LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DUY
VẬT
Và Phê Bình về Sự Quan
Trọng Hiện nay Của Nó
Friedrich Albert Lange
(1829 –1875)
Giai Đoạn Chuyển Tiếp
Chương I.
Những tôn giáo tin-chỉ-một-gót trong quan hệ của chúng với tư tưởng Duy
vật.
Sự biến mất của văn minh thời cổ trong những thế kỷ đầu của kỷ nguyên
Kitô là một biến cố với những vấn đề nghiêm trọng của nó, phần lớn trong đó đã
còn chưa giải thích.
Theo dõi những biến cố phức tạp của Đế quốc Rome trong tất cả phạm vi mở
rộng của chúng, và thấu hiểu những sự kiện quan trọng, là điều đã đủ khó
khăn; nhưng thật còn khó khăn hơn nhiều, đến không thể so sánh, để ước
tính trong phạm vi đầy đủ của chúng, những hoạt động của những thay đổi, dẫu
nhỏ nhưng vô tận, đã nhân lên bội phần, trong diễn tiến hàng ngày của những
quốc gia, giữa lòng của những tầng lớp xã hội thấp kém hơn, bên bếp lửa những
gia đình nghèo khó, cho dù ở thành thị hay thôn quê. [1]
Không may, chúng ta đã từng quen để nhìn điều gọi là luật, vốn chi phối
sự phát triển của triết học như một sức mạnh làm việc bí ẩn khác thường, vốn nó
tất yếu đưa chúng ta từ ánh sáng của kiến thức về lại trong đêm tối của sự mê
tín, chỉ để bắt đầu lại diễn tiến của nó, từ đó dưới những hình thức mới hơn và
cao hơn. Nó là với sự thúc đẩy này của sự phát triển quốc gia cũng như nó
là với sức mạnh sống động của những sinh vật. Nó là ở đó – nhưng có chỉ
như kết quả của tất cả những sức mạnh tự nhiên. Để giả định nó, thường
xuyên giúp những quan sát của chúng ta; nhưng nó phủ lên tấm màn không
chắc chắn của chúng, và dẫn đến những sai lạc, nếu chúng ta đặt nó xuống như
một giải thích thêm vào bên cạnh của những những yếu tố với tổng số của nó, nó
thì thực sự giống hệt nhau.
Cho mục đích của chúng ta, là tốt để đừng quên rằng sự thiếu hiểu biết
không thể là kết quả thích hợp của kiến thức, hay thất thường bất chợt, dù
tuyệt vời, là kết quả của phương pháp; rằng tư tưởng duy lý chính nó thì
không, và không bao giờ có thể dẫn chúng ta trở lại sự mê tín. Chúng ta đã thấy
như thế nào trong thời cổ, ở giữa tiến bộ của tư tưởng duy lý, về kiến thức,
về phương pháp, tầng lớp quý tộc trí thức đã tách xa khỏi quần chúng. Sự
thiếu vắng một nền giáo dục hoàn toàn phổ thông đã phải đẩy nhanh và làm sâu
thêm sự phân tách này. Chế độ nô lệ, vốn nó trong một ý hướng, là cơ bản
của toàn bộ văn minh trong thời cổ, đã thay đổi tính chất của nó trong thời đế quốc,
và đã trở nên chỉ ngày càng thêm khó có thể duy trì hơn, vì những nỗ lực đã làm
để nhằm cải thiện cơ chế nguy hiểm này. [2]
Giao dịch ngày càng tăng của những quốc gia đã bắt đầu tạo ra, giữa khối
dân chúng mê tín, có tin tưởng và sùng mộ thái quá những hữu thể siêu nhiên,
một sự hoang mang lẫn lộn của những tôn giáo. Chủ nghĩa thần bí phương
Đông đã mập mờ dấu mình dưới lớp màn che mang những hình thức Hellas. Tại
Rome, khi từ những quốc gia bị chinh phục đã đổ xô đến, chẳng mấy chốc, không
có tín ngưỡng nào đã không tìm được những tín đồ, trong khi không có một tín
ngưỡng nào đã không bị đa số dân chúng chế nhạo. Đối với sự cuồng tín của
vô số u mê đã bị phản đối – hoặc bởi một sự khinh miệt nhẹ dạ hoặc một sự thờ ơ
lãnh đạm: sự thành hình của những phe phái đậm nét rõ ràng, có kỷ luật vững
chắc, giữa sự phân chia phổ quát của những quyền lợi ở giữa những tầng lớp
thượng lưu, đã trở nên không thể có được.
Đến một qui mô như vậy, đã mở một đường xuyên qua sự phát triển đáng
kinh ngạc của văn chương, qua những nghiên cứu linh tinh về những quỉ thần tự
phụ, qua giao tiếp hàng ngày, đã ném bỏ những mảnh vụn của những khám phá khoa
học và đã tạo ra tình trạng đó của văn hóa bán khai [3] vốn đã từng được tuyên bố, có lẽ với
ít lý do hơn, để đặc trưng cho thời chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta phải không
quên rằng văn hóa bán khai này đã chủ yếu là tình cảnh của giới giàu có và
quyền lực, của những người có ảnh hưởng đến tận ngai hoàng đế. Sự huấn
luyện xã hội trọn vẹn nhất, những nét xã hội thanh lịch trong đòi hỏi lớn rộng
của công việc giao tiếp, trong một nghĩa triết học, đều quá thường chỉ thống
nhất với những thiếu sót đáng thương nhất, và những nguy hiểm vốn được gán cho
những học thuyết của những triết gia có khuynh hướng để trở nên chỉ quá thực
trong những nhóm người đó, ở đó văn hóa bán khai, phi nguyên tắc, mềm mỏng dễ
uốn nắn, là một nô lệ của những khuynh hướng bản năng tự nhiên hay những đam mê
bệnh tật rối loạn.
Khi Epicurus, với một nhiệt tình cao
cả, đã ném những gông xiềng của tôn giáo đi thật xa, rằng ông có thể là chính
trực và cao thượng, vì là như thế đã là một thích thú lớn, ở đó đã đi đến những
ưa chuộng hoang đàng này của khoảnh khắc, như chúng được Horace, Juvenalis và
Petronius [4] hình dung trong sự đa dạng phong phú, những người, với trâng tráo không
xấu hổ, đã lao vào trong những hình thức phản tự nhiên nhất của thói hư tật
xấu; và ai đã ở đó để bảo vệ Triết học đáng thương, khi những kẻ phóng
đãng truỵ lạc loại như vậy đã nhân danh của Epicurus, nếu quả thực họ đã không
nhân danh của Solomon ? [5]
Sự khinh miệt của tin tưởng phổ thông ở
đây đã được giả định như một mặt nạ cho sự trống rỗng bên trong, hoàn toàn
thiếu vắng của tin tưởng và của kiến thức thực sự. Để cười mỉm trước ý
tưởng về bất tử là một dấu hiệu của vô đạo đức: nhưng thói hư tật xấu, vô đạo
đức, đã do những hoàn cảnh của thời đại, và đã nổi lên không qua, nhưng bất
chấp triết học.
Và trong chính những tầng lớp những nhà
tu của (tôn giáo thờ) Isis này [6] , những người làm bùa phép thần thông, và những nhà tiên tri, với đoàn
tàu đầy lừa bịp múa rối của họ, đã tìm được một mùa gặt sung mãn; không,
đôi khi ngay cả những người Jew đã tìm được một người mới theo đạo. Đám
đông hoàn toàn vô học trong những thị trấn đã có chung tính cách của sự thiếu
tính cách với sự quan trọng trong văn hóa bán khai của họ. Do đấy, đã xảy
ra, sau đó, trong những thời đó, trong nở rộ trọn vẹn nhất, rằng tư tưởng Duy
vật thực tiễn, như nó có thể được gọi – là tư tưởng Duy vật của đời sống.
Về điểm này, cũng vậy, những khái niệm
thịnh hành đòi hỏi một giải thích. Cũng có một tư tưởng Duy vật của đời
sống, vốn bị một số đông rủa sả, nhưng số đông khác đề cao, bên cạnh bất kỳ
khuynh hướng thực tiễn nào khác, vẫn liều lĩnh để cho thấy mặt của nó. [7]
Khi nỗ lực hướng tới không phải sự vui
thú nhất thời, nhưng tới một sự toàn thiện thực của điều kiện sống của chúng
ta; khi năng lượng của công trình vật chất được một tính toán rõ ràng
hướng dẫn, vốn trong tất cả mọi sự vật việc có những nguyên tắc sau cùng trong
quan điểm, và do đó đạt đến mục tiêu của nó; khi đó xảy ra sự tiến bộ
khổng lồ ở đó vốn trong thời chúng ta đã làm England, trong hai trăm năm,
trở thành một dân tộc hùng mạnh, vốn trong Athens của Perikles đã kết hợp
với sự nở bừng cao nhất của đời sống trí thức vốn một đất nước bất kỳ nào đã
từng đạt được.
Nhưng thuộc một tính cách hoàn toàn
khác đã là tư tưởng Duy vật của Đế quốc Rome, vốn tự nó đã lập lại ở Byzantium,
Alexandria và trong tất cả những kinh đô của Đế quốc. Ở đây việc tìm kiếm
tiền bạc cũng đã chi phối vô số những đám đông rối trí bị lạc hướng, như chúng
ta thấy trong những hình ảnh sắc nét của Juvenalis và Horace; nhưng đã
thiếu những nguyên tắc lớn của sự nâng cao sức mạnh quốc gia, của việc sử dụng
cho lợi thế chung của những tài nguyên quốc gia, vốn làm cao thượng một khuynh
hướng duy vật, vì mặc dù chúng bắt đầu từ vật chất, thế nhưng chúng pha trộn
làm nó dậy men với sức mạnh. Điều này sẽ kết quả trong tư tưởng Duy vật
của thịnh vượng: Rome đã biết việc đó của suy tàn. Triết học thì tương hợp
với điều đầu tiên, như với tất cả những gì có những nguyên tắc; triết học
biến mất, hay đúng hơn đã biến mất xong xuôi rồi, khi những kinh hoàng đó bùng vỡ
xảy ra, ở đây chúng ta sẽ giữ để không nói gì cả về chúng.
Tuy nhiên, chúng ta phải chỉ vào một sự
kiện không thể chối cãi, rằng trong những thế kỷ khi những việc làm ghê tởm của
một Nero, một Caligula, hay ngay cả của một Heliogabalus, đã làm nhơ bẩn cả địa
cầu, không triết học nào đã bị sao lãng hơn, không triết học nào đã xa lạ hơn
với tinh thần của thời đại, hơn là với của tất cả những gì vốn đã đòi hỏi sự
tính toán cân nhắc nhất, suy ngẫm lạnh lẽo điềm tĩnh nhất, điều tra tỉnh táo và
thuần túy thông thường dung tục nhất – triết lý của Democritus và Epicurus.
Thời của Perikles đã là thời nở rộ của triết học duy vật và duy cảm của
thời cổ: những thành quả của nó đã chín mùi trong thời kỳ của sự học tập ở
Alexandria, hai trăm năm trước Christ. [8]
Nhưng khi quần chúng dưới thời Đế quốc
đã say sưa với nhiễm độc gấp đôi của thói hư tật xấu và của những huyền bí tôn
giáo, không tìm được người học trò tỉnh táo nào, và triết học đã
chết. Trong những thời đó, như mọi người đều biết, những hệ thống
Plato-Mới và Pythagore-Mới chiếm ưu thắng, trong đó nhiều yếu tố cao quí hơn
của quá khứ đã bị cuồng tín và thần bí phương Đông áp đảo. Plotinus đã cảm
thấy xấu hổ vì ông có một thân xác, và sẽ không bao giờ nói ra tên cha mẹ mình [9]. Ở đây, chúng ta đã có rồi đỉnh cao của khuynh hướng phản-Duy vật
trong triết lý – một yếu tố vốn đã vẫn đã còn mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực vốn nó
đích thực thuộc về – lĩnh vực của Tôn giáo. Chưa bao giờ những tôn giáo
nảy nở với sự xa xỉ hoang đàng như thế và trong trạng thái muôn màu muôn vẻ lớn
rộng như vậy, từ những dạng thức thuần khiết nhất đến ghê tởm nhất, như trong
ba trăm năm đầu tiên sau Christ. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi ngay
cả những triết gia thời này cũng thường xuất hiện như những nhà tu và những ông
tổ truyền đạo. Chủ nghĩa Stôic, học thuyết của nó đã tự nhiên có một bước
ngoặt về gót học, đầu tiên nhường theo khuynh hướng này, và do đó đã được kính
trọng lâu dài nhất trong những trường phái cổ hơn, cho đến khi nó bị thua cuộc
và bị những huyền bí khổ hạnh của phái Plato-Mới thay thế. [10]
Đã thường từng nói rằng hoài nghi và mê
tín khích động và thúc đẩy nhau mạnh thêm; nhưng chúng ta phải đừng cho
phép chính mình bị những phản đề làm lóa mắt. Chỉ bằng cân nhắc những
nguyên nhân cụ thể và bằng phân biệt nghiêm khắc của thời gian và tình thế,
chúng ta có thể thấy nó đúng đến mức độ nào.
Khi một hệ thống khoa học nghiêm ngặt,
dựa trên những nguyên lý vững chắc, trên những cơ sở được cân nhắc kỹ lưỡng,
loại trừ lòng tin tôn giáo khỏi khoa học, chắc chắn nhất, và ngay cả hoàn toàn
hơn, nó sẽ loại trừ tất cả những mê tín mập mờ. Tuy nhiên, trong những
thời và những trường hợp, trong đó những nghiên cứu khoa học cũng rối loạn và
vô tổ chức như những hình thức của lòng tin tôn giáo nguyên thủy và quốc gia,
mệnh đề này quả thực có áp dụng của nó. Nó đã là thế trong những thời đế
quốc.
Khi đó đã có, thực sự, không khuynh
hướng, không cần thiết của đời sống vốn không đã có một hình thức tôn giáo
tương ứng; nhưng bên cạnh những lễ hội bừa bãi của những tín đồ Bacchus,
những bí mật và huyền bí quyến rũ của Isis, đã âm thầm lan tỏa, ngày càng xa và
rộng hơn, lòng thương yêu của một chủ nghĩa khổ hạnh nghiêm khắc và tự phủ
nhận.
Như trong trường hợp những cá nhân là
những người đã trở nên cuồng nhiệt và say mê sau khi cạn kiệt mọi thú vui, ít
nhất cuối cùng, còn lại một quyến rũ của sự mới lạ – đó là của một đời sống
khắc khổ, tự phủ nhận; nó đã như thế trên một quy mô lớn trong thế giới
cổ; và do đó, nó chỉ là điều tự nhiên rằng khuynh hướng mới này, như nó đã
là, trong trái ngược hoàn toàn với sự gợi cảm vui vẻ của thế giới cổ, đã dẫn
con người đến một cực đoan của sự khước từ-thế giới và tự-quên mình.[11]
Đạo Kitô, với lý thuyết mê hoặc quyến
rũ của nó về một vương quốc không thuộc thế giới này, xem dường như để cung ứng
sự ủng hộ đáng thán phục nhất cho những quan điểm này.
Tôn giáo của những kẻ bị áp bức và nô
lệ, của những người mệt mỏi và nặng gánh đời, cũng thu hút những người giàu
sang nhưng không còn hài lòng với xa hoa và phú quí. Và như thế, với
nguyên tắc của tự quên mình, tự khước từ đã đồng minh với nguyên tắc của tình
huynh đệ phổ quát, vốn chứa đựng những thích thú tinh thần mới cho con tim đã
khô héo vì lòng ích kỷ. Khát khao của tinh thần bối rối bất an và cô lập
sau khi một gắn kết chặt chẽ của cộng đồng và một tin tưởng tích cực được thỏa
mãn; và sự thuận hợp bền vững của những người có chung tin tưởng, sự hợp
nhất oai nghiêm của những cộng đồng đang đâm nhánh lan tràn khắp thế giới lớn
rộng, đã tác động đến việc truyền bá tôn giáo mới nhiều hơn khối phép lạ đã thổ
lộ đến những tai nghe sẵn lòng tin tưởng. Nói tóm lại, phép lạ không quá
nhiều như một khí cụ truyền giáo nhưng như một sự bổ sung cần thiết của lòng
tin, trong một thời vốn nó đã không đặt thước đo nào cho thương yêu của nó hay
tin tưởng của nó vào những phép lạ. Về mặt này, đã không chỉ những nhà tu
của Isis và những nhà huyền thuật cạnh tranh với đạo Kitô, nhưng ngay cả những
triết gia cũng xuất hiện trong tính cách của những người làm phép lạ và những
nhà tiên tri được ‘Gót cho phép’. Những chiến công của một Cagliostro và
Gassner [12] trong thời hiện đại đều chỉ là một sao chép mờ nhạt của những trình
diễn của Apollonius người thành Tyana [13], nhà tiên tri nổi tiếng nhất, có phép lạ và sấm truyền được ngay cả
Lucian và Origen đã một phần tin tưởng. Nhưng kết quả của tất cả những sự
vật việc này đã cho thấy rằng chỉ những nguyên tắc đơn giản và nhất quán mới có
thể làm nên một phép lạ lâu dài – ít nhất là phép lạ đó, dần dần hợp nhất những
quốc gia rải rác và tín ngưỡng quanh bàn thờ của những người Kitô. [14]
Đạo Kitô, bằng rao giảng nội dung của bốn
quyển sách chứa đựng chi tiết về đời Jesus (vẫn gọi là kinh thánh mới, hay
‘phúc âm’) cho giới nghèo khổ, đã không có quan tâm với thế giới cổ. [15] Những gì xuất hiện ở trọn vẹn thời gian sẽ như một sự kiện có thực, đã
được tâm lý của ‘đức tin’ tôn giáo nhận hiểu qua óc tưởng tượng – vương quốc của thương yêu, trong đó
‘người hiện ở địa vị cao sẽ bị đem xuống chỗ thấp nhất, còn người hiện ở địa vị
thấp nhất sẽ được mang lên chỗ cao nhất.” [16]. Ý tưởng pháp lý nghiêm khắc của người Rome, vốn xây dựng trật tự
trên vũ lực, và đã làm gia sản thành nền tảng không lay chuyển của những quan
hệ con người, đã được một đòi hỏi đáp ứng, với sức nặng đáng kinh ngạc, rằng
người ta nên từ bỏ mọi yêu sách riêng tư, nên ‘yêu những kẻ thù của mình’, hy
sinh kho báu của mình, và coi kẻ gian ác bất lương trên giàn treo cổ hay thiêu
sống, cũng ngang với bản thân mình.
Một kính sợ thán phục thần bí của những
học thuyết này đã chiếm đoạt thế giới thời cổ, [17] và những người có quyền lực đã hoài công để tìm cách dập tắt một cách
mạng bằng những đàn áp tàn khốc, vốn nó đã lật đổ tất cả những sự vật việc đang
có, và đã khinh thị không chỉ với nhà tù và giàn treo cổ, mà ngay cả với tôn
giáo và luật pháp. Trong sự táo bạo của sự cứu vớt linh hồn vốn một người phản bội đạo Jew, người đã chịu
khổ hình để chết như một nô lệ, đã đem xuống như một quà tặng phúc đức của
người ‘Cha vĩnh cửu’ từ trời cao, giáo phái này đã lần lượt chinh phục những
đất nước, và đã có khả năng, trong khi bám chặt vào những nguyên tắc chính của
nó, dần dần từng chút một để ép đẩy vào trong sử dụng việc sáng tạo những ý
tưởng mê tín dị đoan mới, những thiên hướng cảm xúc mới, những đam mê và những
khái niệm pháp lý mới về thế giới phàm tục của những người ngoại đạo, vì chúng
không thể bị phá hủy hoàn toàn. Chỗ của những gót Olympus cũ, với huyền
thoại giàu sang của nó, đã bị những thánh chiên và tử đạo Kitô chiếm
giữ. Thuyết Kiến thức Bí truyền [18] đã tạo dựng những yếu tố của một triết lý Kitô. Những trường phái Kitô
về tu từ học đã được mở ra cho tất cả những ai là người tìm cách kết hợp văn
hóa cổ với tin tưởng mới. Từ kỷ luật đơn giản và khắc khổ của hội Nhà thờ
buổi đầu đã phát triển những yếu tố của một hệ thống trật tự thứ bậc. Những
thày chăn chiên cấp tỉnh đã gom góp tài sản cho chính họ và sống một đời kiêu
ngạo và phàm tục; đám khố rách áo ôm của những thành phố lớn trở nên say
sưa với sự thù hận và cuồng tín. Sự chăm sóc cho người nghèo đã biến mất,
và người giàu có bằng cho vay nặng lãi đã bảo vệ tiền của của bất lương của họ
bằng một hệ thống cảnh sát. Những lễ hội nhanh chóng giống như nhau trong sự
bừa bãi và phô trương của những người theo chủ nghĩa phàm tục đang băng hoại,
và lòng kính tín của sự tân hiến trong sự dâng trào của những cảm xúc rối loạn
đã hiện ra nhất quyết phá hủy những mầm sống của tôn giáo mới. Nhưng nó đã
không bị phá hủy như thế. Đấu tranh chống lại những sức mạnh đến từ bên ngoài,
nó làm theo cách của nó. Ngay cả triết học cổ, vốn từ những nguồn gốc mập
mờ của chủ nghĩa Plato-Mới, đã đổ vào trong thế giới Kitô, cũng phải tự thích
nghi với đặc tính của tôn giáo này; và trong khi xảo quyệt, phản bội và
tàn ác đã giúp thiết lập nhà nước Kitô – bản thân nó là một mâu thuẫn – ý nghĩ
về sự kêu gọi bình đẳng của tất cả mọi người đối với sự hiện hữu cao hơn vẫn là
nền tảng của sự phát triển phổ biến hiện đại. Vì vậy, Scherer nói, là sự
thay đổi thất thường và sự lừa đảo của loài người, một trong những phương tiện
qua đó Thần linh đã phát triển một đời sống mới từ những tàn tích của thế giới
thời cổ. [19]
Bây giờ trở thành nhiệm vụ của chúng ta
để xem xét uy lực của đem ra thể hiện tôn chỉ Kitô đã phải tác động trên lịch
sử của tư tưởng Duy vật, và với việc này, chúng ta sẽ liên kết với suy nghĩ cân
nhắc về đạo Juda và Islam, vốn tôn giáo sau có sự quan trọng đặc biệt.
Những gì ba tôn giáo này có chung là lý
thuyết Tin-chỉ-một-gót [20].
Khi con người trần gian nhìn mọi sự vật việc như đầy thần linh, và đã có
thói quen với việc xem xét, giải quyết mọi sự kiện cá nhân riêng lẻ như thuộc
lĩnh vực đặc biệt của một vài uy lực siêu nhiên thường là tai ác nào đó, những
khó khăn vốn như thế vốn chống đối lại một giải thích duy vật về vũ trụ thì
cũng gấp ngàn lần như đoàn ngũ lớp lang của những cộng đồng tin tưởng thần
linh. Nếu một người tìm tòi nào đó đã nghĩ ra được ý tưởng lớn lao của
việc giải thích mọi sự vật việc vốn xảy ra từ tất yếu, từ sự thống trị của
những luật tự nhiên, và từ một vật chất vĩnh cửu mà hành vi vốn có vận hành chi
phối bởi những quy luật, thì không còn có hòa giải nào nữa với tôn
giáo. Do đó, gắng thử buộc vào Epicurus về hòa giải thì chỉ là một gắng
sức yếu ớt, và những triết gia đó, những người đã phủ nhận sự hiện hữu của
những gót, sự là-có của những thần
thánh, đều đã là nhất quán hơn. Nhưng những người theo thuyết
tin-chỉ-một-gót giữ một vị trí khác biệt trong quan hệ với khoa học. Chúng
ta nhìn nhận rằng ngay cả lý thuyết Tin-chỉ-một-gót cũng thú nhận một cách giải
thích thấp và nhạy cảm, trong đó mọi sự kiện cụ thể thì lại đều được quy gán
cho hoạt động đặc biệt và địa phương của Gót trong kiểu thức mang tính dạng con
người. Và điều này thì có thể có được hơn vì mọi con người tự nhiên chỉ
nghĩ về bản thân và môi trường quanh mình. Ý tưởng về sự toàn năng
vẫn chỉ là một công thức trống rỗng, và người ta lại thực sự có một bội số của
những thần thánh, với điều kiện ngầm rằng chúng ta sẽ quan niệm tất cả họ là
một và như nhau.
Từ chỗ đứng này, vốn thì khác thường như của tín ngưỡng của người thợ
đốt than,[21] khoa học cũng vẫn còn không thể có
được như trong trường hợp của tín ngưỡng phàm tục.
Chỉ khi chúng ta có một lý thuyết cởi mở rộng rãi về sự dẫn đạo hài hòa của
toàn bộ vũ trụ của những sự vật việc của một Gót, sự liên hệ nhân quả giữa
những sự vật việc quả thực trở thành không chỉ có thể hiểu được, nhưng trong
thực tế, là một hệ quả tất yếu của lý thuyết. Vì nếu tôi thấy bất cứ nơi
nào, hàng ngàn với hàng ngàn những bánh xe trong chuyển động, và nếu giả định
rằng đã có một ai đó là người có vẻ đã điều khiển tất cả, tôi tất bị buộc phải
giả định rằng có trước mặt tôi là một guồng máy trong đó những chuyển động của
tất cả những bộ phận nhỏ nhất đều đã được ấn định không thể thay đổi bởi kế
hoạch của toàn bộ. Nhưng nếu tôi giả định điều này, sau đó tôi phải có khả
năng để tìm ra cấu trúc của guồng máy, ít nhất là phần nào, để hiểu sự làm việc
của nó, và như thế, trên đó một lối đi được mở ra, để khoa học có thể tự do bước
vào.
Vì chính lý do này, những phát triển có thể tiếp diễn trong hàng trăm
năm, và làm giàu có cho khoa học với vật liệu tích cực, trước khi tất yếu để
giả định rằng guồng máy này đã là của một chuyển
động vĩnh viễn. [22] Nhưng một khi đã xem xét thỏa
thê, kết luận này phải xuất hiện với một sức nặng của những sự kiện bên cạnh
chúng, bộ máy của những Sôphít cũ hiện ra hoàn toàn yếu đuối và không đầy đủ
với chúng ta.
Và do đó, ở đây chúng ta có thể so sánh sự làm việc của thuyết
Tin-chỉ-một-gót với một hồ nước to lớn, nó tụ tập những dòng chảy tuôn tràn của
khoa học với nhau, cho đến khi chúng thình lình bắt đầu phá vỡ, vượt qua con
đập.[23]
Nhưng khi đó hiển nhiên đã đi đến một nét mới mẻ của thuyết
Tin-chỉ-một-gót. Ý tưởng chính của thuyết Tin-chỉ-một-gót nắm giữ một tính
mềm mỏng dễ uốn nắn có chất giáo điều và một tính nhập nhằng mơ hồ suy diễn so
đo lợi hại vốn đặc biệt thích ứng nó, giữa những hoàn cảnh luôn biến đổi của
văn minh, và trong những tiến bộ lớn nhất của văn hóa khoa học, để phục vụ như
là sự chống đỡ của đời sống tôn giáo. Lý thuyết về một chỉnh đốn tái diễn
hay qui định sắp đặt độc lập của vũ trụ, trong sự theo đuổi những quy luật vĩnh
cửu, như có thể đã được dự kiến, đã không ngay lập tức dẫn đến một sự đấu tranh
chết sống giữa tôn giáo và khoa học; nhưng, ngược lại, đã nảy sinh một nỗ
lực để so sánh sự liên hệ giữa Gót và thế giới như giữa thân xác và hồn
người. Do đó, ba tôn giáo tin-chỉ-một-gót lớn, trong thời kỳ phát triển
trí thức cao nhất của những môn đồ của chúng, tất cả có khuynh hướng ngả theo
thuyết Tin-gót-là-khắp-cả. [24] Và ngay cả điều này liên quan đến
sự thù địch với truyền thống; nhưng sự xung đột thì rất xa với việc đấu
tranh sống mái.
Chính là tín ngưỡng của Moses, vốn đầu tiên trong tất cả những tôn giáo,
đã thai nghén ý tưởng về sự sáng tạo thế giới như một sáng tạo từ hư không. [25]
Chúng ta hãy nhớ lại Epicurus, theo như
chuyện kể, trong khi vẫn còn đi học, như thế nào đã bắt đầu dành trọn thì giờ
cho triết học, khi ông bị buộc phải học rằng tất cả mọi sự vật việc phát sinh
từ chaos – sự hỗn độn, – và sau đó
không có thày dạy nào của ông có thể nói cho ông biết nguồn gốc của hỗn độn khi đó là gì.
Có những người tin rằng trái đất nằm
yên trên lưng một con rùa, nhưng bạn phải không được hỏi họ con rùa này nằm
trên gì. Loài người thì rất dễ dãi như thế, trong nhiều thế hệ, đã hài
lòng với một giải pháp, dù không một ai có thể tìm thấy thực sự thỏa đáng.
Bên cạnh những tưởng tượng như vậy, sự sáng tạo thế giới từ không-gì thì ít
nhất là một lý thuyết rõ ràng và thành thực. Nó chứa một mâu thuẫn, công
khai và trực tiếp, của mọi suy nghĩ, đến nỗi mọi chống cãi yếu đuối và dè dặt
hơn đều phải cảm thấy hổ thẹn bên cạnh nó.[26]
Nhưng có nhiều hơn thế: ngay cả ý tưởng
này thì có khả năng của chuyển đổi; cũng thế, nó có một phần chia của tính
co giãn, mềm mỏng dễ uốn nắn, vốn đặc trưng cho thuyết Tin-chỉ-một-gót; nỗ
lực đã mạo hiểm để làm cho sự quan trọng ưu tiên về một Gót không-thuộc-thế giới [27] một thuần túy của khái niệm hóa, và những ngày của sáng tạo đã thành
những aeon [28] của phát triển.
Cộng thêm với những đặc điểm này, vốn
đã sẵn thuộc đạo Juda, điều quan trọng rằng đạo Kitô trước tiên đòi hỏi rằng Gót
phải được mường tượng như không có bất kỳ một hình dạng vật chất nào, và hoàn toàn
như một tinh thần vô hình. Như thế, việc gán buộc cho Gót những
tính-người, thì đặt sang một bên, nhưng nó trở lại trước tiên trong khái niệm
phổ thông mập mờ, và sau đó gấp lên hàng trăm lớp lang trong sự phát triển lịch
sử lớn rộng của giáo điều.
Chúng ta có thể giả định, vì những điều
này là những nét đặc biệt nổi bật của đạo Kitô, rằng khi nó giành được chiến
thắng của nó, một khoa học mới đã có thể nở rộ với nhiều hoa trái sum suê hơn; nhưng
thật dễ dàng để thấy tại sao điều đó đã không xảy ra. Về một mặt, chúng ta
phải giữ trong đầu rằng Kitô đã là một tôn giáo bình dân phổ thông, vốn nó đã
phát triển và lan rộng, trong xã hội, từ thấp hướng lên cao, đến một điểm ở đó
nó đã trở thành tôn giáo chính thức của Nhà nước. Nhưng những triết gia đã
đúng là những người đã đứng xa cách nó nhất, và càng xa hơn thế, vì họ đã ít
nghiêng sang sự sùng tín tôn giáo quá đáng, hay sự giải quyết theo thuyết thần
bí của triết học.[29] Đạo Kitô tự nó mở rộng đến những dân tộc mới, lâu nay không thể đến gần
văn minh, và điều không phải tự hỏi rằng trong một trường phái bắt đầu lại từ
nhũng nền tảng, tất cả những bước khởi đầu đó đã được làm lại, vốn Greece và Ý
thời cổ đã trải qua kể từ thời kỳ của những sự thuộc địa sớm nhất. Tuy
nhiên, trên hết, chúng ta phải nhớ rằng sự nhấn mạnh của giáo lý Kitô đã hoàn
toàn ban đầu không dựa trên những tôn chỉ gót học to lớn của nó, nhưng nhiều
phần đúng hơn trên phạm vi của sự thanh tẩy đạo đức, qua sự từ bỏ những ham
muốn trần gian, trên lý thuyết về sự cứu chuộc, và trên hy vọng về sự xuất hiện
của một vị cứu thế – Christ.
Hơn nữa, đã là một tất yếu tâm lý khiến
ngay khi sự thành công lớn lao này, trong tổng quát, đã khôi phục cho tôn giáo
những đặc quyền cổ xưa của nó, đông đảo những yếu tố trần tục đã lũ lượt mở
đường tiến của chúng vào trong đạo Kitô, như thế khiến nó nhanh chóng có được
một kho huyền thoại giàu có của chính nó. Và như thế, không chỉ đơn thuần
tư tưởng Duy vật, nhưng tất cả triết lý nhất nguyên chặt chẽ, trong hàng trăm
năm tới, đã trở thành một sự không thể xảy ra.
Nhưng một bóng tối đã buông xuống đặc
biệt trên tư tưởng Duy vật. Khuynh hướng nhị nguyên của tôn giáo của kinh
điển Zend-Avesta,[30] trong đó thế giới và vật chất đại diện bằng nguyên lý tà ác, Gót và ánh
sáng của tốt lành, thì liên hệ với đạo Kitô trong ý tưởng nền tảng của nó, và
đặc biệt trong sự phát triển lịch sử của nó. Do đó, không gì có thể hiện
ra đáng ghét nhiều hơn khuynh hướng đó của triết học thời cổ, vốn nó không chỉ
giả định một vật chất vĩnh cửu, mà đã còn đi xa đến làm cho sự việc này
thành thực thể duy nhất thực sự hiện
hữu. Nếu chúng ta cộng thêm nguyên lý đạo đức của phái Epicurus, dẫu cho nó
có thể được nghĩ tưởng thuần khiết đến đâu, phản đề đích thực của giáo thuyết
Kitô thì đã làm xong, đã hoàn tất; và chúng ta có thể thấu hiểu sự lên án hệ
thống này là đồi trụy, vốn đã thịnh hành trong thời Trung cổ. [31]
Về điểm sau cùng, tôn giáo
tin-chỉ-một-gót lớn thứ ba, Islam, thì hứa hẹn thuận lợi hơn với tư tưởng Duy
vật. Tôn giáo này, trẻ nhất trong số chúng, đã cũng là đầu tiên, trong
liên hệ với sự bùng nổ rực rỡ của văn minh Arab, để phát triển một tinh thần
triết học tự do, vốn thực hiện một ảnh hưởng mạnh mẽ, chủ yếu với những người
Jew ở thời trung cổ, và gián tiếp như thế với những người Kitô phương Tây.
Ngay cả trước khi có sự truyền thông
của triết học Greece với những dân Arab, Islam đã sinh sản vô số những giáo
phái và trường phái gót học, một vài trong số đó đã tán thành một khái niệm về
Gót hết sức trừu tượng, đến nỗi không suy diễn triết học nào có thể đi xa hơn
được nữa theo hướng này, trong khi đó lại có những trường phái khác không tin
gì ngoài những gì có thể hiểu được và trưng bày cho thấy được; lại có
những trường phái khác nữa, đã kết hợp sự cuồng tín và hoài nghi vào trong
những hệ thống không tưởng. Trong trường trung học ở thành Basra, dưới sự đỡ
đầu của caliphate Abbassides, đã nổi lên một trường phái của những người theo
tư tưởng duy lý, vốn đã tìm cách để dung hợp lý trí và lòng tin tôn giáo.[32]
Bên cạnh dòng chảy phong phú này của
gót học và triết học Islam thuần túy, vốn không phải là đã không bị so sánh một
cách bất công với học thuyết Kinh viện Kitô, những người phái Peripatetic mà
chúng ta thường nghĩ tới khi nhắc đến triết học Arab thời trung cổ, hình thành
chỉ một nhánh tương đối không quan trọng, ít có đa dạng trong nội bộ; và
Averroes, [33] người có tên, bên cạnh tên của Aristotle, đã được nhắc đến nhiều nhất ở
phương Tây, thì hoàn toàn không là một ngôi sao có tầm quan trọng đứng đầu
trong bầu trời triết học Islam.
Đúng hơn, sự quan trọng thực của ông
nằm trong sự kiện rằng chính ông đã là người đã thu tập vào với nhau những kết
quả của triết học Arab-Aristotle như đại diện lớn cuối cùng của nó, và trao
truyền chúng cho phương Tây trong một loạt những hoạt động học thuật lớn rộng,
và đặc biệt do những bình luận của ông về Aristotle. Triết lý này đã được
phát triển, giống như học thuyết Kinh viện Kitô, từ một cách diễn dịch mang màu
sắc Plato-Mới về Aristotle; chỉ có điều rằng trong khi những học giả của học
thuyết Kinh viện thời kỳ đầu tiên đã có được một kho rất mảnh khảnh của những
truyền thống phái Peripatetic, và những điều đó trước sau đã được gót học đạo
Kitô trộn lẫn và kiểm soát, những suối nguồn đã chảy đến những người Arab, qua
kênh của những trường phái Syria trong sự phong phú lớn hơn rất nhiều, và với
họ tư tưởng đã phát triển với tự do lớn hơn, thoát khỏi ảnh hưởng của gót học
Kitô, vốn nó theo đuổi những đường suy đoán riêng của nó. Vì vậy, nó đã có
kết quả rằng mặt tự nhiên của hệ thống Aristotle (cf. ở trên, p. 85) đã có thể tự phát triển giữa những người
Arab trong một phương cách vốn vẫn còn hoàn toàn xa lạ với học thuyết Kinh viện
có sớm hơn và nó sau đó đã khiến hội Nhà thờ Kitô nhìn tư tưởng Averroes như
một nguồn của những quan điểm hay tin tưởng phản lại tột cùng với giáo điều chính
thống Kitô. Có ba điểm đặc biệt ở đây để xem xét: sự vĩnh cửu của thế giới,
và của vật chất trong đối lập của nó với học thuyết Kitô về sáng tạo; quan hệ
của Gót với thế giới, theo đó Gót ảnh hưởng hoặc chỉ với vòm trời hình cầu
ngoài cùng gồm những sao trời cố định, và tất cả mọi sự vật việc trên quả đất
đều chỉ được Gót gián tiếp cai quản qua sức mạnh của những sao trời, hoặc Gót
và thế giới chạy vào gặp nhau, rập theo khuôn như thuyết tin-gót-là-khắp-cả. [34]; cuối cùng, học thuyết về sự thống nhất của lý trí, vốn là phần
bất tử duy nhất của con người – một học thuyết vốn nó phủ nhận sự bất tử cá
nhân, vì lý trí là một ánh sáng thần linh duy nhất vốn soi chiếu trên hồn của
con người, và làm kiến thức thành có thể có được. [35]
Điều đủ dễ hiểu rằng những học thuyết loại
như vậy phải đã thực hành một sự can thiệp có hại trong thế giới, dưới sự xoay
vần của giáo điều Kitô, và rằng trong lối này, cũng như qua những yếu tố theo
chủ nghĩa tự nhiên của nó, tư tưởng Averroes đã sửa soạn đường đi cho tư tưởng
Duy vật mới. Đối với tất cả điều đó, hai khuynh hướng đều khác biệt cơ
bản, và tư tưởng Averroes đã trở thành một trụ cột chính của học thuyết Kinh
viện đó, bằng sự tôn kính vô điều kiện với Aristotle, và bằng sự làm vững mạnh của
những nguyên tắc đó, vốn chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn trong chương sau, làm cho
quá lâu không thể có được một sự xem xét Duy vật về những sự vật việc.
Nhưng bên cạnh triết lý của nó, chúng
ta phải cảm ơn văn minh Arab của thời trung cổ vì vẫn còn một yếu tố khác, vốn có
lẽ đứng gần hơn với lịch sử của tư tưởng Duy vật; đó là, những thành tựu
của nó trong lĩnh vực nghiên cứu tích cực, về toán học và khoa học tự nhiên,
theo nghĩa rộng nhất của từ ngữ này. Những phục vụ rực rỡ của người Arab trong
lĩnh vực thiên văn học và toán học đã được biết đến đầy đủ. [36] Và chính những nghiên cứu này, kết nối với truyền thống Greece, một lần
nữa tạo khoảng trống cho ý tưởng về tính qui củ và đối tượng với luật của tiến
trình của tự nhiên. Điều này đã xảy ra vào một thời gian khi sự bang hoại
của tin tưởng trong thế giới Kitô đã mang lại nhiều rối loạn trong đạo đức và
trật tự lôgích của những sự vật việc hơn là trường hợp đã từng xảy ra của bất
kỳ thời kỳ Greco-Roma không tôn giáo nào; ở một thời khi mọi sự vật việc đã
được xem như có thể có được và không gì như tất yếu, và một lĩnh vực không giới
hạn đã được cho phép cho sự suy xét của con người, vốn đã từng được trí tưởng
tượng ban tặng với những thuộc tính mới.
Sự pha trộn của thiên văn học với những
tưởng tượng khó thật của chiêm tinh học, vì chính lý do này, đã không quá bất
lợi như đã có thể giả định. Chiêm tinh học, cũng như thuật giả kim có liên quan
trong yếu tính, trong mọi phương diện đã có được mọi dạng thức thường lệ của
khoa học, [37] và trong dạng thuần khiết hơn, trong đó những nhà bác học Arab và Kitô
thời trung cổ thực hành chúng, đều rất xa với sự bịp bơm lang băm vô độ, vốn
xuất hiện của nó đã cho thấy trong thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII,
và sau khi khoa học nghiêm khắc hơn đã gạt bỏ những yếu tố tưởng tượng viển
vông này. Ngoài sự kiện rằng động lực để thăm dò trong những bí mật quan
trọng và bí hiểm không hiểu thấu, qua đó sự kết nối ban đầu đã đi đến trợ giúp
của những khám phá khoa học trong thiên văn học và hóa học, trong những nghiên
cứu bí ẩn sâu xa đó, bản thân chúng đã bao hàm, như một giả định-trước tất yếu,
sự tin tưởng vào một sự tiến hành đều đặn của những sự kiện đi theo những quy
luật vĩnh cửu. Và tin tưởng này đã hình thành một trong những lò xo đẩy
mạnh nhất trong toàn bộ sự phát triển của văn hóa, từ trung cổ đến thời nay.
Ở đây chúng ta cũng phải đặc biệt quan
tâm đến y học, vốn trong thời của chúng ta đã trở thành một thước đo nhất định
nào đó cho gót học của những nhà duy vật. Khoa học này được người Arab đối
xử với nhiệt tình đặc biệt. [38] Ở đây cũng thế, trong khi gắn bó chủ yếu với những truyền thống Greece,
dù vậy họ đã bắt đầu làm việc với một cảm xúc độc lập cho sự quan sát chính
xác, và đã đặc biệt phát triển học thuyết về sự sống, vốn đứng rất gần với một sự
kết nối với những vấn đề của tư tưởng Duy vật. Trong trường hợp của con
người, cũng như trong thế giới động vật và thực vật, ở khắp mọi nơi, nói ngắn
gọn, trong thế giới hữu cơ tự nhiên, ý thức tinh tế của những người Arab đã
truy tìm, không chỉ những đặc điểm của đối tượng nhất định, mà cả sự phát triển
của nó, phả hệ của nó, và phân rã – đúng trong những bộ phận đó, do đó, trong
đó lý thuyết huyền bí về đời sống tìm thấy nền tảng của nó.
Mọi người đều đã nghe về sự trỗi dậy
sớm của những trường phái y học trên mảnh đất của vùng Nam Italy, nơi Saracens
và những chủng tộc theo đạo Kitô đã đi đến sự tiếp xúc gần gũi như
vậy. Ngay từ thế kỷ thứ mười, nhà tu Constantine đã dạy trong tu viện
Monte Cassino, người mà những người cùng thời của ông đã đặt tên là Hippocrates
thứ nhì, và là người, sau khi lang thang khắp phương Đông, đã dành thời gian
nhàn rỗi của ông vào việc dịch thuật những tác phẩm từ tiếng Arab. Tại
Monte Cassino, và sau đó tại Salerno và Naples, đã nổi lên những trường y khoa
nổi tiếng, vốn những người tìm kiếm kiến thức với chúng đã truyền đi từ tất
cả thế giới phương Tây. [39]
Chúng ta hãy quan sát, rằng đã là trên
cùng lĩnh thổ, rằng tinh thần của tự do lần đầu tiên đã nổi lên ở Europe – một
tinh thần vốn quả thực chúng ta phải đừng lẫn lộn với tư tưởng Duy vật hoàn
toàn, nhưng trong tất cả những sự kiện, nó thì liên quan chặt chẽ với tư tưởng
Duy vật. Đối với dải đất đó ở vùng Nam Italy, và đặc biệt là ở Sicily, nơi
ngày nay sự mê tín mù quáng và sự cuồng tín điên cuồng đang ở đỉnh cao, khi đó
đã là quê hương của những trí thức khai sáng và là cái nôi của ý tưởng về sự
khoan dung.
Cho dù Hoàng đế Frederick II., người
bạn rất văn hóa của những người Muslim Arab, người bảo trợ khoa học của những
khoa học tích cực, có thực sự đã nói ra bảy tỏ nổi tiếng về ba người mạo danh,
Moses, Mohammed và Christ, [40] thời này và chỗ này ít nhất đã sản xuất những ý kiến loại như
vậy. Không phải là vô cớ, Dante đã đếm được hàng ngàn những người hoài
nghi táo bạo, sau khi nằm yên trong những nấm mồ bốc lửa của họ, mãi mãi giữ sự
khinh miệt với hỏa ngục của họ. Trong tiếp xúc gần gũi đó của những tôn
giáo tin-chỉ-một-gót khác nhau – vì vào thời đó, những người Jew đã có đó rất
nhiều, và về mặt văn hóa đã hiếm khi đứng sau những người Arab – điều đã không
thể tránh khỏi, ngay khi sự giao thoa trí thức diễn ra, rằng sự tôn kính cho
những hình thức cụ thể tất sẽ yếu nhạt, cùn mằn; và thế nhưng, nó là sức
mạnh của tôn giáo nằm trong trong đặc thù đó, như sức mạnh của thi ca nằm trong
cá nhân.
Frederick II. đã bị nghi ngờ bao
nhiêu cho thấy qua buộc tội rằng ông đồng lõa với những Assassin, những Muslim
chuyên giết những địch thủ của Islam, loại như những Jesuit giết những đối thủ
của Kitô [41], những người được cho là đã có một học thuyết bí mật nhưng diễn tả công
khai và tự do đến mức cực kỳ tối đa, một học thuyết hoàn toàn không-tin-có-gót,
với tất cả những hệ quả lôgích của một thuyết vị kỷ tìm kiếm để thỏa mãn dục
vọng và quyền lực của nó. Nếu truyền thống về những học thuyết của những
Assassin đã là đúng, chúng ta phải nên trả cho nhóm này nhiều tôn trọng hơn so
với của nhắc đến ngẫu nhiên này. Những Assassin thuộc loại cao nhất khi đó sẽ
đại diện cho khuôn mẫu của một người theo tư tưởng Duy vật, loại giống như
những người phe phái hiếu chiến thiếu hiểu biết và cuồng tín trong thời chúng
ta, thích tưởng tượng rằng người ấy có thể có khả năng để thúc đẩy một đấu
tranh thành công với người ấy. Những Assassin sẽ là thí dụ lịch sử đơn độc về
sự kết hợp giữa lý thuyết duy vật với sự ác độc, thèm khát quyền lực, và tội
phạm có hệ thống.
Tuy nhiên, chúng ta hãy đừng quên rằng
tất cả thông tin của chúng ta về phần nhóm này xuất phát từ những thù địch ác
liệt nhất của họ. Nó đạt đến mức độ cao nhất của khả năng khó có thể có thực
bên trong, rằng từ sự vô hại nhất của tất cả những lý thuyết về vũ trụ sẽ đi
đến một nghị lực đáng sợ khiến nó đòi hỏi sự căng thẳng cùng cực của tất cả
những sức mạnh của hồn người – một nghị lực vốn trong tất cả những trường hợp
khác chúng ta thấy chỉ trong hợp nhất với những ý tưởng tôn giáo. Trong sự
khủng khiếp tàn khốc và sự quyến rũ mê hoặc của chúng, chúng cũng là một yếu tố
trong lịch sử thế giới, chúng ta có thể tha thứ với nó ngay cả những ghê tởm
cực đoan nhất của sự cuồng tín từ chỗ đứng cao nhất; và điều này thì có gốc sâu
trong bản chất con người. Chúng ta sẽ không mạo hiểm, bất chấp truyền thống, để
dựng lên một phỏng đoán dựa thuần túy trên những cơ sở hoàn toàn bên trong,
rằng những ý tưởng tôn giáo đã trong hoạt động cực điểm giữa những Assassin,
trừ khi những nguồn kiến thức của chúng ta về những Assassin có đủ điều kiện
cho sự cân nhắc như vậy.[42] Rằng một mức độ cao của suy tưởng tự do có thể được kết hợp với khái
niệm cuồng tín của một ý tưởng tôn giáo, được chứng minh bằng trường hợp của
những nhà chăn chiên dòng Jesuit, với toàn bộ con người có của những Assassin, có
một sự tương đồng kinh ngạc.
Trở lại với khoa học tự nhiên của những
người Arab, trong kết luận, chúng ta không thể tránh trích dẫn diễn tả táo bạo
của Humboldt, rằng những người Arab sẽ được xem là những người sáng lập thích
đáng của những khoa học vô cơ, ‘trong ý nghĩa của thuật ngữ vốn chúng ta bây
giờ quen gán cho nó’. Thí nghiệm và đo lường là những dụng cụ tuyệt vời với sự
trợ giúp của chúng, họ đã tạo một đường cho tiến bộ, và đã tự nâng họ lên một
vị trí để được đặt giữa những thành tựu của thời kỳ quy nạp ngắn ngủi của
Greece và của những thành tựu của khoa học tự nhiên tân tiến hơn.
Tư tưởng Mohammed đó thể hiện phần lớn
sự tiếp tục nghiên cứu tự nhiên vốn chúng ta gán cho tôn chỉ tin-chỉ-một-gót, rơi
vào trong những tài năng của những người Arab, với liên hệ lịch sử và địa
phương của họ với những truyền thống Greece, tuy nhiên, không phải bàn cãi, cũng
với hoàn cảnh rằng thuyết Tin-chỉ-một-gót của Mohammed đã là tuyệt đối nhất, và
tương đối tránh thoát hoàn toàn nhất với những pha trộn huyền thoại. Cuối
cùng, chúng ta hãy đặt giữa những yếu tố mới của văn hóa vốn có thể phản ứng
với một lý thuyết duy vật về tự nhiên, điều này được Humboldt giải quyết đầy đủ
chi tiết trong tập Kosmos thứ hai của
ông – sự phát triển của sự suy tưởng thẩm mỹ về thiên nhiên dưới ảnh hưởng của
thuyết tin-chỉ-một-gót và văn hóa những dân tộc nói tiếng Hebrew and Arab.
Những người thời cổ đã thực hiện sự nhân cách hóa đến mức cường điệu tột
cùng, và đến khi ấy hiếm khi đã đi đến nhìn hay trình bày Tự nhiên chỉ đơn giản
như Tự nhiên. Một người nam đội vương miện với những nhánh rong biển tiêu biểu
cho biển cả, một gót nữ cho suối nước, một thần đồng áng hay Pan cho đồng lúa
và vườn cây. Khi phong cảnh bị lấy mất đi những gót của nó, khi đó đã bắt đầu
sự quan sát thực về thiên nhiên và sư vui thích trước sự lớn lao và cái đẹp đơn
thuần của những hiện tượng tự nhiên.
‘Nó là một đặc tính,’ Humboldt nói [43], của thi ca của người Hebrew, rằng,
như một phản xạ của thuyết Tin-chỉ-một -Gót, nó luôn bao bọc vũ trụ trong thống
nhất của nó, gồm cả cõi sống trần gian và những cõi sáng của không gian. Nó tốn
nhiều thì giờ và suy nghĩ, hiếm khi trên những hiện tượng cá nhân, nhưng thích
chiêm nghiệm về đám đông lớn.... Có thể nói rằng một câu thánh vịnh duy nhất (Ps. civ..) trình bày hình ảnh của toàn
bộ vũ trụ: Gót ‘đấng bao phủ chính mình với ánh sáng như một bộ quần áo; ngài
vươn ra khỏi vòm trời giống như tấm màn; người đã đặt những nền móng của trái
đất, rằng nó vĩnh viễn không nên dời đổi. Ngài gửi những con suối vào những
thung lũng, chúng chảy giữa những ngọn đồi: ông đã đặt một ràng buộc rằng chúng
không có thể tràn qua, rằng chúng không quay lại để tràn phủ mặt đất. Chúng cho
mọi con thú trên cánh đồng nước uống. Bởi chúng những con chim trời sẽ có nơi
cư trú của chúng, hót giữa những nhánh cây. Những cây của Gót đầy nhựa cây;
những cây cedar Lebanon vốn ngài đã trồng, nơi những con chim làm tổ của chúng;
Đối với loài cò, cây tùng bách là nhà của chúng. …’
Đến thời của những theo nhà tu ẩn dật Kitô thuộc về một lá thư của hoàng
đế Basil, trong đó bản dịch của Humboldt cấp cho một mô tả cảm xúc và rất đẹp
về khu rừng hiu quạnh trong đó có lều ẩn dật của nhà tụ khổ hạnh.
Như thế, những nguồn đã tuôn chảy mọi phía để thành hình dòng chảy hùng
vĩ của đời sống tư tưởng hiện đại, trong đó, dưới vô số những sửa đổi, chúng ta
lại phải tìm kiếm đối tượng của sự thăm dò của chúng ta, tư tưởng Duy vật.
Lê
Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Feb/2019)
[1]
[A very valuable insight into the physiology of nations has been recently
afforded us by the consideration of history from the standpoints of the natural
sciences and of political economy, and the light thus kindled extends into the
poorest hovels; yet it shows us only one side of the matter, and the changes in
the intel’ lectual condition of peoples remain still covered with darkness, so
far as they cannot be explained from the social changes. Liebig’s theory of the
exhaustion of the soil has been carried by Carey (Principles of Social Science,
vol. i. chaps, iii. ix., vol. iii. chap, xlvi., &c.) to wrong and
exaggerated conclusions, and been fused with entirely absurd doctrines (comp.
my essay, Mill’s Ansichten uber die sociale Frage u. d. angebl. Umwalzung der
Socialwissensch.durch Carey, Duisb. H1866), but the correctness of this theory
in its main features, and its applicability to the civilisation of the old
world, cannot be doubted.
The corn-exporting provinces must have gradually
become poor and depopulated, while around Rome, and likewise about the
subordinate centres, wealth and population led to the most forced system of
agriculture, in which heavily-manured and carefully cultivated little gardens
produced richer results in fruit, flowers, &c., than extensive holdings in
distant neighbourhoods. (Comp. Eoscher, Nationalokon. des Ackerbaus, § 46,
where it is said, inter alia, that
single, fruit-trees in the vicinity of Rome produced as much as £1$ yearly,
while wheat in Italy for the most part produced only fourfold, because only
inferior soils were devoted to the growing of wheat.) But the whole
concentrated economy of the rich commercial centre is not only more sensitive
to blows from without than the economy of a country in more moderate circumstances,
but it is also dependent upon the productiveness of the circle which delivers
to the centre the indispensable necessaries of life. The devastation of a
fertile country by war, even though it is accompanied by a decimation of its
inhabitants, is speedily compensated by the efforts of nature and of man; while
a blow inflicted upon the capital, especially if the resources of the provinces
are already diminishing, very easily produces complete ruin, because it hampers
the entire system of commercial exchange at its centre, and so suddenly
annihilates the exaggerated values enjoyed and created by luxury. But even
without such blows from without, the fall must have come with increasing
acceleration, as soon as the pauperisation and depopulation of the provinces
was so far gone that, even by means of increased pressure, their contributions
could no longer be kept up to their standard. The whole picture of this process
would, so far as the Roman Empire is concerned, be much more clearly displayed
to us, but that the advantages of a magnificent and powerfully maintained
centralising process among the great emperors of the second century
counterbalanced the evil, and, in fact, evoked a new period of material
splendour at the very brink of the general downfall. It is upon this last
brilliant display of the ancient civilisation, the benefits of which fell, of
course, for the most part, to the towns and to certain favoured tracts of
country, that the favourable picture chiefly rests which Gibbon draws of the
condition of the Empire in the first chapter of the “History of the Decline and
Fall of the Roman Empire.” It is evident, however, that the economic evil to
which the Empire must ultimately succumb had already attained a serious
development. A splendour which rests upon the accumulation and concentration of
riches can very easily reach its climax if the means of accumulation are
already beginning to disappear, just as the greatest heat of the day occurs
when the sun is already setting.
Much earlier must the moral ruin appear in this great
process of centralisation, because the subjection and fusion of numerous and
utterly different peoples and races brings confusion not only into the specific
forms of morality, but also into its very principles. Lecky shows quite rightly
(History of European Morals from Augustus to Charlemagne, 1869, vol. i. p. 271
foll.) how the Roman virtue, so intimately fused, with the local patriotism of
the early Romans and the native religion, must inevitably perish through the
destruction of the old political forms, and the rise of scepticism and
introduction of foreign cults. That the progress of civilisation did not
substitute new and superior virtues — “gentler manners and enlarged
benevolence” — in place of the old ones, is attributed to three causes: the
Empire, slavery, and the gladiatorial games. Does this not involve a confusion
of cause and effect? Compare the admirable contrast just before drawn by Lecky
himself between the noble sentiments of the Emperor Marcus Aurelius and the
character of the masses over whom he ruled. The individual can raise himself
with the help of philosophy to ethical principles which are independent of
religion and politics; the masses of the people found morality — and that still
more in antiquity than in our own days — only in the connection, which had been
taught in local traditions, and had become inseparable, of the general and the
individual, of the permanently valid and the variable; and accordingly the
great centralisation of the world-empire must in this sphere have exercised
everywhere, alike amongst conquerors and conquered, a dissolving and disturbing
influence. Where, however, is the “normal condition of society” (Lecky, loc.
cit., p. 271) which could forthwith replace by new ones the virtues of the perishing
social order? Time, above all things, and, as a rule, also the appearance of a
new type of people, are needed for the fusion of moral principles with
sensational elements and fanciful additions. And so the same process of
accumulation and concentration which developed the ancient civilisation to its
utmost point appears also as the cause of its fall. In fact, the peculiarly
enthusiastic feature of the fermenting process from which mediaeval
Christianity finally proceeded seems to find its explanation here; for it
distinctly points to an overstraining of the nervous system by the extremes of
luxury and abstinence, voluptuousness and suffering, extending through all
classes of the population; and this condition, again, is merely a consequence
of the accumulation of wealth, although, indeed, slavery lends to its
consequences a specially disagreeable colouring. For the facts as to the
accumulation in ancient Rome, see Roscher, Grundl. der IsTationalokon. § 204,
and especially Anm. 10; for the senseless luxury of decaying nations, ibid., §
233 ff., as well as the essay on luxury in Eoscher’s ‘Ansichten der
Volkswirthschaft aus geschichtl. Standptmkte.’ The influence of slavery has
been specially pointed out by Contzen, Die Sociale Frage, ihre Geschichte, Literatur
u. Bedeut. in d. Gegenw., 2te Aufl., Leipzig, 1873. Compare also the following
note.]
[2]
[Gibbon, Hist, of the Decline, &c., chap, ii., describes how the slaves,
who had become comparatively cheaper since the Roman conquests, rose in value,
and were better treated in consequence, with the falling off in the importation
of prisoners of war, who in the times of the wars of conquest had often been
sold by thousands at a very cheap rate. It became more and more necessary to
breed slaves at home, and to promote marriages amongst them. By this means the
whole mass, which had previously on every estate, often with the most careful
calculation (see the letters of Cato in Contzen, loc. cit., S. 174), been
composed of as many different nationalities as possible, became more
homogeneous. To this was added the enormous accumulation of slaves on the large
estates and in the palaces of the rich; and again, too, the important part
played by the freedmen in the social life of imperial times. Lecky, loc. cit,,
i. 318, rightly distinguishes three periods in the position of the slaves: the
earliest, in which they were a part of the family, and were comparatively well
treated; the second, in which their numbers were very largely increased, while
their treatment grew worse; and finally, the third, which begins with the
turning-points indicated by Gibbon. Lecky specially points out, too, the
influence of the Stoic philosophy in the milder treatment of the slaves.
Slavery no longer reacted in this third period upon
the civilisation of the ancient world by means of the dread of great servile
wars, but did so, of course, by the influence which the subject class more and
more exercised on the whole modes of thought of the population. This influence,
one diametrically opposed to the ancient ideals, became especially marked with
the spread of Christianity. Comp. as to this Lecky, Hist. Eur. Morals, ii. 66
foll.]
[3] Semi-cultutrre
[4] Petronius Arbiter (khoảng 27-66
CN): được coi là tác giả của Satyricon,
thường được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Latin.
Decimus Junius Juvenalisis, (khoảng 55–127 CN): nhà
thơ trào phúng châm biếm Latin của Rome
[5] Nguyên văn: “claim that of the
Porch”
[6] Isis: thần nữ, gốc từ tôn giáo cổ
của Egypt, dần được thờ trong khắp thế giới Mediterranean ở thời kỳ văn minh
Hellas, và đã trở thành một trong những tôn giáo chính của đế quốc Rome.
[7] [Mommsen, History of Rome, E. T.,
iv. 560 (chap, xii.), observes: “Unbelief and superstition, different hues of
the same historical phenome pulled down, non, went in the Roman world of that
day hand in hand, and there was no lack of individuals who themselves combined
both — who denied the gods with Epikuros, and yet prayed and sacrificed before
every shrine.” In the same chapter are some details as to the introduction of
Oriental religions into Rome. “When the Senate (in 50 B.C.) ordered the temples
of Isis constructed within the ring-wall to be pulled down, no labourer
ventured to no labourer ventured to lay the first hand on them, and the consul
Lucius Paullus was himself obliged to apply the first stroke of the axe. A
wager might be laid that the more lax any woman was, the more piously she
worshipped Isis.”
Compare further Lecky, Hist. Eur. Morals, i. 338
foll.]
[8] [It is therefore at once unfair
and inaccurate when Draper, in his in many respects valuable “History of the
Intellectual Development of Europe,” identifies Epikureanism with the
hypocritical infidelity of the men of the world, to whom “society is indebted
for more than half its corrupions” (vol. i. pp. 168, 169). Independent as
Draper shows himself his final judgments and his whole mode of thought, there
nevertheless appears in his account of Epikuros, and perhaps still more in the
way in which he makes Aristotle an experience-philosopher, the obvious
influence of erroneous traditions.]
[9] Plotinus, (205 - 270): triết gia,
khuôn mặt có ảnh hưởng lớn, ở trung tâm của giới trí thức thế kỷ 3 ở Rome, ngày
nay được xem như người sáng lập trương phái Plato-Mới. Theo Porphyry, Plotinus
không bao giờ nhắc/nói về cha mẹ, giòng dõi, hay xứ sở quê quán.
[10]
[Zeller, Phil. d. Griech., iii. i, S. 289, E. T. tr. Eeichel (= Stoics,
&c.), p. 323: “In a word, Stoicism is not only a philosophic, but also a
religious system. As such it was regarded by its first adherents, .. and as such, together with Platonism, it
afforded in subsequent times, to the best and most cultivated men, a substitute
for declining natural religion, a satisfaction for religious cravings, and a
sup port for moral life, wherever the in fluence of Greek culture extended.”
Lecky, Hist. Eur. Morals, i. 327, says of the Roman Stoics of the first two
centuries: “On occasions of family bereavement, when the mind is most
susceptible of impressions, they were habitually called in to con sole the
survivors. Dying men asked their comfort and support in the last hours of their
life. They became the directors of the conscience of niimbers who resorted to
them for a solution of perplexing cases of practical morals, or under the
influence of despondency or remorse.” For the extinction of the Stoic
influence, and its supplanting by the Neo-Platonic mysticism, comp. Lecky, loc.
cii., p. 337. Zeller, iii. 2, S. 381, observes: “Neo Platonism is a religious
system, and it is so not merely in the sense in which Platonism and Stoicism
may also be so described: it is not merely content to apply to the moral duties
and spiritual life of man a philosophy starting from the idea of God, but
nevertheless attained by a scientific method. But even its scientific view of
the world reflects from first to last the religious disposition of man. and is
thoroughly dominated by the wish to meet his religious needs, and to bring him
into the most intimate per sonal communion with the Deity.”]
[11]
[An account of this extreme, as it made itself specially felt after third
century, is to be found in Lecky, the Hist. Eur. Morals, ii. 107 foll.]
[12] Count Alessandro di Cagliostro
(1743–1795) nhà huyền học nổi tiếng người Italy. Johann Joseph Gassner
(1727–1779): nhà tu Catô, người Germany, nổi tiếng với tài ‘trục quỉ ám’.
[13] Apollonius of Tyana (khoảng 1–97):
triết gia phái Pythagoras-Mới, người Greece, thày dạy ẩn cư và khổ hạnh, người
thực hiện những phép lạ. Giảng dạy và truyền thuyết về ông có ảnh hưởng trên tư
tưởng khoa học và thuyết huyền bí hàng thế kỷ sau khi ông chết.
[14]
[As to the spread of Christianity, compare the celebrated fifteenth chap ter of
Gibbon, which is full of mate rial for the estimation of this fact from the
most varied standpoints. More correct views, however, are put forward by Lecky
in his “History of European Morals,” and in the “His tory of Rationalism in
Europe.” As the chief work on the theological side, may be named Baur, das
Christen thura, u. die christliche Kirche der drei ersten Jahrhunderte. From the
philosophico historical standpoint, E. von Lasaulx, der Untergang des
Hellenismus u. die Einziehung seiner Tempelgliter durch die christl. Kaiser,
Miinchen, 1854. For further literature, see in Ueberweg in the “History of the
Patristic Philosophy,” a section of his history which unfortunately has not met
with the approbation it deserves (comp. my Biographic TJeberwegs, Berlin, 1871,
S. 21, 22). On the miracle -mania which marked this period, compare particu
larly Lecky, Hist, of Eur. Morals, i. 393. Also p. 395 as to miracle working
philosophers: “Christianity floated into the Roman Empire on the wave of
credulity that brought with it this long train of Oriental superstitions and
legends.. .. Its miracles were accepted by both friend and foe as the ordinary
accompani ments of religious teaching.”]
[15] [How
much the influence of the Christian care for the poor was felt is shown by the
remarkable fact that Julian ‘the Apostate,’ in his attempt to supplant
Christianity by a philosophic Greek State religion, openly recognised the
superiority of Christianity in this respect to the old religion. He
recommended, accordingly, in order to rival the Christians in this respect, the
establishment in every town of Xenodocheia, in which strangers should be
received without respect to creed. For the maintenance of them, and also for
distribution to the poor, he devoted con siderable sums of money. “For it is
disgraceful,” he wrote to Arsacius, the high priest of the Galatians, ‘ ‘ that
no one of the Jews begs, while the atheistic Galileans not only main tain their
own poor, but also any whom we leave helpless.” — Lasaulx, Untergang des
Hellenismus, S. 68.]
[16] Lời Jesus rao giảng với những người
đi theo – Matthew 19:30
[17]
[Compare Tacitus, Annals, xv. 44, where it is said that Nero laid the blame of
the burning of Rome upon the Christians. He “inflicted the most exquisite
tortures on a class hated for their abominations, called Christians by the
populace. Christus, from whom’the name had its origin, suf fered the extreme
penalty during the reign of Tiberius, at the hands of one of our procurators,
Pontius Pilatus, and a most mischievous superstition, thus checked for the
moment, again broke out, not only in Judaea, the first source of the evil, but
even in Rome, where all things hideous and shame ful from every part of the world
find their centre and become popular. Accordingly, an arrest was first made of
all who pleaded guilty; then, upon their information, an immense multi tude was
convicted, not so much of the crime of firing the city, as of hatred against
mankind.” Their associating amongst themselves, together with their hatred of
others, was frequently made a subject of reproach to the Jews also. Lasaulx,
Untergang des Hellenismus, S. 7 foil., shows the internal necessity of this
view of the Romans, and quotes similar judgments from Suetonius and the younger
Pliny. In the same place, very accurate references to the intolerance (strange
to Greeks and Romans alike) of the Monotheistic religions, amongst which
Christianity particularly from the first took up an offensive attitude. Gibbon
reckons as one of the chief causes of the rapid propagation of Christianity its
intolerant zeal, and the expectation of another world. For the threatening of
the whole human race with the everlasting torments of hell, and the influence
of this threat upon the Romans, comp. Lecky, Hist. Eur. Morals, i. 447 foil.]
[18] Gnosticism: có nhiều nghĩa, ở đây
là tin tưởng trong đó nhấn mạnh hay đề cao rằng có một thứ kiến thức bí truyền
(esoteric knowledge) trong việc tìm kiếm sự thật để giải thoát khỏi thế giới
này (vẫn dịch là thuyết ‘Ngộ đạo’)
[19] [Schlosser, Weltgesch. f. d. deutsche Volk, bearb.
v. Kriegk, iv. 426 Gesch. der Körner, xiv. 7).]
[20] Monotheism: vẫn dịch là Độc thần,
tôi muốn rõ nghĩa hơn – nên cũng như những chỗ khác, trước đây – ‘Tin-chỉ-một-gót’.
[21] Nguyên văn ‘the charcoal-burner’s
creed’
[22] perpetuum mobile
[23] [This in modern times refers
especially to the turning-point made by the popularising of Newton’s system of
the universe by Voltaire.]
[24] Pantheism
[25] creatio ex nihilo (nghĩa đen – sự sáng tạo vũ trụ từ không-gì cả),
ngược lại với creatio ex materia
(sáng tạo vũ trụ từ những gì đã sẵn có trước, từ vật chất vĩnh cửu vẫn từng có
đó – eternal matter; đa số những tôn
giáo khác những tôn giáo Abraham) và creatio
ex deo (sự sáng tạo từ bản thể của thần linh tối cao – như Hindu)
[26] [It is interesting to observe how,
in Mohammedan orthodoxy, recourse is had to atoms to render more intelligible
the transcendental creation by a God who is outside the universe, compare
Renan, Averroes et l’Averroisme, Paris, 1852, p. 80]
[27] Worldless god
[28] Ê-on: khoảng thời gian dài vô tận
[29]
[It is true, indeed, that the mystic Neo-Platonists such as Plotinus and
Porphyry were decided opponents of Christianity (Porphyry wrote fifteen books
against the Christians), but internally they stood very near to the Christian
doctrine, just as it cannot be doubted that they acquired great influence over
the late development of Christian philosophy. Much further really stood Galen
and Celsus (although he, too, is not, as was for merly believed, an Epikurean,
but a Platonist: See Ueberweg’s Hist, of Phil. § 65). Furthest removed are the
sceptics of the school of Aenesidemus and the “empirical physicians” (Zeller,
iii. 2, 2 Aufl. S. ifoll.), especially Sextus Empiricus.]
[30] Avesta, cũng gọi là Zend-avesta, thánh thư của đạo Zoroaster
(Zoroastrianism) gồm luật, nghi thức tôn giáo, vũ trụ học và giảng dạy của nhà
tiên tri/giáo chủ Zoroaster (hay Zarathushtra).
[31]
[From a very early period, therefore, dates the vulgarisation of the notions of
‘Epikurean ‘ and ‘ Epikureanism ‘ in the sense of absolute oppo sitiontothe
transcendental theism and ascetic dogmatism. While the Epikurean school (see
above, p. 125), among all the ancient philosophical schools, preserved the most
distinctive stamp and the most self-contained system of doctrines, the Talmud
already describes Sadducees and Freethinkers generally as Epikureans. In the
twelfth century there appears in Florence a sect of ‘Epikureans,’ which can
scarcely be considered so in the strict Scholastic sense, any more than the
Epikureans whom Dante describes as lying in fiexy pits (comp. Eenan, Averroes,
pp. 123 and 227). A similar vulgarisation has, of course, befallen also the
name of the ‘Stoics.’ ]
[32]
[. Renan, Averroes, p. 76 ff ., shows how the most abstract shape of the idea
of God was essentially promoted by the opposition waged against the Christian
doctrines of the Trinity and the incarnation of the Deity. The mediatising
school of the ‘Motazelites ‘ is compared by Kenan with the school of
Schleiermacher. ]
[33]
Averroës (1126 -1198): cũng còn gọi Ibn Rushd, hay có tên Arabic dài: Abū al-Walīd Muḥammad ibn Aḥmad ibn Muḥammad
ibn Rushd, nhà triết học tôn giáo có ảnh hưởng Islam đã kết hợp truyền thống
Islam với tư tưởng Hellas thời cổ. Theo yêu cầu của caliph Abu Yaʿqub Yusuf của
Almohad (nay là Morocco), ông đã viết một loạt những tóm tắt và bình luận về hầu
hết những công trình của Aristotle (1169, 95) và Republic của Plato, vốn ảnh hưởng
đáng kể trong cả thế giới Islam và Europe trong nhiều thế kỷ.
[34]
[To the first of these views Avicenna gave his adhesion, while the second,
according to an opinion started by Averroes, is supposed to have been his real
view. Averroes himself makes all change and movement in the world, and
especially the becoming and perishing of organisms, potentially inherent in
matter, and God has nothing to do but to turn this potentiality into actuality.
But as soon as we place ourselves at the standpoint of eternity, the
distinction between potentiality and actuality disappears, since in the course
of eternity all potentialities become actualities. But thus disappears also
from the highest standpoint of observation the opposition, too, of God and the
world. Cf. Renan, Averroes, pp. 73 and 82 foll.]
[35] [This view, which rests upon the Aristotelian
theory of the vovs wotrj- tlk6s (De Anima, iii. 5), has been designated
“Monopsychism,” that is, the doctrine that the immortal soul (in distinction
from the perishable animal soul) in all beings that partake of a soul is one
and the same.]
[36] [Comp. Humboldt’s Kosmos, ii. 258
foil. E. T.; Bonn’s ed., ii. 592, cf. 582. Draper, Intellectual Deve lopment of Europe (ed. 1875), ii. 36
foil. The author, who is best quali fied to speak in the matter of natural
science (cf. above, note 4), complains (p. 42) of “ the systematic manner in
which the literature of Europe has contrived to put out of sight our scientific
obligations to the Mohammedans.”]
[37]
[Comp. Liebig, Chemische Briefe, 3 and 4 Br. The remark, “Alchemy was never
anything more than chemistry,” goes, of course, a little too far. As to the
caution against con founding it with the gold-making art of the sixteenth and
seventeenth centuries, it must not escape us that this is only alchemy run
wild, just as the nativity delusion of the same period is astrology run wild.
The most important contrast between the spirit of modern chemistry and of
medieval alchemy maybe most clearly shown in the relation between theory and
experiment. With the alchemists the theory in all its main features stood
unshakably firm; it was ranked above experiment; and if this gave an unexpected
result, this was forced into an artificial conformity with theory, which was of
aprioristic origin. It was therefore essentially directed to the production of
this previously anticipated result rather than to free investigation. This
tendency of experiment is indeed still active enough in our modern chemistry,
and the authority of general theories, if not in our own days, at all events in
a period not very far behind us, was very great. Yet the real principle of modern
chemistry is the empirical; that of alchemy, despite its empirical results, was
the Aristotelo-scholastic. The scientific form of alchemy as well as of
astrology rests upon the consistent carrying out of certain axioms as to the
nature of all bodies and their mutual relations — axioms simple in themselves,
but capable of the utmost varieties in their combinations. As to the
furtherance of the scientific spirit by means of astrology in its purer forms,
compare, further, Lecky, Hist, of Rationalism in Europe, i. 302 foil.; where
also, in note 2 to p, 303, several instances are given of the bold ideas of
astrological freethinkers. Compare also Humboldt’s Kosmos, ii. 256 foll.]
[38] [Draper, Intell. Develp. of
Europe, i. 384 foil. Less favourable judgments of Arabian medicine will be
found in Häser, Gesch. d. Med. (2 Aufl., Jena, 1853), 173 foil., and in
Daremberg, Hist, des Sciences Medicales (Paris, 1870). Yet their great activity
in this department is shown clearly enough even in these accounts.]
[39] [Comp. Wachler, Handb. der Gesch. d. Liter., ii. S.
87. Meiners, Hist. Vergieicli der Sitten u. s. w. des Mittelalters mit d. unsr.
Jahrh., ii. 413 foil. Daremberg, Hist, des Sciences Med., i. 259 foil., shows
that the importance of Salerno in medicine is older than the influence of the
Arabians, and that here probably ancient traditions had survived. Yet the
school certainly received a great impulse through the Emperor FREDERICK II.]
[40]
[The assertion that Averroes, or the Emperor FREDERICK II., or some other
insolent freethinker, spoke of Mohammed, Christ, and Moses as the ‘three
impostors, ‘appears in the middle ages to have been merely unfounded calumny,
and a means of drawing hatred and suspicion upon persons of freethinking
tendency. Later a book on the Three Impostors became the subject of this
fabulous story, and a long series of liberal men (see the list of them in
Genthe, De Impostura Religionum, Leipz. 1833, p. 10 sq., as well as in Renan,
Averroes, p. 235) were accused of having written a book which did not even
exist, until at length the zeal with which the question of its existence was
debated led certain industrious forgers to the fabrication of such writings,
which, however, turned out very feeble productions. For further details see
Genthe, loc. cit. ]
Năm 1239, Vua chiên Gregory IX đã
lên án Frederick II, hoàng đế Roma, tội ‘rối đạo’. Không trưng bày bất kỳ loại
bằng chứng nào, Gregory tuyên bố rằng Frederick đã viết một quyển sách cực kỳ
báng bổ thần thánh – De tribus
impostoribus, or the Treatise of the
Three Impostors- trong đó Frederick vạch mặt và lên án cả ba: Moses, Jesus,
và Muhammad như những kẻ mạo danh lừa đảo. Dĩ nhiên, Frederick phủ nhận lời buộc
tội này, và qua những trăm năm tiếp sau, câu chuyện đã lan truyền khắp Europe,
với những người sống ngoài khuôn khổ, những người có tư tưởng tự do không tôn
giáo, và những “đầu óc không chịu để đám đông uốn nắn” lùng kiếm một sao chép của
bản văn phỉ báng những giáo chủ này. The fascination persisted until finally,
in the eighteenth century, someone brought the purported work into actual
existence—in not one but two versions, Latin and French.
[41] Assassin: tên gọi thành viên một giáo phái
của những người cực đoan Muslim, hoạt đông bí mật ở Persia và Syria – khoảng thời
gian 1090 đến 1256, ám sát những nạn nhân của họ, thường là những Kitô đi viễn
chinh thánh chiến trên đất Arab (Thập tự chinh)
[42] [Hammer, in his book, based upon
Oriental sources, “The History of the Assassins,” Stutt. and Tub. 1818, E. T.
1835, is entirely of the view which divides the Assassins into deluders and
deluded, and in the highest grades finds nothing but cold-blooded calculation,
absolute unbelief, and the most vicious egotism. Enough, indeed, to this effect
can be found in the sources; and yet we must not forget that this is the usual
way in which victorious orthodoxy deals with defeated sects. It is really here,
apart from the frequent instances of malicious misrepresentation, just as it is
with our judgment of so-called ‘hypocrites’ in private life. Unusual piety is
in the popular eyes either genuine saintship or a wicked cloak of all that is
vile. For the psychological subtlety of the mixture of genuine religious
emotions with coarse selfishness and vicious habits the ordinary mind has no
appreciation. Hammer sets forth his own view of the psychological explanation
of the Assassin movement in the following words (S. 20, E. T, p. 13) :— Of all
the passions which have ever called into action the tongue, the pen, or the
sword, which have overturned the throne, and shaken the altar to its base,
ambition is the first and mightiest. It uses crime as a means, virtue as a mask.
It respects nothing sacred, and yet it has recourse to that which is most
beloved, because the most secure, that of all held most sacred by man —
religion. Hence the history of religion is never more tempestuous and
sanguinary than when the tiara, united to the diadem, imparts and receives an
increased power.” But when was there ever a priesthood which was not ambitious;
and how can religion be the most sacred element of humanity if its first
servants find in it only a means to satisfy their ambition? And why is ambition
so common and so dangerous a passion, since for the most part it only leads, by
a very thorny and extremely uncertain way, to that life of pleasure which is
regarded as the object of every selfish man? There is obviously acting, often at
least, and almost always in the great events of world history, in connection
with ambition, an ideal which is partly in itself overprized, but partly passes
into a one-sided relation to the particular person regarded as its special
bearer. And this is the reason why it is religious ambition especially that is
so frequent, for the cases in which religion is employed by an ambitious but
not religious person as a valuable means must be very rare in history.
These considerations apply also to the Jesuits, who at
certain periods of their history have certainly come very near to the
Assassins, as Hammer represents them; while, at the same time, they would
scarcely have been able to establish their power in the souls of believers
without the help of genuine fanaticism. Hammer often adduces them, and
certainly with justice, as a parallel to the case of the Assassins (S. 337, et
passim, E.T. 216); but when he thinks the regicides of the French Revolution
worthy to have been satellites of the ‘ old man of the mountain,’ this shows
how easily such generalisations may lead to a misapprehension of peculiar
historical phenomena. It is certain that the political fanaticism of the French
‘men of terror’ was, on the whole, very sincere, and by no means hypocritical.]
[43] Kosmos, E. T., Bohn’s ed., ii.
412, 413.