phản và sau đó được tầng lớp quý tộc Anh-Jew tiếp nhận, đã gây ra những hậu quả tai hại cho những người Palestine, cao điểm là sự kiện Nakba năm 1948. Ilan Pappe kết luận rằng việc thành lập một nhà nước theo Zionism không chỉ là một kết quả của quyết định của UK tiếp quản Palestine nhưng đồng thời cũng biến nó thành một nhà nước Zionism.

 

(f) Với Uk, Germany, France, Russia – Thời Kỳ Đầu:

 

Legacy of Empire: Britain, Zionism, and the Creation of Israel / Di sản của Đế quốc UK, Zionism và Sự hình thành Israel, phân tích lịch sử của Gardner Thompson xem xét vai trò then chốt của UK trong việc thành lập nhà nước Israel. Quyển sách đi sâu vào việc chính phủ UK áp dụng Zionism về mặt chính trị, đặc biệt thông qua việc ban hành Tuyên bố Balfour năm 1917 và việc duy trì tuyên bố này như một nền tảng ở Palestine sau Thế chiến thứ nhất. Thompson cho rằng xung đột Ả Rập-Jew đã được châm ngòi bởi những người thực dân Zionism và được thúc đẩy bởi sự tham gia của UK. Tác giả lập luận rằng Thế Chiến Thứ Nhất đóng một vai trò quan trọng trong việc thuyết phục UK ủng hộ những mục tiêu của Zionism. Nếu không có sự ủng hộ của những nhân vật như những người Kitô-Zionism như Lloyd George và Balfour, Tuyên bố Balfour có thể vẫn chỉ là khát vọng của những nhân vật chủ chốt Jew-Zionism như Chaim Weizmann. Quyển sách khám phá những tác động của phong trào bài-Jews (antisemitism) ở châu Âu Kinhư một động lực thúc đẩy việc định cư của người Jew ở Ottoman Palestine. Thompson cảm tình mạnh mẽ hơn với người Palestine, mô tả những người định cư Jew là những kẻ xâm lăng và gán cho Israel làquốc gia của những người định cư thuộc địa của châu Âu. Nó nghiêm trọng xem xét vai trò của UK trong việc tạo ra xung đột Israel-Palestine, cho rằng đó là một tham vọng thuộc địa và nhằm giải quyết những quan tâm chính trị trong UK. Tóm lại, quyển sách của Thompson đem cho một khám phá sâu hơn về sự đóng góp của UK trong việc thành lập Israel và sự di cư lơn lao sau đó của người Palestine, đưa ra một góc nhìn phê phán về những sự kiện lịch sử hình thành đã nên cuộc xung đột Israel-Palestine kéo dài đến ngày nay.

 

Germany and Israel: Moral Debt and National Interest Germany và Israel: Nợ đạo đức và lợi ích quốc gia:(1997) Quyển sách này đi sâu vào quan hệ phức tạp giữa Germany và Israel, tập trung vào hậu quả của thảm họa Holocaust.

Sự hỗ trợ của Germany dành cho Israel thực sự bị ảnh hưởng bởi trách nhiệm lịch sử của nước này phát sinh từ Holocaust. Cuộc diệt chủng sáu triệu người Jews trong thời kỳ Nazi đã có tác động sâu xa đến sự tồn tại của Germany ngày nay, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách và định hình quan điểm của nước này về thế giới.

 

Khi nói đến Israel, quốc gia được thành lập với tư cách là nhà nước Israel ba năm sau Holocaust, Germany nhận một “trách nhiệm đặc biệt”. Cam kết của Germany với Israel không chỉ là một mục tiêu trong chính sách ngoại giao; nó là phần cơ bản của sự tồn tại của nước Đức ngày nay. Điều đó khiến an ninh và sự tồn tại của Israel trở thành “Staatsräson” (đảm bảo an ninh và sự tồn tại của Israel là một cơ bản trong chính sách nhà nước và lợi ích quốc gia của Germany). West Germany bồi thường tài chính cho Israel vào năm 1952 đánh dấu sự khởi đầu quan hệ ngoại giao của họ. Tuy nhiên, Israel cho rằng Germany không chỉ nợ về tài chính nhưng còn nợ về đạo đức, dẫn đến những kỳ vọng về viện trợ và bảo vệ them hơn. Xem xét động cơ đằng sau sự hỗ trợ của Germany, quyển sách theo dõi sự phát triển trong quan hệ của hai nước khi Germany giành được ảnh hưởng trên thế giới. Nó đem cho cái nhìn sâu xa về sự cân bằng mong manh giữa trách nhiệm đạo đức và lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế. Tóm lại, sự hỗ trợ của Germany dành cho Israel, bắt nguồn từ vấn đề Holocaust có nhiều màu sắc, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, gồm cả những cân nhắc về địa chính trị hiện tại.

 

Strategic Nuclear Sharing / Chia sẻ chiến lược nguyên tử (2014) của Julian Schofield và Israel and the Bomb (1998) / Israel và bom đạn của Avner Cohen: trình bày vai trò của France đã đóng một vai trò quan trọng trong chương trình ngầm chế tạo vũ khí nguyên tử của Israel, đặc biệt là trong những mười năm đầu sau khi Israel mới được độc lập. Hợp tác bắt đầu vào giữa những năm 1950, với việc France tìm kiếm sự hỗ trợ tình báo của Israel để đổi lấy vũ khí. Sự hợp tác này đã phát triển thành hỗ trợ về năng lượng nguyên tử trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956.

 

ng hộ của Russia với Zionism: Một số sách đã làm sáng tỏ sự ủng hộ của Russia với phong trào Zionism và việc thành lập nhà nước Israel: Được thúc đẩy bởi mong muốn giải quyết “Vấn đề Jew” ở Russia, Russia đã hỗ trợ Russia's hoạt động và tổ chức theo Zionism trong đầu thế kỷ 20. Sự hỗ trợ này còn mở rộng đến việc tán thành Tuyên bố Balfour năm 1917, phù hợp với việc thành lập “quê nhà cho người Jew” ở Palestine.Những Hậu quả từ sự hỗ trợ của Russia là rất đáng kể, góp phần vào sự thành lập Nhà nước Israel năm 1948. Tuy nhiên, nó cũng dẫn đến quan hệ phức tạp giữa Russia và Israel, đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh.Những phương diện này được khám phá trong những quyển sách của B.J. Horowitz, như “Vladimir Jabotinsky: Người theo Zionism ở Russia, 1900-1925 (2020), Jewish Philanthropy and Enlightenment in Late-Tsarist Russia (2009)/ Từ thiện của người Jew và sự Khai sáng ở nước Russia hậu Sa hoàngEmpire Jews: Jewish Nationalism and Acculturation in Nineteenth and Early Twentieth Century Russia. Người Jew ở Đế quốc: Chủ nghĩa dân tộc Jew và sự tiếp biến văn hóa ở thế kỷ 19 và đầu Nước Russia thế kỷ 20. (2009) Chúng đem cho sự hiểu biết toàn diện về những phương diện độc đáo của quan hệ quốc tế Russia-Israel này.