Wednesday, June 17, 2015

Harari – Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người (06)

Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari

Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
(... tiếp theo)






7
Trí nhớ quá mức chất chứa

Tiến hoá không phú cho con người khả năng để chơi bóng tròn. Đúng, nó đã đem lại kết quả là có chân để đá, khuỷu tay để va thúc vướng lỗi, và mồm miệng để chửi thề, nhưng tất cả những điều này đem cho chúng ta khả năng để hành động có lẽ là thực hành những cú đá phạt đền với chính chúng ta mà thôi. Để có được một trò thể thao với những người lạ, chúng ta gặp ở sân trường vào một buổi chiều bất kỳ nào đó, chúng ta không chỉ phải hòa hợp làm việc cùng với mười đồng đội vốn chúng ta có thể chưa bao giờ gặp trước đây, chúng ta cũng cần phải biết rằng mười một cầu thủ của đội đối lập cũng chơi đúng theo cùng những quy luật. Những động vật khác có dấn mình với những con thú lạ trong những dạng thức xông xáo tích cực, nhưng chúng làm như vậy chủ yếu là theo bản năng – những con chó con trên toàn thế giới có những quy tắc cho lối chơi mạnh bạo hung hăng vốn đã được “gài dây bắt mạch điện” vào trong những gene của chúng. Nhưng những con người tuổi teen không có gene để chơi đá bóng. Dẫy vậy, chúng vẫn có thể chơi trò chơi này với những người hoàn toàn xa lạ, vì chúng tất cả đã học được một tập hợp gồm những ý tưởng về bóng đá giống hệt nhau. Những ý tưởng này đều hoàn toàn là tưởng tượng, nhưng nếu mọi người cùng chia sẻ chúng, chúng ta tất cả có thể chơi trò chơi.


Điều tương tự như vậy cũng áp dụng, trên một quy mô lớn hơn, với những vương quốc, những hội nhà thờ và những mạng lưới thương mại, với một sự khác biệt quan trọng. Những quy tắc của môn bóng đá là tương đối đơn giản và ngắn gọn, giống nhiều như những gì cần thiết cho sự hợp tác trong một bầy đoàn kiếm ăn săn bắn hái lượm, hay một làng nhỏ. Mỗi người tham dự có thể dễ dàng giữ lại chúng trong bộ óc của mình và vẫn còn chỗ cho những bài hát, hình ảnh và danh sách mua sắm. Nhưng những hệ thống lớn về hợp tác can dự không chỉ hai mươi hai, nhưng hàng ngàn, hoặc ngay cả hàng triệu con người, chúng đòi hỏi việc điều khiển và lưu trữ một lượng thông tin khổng lồ, nhiều hơn bất kỳ bộ óc con người duy nhất nào có thể chứa đựng và hoạt động.

Những xã hội lớn tìm thấy trong một số loài khác, như kiến ​​và ong, ổn định và bền vững vì hầu hết những thông tin cần thiết để duy trì chúng đã được chuyển ghi thành code trong genome. Một larva [1] ong mật có thể, lấy thí dụ, lớn lên thành, hoặc một ong chúa hoặc một ong thợ, tùy vào thực phẩm nào nó được cho ăn. Những DNA ghi sẵn những code mệnh lệnh[2] chỉ đẫn cho những hành vi ứng xử cần thiết cho bất cứ vai trò nào của nó sẽ hoàn tất trong đời sống. Những tổ ong có thể là những cấu trúc xã hội rất phức tạp, chứa nhiều loại những con làm công việc khác biệt, chẳng hạn như những con kiếm thức ăn, những con y tá, điều dưỡng và những con dọn dẹp lau chùi. Nhưng cho đến nay, những nhà nghiên cứu đã thất bại, không tìm ra được con ong đóng vai luật sư ở chỗ nào. Loài ong không cần những luật sư, vì không có nguy hiểm rằng chúng có thể quên, hoặc vi phạm ‘hiến pháp’ của tổ ong. Con ong chúa không lừa gạt những con dọn dẹp lau chùi phần thức ăn của chúng, và những con dọn dẹp không bao giờ đình công đòi tăng lương.

Nhưng con người thường xuyên làm những sự việc như vậy mọi thời. Vì trật tự xã hội Sapiens là tưởng tượng, con người không thể gìn giữ những thông tin quan trọng để điều hành nó, với chỉ đơn giản bằng cách làm những bản sao DNA của họ, và truyền những bản sao này cho con cháu của họ. Một nỗ lực có ý thức phải được thực hiện để duy trì pháp luật, phong tục, thủ tục và cách cư xử, nếu không thì trật tự xã hội sẽ nhanh chóng sụp đổ. Lấy thí dụ, vua Hammurabi lệnh rằng dân chúng được chia thành những người trên cao quí, những bình dân và những nô lệ. Không giống như hệ thống tầng lớp trong tổ ong, đây không phải là một sự phân chia tự nhiên – không có dấu vết của nó trong genome của con người. Nếu người Babylon không thể giữ ‘sự thật’ này trong não thức, xã hội của họ sẽ ngưng hoạt động. Tương tự như vậy, khi Hammurabi truyền DNA của mình cho con cái của ông, nó không chuyển ghi thành code quyết định của ông, rằng một con người thuộc lớp cao quí nếu giết một người phụ nữ thường dân phải trả ba mươi shekel bạc. Hammurabi đã chủ định để dạy dỗ con trai ông về luật pháp của đế quốc của ông, và những con và những cháu trai của ông đều cũng đã phải làm như vậy.

Những đế quốc đã tạo sinh những khối lượng thông tin khổng lồ. Ngoài pháp luật, những đế quốc phải giữ những số sách kế toán ghi những giao dịch và những loại thuế, hàng tồn kho của những dự trữ quân sự và những tàu buôn, và lịch trình của những lễ hội và kỷ niệm chiến thắng. Trong hàng hàng triệu năm, người ta lưu trữ thông tin trong một nơi duy nhất – bộ óc của họ. Thật không may, bộ óc con người không phải là một dụng cụ lưu trữ tốt cho những hệ thống cấu trúc tập hợp những dữ liệu [3] có kích thước đế quốc, vì ba lý do chính.

Thứ nhất, khả năng của nó thì giới hạn. Đúng vậy, một vài người có những ký ức đáng kinh ngạc, và trong thời cổ đã có những người chuyên môn ghi nhớ có thể lưu trữ trong đầu họ trọn vẹn những hoạ đồ hình thể của những tỉnh thành, và những bộ luật toàn quốc. Tuy nhiên, có một giới hạn mà ngay cả những người có tài đặc biệt với trí nhớ siêu việt [4] bậc thày cũng không thể vượt qua. Một luật sư có thể thuộc lòng toàn bộ điển luật của tiểu bang Massachusetts, nhưng không phải những chi tiết của tất cả những thủ tục pháp lý đã diễn ra trong tiểu bang Massachusetts từ vụ án, xử những phù thủy ở Salem, trở về sau.

Thứ hai, con người chết, và bộ óc của họ chết với họ. Bất kỳ thông tin nào được lưu trữ trong một bộ óc sẽ bị xóa đi trong vòng chưa đầy một thế kỷ. Đó là, dĩ nhiên, cũng có thể truyền những ký ức từ một bộ óc này sang một bộ óc khác được, nhưng sau một vài truyền đi như thế, những thông tin có khuynh hướng bị sai lạc, hoặc bị mất.

Thứ ba và quan trọng nhất, bộ óc của con người đã được điều chỉnh để lưu trữ và hoạt động với chỉ những loại thông tin đặc biệt cụ thể. Để sống còn, những người săn bắn hái lượm thời cổ đã phải nhớ những hình dạng, tính chất và khuôn mẫu quen thuộc trong hành vi ứng xử của hàng ngàn loài thực vật và động vật. Họ phải nhớ rằng một cây nấm màu vàng, nhăn nhúm, mọc mùa thu dưới gốc một cây elm có lẽ là nấm độc, trong khi đó một cây nấm có hình dạng giống như thế, nhưng mọc mùa đông dưới gốc một cây sồi, là một phương thuốc tốt chữa đau bụng. Những người săn bắn hái lượm cũng đã phải luôn giữ trong đầu, đừng quên những ý kiến ​​và quan hệ của một số gồm vài tá thành viên trong bầy đoàn mình. Nếu cô Lucy cần sự giúp đỡ một thành viên trong đoàn để anh chàng John ngừng quấy rối cô, điều quan trọng cho cô để nhớ rằng John đã bị cô Mary bỏ rơi vào tuần trước, thế nên có nhiều phần xảy ra để mong rằng Mary sẽ là một đồng minh nhiệt tình. Hệ quả là, những áp lực của tiến hóa đã khiến bộ óc con người thành thích ứng với sự lưu trữ những khối lượng bao la của thông tin về thực vật, động vật, địa hình và xã hội.

Nhưng khi những xã hội đặc biệt phức tạp đã bắt đầu xuất hiện trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Nông nghiệp, một loại thông tin hoàn toàn mới đã trở thành quan trọng – những con số. Những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã không bao giờ bị buộc phải xoay sở và nắm giữ những số lượng lớn của những số liệu tính toán [5] . Không người săn bắn hái lượm nào cần phải nhớ, tạm nói thí dụ, số những trái cây trên mỗi cây trong khu rừng. Vì vậy, bộ óc con người đã không chuyển đổi thích ứng để lưu trữ và hoạt động với những con số lớn. Tuy nhiên, để duy trì một vương quốc rộng lớn, những số liệu tính toán đã là quan trọng. Dựng những đạo luật, và kể những câu chuyện về những gót phù hộ thì không bao giờ là đủ. Người ta đã phải cũng thu thuế. Để đánh thuế hàng trăm ngàn người, điều bắt buộc là thu thập số liệu về thu nhập và tài sản của dân chúng; số liệu về những khoản thanh toán; số liệu về những nợ xấu trả muộn, những khoản nợ và tiền phạt; số liệu về những giảm bớt và miễn trừ. Điều này cộng lên thành hàng triệu những bit dữ liệu, vốn phải được lưu trữ và giải quyết. Nếu không có khả năng này, nhà nước sẽ không bao giờ biết những nguồn lực nào nó đã có, và những nguồn lực nào khác nó có thể khai thác thêm. Khi phải đối mặt với sự cần thiết là phải ghi nhớ, nhớ lại và giải quyết tất cả những con số này, hầu hết những bộ óc con người như đã uống thuốc quá liều, hay ngủ thiếp đi.

Giới hạn về tinh thần này đã hạn hẹp kích thước và mức độ phức tạp của những tập thể con người. Khi số lượng người và tài sản trong một xã hội cụ thể đã vượt qua một đường ranh vạch ngang mức độ nguy kịch, nó đã trở thành cần thiết để lưu trữ và giải quyết những lượng lớn của những dữ liệu tính toán. Vì bộ óc của con người đã không thể làm điều đó, hệ thống đã sụp đổ. Trong hàng nghìn năm sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp, những mạng lưới liên kết xã hội của con người vẫn còn là tương đối nhỏ và đơn giản.

Những người đầu tiên đã khắc phục vấn đề là những người Sumer thời cổ, họ đã sống ở miền nam vùng Mesopotania [6]. Ở đó, một mặt trời thiêu đốt gay gắt trên những đồng bằng bùn lầy trù phú đã sản xuất những vụ mùa thu hoạch dồi dào và những thị trấn thịnh vượng. Khi số lượng dân cư tăng cao, cũng thế đã là số lượng thông tin cần thiết để phối hợp công việc làm ăn của họ. Giữa những năm 3500 TCN và 3000 TCN, một số những thiên tài vô danh Sumer đã phát minh một hệ thống để lưu trữ và làm việc được với những thông tin, tất cả ở bên ngoài bộ óc của họ, một hệ thống vốn đã được xây dựng theo-nhu cầu, để giải quyết một khối lượng lớn những số liệu tính toán. Qua đó, người Sumer đã cho phép trật tự xã hội của họ thoát khỏi những giới hạn của bộ óc con người, mở đường cho sự xuất hiện của những thành phố, những vương quốc và những đế quốc. Hệ thống tiến trình những hành động hướng tới kết quả định sẵn dùng những dữ liệu thông tin [7] người Sumer phát minh được gọi là “viết chữ”. [8]

Đã ký tên, Kushim

Viết thành chữ là một phương pháp để lưu trữ thông tin dùng những dấu hiệu vật chất cụ thể. Hệ thống viết chữ của người Sumer đã làm như vậy bằng cách kết hợp hai loại dấu hiệu, được ép trong những tấm đất sét. Một loại dấu hiệu đại diện cho số. Có những dấu hiệu cho số 1, 10, 60, 600, 3.600 và 36.000. (Người Sumer dùng một sự kết hợp của những hệ thống số đếm: cơ sở số 10 và cơ sở số 6 [9]. Hệ thống tính toán với cơ sở số 6 của họ để lại cho chúng ta nhiều di sản quan trọng, chẳng hạn như sự phân chia ngày thành hai mươi bốn tiếng đồng hồ, và những vòng tròn thành 360 độ.) Loại dấu hiệu kia đại diện cho người, động vật, hàng hóa, lãnh thổ, ngày tháng, và vv. Bằng cách kết hợp cả hai loại dấu hiệu này, người Sumer đã có thể giữ được nhiều dữ kiện vô cùng, nhiều hơn so với bất kỳ một bộ óc con người nào có thể nhớ, hay bất kỳ chuỗi DNA nào, có thể ký hiệu hóa.

Hình 19. Một phiến đất sét với một bản văn hành chính từ thành phố Uruk, Khoảng 3400-3000 TCN. ‘Kushim’ có thể là tên chung của một chức vị hành chính, hoặc tên của một cá nhân cụ thể. Nếu Kushim thực sự là tên một người, ông có thể là cá nhân đầu tiên trong lịch sử chúng ta được biết đến tên gọi! Tất cả những tên gọi được áp dụng trước đó trong lịch sử loài người – người Neanderthal, những người thuộc văn hoá Natufian, Hang Chauvet, di tích khảo cổ Göbekli Tepe – đều là những sáng tạo thời nay. Chúng ta tuyệt không có được ý tưởng nào về tên gọi mà những người xây dựng ở Göbekli Tepe thực sự đã gọi tên nơi này. Với sự xuất hiện của sự viết chữ, chúng ta đang bắt đầu nghe lịch sử qua tai của những nhân vật chính của nó. Khi những người hàng xóm của Kushim gọi ông, họ có thể thực sự đã kêu lớn lên “Kushim!”. Điều đó là nói rằng tên gọi đầu tiên được ghi trong lịch sử thuộc về một nhà kế toán, chứ không phải của một nhà tiên tri, một nhà thơ, hay một nhà chinh phục vĩ đại nào. [10]

Ở giai đoạn ban đầu sớm sủa này, viết đã giới hạn vào ghi chép những sự kiện và những con số. Quyển tiểu thuyết vĩ đại hay tác phẩm tuyệt vời của người Sumer, nếu từng bao giờ đã có một, đã không bao giờ được thực sự thành hình trên những tấm đất sét. Viết đã là tốn phí nhiều thời gian và số những người đọc trong công chúng đã là rất nhỏ, nên không ai thấy có bất kỳ lý do nào để dùng nó vào bất cứ sự việc gì khác hơn là việc lưu trữ sổ sách kế toán xuất nhập cần thiết. Nếu chúng ta tìm kiếm những lời nói khôn ngoan đầu tiên của tổ tiên của chúng ta truyền lại đến chúng ta từ, 5.000 năm trước đây, chúng ta va đầu vào một thất vọng lớn. Những thông điệp sớm nhất tổ tiên chúng ta đã để lại cho chúng ta đọc, lấy thí dụ, “29, 086 đo lường lúa mạch 37 tháng Kushim”. Cách có thể nhất để đọc câu này là: “Tổng cộng có 29.086 đo lường của lúa mạch đã nhận được trong suốt 37 tháng. Đã ký tên, Kushim”. Than ôi, những bản văn đầu tiên của lịch sử loài người đã không chứa những hiểu biết triết học sâu xa, không có thơ, truyền thuyết, pháp luật, hoặc ngay cả những khải hoàn ca của nhà vua. Chúng là những tài liệu kinh tế tẻ nhạt, ghi lại những thuế đã nộp, những khoản nợ đã tích tụ được, và những người có tài sản.

[Hệ thống chữ viết một phần không thể diễn tả toàn bộ phân bối lớp lang có thể có [11] của một ngôn ngữ nói, nhưng nó có thể nói ra những sự vật việc vốn nằm ngoài phạm vi của ngôn ngữ nói. Những hệ thống chữ viết một phần như của người Sumer và trong toán học không thể được dùng để ghi chép thơ ca, nhưng chúng có thể ghi chép những trương mục thuế rất kiến hiệu.]

Chỉ có một loại bản văn kia từ những ngày xưa đó là còn sống sót đến nay, và nó lại còn kém thích thú hào hứng: danh sách những từ, được những người viết chữ chuyên nghiệp đang học nghề sao đi chép lại nhiều lần như những bài tập viết thực hành. Dẫu ngay cả nếu như có một người học nghề buồn tình muốn viết ra một số bài thơ của ông ta, thay vì sao chép một hóa đơn bán hàng, ông đã không thể làm như vậy được. Đúng hơn, hệ thống viết chữ Sumer sớm nhất đã mới chỉ là hệ thống chữ viết một phần chứ chưa phải là một hệ thống viết chữ đầy đủ. Viết chữ đầy đủ là một hệ thống ký hiệu cụ thể, có thể nhiều hay ít, trình bày được ngôn ngữ nói khá hoàn toàn. Do đó, nó có thể diễn tả tất cả mọi sự vật việc người ta có thể nói đến, gồm cả thi ca. Mặt khác, chữ viết một phần là một hệ thống ký hiệu cụ thể có thể đại diện cho chỉ những loại thông tin đặc biệt, thuộc về một lĩnh vực hoạt động giới hạn. Chữ viết Latin, chữ khắc hình hieroglyphic Egypt [12] thời cổ, và chữ nổi Braille là những viết chữ đầy đủ. Bạn có thể dùng chúng để ghi sổ bộ thuế, viết những bài thơ tình, sách lịch sử, công thức nấu ăn và luật kinh doanh. Ngược lại, chữ viết Sumer sớm nhất, giống như những ký hiệu toán học thời nay, và những ký hiệu âm nhạc, là chữ viết một phần. Bạn có thể dùng chữ viết toán học để dễ tính toán, nhưng bạn không thể dùng nó để viết những bài thơ tình.


Hình 20. Một người cầm một quipu, như mô tả trong một bản chép tay tiếng Spain, sau sự sụp đổ của đế quốc Inca.

Những người Sumer không lấy làm phiền hà rằng chữ của họ không thích hợp cho việc làm thơ. Họ đã không phát minh nó để sao chép ngôn ngữ nói, mà đúng hơn là để làm những điều mà ngôn ngữ nói đã không làm được thành công. Đã có một vài văn hóa, chẳng hạn như của thời kỳ trước-Colombus, vùng núi Andes, vốn chỉ dùng những chữ viết một phần trong suốt toàn bộ lịch sử của họ, không bối rối bởi những giới hạn của những chữ viết của họ, và không cảm thấy cần có một chữ viết đầy đủ. Chữ của những văn minh vùng núi Andes, nam America, rất khác so với chữ của người Sumer tương ứng của nó. Trong thực tế, nó rất khác biệt khiến nhiều người sẽ biện luận rằng đó không phải là chữ ‘viết’nào cả. Nó đã không viết trên những tấm đất sét, hoặc những mảnh giấy. Thay vào đó, nó được ‘viết’ bằng cách thắt những nút buộc trên những dây đầy màu sắc gọi là quipus. Mỗi quipu gồm nhiều dây màu sắc khác biệt, bằng len hay bông vải. Trên mỗi dây, nhiều nút được gắn ở những chỗ khác nhau. Một quipu duy nhất có thể chứa hàng trăm dây và hàng ngàn nút thắt. Bằng cách kết hợp những nút thắt khác nhau, trên những dây khác nhau với màu sắc khác biệt, nó đã có thể ghi lại một lượng lớn dữ liệu cho tính toán sổ sách, lấy thí dụ, liên quan đến thu thuế và sở hữu tài sản [13].

Trong hàng trăm, có lẽ hàng nghìn năm, những quipus đã là thiết yếu cho hoạt động thương mại của những thành phố, vương quốc và đế quốc [14]. Chúng đạt đến trọn vẹn tiềm năng của chúng dưới thời Đế quốc Inca, đã cai trị 10-12 triệu người, và trải rộng trên địa vực hiện nay của những nước Peru, Ecuador và Bolivia, cũng như một mảng lớn của Chile, Argentina và Colombia. Nhờ quipus, người Inca đã có thể giữ được và làm việc được với một lượng lớn những dữ liệu, mà nếu không có nó, họ sẽ không có khả năng để duy trì bộ máy hành chính phức tạp vốn một đế quốc với lãnh thổ rộng lớn như thế đã đòi hỏi.

Thực sự, những dây màu thắt nút quipus đã hết sức hiệu quả và chính xác, đến nỗi trong những năm đầu sau cuộc chinh phục Nam America của Spain, chính những người Spain đã đem dùng những quipus trong công việc quản trị đế quốc mới của họ. Khó khăn đã có là những người Spain chính họ đã không biết làm thế nào để ghi lại và đọc những quipus, làm cho họ phải tuỳ thuộc vào những người chuyên môn bản xứ. Những nhà cai trị mới của của đại lục này nhận ra rằng điều này đặt họ vào một vị thế yếu với thiệt thòi – những người chuyên môn quipu bản địa có thể dễ dàng đánh lừa, dối gạt những chúa tể của họ. Vì vậy, một khi sự thống trị của Spain đã được thiết lập vững chắc hơn, những quipus đã bị loại bỏ, và những hồ sơ của đế quốc mới của được lưu trữ hoàn toàn bằng chữ Latin và chữ số. Rất ít những quipus đã sống sót sau sự chiếm đóng Nam America của Spain, và hầu hết những quipus còn xót lại là không thể đọc được, thật không may, vì nghệ thuật đọc nhũng quipus đã bị mất.

Những Kỳ diệu của Guồng máy Hành chính.

Những người vùng Mesopotamia cuối cùng đã bắt đầu muốn viết xuống những sự vật việc khác hơn là những dữ liệu toán học đơn điệu. Khoảng giữa những năm 3000 và 2500 TCN, có nhiều những dấu hiệu hơn đã được cộng thêm vào hệ thống viết chữ của Sumer, dần dần biến đổi nó thành một hệ thống viết chữ đầy đủ mà ngày nay chúng ta gọi viết chữ hình nêm (cuneiform). Đến năm 2500 TCN, những nhà vua đã dùng viết chữ hình nêm để ban hành những nghị định, những thày tu đã dùng nó để ghi lại những lời sấm truyền, và những người dân dẫu thân phận kém cao quý cũng đã dùng nó để viết những thư từ cá nhân. Vào cũng gần khoảng thời gian đó, người Egypt đã phát triển một hệ thống viết chữ đầy đủ khác, được gọi là chữ khắc hình (hieroglyphics). Những hệ thống viết chữ đầy đủ khác cũng đã được phát triển ở nước Tàu khoảng năm 1200 TCN, và ở Trung America khoảng năm 1000-500 TCN.

Từ những trung tâm ban đầu này, những hệ thống viết chữ đầy đủ đã lan xa và rộng, xử dụng những hình dạng mới khác nhau, và những nhiệm vụ mới lạ. Mọi người đã bắt đầu viết thơ, sách lịch sử, truyện lãng mạn bịa đặt, kịch bản, những lời tiên tri, và sách dạy nấu ăn. Tuy nhiên, nhiệm vụ quan trọng nhất của viết chữ tiếp tục là sự lưu trữ những bó dày của số liệu toán học, và nhiệm vụ đó vẫn là đặc quyền của hệ thống chữ viết một phần. sách Thánh Hebrew, Sử ca Iliad của Greek, trường thiên anh hùng ca Mahabharata đạo Hindu, ba tạng kinh điển hay Tripitika đạo Phật, tất cả đều bắt đầu như những công trình truyền khẩu. Trải qua nhiều thế hệ, chúng đã được truyền đi bằng miệng đọc, và sẽ tiếp tục sống mãi, ngay cả nếu những hệ thống viết chữ đã không bao giờ từng được phát minh. Nhưng những sổ thuế bạ, và hệ thống hành chính quan liêu phức tạp đã được song sinh ra cùng với hệ thống chữ viết một phần, và cả hai vẫn liên kết không thể dứt, cho đến ngày nay như cặp song sinh người Xiêm [15] – nghĩ về những đề mục vắn tắt đến không thể hiểu trong những những hệ thống cấu trúc tập hợp những dữ liệu (data base) trong máy cômputơ, và những bảng dữ kiện theo cột và hàng để làm việc bằng tính toán (spreadsheets) [16] trong máy cômputơ.

Khi ngày càng nhiều những sự vật việc được viết ra, và đặc biệt là những tài liệu lưu trữ hành chính đã tăng lên những tỉ lệ rất lớn, những vấn đề mới xuất hiện. Thông tin học hỏi được lưu trữ trong một bộ óc người thì dễ dàng để lấy ra dùng. Não của tôi chứa hàng tỉ bit những dữ liệu thông tin, thế nhưng tôi có thể nhanh chóng, gần như ngay lập tức, nhớ tên của thủ đô của Italy, ngay sau đó nhớ lại những gì tôi đã làm vào ngày 11 tháng chín 2001, và sau đó trong tưởng tượng dựng lại đường dẫn từ nhà tôi đi đến trường Đại học Hebrew ở Jerusalem. Bộ óc con người làm điều đó chính xác như thế nào thì vẫn còn là một bí ẩn, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng hệ thống tra cứu, lấy ra những gì đã chứa từ trí nhớ của bộ óc thì rất hiệu quả đến phải ngạc nhiên (dĩ nhiên, trừ khi bạn đang cố gắng để nhớ bạn đã để chìa khóa xe của bạn chỗ nào!).

Thế nhưng, làm sao bạn tìm biết và lấy ra được những kiến thức thông tin được lưu trữ trên những dây quipu, hoặc phiến đất sét khô? Nếu bạn có chỉ mười phiến, hoặc một trăm tấm đất sét, đó không phải là một khó khăn. Nhưng nếu bạn đã tích lũy số chúng đến hàng ngàn, giống như một trong những người cùng thời với Hammurabi, vua Zimrilim của thành Mari? [17]

Hãy thử tưởng tượng trong ngắn ngủi, rằng đó là năm 1776 TCN. Hai người dân thành Mari đang cãi nhau về việc ai là chủ một cánh đồng lúa mì. Jacob khẳng định rằng ông đã mua cánh đồng từ Esau ba mươi năm trước. Esau đã cãi lại, rằng thực sự ông đã cho Jacob thuê cánh đồng trong thời hạn ba mươi năm, và giờ đây đã hết hạn này, ông có ý định đòi lại nó. Họ la ó, và cãi cọ thật lâu không đi đến đâu, và đã bắt đầu xô đẩy nhau, trước khi họ nhận ra rằng họ có thể giải quyết tranh chấp của họ bằng cách đến văn khố nhà vua, nơi đang lưu giữ những văn tự và hóa đơn mua bán, áp dụng cho tất cả những bất động sản trong vương quốc. Khi đến văn khố, họ khi được đẩy từ một viên chức này đến viên chức khác. Họ phải kiên nhẫn chờ đợi một vài lần công sở ngưng việc, vì nhằm lúc những viên chức được tạm nghỉ uống nước pha bằng những lá cây thuốc, rồi hết ngày, họ được bảo ngày mai hãy trở lại, và sau cùng cả hai được giao cho một nhân viên, người làu nhàu cau có này sẽ tìm những phiến đất sét khô ghi giữ việc mua bán giữa hai người. Nhân viên này mở một cánh cửa nhà kho, và dẫn họ vào một phòng lớn, từ sàn đến trần, xếp dãy những chồng có tới hàng ngàn tấm đất sét. Không có gì ngạc nhiên khi người thư lại mang bộ mặt cau có bực dọc. Ông ta phải làm thế nào đây để tìm ra văn tự của cánh đồng lúa mì đang tranh chấp đã viết từ ba mươi năm trước? Ngay cả sau khi ông tìm thấy chúng, làm thế nào ông sẽ có thể kiểm lại ít nhất hai lân khác nhau để bảo đảm rằng một trong những gì vừa lục lọi gặp đươc, vốn từ ba mươi năm trước đây, đã chính là tài liệu sau cùng, liên quan đến cánh đồng đang tìm này? Nếu ông không thể tìm thấy nó, có phải điều đó sẽ chứng minh rằng Esau không bao giờ bán hoặc đem cho thuê cánh đồng này? Hay chỉ là những tài liệu đã bị mất, hoặc chuyển thành bùn, khi kho lưu trữ đã có những lần bị mưa dột?

Rõ ràng, sự kiện chỉ in tài liệu trên đất sét là không đủ để bảo đảm cho cho sự làm việc với những dữ liệu thông tin được hiệu quả, chính xác và thuận tiện. Điều đó đòi hỏi cách thức tổ chức như lập catalog, phương pháp sao chép như những máy photocopy, phương pháp triệu hồi nhanh chóng và chính xác như những algorithm trong cômputơ, và những nhân viên thư viện mô phạm (nhưng hy vọng cũng vui vẻ) là người biết dùng rành rẽ những phương tiện này.

Phát minh những phương pháp loại giống như vậy đã chứng tỏ là khó khăn hơn rất nhiều so với việc phát minh phương pháp viết chữ. Nhiều hệ thống viết chữ được phát triển một cách độc lập trong những nền văn hóa, xa cách nhau trong cả thời gian và không gian. Cứ độ vài chục năm, những nhà khảo cổ lại tìm thấy được một vài chữ viết tưởng đã bị mất. Một vài trong số chúng có thể chứng minh được ngay cả còn cổ hơn những vết khắc vẽ như những trầy xước trên những tấm đất sét khô của Sumer. Nhưng hầu hết trong số chúng vẫn còn là những lạ lẫm chỉ thoả óc tò mò người thời nay, vì những người xưa đã phát minh chúng vẫn chưa phát minh được cách lập danh mục những lưu trữ (như catalog ngày nay) và tra cứu tài liệu lưu trữ cho được nhanh chóng, hữu hiệu. Những gì đã khiến Sumer, cũng như Egypt thời những Pharaon, nước Tàu thời cổ, và đế quốc Inca, tất cả đứng riêng ra, là những nền văn hóa này đã phát triển những kỹ thuật tốt để lưu trữ, lập danh mục và tra cứu tài liệu lưu trữ. Họ cũng đầu tư vào việc mở trường đào tạo những người chuyên nghề viết chữ – scribe, tạm dịch những “thày viết chữ” –, những thư ký, nhân viên thư viện và những nhà kế toán chuyên môn.

Một bài tập viết từ một trường học ở vùng vùng Mesopotania thời cổ, được những nhà khảo cổ thời nay tìm ra, cho chúng ta một cái nhìn lướt, thấy vội vàng được một chút về cuộc sống của những sinh viên này, khoảng 4.000 năm trước đây: 

Tôi đi vào và ngồi xuống, và thày giáo của tôi đọc bảng viết của tôi. Ông nói: “Còn thiếu mất một gì đó!”
Và ông cho tôi một roi.
Một trong những người phụ trách nói, “Tại sao anh mở miệng anh mà không có phép của ta?”
Và ông cho tôi một roi.
Người phụ trách những quy tắc nói, “Tại sao anh lại đứng lên mà không có phép của ta?”
Và ông cho tôi một roi.
Người canh cổng nói, “Tại sao anh đi ra ngoài mà không có phép của ta?” Và ông cho tôi một roi.
Người giữ bình lớn đựng bia nói, “Tại sao anh lại nhận được một vài mà không có phép của ta?”
Và ông cho tôi một roi.
Thày giáo người Sumer nói, “Tại sao anh đã nói tiếng Akkad?” [18]
Và ông cho tôi một roi.
Thầy giáo tôi nói, “chữ viết tay của anh thì không đẹp!”
Và ông cho tôi một roi.[19]

Những “thày viết chữ” thời cổ [20], học không chỉ đơn thuần là để đọc và viết, nhưng cũng còn dùng những danh mục, từ điển, lịch, những mẫu đơn và bảng vẽ, bàn viết. Họ đã học và thấm nhập được những kỹ thuật phân loại và lập những danh sách đề mục, tra cứu và tìm kiếm để làm việc trên những dữ kiện thông tin rất khác biệt với của những gì đã dùng bằng bộ óc. Trong não, tất cả những dữ liệu thông tin đều được tự do kết nối. Khi tôi đi cùng chồng (hay vợ) tôi, đến nhà băng làm giấy vay tiền nợ trả lãi dài hạn, để mua ngôi nhà mới của chúng tôi, tôi nhớ đến nơi đầu tiên chúng tôi đã sống chung với nhau, rồi nhắc tôi về tuần trăng mật của chúng tôi tại New Orleans, qua đó gợi tôi nhớ đến những con cá sấu, qua đó làm tôi nhớ đến những con rồng, chúng gợi cho tôi nhớ đến vở kịch The Ring of the Nibelungen của Wagner, và đột nhiên, trước khi chính tôi nhận ra, ở đó tôi đang hâm hư leitmotif của kịch bản Siegfried, làm một nhân viên nhà băng bối rối. Trong guồng máy hành chính quan lại, những sự vật việc đều phải được giữ phân biệt với nhau. Có một ngăn kéo cho những món tiền vay mua nhà, một ngăn kéo khác cho những giấy giá thú, một ngăn kéo thứ ba cho sổ sách thuế, và thứ tư cho những vụ kiện. Nếu không thế, làm sao bạn có thể tìm ra được bất cứ gì? Những sự vật việc, nếu thuộc về nhiều hơn một ngăn kéo, giống như những nhạc kịch dài của Wagner (Tôi giữ chúng dưới đề mục ‘âm nhạc’, ‘kịch’, hay có thể tạo ra một đề mục hoàn toàn mới?), chúng gây nhức đầu khủng khiếp. Thế nên, một người cứ phải mãi mãi thêm, xóa và sắp xếp lại những ngăn kéo.

Để có thể làm được chức vụ của mình, những người điều hành một hệ thống giống như những ngăn kéo như thế, phải được prôgram lại để ngừng suy nghĩ như con người, và bắt đầu suy nghĩ như những nhân viên giữ sổ sách, những chuyên viên kế toán tài chính. Như tất cả mọi người từ thời thời cổ cho đến ngày nay đều biết, những người làm sổ sách và những nhà kế toán đều suy nghĩ trong một cách thức không-con người. Họ nghĩ như (xếp đặt giấy tờ ra vào) những tủ hồ sơ. Đây không phải là lỗi của họ. Nếu họ không nghĩ theo cách như thế, những ngăn kéo của họ sẽ rối loạn tất cả lên, và họ sẽ không có khả năng cung cấp những dịch vụ của chính phủ, công ty hay tổ chức của họ đòi hỏi. Tác động quan trọng nhất của viết chữ vào lịch sử loài người chính xác là điều này: nó đã dần dần thay đổi cách thức con người suy nghĩ và nhìn thế giới. Tự do liên kết (những sự vật việc trong đầu óc) và suy nghĩ (về chúng) với cái nhìn tổng thể [21] đã nhường chỗ cho sự phân tích thành phần phụ hay thứ lớp [22] và quản lý theo trật tự của tổ chức hành chính [23].

Ngôn ngữ của những con số

Khi những thế kỷ trôi qua, Những phương pháp của hệ thống tiến trình những hành động hướng tới kết quả định sẵn dùng những dữ liệu thông tin dùng trong guồng máy hành chính quan lại trở nên càng khác biệt hơn bao giờ so với cách thức tự nhiên suy nghĩ của con người – và từng là quan trọng hơn bao giờ. Một bước quyết định đã được thực hiện trong khoảng thời gian đâu đó trước khi thế kỷ thứ chín, khi một hệ thống chữ viết một phần đã được phát minh, một chữ viết có thể lưu trữ và hành động hướng tới kết quả trên những dữ liệu toán học với sự hiệu quả chưa từng có. Chữ viết một phần này gồm mười dấu hiệu, thay mặt cho những số từ 0 đến 9. Đã nhầm lẫn, những dấu hiệu này được biết đến như là chữ số Arab, dẫu chúng đã được người Hindu phát minh đầu tiên (ngay cả lại càng nhiều nhầm lẫn hơn nữa, người Arab ngày nay dùng một tập hợp những chữ số trông khá khác biệt với của phương Tây). Nhưng những người Arab có được tiếng thơm, vì khi họ xâm chiếm India, họ đã gặp hệ thống ch số này, đã hiểu được sự hữu dụng của nó, cải tiến và hoàn thiện nó, và lan truyền nó về lại Trung Đông, và sau đó sang tận Europe. Khi có nhiều những dấu hiệu khác sau đó đã được thêm vào những chữ số Arab (như những dấu hiệu cho phép tính cộng, trừ và nhân), cơ sở của những kí hiệu toán học thời nay ra đời.

Dẫu hệ thống viết chữ này vẫn còn là một chữ viết một phần, nó đã trở thành ngôn ngữ ưu thắng có ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hầu như tất cả những quốc gia, những công ty, những tổ chức và những tổ chức – cho dù họ nói tiếng Arab, tiếng Hindi, tiếng England hoặc tiếng Norway – đều dùng chữ viết toán học để lưu trũ và làm việc với những dữ liệu. Tất cả mỗi mảnh dữ liệu kiến thức thông tin có thể dịch được sang chữ viết của toán học, đều được lưu giữ, lan truyền và giải quyết đi đến mục đích của nó, với tốc độ nhanh chóng không thể tưởng tượng nổi, và hiệu quả.

Một người muốn ảnh hưởng đến những quyết định của những chính phủ, những tổ chức, và những công ty do dó phải học để nói trong những con số. Những nhà chuyên môn làm hết sức mình để dịch ngay cả những ý tưởng như ‘nghèo đói’, ‘hạnh phúc’ và ‘giữ lời hứa’ thành những con số (‘mức thu nhập tối thiểu’ [24], ‘mức độ chủ quan hài lòng về đời sống và sinh hoạt của chính mình’ [25], ‘khả năng tín dụng’ [26]). Toàn bộ những lĩnh vực của kiến ​​thức, chẳng hạn như vật lý và kỹ thuật, đã bị mất gần như tất cả những liên lạc với những ngôn ngữ nói của con người, và được duy trì đơn thuần chỉ bằng chữ viết toán học.

Hình bên : Một phương trình của Einstein (thay cho ...để tính gia tốc của khối lượng i dưới tác động của lực hấp dẫn, theo) thuyết tương đối. Khi hầu hết những người không chuyên môn thấy một phương trình như vậy, họ thường hoảng sợ và chết đứng, giống như phản ứng của một con nai khi bị ánh đèn pha của một chiếc xe chạy quá nhanh chiếu vào nó, khi bắt gặp nó bất ngờ trên đường. Phản ứng này hoàn toàn là tự nhiên, và không phơi bày một sự thiếu kém về thông minh hay về tính tò mò khám phá nào cả. Trừ những trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, bộ óc con người chỉ giản dị là không có khả năng để suy nghĩ qua những khái niệm như trong những lý thuyết như thuyết tương đối và cơ học quantum. Dẫu thế, những nhà vật lý lý thuyết vẫn có thể làm được như vậy, vì họ đặt qua một bên những cách suy nghĩ truyền thống của con người, và học để suy nghĩ lại theo cách mới, với sự giúp đỡ của những hệ thống xếp đặt tiến trình hành động hướng tới kết quả định sẵn dùng những dữ liệu thông tin bên ngoài. Những phần quan trọng của quá trình suy nghĩ của họ diễn ra không trong đầu, nhưng trong những máy cômputơ, hoặc trên những tấm bảng đen trong lớp học.

Gần đây hơn, chữ viết toán học đã là nguyên nhân đưa đến một một hệ thống viết chữ lại còn cách mạng nhiều hơn, một chữ viết lưu trữ trong cômputơ có hệ đếm cơ sở số 2 (binary), bao gồm chỉ có hai dấu hiệu: 0 và 1. Những từ bây giờ tôi đang đánh máy trên bàn phím của tôi, đều được viết trong máy cômputơ của tôi, bằng những kết hợp khác nhau của chỉ 0 và 1.

Chữ viết đã ra đời như người nữ tỳ của ý thức con người, nhưng ngày càng trở thành chủ nhân của nó. Những cômputơ của chúng ta có khó khăn để hiểu Homo Sapiens nói, cảm và mơ như thế nào. Vì vậy, chúng ta đang dạy Homo Sapiens để nói chuyện, cảm nhận và mơ ước trong ngôn ngữ của những con số, khiến những máy cômputơ có thể hiểu được.

Và đây không phải là kết thúc của câu chuyện. Lĩnh vực AI hay khoa học cômputơ về lý thuyết và phát triển hệ thống cômputơ có khả năng thực hiện những công việc thường đòi hỏi trí thông minh của con người [27] đang tìm cách tạo ra một loại ‘trí tuệ thông minh’ mới hoàn toàn dựa trên chữ viết nhị phân của máy cômputơ. Những phim khoa học giả tưởng như The MatrixThe Terminator kể chuyện về một ngày khi chữ viết của hệ đếm cơ sở số 2 (những code cômputơ) phá vỡ và lật đổ sự thống trị đè nặng loài người. Khi loài người cố gắng để lấy lại sự kiểm soát của chữ viết nổi loạn, nó đã phản ứng bằng cố gắng để tiêu diệt loài người.


8
Không có Công lý trong Lịch sử

Hiểu biết lịch sử con người trong nghìn năm sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp thu về một câu hỏi duy nhất: làm thế nào con người đã tổ chức chính họ trong những mạng lưới của đám đông-hợp tác, khi họ thiếu bản năng sinh học cần thiết để duy trì những mạng lưới như vậy? Trả lời ngắn là con người tạo ra những trật tự tưởng tượng và nghĩ ra những chữ viết. Hai phát minh này đã lấp đầy những khoảng trống do thừa kế di truyền sinh học của chúng ta bỏ lại.

Tuy nhiên, sự xuất hiện của những mạng lưới này, đối với nhiều người, đã là một phúc lợi có giá trị về đạo đức đáng nghi ngờ . Những trật tự tưởng tượng duy trì những mạng lưới này đã là không trung lập cũng không công bằng. Chúng chia người ta vào trong những nhóm vốn được làm cho tin là có thực; sắp xếp theo một hệ thống đẳng cấp. Những tầng trên cao được hưởng những ưu đãi và quyền lực, trong khi những tầng dưới thấp bị kỳ thị và đàn áp. Điển luật Hammurabi, lấy thí dụ, thiết lập một trật tự đáng chê trách, phân thành đẳng cấp gồm những người cao quí, bình dân và nô lệ. Những người cao quí ở trên nấc thang cao nhất nhận được tất cả những tốt đẹp của đời sống. Dân thường nhận được những gì còn lại. Những nô lệ nhận được một gậy đập nếu họ có phàn nàn.

Mặc dầu sự tuyên bố của nó về sự bình đẳng của tất cả mọi người, trật tự tưởng tượng được những người US thành lập vào năm 1776 cũng đã thiết lập một hệ thống phân biệt đẳng cấp. Nó tạo ra một hệ thống đẳng cấp giữa con người, những người được hưởng lợi từ nó, và phụ nữ, những người mà nó bỏ cho bị kém quyền hơn. Nó tạo ra một hệ thống đẳng cấp giữa những người da trắng, người được hưởng quyền tự do, và những người da đen và người da đỏ, người được coi là con người của một loại thấp hơn, và do đó không chia sẻ những quyền bình đẳng của phái nam. Nhiều người trong số những người đã ký bản Tuyên ngôn Độc lập là những chủ nô. Họ đã không trả tự do cho những nô lệ của họ ngay khi ký kết Tuyên Ngôn này, cũng không phải họ tự coi mình là những kẻ giả nhân nghĩa. Theo quan điểm của họ, những quyền của con người đã không can dự gì với những người da đen.

Trật tự USA cũng đã ban bố như ‘thiêng liêng’ hệ thống đẳng cấp giữa người giàu và người nghèo. Với hầu hết những người US vào thời điểm đó, không có gì thành vấn đề với những bất bình đẳng gây ra do cha mẹ giàu có để lại tiền của và doanh nghiệp của họ cho con cái của họ. Theo quan điểm của họ, bình đẳng có nghĩa chỉ giản dị là cùng những luật pháp được áp dụng với cả người giàu lẫn người nghèo. Nó không có gì liên hệ gì với những trợ cấp thất nghiệp, giáo dục hợp chung, hay bảo hiểm y tế. Tự do, cũng thế, chuyên chở những gợi ý rất khác biệt so với hiện nay. Vào năm 1776, nó không có nghĩa là những giới bị tước đoạt quyền (chắc chắn không là những người da đen, hay da đỏ hoặc, cầu Trời đừng xảy ra, những phụ nữ) có thể đạt được và thực thi quyền lực. Nó đơn giản chỉ có nghĩa là nhà nước không thể, trừ những trường hợp bất thường, tịch thu tài sản cá nhân của công dân hoặc nói cho người ấy biết phải làm gì với nó. Trật tự xã hội của USA do đó duy trì đẳng cấp của sự giàu có, mà một số người đã nghĩ là được Gót ủy quyền, và những người khác xem như đại diện cho những quy luật bất biến của tự nhiên. Tự Nhiên, đã được tuyên bố, đã khen thưởng công trạng xứng đáng với sự giàu có, trong khi xử phạt sự lười biếng.

Tất cả những phân biệt nêu trên – giữa những người tự do và nô lệ, giữa người da trắng và da đen, giữa người giàu và người nghèo – đều bắt nguồn từ những chuyện bịa đặt, pha chế giả tạo. (Hệ thống đẳng cấp của đàn ông và phụ nữ sẽ được thảo luận sau). Tuy nhiên, đó là một quy luật sắt của lịch sử rằng mỗi hệ thống đẳng cấp đều phủ nhận trách nhiệm hay sự ủng hộ trong nguồn gốc của những chuyện tưởng tượng bịa đặt của nó, và tuyên bố đó là tự nhiên và không thể tránh khỏi. Lấy thí dụ, nhiều người đã xem những hệ thống đẳng cấp của những người tự do và nô lệ như tự nhiên và đã lập luận chính xác rằng chế độ nô lệ không phải là một phát minh của con người. Hammurabi đã xem nó như là được những gót tấn phong. Aristotle lập luận rằng những nô lệ có một “ bản chất nô lệ”, trong khi người tự do có một “ bản chất tự do”. Tình trạng của họ trong xã hội chỉ đơn thuần là một sự phản ảnh của tính chất bẩm sinh của họ. [28]

Hỏi những người chủ trương Da trắng trên Tất cả [29] về sự phân biệt tầng lớp xã hội theo chủng tộc, và bạn lọt ngay vào trong một bài giảng giả-khoa học liên quan đến sự khác biệt sinh học giữa những chủng tộc. Bạn nhiều phần sẽ có thể được cho biết rằng có một gì đó trong máu hoặc gene của những người gốc Causasian [30], nghĩa là những người da trắng, khiến những người da trắng này là tự nhiên thông minh, đạo đức và làm việc chăm chỉ hơn. Hãy thử hỏi một nhà tư bản cực đoan về sự phân chia đẳng cấp dựa trên sự giàu có, và bạn có nhiều phần sẽ nghe rằng nó là thành quả tất yếu của sự khác biệt khách quan về khả năng con người. Những người giàu có, họ có nhiều tiền hơn, theo quan điểm này, vì họ có nhiều khả năng và làm việc cần mẫn. Không ai nên lấy thể làm điều phiền lòng, sau đó, nếu những người giàu có được sự chăm sóc sức khỏe tốt hơn, giáo dục tốt hơn và dinh dưỡng tốt hơn. Người giàu hoàn toàn xứng đáng với tất cả những ưu đãi mà họ được hưởng.


Hình 21. Một dấu hiệu trên một bãi biển ở Nam Africa từ thời kỳ thị chủng tộc, giới hạn sự xử dụng của nó với chỉ dành cho người “da trắng ”. Những người có màu da sáng hơn thường hơn có nguy cơ bị cháy nắng hơn những người có làn da sẫm màu hơn. Tuy nhiên, đã có không có lôgích sinh học đằng sau sự phân chia những bãi biển ở Nam Africa. Những bãi biển dành cho những người có da màu sáng hơn không phải vì đặc biệt có mức thấp hơn của tia cực tím.

Những người Hindu là người tuân thủ theo một hệ thống phân chia giai cấp, tin rằng những quyền lực vũ trụ đã làm một giai cấp này vượt trội hơn một giai cấp khác. Theo như huyền thoại tạo thiên lập địa Hindu nổi tiếng, những gót đã làm ra thế giới từ cơ thể của Một hữu thể nguyên thủy, Purusa. Mặt trời đã được tạo ra từ mắt của Purusa, mặt trăng từ não của Purusa, những Brahmin (những thày tu) từ miệng của nó, Kshatriya (những chiến binh) từ những cánh tay của nó, Vaishya (nông dân và thương nhân), từ đùi của nó, và Shudra (tôi tớ) từ chân của nó [31]. Chấp nhận giải thích này và sự khác biệt chính trị xã hội giữa những Brahmin và Shudra là cũng tự nhiên và vĩnh cửu như những khác biệt giữa mặt trời và mặt trăng. [32] Người Tàu xưa đã tin rằng khi những nữ thần Nu Wa tạo ra con người từ đất, bà đã nhào thành giới quý tộc từ thứ đất vàng tốt, trong khi dân thường được thành hình từ bùn nâu. [33]

Tuy nhiên, với tất cả sự hiểu biết của chúng ta, những hệ thống phân biệt đẳng cấp này tất cả là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người. Những người thuộc gia cấp Brahmin và Shudra không thực sự được những gót tạo ra từ những phần thân thể khác nhau của một hữu thể nguyên thủy. Thay vào đó, sự khác biệt giữa hai giai cấp được tạo ra bởi những luật lệ và khuôn mẫu do con người ở miền bắc India phát minh, vào khoảng 3.000 năm trước đây. Trái với Aristotle, không có sự khác biệt về sinh lý học được biết giữa những người nô lệ và những người tự do. Pháp luật và những khuôn mẫu của con người đã biến một số người thành nô lệ và những người khác vào thành những người chủ nô. Giữa người da đen và người da trắng có một số khác biệt sinh lý học khách quan, chẳng hạn như màu da và loại tóc, nhưng không có bằng chứng cho thấy sự khác biệt mở rộng đến trí thông minh hay đạo đức.

Hầu hết mọi người cho rằng quan hệ xã hội của họ là tự nhiên và chính đáng, trong khi của những xã hội khác là dựa trên những tiêu chuẩn sai và vô lý. Người phương Tây thời nay được dạy dỗ để chế nhạo, cười vào ý tưởng của đẳng cấp chủng tộc. Họ bị sốc trước những luật cấm người da đen sống trong những khu phố của người da trắng, hoặc đến học tại trường của người da trắng, hoặc được điều trị tại bệnh viện dành cho người da trắng. Nhưng hệ thống phân chia cấp bậc giữa người giàu và người nghèo – vốn quy định rằng những người giàu sống trong những khu phố riêng biệt và sang trọng hơn, theo học những trường tư lập, riêng biệt và uy tín hơn, và nhận được điều trị y tế tại những cơ sở riêng biệt và trang bị tốt hơn – có vẻ hoàn toàn hợp lý với nhiều người US và Europe. Tuy nhiên, đó là một sự kiện đã được chứng minh, rằng hầu hết những người giàu có đã là giàu có như thế chỉ có lý do đơn giản là họ đã được sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi hầu hết những người nghèo sẽ vẫn còn nghèo nàn trong suốt cuộc đời của họ chỉ giản dị là vì họ đã được sinh ra trong một gia đình nghèo.

Thật không may, những xã hội loài người phức tạp dường như đòi hỏi những hệ thống đẳng cấp và sự kỳ thị bất công do tưởng tượng mà thành. Dĩ nhiên không phải tất cả những hệ thống đẳng cấp là giống hệt nhau về mặt đạo đức, và một số xã hội bị điêu đứng bởi những loại kỳ thị cực đoan hơn một số xã hội khác, thế nhưng những học giả biết không có xã hội lớn nào mà đã có thể gạt bỏ hoàn toàn được sự kỳ thị. Tái diễn nhiều lần, người ta đã tạo ra những thứ bậc, đẳng cấp trật tự trong xã hội của họ, bằng cách phân loại dân chúng vào thành những tầng lớp tưởng tượng, chẳng hạn như lớp những người ăn trên ngồi chốc, những người bình dân và những nô lệ; người da trắng và người da đen; những quí tộc và thứ dân [34]; những Brahmin và Shudra; hay những người giàu và người nghèo. Những tầng lớp phân loại này đã quy định sự quan hệ giữa hàng triệu con người bằng cách làm cho một số người, về mặt pháp lý, chính trị hoặc xã hội, vượt trên, hay cao hơn những người khác.

Những tầng lớp xã hội phục vụ một chức năng quan trọng. Chúng làm cho những người hoàn toàn xa lạ biết đối xử với nhau như thế nào nhưng không mất thời giờ và công sức cần thiết để trở thành những cá nhân thân thiết. Trong Pygmalion của George Bernard Shaw, Henry Higgins không cần phải thiết lập một quen biết dài lâu với Eliza Doolittle để biết ông ta nên liên hệ thế nào với cô này. Chỉ nghe tiếng cô nói chuyện cũng bảo ông biết cô thuộc thành phần giai cấp thấp kém, với họ ông có thể hành động như ý ông muốn – lấy thí dụ, dùng cô như một con tốt khi ông đánh cá rằng cô gái bán hoa này có thể qua mặt được mọi người nếu giả trang như một bà công tước. Một Eliza thời nay, đứng bán hoa cho một hiệu hàng hoa, tất biết phải cố gắng chừng nào để bán hoa hồng và gladioli cho hàng chục người đã vào cửa hiệu mỗi ngày. Cô không thể làm một điều tra chi tiết về những thị hiếu và ví tiền của mỗi cá nhân. Thay vào đó, cô dùng những tín hiệu xã hội – cách ăn mặc của một người, tuổi tác của người ấy, và nếu cô không phải giữ lề thói chính trị chính đáng, về cả màu da của người ấy. Đó là cách cô phân biệt ngay lập tức, giữa người là thanh tra quản trị của một công ty tư vấn kế toán, người có nhiều khả năng để đặt một trật tự lớn những hoa hồng đắt tiền, và một cậu bé đưa thư chỉ có thể đủ tiền mua một bó hoa cúc.

Dĩ nhiên, những khác biệt trong những khả năng tự nhiên cũng đóng một vai trò trong việc thành hình những sự phân biệt tầng lớp xã hôi. Nhưng những đa dạng về khả năng và cá tính như thế thường được ngẫm nghĩ trù tính qua thông qua những hệ thống đẳng cấp tưởng tượng. Điều này xảy ra theo hai cách quan trọng. Đầu tiên và trước hết, hầu hết những khả năng phải được nuôi dưỡng và phát triển. Ngay cả nếu một ai đó được sinh ra với một tài năng đặc biệt, tài năng đó thường sẽ vẫn ẩn dấu, nếu nó không được nuôi dưỡng, rèn luyện và thực hành. Không phải tất cả mọi người đều có cơ hội như nhau để trau dồi và hoàn thiện những khả năng của mình. Liệu họ có hay không có một cơ hội như thế, thường sẽ tuỳ thuộc vào vị trí của họ trong hệ thống đẳng cấp vốn đặt ra từ tưởng tượng trong xã hội của họ. Harry Potter là một thí dụ hay. Bị tách ra khỏi gia đình thuật sĩ lỗi lạc của mình và được những người dốt nát không biết gì về ma thuật nuôi dưỡng, cậu đến trường Hogwarts không có bất kỳ kinh nghiệm nào về ma thuật. Phải đến bảy quyển sách để cậu bé mới đạt được quyền hạn vững vàng của mình, và kiến ​​thức về khả năng độc đáo của mình.

Thứ hai, ngay cả khi những người thuộc tầng lớp khác nhau phát triển cùng những khả năng chính xác tương tự, có nhiều phần xảy ra là họ sẽ không nhận được cùng những cơ hội thành công như nhau, vì họ sẽ phải chơi cuộc chơi theo những luật lệ quy định khác biệt. Nếu, trong India dưới thời cai trị England, một người thuộc giai cấp bần cùng Untouchable, một người thuộc Brahmin, một người Ireland Catô, và một người England Thệ Phản đã bằng cách nào đó đã phát triển chính xác cùng những nhạy bén kinh doanh, họ vẫn sẽ không có cơ hội như nhau trong việc làm giàu. Trò chơi kinh tế đã thiên lệch bất công bởi những giới hạn pháp luật, và những lớp ngăn không chính thức, như những trần nhà bằng kính.

Vòng tai ác

Tất cả những xã hội đã dựa trên những hệ thống đẳng cấp tưởng tượng, nhưng không nhất thiết phải theo cùng một hệ thống phân chia đẳng cấp. Giải thích thế nào về phần những khác biệt? Tại sao xã hội truyền thống của India phân loại mọi người theo huyết thống, xã hội Ottoman theo tôn giáo, và xã hội USA theo chủng tộc? Trong hầu hết những trường hợp, những hệ thống đẳng cấp có nguồn gốc như là kết quả của một tập hợp gồm những hoàn cảnh lịch sử tình cờ và sau đó đã tồn tại dai dẳng, và sửa đổi ngày càng thêm tinh tế, qua nhiều thế hệ khi những nhóm khác biệt phát triển đã thu hoạch những lợi ích trong đó.

Lấy thí dụ cụ thể, nhiều học giả phỏng đoán rằng hệ thống giai cấp Hindu đã thành hình khi người Indo-Aryan xâm chiếm lục địa India vào khoảng 3.000 năm trước, đô hộ người dân địa phương. Những người xâm lược đã thành lập một xã hội phân thành tầng lớp, trong đó họ – dĩ nhiên – chiếm những vị trí hàng đầu (những giáo sĩ và những chiến binh), để lại những người bản địa sống như đầy tớ và nô lệ. Những người xâm lược, những người ít về số lượng, sợ mất đặc quyền đặc lợi và bản sắc độc đáo của họ. Để chặn nguy cơ này, họ chia dân chúng thành những giai cấp, mỗi trong số đó đã được yêu cầu để theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể hoặc thực hiện một vai trò cụ thể trong xã hội. Mỗi giai cấp đều có tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ khác biệt. Pha trộn giai cấp – tác động quan hệ xã hội, hôn nhân, ngay cả chia sẻ bữa ăn – đều đã bị cấm. Và sự phân biệt không chỉ pháp lý – chúng đã trở thành một phần di sản thừa kế của thần thoại tôn giáo và thực hành.

Những người nắm quyền cai trị biện luận rằng hệ thống giai cấp đã phản ảnh một thực tại vũ trụ vĩnh cửu chứ không phải là một phát triển cơ may ngẫu nhiên của lịch sử. Những khái niệm về sự tinh khiết và sự không-tinh khiết đã là những thành tố yếu tính trong đạo Hindu, và chúng đã được khai thác để củng cố những pyramid xã hội. Người Hindu sùng đạo đã được dạy rằng tiếp xúc với những người thuộc một giai cấp khác biệt khác, có thể gây ô nhiễm không chỉ cá nhân họ, nhưng cả xã hội như một toàn thể, và do đó nên ghê tởm ghét bỏ. Những ý tưởng như vậy khó là độc nhất, không chỉ với những người Hindu. Trong suốt lịch sử, và trong hầu hết tất cả những xã hội, khái niệm về ô nhiễm và tinh khiết đã đóng một vai trò dẫn đạo trong việc thực thi những sự phân nhóm xã hội và chính trị, và đã được nhiều giai cấp thống trị khai thác để duy trì những đặc quyền của họ. Tuy nhiên, sợ hãi về ô nhiễm không phải là một sự bịa đặt hoàn toàn của những giáo sĩ và những vương hầu. Nó có thể có gốc rễ của nó trong những cơ chế sinh tồn sinh học vốn làm cho con người cảm thấy một sự ghê tởm từ bản năng đối với những kẻ mang mầm bệnh tiềm tàng, chẳng hạn như cơ thể người bệnh và thân xác người chết. Nếu bạn muốn giữ cho bất kỳ nhóm người nào trong cô lập – phụ nữ, người Jew, người Roma [35], những người đồng tính, người da đen – cách tốt nhất để làm điều đó là thuyết phục mọi người rằng những người này là một nguồn của ô nhiễm.

Hệ thống giai cấp Hindu và pháp luật đi kèm phục vụ của nó về sự tinh khiết đã trở thành gắn sâu chặt và chìm lẫn trong văn hóa India. Rất lâu sau khi đã quên lãng sự xâm lăng của Indo-Aryan, người India vẫn tiếp tục tin tưởng vào hệ thống giai cấp và gớm ghét sự ô nhiễm gây ra bởi sự pha trộn giai cấp. Những giai cấp không chống cự được sự thay đổi. Trong thực tế, với thời gian trôi qua, những giai cấp lớn đã bị chia thành những giai cấp phụ. Cuối cùng bốn giai cấp ban đầu biến thành 3.000 nhóm khác biệt được gọi là jati (nghĩa đen là “sinh ra”). Nhưng sự phát triển của những giai cấp này đã không thay đổi nguyên tắc cơ bản của hệ thống, theo đó mỗi người được sinh ra vào một đội ngũ cấp bậc cụ thể, và bất kỳ hành vi noà vi phạm những quy tắc của nó làm ô nhiễm con người và xã hội như một toàn thể. Jati của một người xác định nghề nghiệp của người ấy, những thực phẩm bà có thể ăn, nơi cư trú của ông ta, và hôn phu hay hôn thê tương xứng có đủ điều kiện, có đủ quyền để cưới hỏi của họ. Thông thường, một người chỉ có thể kết hôn trong vòng giai cấp của mình, và những con cái của họ kế thừa địa vị xã hội này.

Bất cứ khi nào một nghề mới đã phát triển thành, hoặc một nhóm người mới xuất hiện trên sân khấu xã hội, họ phải đi đến được công nhận là một giai cấp, để nhận được một vị trí thuận hợp với pháp luật trong xã hội Hindu. Những nhóm không thành công trong sự được công nhận như là một giai cấp, theo nghĩa đen, là những kẻ bị-ruồng-bỏ [36] – trong xã hội phân chia giai cấp này, họ ngay cả còn không được đứng trên bậc thềm thấp nhất. Họ được biết đến như những người “đừng ai chạm đến[37]. Họ phải sống xa cách, lánh ngoài tất cả những người khác và trong manh mún cùng nhau sống trong những cách nhục nhã và ghê tởm nhất, chẳng hạn như nhặt nhạnh những bãi rác, đào bới những vật liệu phế thải. Ngay cả những thành viên của những giai cấp thấp nhất cũng tránh, không trộn lẫn với họ, không ăn chung với họ, không chạm vào họ, và chắc chắn không kết hôn với họ. Trong đất nước India thời nay, vấn đề hôn nhân và công việc vẫn còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống giai cấp, bất chấp tất cả những nỗ lực của chính quyền dân chủ của India để phá vỡ những phân biệt như thế, và thuyết phục người theo đạo Hindu rằng không có gì là ô nhiễm trong sự pha trộn giai cấp. [38]

Tinh khiết ở USA

Một vòng luẩn quẩn đồi bại ác độc tương tự đã kéo dài dai dẳng hệ thống kỳ thị chủng tộc ở USA thời nay. Từ thế kỷ XVI đến XVIII, những người chinh phục Europe đã nhập cảng hàng triệu nô lệ người Africa để làm việc trong những hầm mỏ và đồn điền của châu America. Họ đã chọn để nhập cảng nô lệ từ Africa chứ không phải từ Europe, hay Đông Asia do ba yếu tố gián tiếp. Thứ nhất, Africa gần hơn, do đó, đã là rẻ hơn để nhập cảng nô lệ từ Senegal thay vì từ Việt Nam [39].

Thứ hai, ở Africa đã sẵn có một thương mại trong đó buôn bán nô lệ đã phát triển mạnh (xuất cảng nô lệ chủ yếu là cho Trung Đông), trong khi ở Europe nô lệ là rất hiếm. Điều rõ ràng là dễ dàng hơn để mua những nô lệ trong một thị trường hiện đang có sẵn, hơn là tạo ra một nô lệ mới từ đầu.

Thứ ba, và quan trọng nhất, những đồn điền America ở những nơi như Virginia, Haiti và Brazil đã bị bệnh sốt rét và sốt vàng da hoành hành, vốn có nguồn gốc từ Africa. Những người Africa đã tiếp nhận được qua những thế hệ sự miễn dịch di truyền một phần cho những bệnh này, trong khi Europe là hoàn toàn không có khả năng tự vệ, và chết hàng loạt. Do đó hậu quả khôn ngoan cho một chủ đồn điền là đầu tư tiền của mình vào một nô lệ Africa, hơn một nô lệ người Europe, hay người lao động giao kèo. Nghịch lý oái oăm thay, ưu thế di truyền (về khả năng miễn dịch) đã chuyển dịch sang thành sự thấp kém địa vị xã hội: đúng là vì những người Africa đã được đãi lọc để sống trong vùng khí hậu nhiệt đới cho thích ứng hơn những người Europe, họ đã kết thúc như những nô lệ của những ông chủ người Europe! Do những yếu tố gián tiếp này, những xã hội mới đang phát triển của America đã được chia vào thành một giai cấp cầm quyền của người Europe da trắng, và một giai cấp bị cai trị của người Africa da đen.

Nhưng người ta không thích để nói rằng họ giữ nô lệ thuộc một chủng tộc hoặc nguồn gốc nào đó đơn giản chỉ vì đó là kế sách thiết thực về kinh tế. Giống như những người Aryan chinh phục lục địa India, người Europe da trắng ở America muốn được nhìn thấy họ không chỉ thành công về mặt kinh tế mà còn đạo đức, công bằng và khách quan. Huyền thoại tôn giáo và khoa học đã được luồn ép vào dịch vụ để biện minh cho sự phân chia này. Những nhà gót học Kitô đã biện luận rằng những người Africa là dòng dõi của Ham, con trai của Noah, bị cha đóng gông vào cổ bằng một lời nguyền rủa rằng người con sẽ phải trở thành những nô lệ [40]. Những nhà sinh vật học đã từng cho rằng người da đen ít thông minh hơn người da trắng, và ý thức đạo đức của họ kém phát triển. Những y sĩ đưa ra luận điệu rằng những người da đen sống bẩn thỉu và lan truyền những bệnh tật – nói khác đi, họ là một nguồn của ô nhiễm.

Những huyền thoại này đánh trúng một hợp âm trong văn hóa USA, và trong văn hóa phương Tây nói chung. Chúng tiếp tục gây ảnh hưởng của chúng lâu dài sau khi những điều kiện đã tạo ra chế độ nô lệ đã biến mất. Trong những năm đầu thế kỷ XIX, đế quốc England đã cấm chế độ nô lệ, và bãi bỏ sự buôn bán nô lệ xuyên Atlantic, và trong những chục năm tiếp theo, chế độ nô lệ đã dần dần bị đặt ra ngoài pháp luật khắp châu America. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử mà những xã hội nắm giữ nô lệ đã tự nguyện bãi bỏ chế độ nô lệ. Nhưng mặc dù những người nô lệ đã được tự do, những huyền thoại kỳ thị chủng tộc vốn biện minh cho chế độ nô lệ vẫn tồn tại dai dẳng. Sự phân rẽ những chủng tộc được pháp luật kỳ thị chủng tộc và tập quán xã hội duy trì.

Kết quả đã là một chu kỳ tự chấn chỉnh của nguyên nhân và hậu quả, một vòng tròn tai ác luẩn quẩn. Hãy xem xét, lấy thí dụ, miền nam USA, ngay sau cuộc nội chiến. Năm 1865, Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp U.S. đặt chế độ nô lệ ra ngoài vòng pháp luật, và Tu chính án thứ mười mười bốn ra lệnh rằng quyền công dân và quyền được luật pháp bảo vệ bình đẳng không thể bị từ chối trên cơ sở của chủng tộc. Tuy nhiên, hai thế kỷ của chế độ nô lệ có nghĩa là hầu hết những gia đình da đen nghèo hơn và ít được giáo dục hơn, so với hầu hết những gia đình da trắng. Một người da đen sinh ra ở Alabama vào năm 1865 do đó đã có ít cơ hội nhận được một nền giáo dục tốt và một công việc lương cao hơn so với những người láng giềng da trắng của mình. Con cái của họ, sinh ra trong những năm 1880 và 1890, bắt đầu cuộc sống với cũng một bất lợi – chúng cũng thế, đã được sinh ra trong một gia đình nghèo, thất học.

Nhưng bất lợi kinh tế không phải là toàn bộ câu chuyện. Alabama cũng là nơi có nhiều người da trắng nghèo, thiếu những cơ hội sẵn có như của những người England em và chị em khá giả cùng chủng tộc của họ. Ngoài ra, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ và những làn sóng di dân đã làm cho USA thành một xã hội trơn chảy, nơi kẻ khố rách áo ôm có thể nhanh chóng trở thành người giàu có. Nếu tiền là tất cả những gì xem là quan trọng, sự phân chia rõ ràng giữa những chủng tộc sẽ sớm đã bị mờ, đặc biệt nếu qua hôn nhân dị chủng.

Nhưng điều đó đã không xảy ra. Khoảng năm 1865, người da trắng, cũng như nhiều người da đen, nhận lấy nó như là một vấn đề đơn giản của thực tại, rằng người da đen là kém thông minh hơn, bạo động và phóng đãng qua tình dục hơn, thêm lười biếng và ít quan tâm về vệ sinh cá nhân hơn người da trắng. Họ như vậy, là những tác nhân của bạo lực, trộm cắp, hiếp dâm và bệnh tật – nói cách khác, sự ô nhiễm. Nếu một người tiểu bang Alabama da đen, vào năm 1895 một cách thần kỳ nào đó đã xoay sở để có được một giáo dục tốt và sau đó đi xin việc, một công việc đáng kính như một nhân viên nhà băng, tỉ lệ may mắn được chấp nhận của anh đã là tồi tệ hơn nhiều nếu so với của một ứng viên khác cùng trình độ, nhưng có màu da trắng. Vết chàm khắc kỳ thị đã dán nhãn trên người da đen, như tự bản chất, là không đáng tin cậy, lười biếng và kém thông minh, tất cả đã âm thầm chống lại anh ta.

Bạn có thể nghĩ rằng mọi người sẽ dần dần hiểu rằng những vết nhơ kỳ thị này là huyền thoại hơn là thực tế, và rằng người da đen sẽ có thể, theo thời gian, chứng minh bản thân mình cũng có khả năng, cũng tuân thủ pháp luật và cũng vệ sinh sạch sẽ như những người da trắng. Trong thực tế, điều ngược lại đã xảy ra – những định kiến này đã trở thành ngày càng khắc thêm đậm và sâu nhiều hơn, với thời gian trôi qua. Vì tất cả những công việc tốt nhất đã được những người da trắng nắm giữ, nó đã trở thành dễ dàng hơn để tin rằng người da đen thực sự là kém hơn. “Hãy nhìn xem,” người công dân da trắng trung bình cho biết, “người da đen đã được giáo dục miễn phí hàng thế hệ, nhưng hầu như không có những giáo sư, luật sư, y sĩ hay ngay cả nhân viên nhà băng nào là người da đen. Không phải đó là bằng chứng rằng người da đen chỉ giản dị là kém thông minh và làm việc kém chăm chỉ hơn?”. Bị mắc trong vòng luẩn quẩn tai ác này, người da đen không được thuê làm những công việc văn phòng, trí thức, thuộc giới lao động mặc áo cổ cồn trắng; vì họ đã bị coi là kém thông minh, và bằng chứng về sự thấp kém của họ đã chính là sự hiện diện ít ỏi của những người da đen trong những những công việc thuộc giới mặc “áo cổ cồn trắng” này. 

Các vòng tròn luẩn quẩn không dừng lại ở đó. Khi những vết nhơ kỳ thị người da đen ngày một mạnh hơn, chúng đã được chuyển sang một hệ thống pháp luật và những khuôn mẫu ‘Jim Crow’[41] vốn đã có nghĩa là để “bảo vệ” trật tự chủng tộc. Người da đen bị cấm bỏ phiếu bầu cử, theo học trường người da trắng, mua hàng ở những cửa hàng da trắng, ăn trong nhà hàng da trắng, ngủ trong khách sạn da trắng. Biện minh cho tất cả những điều này là người da đen đã hôi thối, biếng nhác và đồi bại, vì vậy người da trắng đã phải được bảo vệ từ họ. Người da trắng không muốn ngủ trong cùng một khách sạn như người da đen, hoặc ăn trong cùng nhà hàng, vì sợ bệnh. Họ không muốn con cái mình học trong cùng một trường như trẻ em da đen, vì sợ sự tàn bạo và những ảnh hưởng xấu. Họ không muốn người da đen bỏ phiếu trong những bầu cử, vì người da đen đều dốt nát và vô đạo đức. Những sợ hãi này đã được chứng thực bởi những nghiên cứu khoa học cho rằng đã “chứng minh” rằng người da đen đã thực sự là ít học, rằng nhiều những bệnh tật khác loại đã phổ biến hơn trong số họ, và rằng tỉ lệ tội phạm của họ là cao hơn (những nghiên cứu bỏ qua thực tế là những” sự kiện “ này là kết quả của sự kỳ thị chủng tộc đối với người da đen).

Vào giữa thế kỷ XX, sự phân cách ở những tiểu bang trước đây trong Liên minh miền Nam [42] ở USA có lẽ là tồi tệ hơn trong những năm cuối thế kỷ XIX. Clennon King, một sinh viên da đen nộp đơn xin nhập học trường Đại học Mississippi năm 1958, đã bị cưỡng bức phải đi khám bệnh ở bệnh viện tâm thần. Thẩm phán chủ toạ phiên toà phán quyết rằng một người da đen chắc chắn phải là điên rồ khi nghĩ rằng ông có thể được nhận vào trường Đại học Mississippi. [43]

(a) Cơ hội tình cờ xảy ra trong lịch sử
(b) Người da trắng cai trị/kiểm soát những người da đen
(c) Những luật lệ kỳ thị màu da/chủng tộc
(d) Nghèo và thiếu học vấn giữa những người da đen
(e) Những Tiên kiến/ Định kiến Văn hoá

[Cái vòng tai ác luẩn quẩn: một cơ hội ngẫu nhiên lịch sử được phiên dịch sang thành một hệ thống xã hội cứng nhắc.
(a) > (b) > (c) > (d) > (d) > (e) ;
(e) ----> (c) & (e) ----> (d)]

Không có gì đã là ghê tởm hơn, đối với với người miền Nam USA (và nhiều người miền Bắc), như quan hệ tình dục và hôn nhân giữa những người da đen và phụ nữ da trắng. Quan hệ tình dục giữa hai chủng tộc đã trở thành tabu lớn nhất và bất kỳ vi phạm, hoặc nghi ngờ vi phạm nào, đã được xem là xứng đáng bị trừng phạt ngay lập tức và kết thúc trong những hình thức treo cổ. Ku Klux Klan, một hội da trắng ưu việt bí mật, đã gây ra nhiều vụ giết người như vậy. Họ đã có thể dạy những Brahmin Hindu một hoặc hai điều về những luật “tinh khiết”, để thanh tẩy xã hội.

Với thời gian, kỳ thị chủng tộc lan rộng đến nhiều và nhiều hơn nữa những đấu trường văn hóa. Văn hóa thẩm mỹ ở USA được xây dựng trên những tiêu chuẩn của vẻ đẹp người da trắng. Những thuộc tính thể chất của chủng tộc da trắng – lấy thí dụ da trắng, tóc vàng không xoắn, mũi cao thẳng, không hếch – đã đi đến được xác định là Đẹp. Những đặc điểm điển hình da đen – da đen, tóc đen và rậm, mũi tẹt – được coi là xấu xí. Những định kiến ​​này đã ăn sâu vào trong hệ thống giai cấp tưởng tượng ở một mức độ còn sâu xa hơn nữa của hữu thức con người.

Vòng tai ác luẩn quẩn như vậy có thể tiếp tục kéo dài hàng trăm năm, và ngay cả hàng nghìn năm, sự duy trì một hệ thống đẳng cấp tưởng tượng đã xuất phát từ một cơ hội tình cờ xảy ra trong lịch sử. Kỳ thị bất công thường trở thành đồi bại tệ hại hơn, không tốt lành thánh thiện hơn, với thời gian. Tiền đến với tiền, và nghèo đói đến với nghèo đói. Giáo dục đến với giáo dục, và thiếu hiểu biết đến với thiếu hiểu biết. Những ai đó một lần từng bị lịch sử làm thành nạn nhân có nhiều phần xảy ra là sẽ trở thành nạn nhân một lần nữa. Và những người mà lịch sử cho có đặc quyền có nhiều phần xảy ra là lại được hưởng đặc quyền lần nữa.

Hầu hết những hệ thống phân chia đẳng cấp chính trị, giai cấp xã hội đều thiếu một cơ sở lôgích hoặc sinh học – chúng không là gì, nhưng chỉ là sự kéo dài dai dẳng của những biến cố tình cờ đã được những huyền thoại hỗ trợ. Đó là một lý do tốt hiển nhiên để nghiên cứu lịch sử. Nếu sự phân chia thành người da đen và người da trắng, hay Brahmin và Shudra đều đã căn cứ trên những thực tại sinh học – đó là, nếu những Brahmin thực sự đã có bộ óc tốt hơn so với của những Shudra – sinh học sẽ là đầy đủ cho sự hiểu biết xã hội loài người. Nhưng vì sự phân biệt sinh học giữa những nhóm khác biệt của Homo Sapiens, trên thực tế, không đáng kể, sinh học không thể giải thích sự phức tạp chi ly rắc rối của xã hội India hay những động lực kỳ thị chủng tộc ở USA. Chúng ta chỉ có thể hiểu được những hiện tượng này bằng cách nghiên cứu những sự kiện, hoàn cảnh, và quan hệ quyền lực đã làm biến đổi những điều bịa đặt của trí tưởng tượng vào thành những cấu trúc xã hội – tàn nhẫn – và rất thực.

Ông và Bà

Những xã hội khác nhau chấp nhận những loại hệ thống đẳng cấp tưởng tượng khác nhau. Chủng tộc thì rất quan trọng với người US thời nay, nhưng tương đối đã là không đáng kể với những người Muslim thời Trung cổ. Giai cấp đã là một vấn đề sống chết hết sức quan trọng trong thời Trung cổ ở India, trong khi ở Europe thời nay, nó thực tế là không hiện diện. Một hệ thống đẳng cấp, tuy nhiên, đã vẫn là quan trọng vượt trên tất cả trong những xã hội đã được biết đến của loài người: hệ thống phân biệt đẳng cấp theo phái tính. Mọi người ở khắp mọi nơi đã phân chia chính bản thân họ thành những người nam và những người nữ. Và hầu như ở khắp mọi nơi, những người nam đều được đãi ngộ tốt hơn, ít nhất kể từ khi có cuộc Cách mạng Nông nghiệp.

Một số bản văn sớm nhất của nước Tàu là những xương khô để đoán [44], có năm tháng khoảng 1200 TCN, được dùng để đoán tương lai. Có một mảnh xương trên khắc câu hỏi: ‘Việc sinh con của Phu nhân Hảo sẽ may mắn hay không?” Trả lời viết: “Nếu đứa trẻ được sinh ra vào một ngày ding, may mắn; nếu vào một ngày geng, tốt lành bao la”. Tuy nhiên, Phu nhân Hảo đã sinh con vào một ngày jiayin. Bản văn kết thúc với sự quan sát phiền muộn: “Ba tuần và một ngày sau đó, vào ngày jiayin, đứa trẻ được sinh ra. Không may mắn. Đó là một bé gái”. [45] Hơn 3.000 năm sau, khi nước Tàu Cộng sản đã ban hành chính sách “một con”, nhiều gia đình Tàu tiếp tục coi sự ra đời của một đứa con gái là một điều bất hạnh. Nhiều cha mẹ đôi khi sẽ bỏ rơi, hoặc giết đứa con gái mới sinh, ngõ hầu sẽ thử cố một sinh nở khác, may ra có được một đứa con trai.

Trong nhiều xã hội, những phụ nữ đã chỉ đơn giản là sở hữu của những người đàn ông, thường là những người cha, người chồng hoặc anh em trai của họ. Hiếp dâm, trong nhiều hệ thống pháp luật, rơi vào vi phạm tài sản sở hữu – nói khác đi, nạn nhân không phải là người phụ nữ đã bị hãm hiếp nhưng người đàn ông là người sở hữu người phụ nữ. Đây là trường hợp, trong đó biện pháp pháp lý khắc phục là chuyển giao quyền sở hữu – kẻ hiếp dâm bị bắt buộc phải trả một cái giá cô dâu cho cha hoặc anh em của người phụ nữ, khi đó cô đã trở thành sở hữu của kẻ hiếp dâm. Kinh Thánh qui định rằng: “Nếu một người nam gặp một trinh nữ là người chưa đính hôn, và túm chặt lấy cô và nằm với cô, và họ bị nhìn thấy, sau đó người đã nằm với cô sẽ trao cho cha của người phụ nữ trẻ tuổi năm mươi shekel bạc, và cô sẽ là vợ người ấy” (Deuteronomy 22: 28-9) [46]. Người Hebrew thời cổ coi đây là một sự dàn xếp hợp lý.

Cưỡng hiếp một người nữ không thuộc về bất cứ một người nam nào đã tất cả không được coi là một tội phạm nào, cúng đúng như nhặt một đồng xu rơi trên một đường phố đông đúc, thì không ai xem đó là ăn cắp. Và nếu một người chồng cưỡng hiếp vợ mình, ông không phạm một tội nào cả. Trong thực tế, ý tưởng rằng một người chồng có thể ‘hãm hiếp’ vợ mình là một cách nói mâu thuẫn ngược ngạo. Để là một người chồng đã là có toàn quyền kiểm soát tình dục vợ của bạn. Để nói rằng một người chồng ‘cưỡng hiếp’ vợ của mình là phản lôgích như nói rằng một người đã cướp ví tiền của chính mình. Suy nghĩ như thế đã không chỉ giới hạn ở Trung Đông thời cổ. Đến năm 2006, vẫn còn 53 quốc gia trong đó một người chồng không thể bị truy tố vì tội hiếp dâm vợ mình. Ngay cả ở Germany, luật hiếp dâm đã được sửa đổi chỉ trong năm 1997 để tạo ra một loại phạm trù pháp luật về cưỡng hiếp giữa vợ chồng.[47]

Có phải sự phân chia thành những người nam và nữ là một sản phẩm của trí tưởng tượng hay không, như hệ thống giai cấp ở India và những hệ thống kỳ thị chủng tộc ở USA, hay nó là một sự phân chia tự nhiên có nguồn gốc sinh học sâu xa? Và nếu nó thực sự là một sự phân chia tự nhiên, có hay không những giải thích sinh học cho những ưu đãi dành cho những người nam hơn những người nữ?

Một số trong những sự khác biệt văn hóa, pháp lý và chính trị giữa phái nam và phái nữ phản ảnh sự khác biệt sinh học rõ ràng giữa hai giới. Sinh đẻ luôn là công việc của phái nữ, vì phái nam không có tử cung. Tuy nhiên, xung quanh lõi nhân cứng chắc phổ quát này, mọi xã hội tích lũy lớp trên lớp dưới những khái niệm văn hoá và những định mức vốn chúng có rất ít liên hệ với sinh lý học. Những xã hội kết hợp một loạt những thuộc tính với nam tính và nữ tính, thường trong hầu hết những trường hợp, vốn đều thiếu một cơ sở sinh lý học vững chắc.

Lấy thí dụ, ở Athens dân chủ của thế kỷ thứ năm TCN, một cá nhân ‘sở hữu một tử cung’ (người nữ) đã không có tư cách pháp nhân độc lập và bị cấm không được tham gia trong những hội đồng dân chúng phổ thông, hoặc là một quan toà. Với vài ngoại lệ, một cá nhân như thế không được hưởng lợi ích của một hệ thống giáo dục tốt, và cũng không được tham gia vào kinh doanh, hoặc bàn luận diễn ngôn triết học. Không ai trong số những lãnh tụ chính trị của Athens, không ai trong số những triết gia vĩ đại, hùng biện, nghệ sĩ hoặc những thương gia của polis này đã có một tử cung. Có phải là khi có một tử cung làm cho một người không thích hợp, về những phương diện sinh lý học, cho những ngành nghề này? Những người Athens thời cổ nghĩ như vậy. Những người Athens ngày nay không đồng ý. Ngày nay ở Athens, những phụ nữ bỏ phiếu, được bầu vào những chức vụ công quyền, tuyên đọc những phát biểu, thiết kế tất cả mọi thứ, từ đồ trang sức cho đến những tòa nhà, đến những software, và theo học bậc đại học. Tử cung của họ không ngăn cản họ thành công trong một bất kỳ nào của những điều này như những người nam làm. Đúng vậy, nhưng họ vẫn kém đại diện trong giới chính trị và kinh doanh – chỉ khoảng 12 phần trăm của những thành viên quốc hội Greece là phái nữ. Mặc dù không có rào cản pháp lý nào ngăn cấm họ tham gia vào chính trị, và hầu hết người Greece thời nay nghĩ rằng một người phụ nữ phục vụ trong văn phòng công quyền là điều hầu như hoàn toàn bình thường.

Nhiều người Greece thời nay cũng nghĩ rằng một phần nội tại, không thể thiếu của tư cách làm người phái nam là bị hấp dẫn tình dục chỉ với phái nữ, và có quan hệ tình dục hoàn toàn giới hạn chỉ với phái tính đối lập. Họ không nhìn thấy điều này như một thiên kiến về văn hóa, nhưng là một thực tại trong sinh lý học – những quan hệ giữa hai người khác phái là tự nhiên, và giữa hai người cùng phái tính là không tự nhiên. Trong thực tế, dẫu vậy, người Mẹ hiền Tự nhiên không bận lòng, nếu xảy ra những đứa con phái nam cảm thấy có hấp dẫn, lôi cuốn tình dục lẫn với nhau. Chỉ có loài người, những bà mẹ đã bị những nền văn hóa đặc biệt tác động, mới lo lắng ồn ào, nếu con trai họ có đắm say với cậu bé hàng xóm. Cơn thịnh nộ của người mẹ không phải là một thúc dục khẩn thiết của tâm sinh lý học. Một số đáng kể của những văn hóa của loài người đã xem quan hệ đồng tính luyến ái không những chỉ hợp pháp, nhưng ngay cả về mặt xã hội, có tính xây dựng, Greece thời cổ là một thí dụ đáng chú ý nhất. The Iliad không đề cập đến là Thetis có bất kỳ phản đối nào với con trai mình, Achilles, có quan hệ với Patroclus. Nữ hoàng Olympias của Macedone đã là một trong những phụ nữ có tính khí nóng nảy và quả quyết võ đoán nhất của thế giới thời cổ, và ngay cả đã ám sát chồng mình, vua Philip. Tuy nhiên, bà đã không có một tức giận nóng nảy nào khi con trai bà, Đại đế Alexander, mang người bạn trai yêu Hephaestion của ông về nhà, để cùng ăn tối.

Làm thế nào chúng ta có thể phân biệt được những gì là được sinh học xác định với những gì chỉ đơn thuần là cố gắng của mọi người để biện minh qua huyền thoại sinh học? Một nguyên tắc thực nghiệm hữu ích là “Sinh lý học cho phép, Văn hóa cấm cản”. Sinh lý học thì sẵn sàng để khoan dung một spectrum rất rộng rãi gồm những khả năng có thể có được. Đó là văn hóa vốn buộc mọi người để nhận thấy một số khả năng có thể có được trong khi cấm những khả năng khác. Sinh lý học cho phái nữ có khả năng có con – một số văn hóa bắt buộc phái nữ phải thực nhận khả năng này. Sinh lý học cho phép những người nam vui hưởng quan hệ tình dục với nhau – một số văn hóa cấm họ, không cho họ thực nhận khả năng này.

Văn hóa có khuynh hướng cho rằng nó chỉ cấm những gì vốn là không tự nhiên. Nhưng từ góc độ sinh lý học, không có gì là không tự nhiên. Bất cứ gì đi nữa nếu có khả năng có thể có được, theo định nghĩa là cũng tự nhiên. Một hành vi thật sự không tự nhiên, một hành vi ứng xử trong đó đi ngược lại với quy luật tự nhiên, đơn giản là không thể có trong thực tại, vì vậy nó sẽ không cần phải cấm. Không văn hóa nào đã bao giờ mất công đi cấm cản phái nam nhận năng lượng ánh sáng để tạo ra hợp chất hữu cơ [48], cấm phái nữ chạy nhanh hơn tốc độ ánh sáng, hoặc cấm những electron mang điện tích âm thu hút vào với nhau.

Sự thực, những khái niệm “tự nhiên” và “không tự nhiên” của chúng ta đã không lấy từ sinh lý học nhưng từ gót học đạo Kitô [49]. Ý nghĩa theo gót học của ‘tự nhiên’ là ‘phù hợp với ý định của Gót, kẻ đã sáng tạo thiên nhiên. Những nhà gót học đạo Kitô cho rằng Gót đã tạo cơ thể con người, có ý định từng cánh tay, bắp chân và từng bộ phận cơ thể để phục vụ cho một mục đích cụ thể nào đó. Nếu chúng ta dùng chân tay và những bộ phận cơ thể của chúng ta cho những mục đích được Gót đã hình dung, khi đó nó là một hoạt động tự nhiên. Nếu dùng chúng khác với Gót đã có ý định, là không tự nhiên. Nhưng sự tiến hóa không có mục đích. Những bộ phận cơ thể đã không tiến hóa với một mục đích, và cách chúng được dùng là thay đổi như dòng nước chảy liên tục. Không có một cơ quan độc nhất nào trong cơ thể con người mà chỉ làm một công việc nguyên sinh của nó đã từng làm, khi nó lần đầu tiên xuất hiện hàng trăm triệu năm trước đây. Những cơ quan phát triển để thực hiện một chức năng nào đó cụ thể, nhưng một khi chúng hiện hữu, chúng có thể được điều chỉnh cho mục đích dùng khác. Miệng, lấy thí dụ, xuất hiện vì những sinh vật đa bào đầu tiên đã cần một cách để lấy chất dinh dưỡng vào trong cơ thể của chúng. Chúng ta vẫn còn dùng miệng của chúng ta cho mục đích đó, nhưng chúng ta cũng dùng chúng để hôn, nói chuyện, và nếu chúng ta là Rambo, người hùng của màn ảnh USA, để kéo chốt những quả lựu đạn. Có phải bất kỳ nào của những cách dùng này là không tự nhiên, đơn giản chỉ vì tổ tiên chúng ta, giống như những con sâu giống 600 triệu năm trước đây, đã không làm những điều đó với miệng của họ?

Tương tự như vậy, cánh bay đã không đột nhiên xuất hiện trong tất cả hào quang khí động học của chúng. Chúng đã phát triển từ những cơ quan vốn đã phục vụ cho một mục đích khác. Theo một giả thuyết, cánh của côn trùng đã tiến hóa hàng triệu năm trước đây, từ những chỗ phồng, nhô ra trên cơ thể của những loài sâu bọ không biết bay. Những loài sâu bọ có những chỗ phồng, có diện tích bề mặt lớn hơn những loài không có, và điều này cho chúng có khả năng để hấp thụ ánh sáng mặt trời nhiều hơn, và do đó giữ được ấm hơn. Trong một tiến trình tiến hóa chậm, những chỗ “sưởi ấm” bằng mặt trời này, ngày càng lớn hơn. Những cấu trúc tương tự đó là tốt cho sự hấp thụ tối đa ánh sáng mặt trời– nhiều diện tích bề mặt, ít trọng lượng – cũng thế, bởi sự trùng hợp ngẫu nhiên, đã cho những loài côn trùng một chút nâng bổng, khi chúng lướt đi nhanh và nhảy. Những loài có những lồi ra lớn hơn có thể chạy nhanh và nhảy xa. Một số côn trùng bắt đầu dùng những sự vật này để trượt đi, và từ đó nó đã là một bước nhỏ để thành cánh bay thực sự đẩy những con sâu này lên không. Lần sau, nếu một nàng muỗi vo ve trong tai bạn, hãy buộc tội nàng về hành vi “trái” tự nhiên. Nếu như nàng đã cư xử đoan trang và hài lòng với những gì Gót đã ban cho nàng, nàng tất đã dùng đôi cánh nàng chỉ như những pa-nô để thu ánh sáng, lấy năng lượng mặt trời.

Cùng một loại tương tự của sự làm đồng thời nhiều nhiệm vụ áp dụng cơ quan sinh dục và những ứng xử sinh lý của chúng ta. Tính dục trước tiên đã tiến hóa để truyền giống và những nghi thức tán tỉnh như một cách để đánh giá, tán thưởng về tiềm năng của một người bạn đời. Tuy nhiên, nhiều loài động vật bây giờ đem cả hai để dùng cho rất nhiều mục đích xã hội có ít liên hệ với việc tạo ra những bản sao nhỏ của chính mình. Chimpanzee, lấy thí dụ, dùng tình dục để củng cố những liên minh chính trị, thiết lập liên hệ thân tín, và xoa dịu những căng thẳng. Có phải đó là tự nhiên?

Phái tính và giới tính

Có rất ít ý nghĩa, khi đó, trong lập luận rằng chức năng tự nhiên của phái nữ là sinh con, hoặc đồng tính luyến ái là không tự nhiên. Hầu hết những luật pháp, qui phạm, quyền và phận sự vốn định nghĩa thế nào là nam tính và nữ tính phản ảnh trí tưởng tượng của con người hơn là của thực tại sinh học.

Về mặt sinh học, con người được chia thành phái nam và phái nữ. Một Homo Sapiens phái nam là một trong những người có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y; một phái nữ là một người với hai nhiễm sắc thể đều là X. Nhưng ‘đàn ông và ‘đàn bà’ là những tên gọi của xã hội, không phải những hạng mục của sinh học,. Trong khi đa số rất lớn những trường hợp trong hầu hết những xã hội loài người, những người đàn ông là phái nam và những phụ nữ, đàn bà là phái nữ, những từ ngữ xã hội mang theo rất nhiều hành lý mà chỉ có, nếu có, một quan hệ mong manh với những thuật ngữ sinh lý học. Một người đàn ông không phải là một Sapiens với những tính chất sinh học đặc biệt như có những nhiễm sắc thể XY, tinh hoàn và rất nhiều testosterone. Thay vào đó, ông ta phù hợp với một khe trống đặc biệt trong trật tự tưởng tượng của con người trong xã hội của ông. Huyền thoại văn hóa của ông cho ông ta những vai trò đàn ông đặc biệt (như tham gia vào chính trị), những quyền (như quyền bỏ phiếu) và nhiệm vụ (như dịch vụ quân sự). Tương tự như vậy, một người đàn bà [50] không phải là một Sapiens với những nhiễm sắc thể XX, một tử cung và nhiều estrogen. Thay vào đó, cô là một thành viên nữ của một trật tự tưởng tượng của con người. Những huyền thoại của xã hội của cô giao cho cô những những vai trò đàn bà đặc biệt duy nhất của cô (nuôi con), những quyền (được bảo vệ chống lại bạo lực) và nhiệm vụ (tuân phục chồng mình). Bởi huyền thoại, thay vì đúng hơn là sinh học, xác định vai trò, quyền và nhiệm vụ của đàn ông và đàn bà, ý nghĩa của ‘nam tính’ và ‘nữ tính’ đã thay đổi vô cùng từ một xã hội này sang một xã hội khác.

Một người nữ = một phạm trù sinh học
Một phụ nữ = một phạm trù văn hoá

Athens thời cổ
Athens thời nay
Athens thời cổ
Athens thời nay
XX
Chromosones
XX
Chromosones
Không được bầu cử
Được bầu cử/ứng cử
Tử cung
Tử cung
Không thể là quan toà
Có thể là quan toà
Buồng trứng
Buồng trứng
Không thể giữ chức vụ công quyền
Có thể giữ chức vụ công quyền
Ít testosterone
Ít testosterone
Không thể tự quyết định chọn lựa chồng cho mình
Có thể tự quyết định chọn lựa chồng cho mình
Nhiều oestrogen
Nhiều oestrogen
Điển hình mù chữ
Điển hình biết chữ
Có sữa
Có sữa
Theo pháp luật, là sở hữu của cha hay chồng
Theo pháp luật, độc lập
Giống hệt như nhau
Hoàn toàn khác nhau


Hình 22. Nam tính thế kỷ XVIII: một chân dung chính thức của vua Louis XIV France. Lưu ý những bộ tóc giả dài, vớ, giày cao gót, tư thế vũ công – và thanh kiếm khổng lồ. Ở Europe thời nay, tất cả những điều này (trừ thanh kiếm) sẽ được coi là dấu hiệu của sự ẻo lả phái nữ. Nhưng trong thời ông, Louis là một mẫu mực Europe của nam tính và tính cương cường rắn rỏi.


Hình 23. Nam tính thế kỷ XXI: một chân dung chính thức của Barack Obama. Những gì đã xảy ra với bộ tóc giả, vớ, giày cao gót – và thanh kiếm? Con người thống trị chưa bao giờ trông thật buồn tẻ và ảm đạm như họ ngày nay. Trong suốt chiều dài lịch sử, con người thống trị đã đầy màu sắc và rực rỡ, như những thủ lĩnh bộ lạc thổ dân America với mũ gài lông và những Maharajas Hindu trang phục với gấm lụa và kim cương. Trong những vương quốc động vật, con đực có khuynh hướng là có nhiều màu sắc hơn và trang sức hơn những con cái – nhớ lại đuôi loài công, và bờm loài sư tử.


Để làm những sự vật việc bớt lẫn lộn, những học giả thường phân biệt giữa ‘phái tính’, vốn là một phạm trù sinh học, và “giới tính”, một phạm trù văn hóa. Phái tính (sex) được chia giữa nam và nữ, và những tính chất của bộ phận này là khách quan và được duy trì liên tục trong suốt lịch sử. Giới tính (gender) được phân chia giữa những đàn ông và đàn bà con gái (và một số nền văn hóa công nhận những phạm trù khác). Cái gọi là những tính chất của ‘nam tính’ và ‘nữ tính’ này là liên-chủ-quan và trải qua những thay đổi liên tục. Lấy thí dụ, có những khác biệt sâu xa trong hành vi, ham muốn, ăn mặc và ngay cả tư thế cơ thể được mong đợi từ người phụ nữ trong cổ điển Athens và phụ nữ trong Athens thời nay. [51]

Phái tính thì dễ dàng như trò chơi trẻ con; nhưng giới tính là công việc nghiêm trọng. Để được là một thành viên của phái tính nam là điều đơn giản nhất trên thế giới. Bạn chỉ cần phải được sinh ra với một X và một nhiễm sắc thể Y. Để có được là một phái nữ thì cũng đơn giản như thế. Một cặp nhiễm sắc thể X sẽ làm điều đó. Ngược lại, trở thành một người đàn ông, hoặc một người phụ nữ là một công việc rất phức tạp và đòi hỏi. Vì hầu hết những phẩm chất nam tính và nữ tính là văn hóa hơn là sinh học, không có xã hội nào tự động đội mũ phong cho một người là đàn ông, hoặc mọi người nữ người phụ nữ. Cũng không phải là những danh hiệu vinh quang này có thể mãi mãi được đặt trên đầu họ một khi họ đã có được. Đàn ông phải chứng minh nam tính của họ liên tục, trong suốt cuộc đời của họ, từ nôi đến mộ, trong một chuỗi dài những nghi thức và biểu diễn. Và công việc của một người phụ nữ thì không bao giờ xong – cô phải liên tục thuyết phục mình và những người khác rằng cô có đủ nữ tính.

Thành công thì không bảo đảm. Phái nam đặc biệt sống trong nỗi sợ hãi liên tục mất tuyên xưng của họ với nam giới. Trong suốt lịch sử, những người nam đều đã sẵn sàng liều lĩnh và ngay cả hy sinh đời sống của họ, chỉ để mọi người sẽ nói “Ông ấy là một người đàn ông thực sự!”

Có gì tốt đẹp đến thế về đàn ông?

Ít nhất kể từ cuộc Cách mạng Nông nghiệp, hầu hết những xã hội loài người đã là những xã hội phụ quyền, gia trưởng do đàn ông đứng đầu, vốn đã đặt đàn ông có giá trị cao hơn phụ nữ. Bất kể một xã hội đã định nghĩa thế nào về “đàn ông” và “phụ nữ”, là một người nam đã luôn luôn là tốt hơn. Những xã hội phụ quyền, giáo dục người nam suy nghĩ và hành động một cách nam tính và phụ nữ suy nghĩ và hành động một cách nữ tính, trừng phạt bất cứ ai dám vượt qua những ranh giới này. Tuy nhiên, chúng không tưởng thưởng như nhau cho những người sống tuân thủ theo chúng. Những phẩm chất nam tính được coi là có giá trị hơn so với những gì được coi là thuộc nữ tính, và những thành viên của một xã hội, người thể hiện lý tưởng nữ tính nhận được ít hơn so với những người thể hiện lý tưởng nam tính. Ít tài nguyên hơn đã được đầu tư vào y tế và giáo dục cho phụ nữ; họ có cơ hội kinh tế ít hơn, quyền lực chính trị ít hơn, và ít tự do đi lại. Giới tính là một cuộc chạy đua, trong đó một số người chạy đua chỉ tranh lấy huy chương đồng.

Đúng thế, đã có một nhúm những phụ nữ làm được đến địa vị trùm (alpha - ở đây là con trùm cái [52]), như Cleopatra của Egypt, Thái hậu Wu Zetian của Tàu (c. 700 AD) và Elizabeth I của England. Tuy nhiên, họ là những trường hợp ngoại lệ chứng minh cho quy luật chung. Trong suốt bốn mươi lăm năm trị vì của Elizabeth, tất cả những thành viên của Nghị viện là đàn ông, tất cả những sĩ quan trong lực lượng Hải quân Hoàng gia và quân đội là đàn ông, tất cả những thẩm phán và luật sư đều là đàn ông, tất cả những nhà chăn chiên những cấp cao, trông coi vùng hay liên vùng [53], đều là đàn ông, tất cả những nhà gót học, và những nhà chăn chiên thấp nhất cũng đều là đàn ông, tất cả những y sĩ và y sĩ giải phẫu đều là đàn ông, tất cả những sinh viên và giáo sư trong những trường đại học và cao đẳng là đàn ông, tất cả những thị trưởng và cảnh sát trưởng là đàn ông, và gần như tất cả những nhà văn, những kiến ​​trúc sư, nhà thơ, triết gia, họa sĩ, nhạc sĩ và những nhà khoa học đều là đàn ông.

Chế độ phụ quyền đã là khuôn mẫu trong gần như tất cả những xã hội canh nông và kỹ nghệ. Nó đã kiên trì lèo lái vượt qua được những biến động chính trị, những cuộc cách mạng xã hội và những chuyển đổi kinh tế. Egypt, lấy thí dụ, qua những thế kỷ, đã bị chinh phục rất nhiều lần. Assyria, Persia, Macedonia, Rome, Arab, Mameluks, Turkey và England đã chiếm đóng nó – và xã hội của nó vẫn luôn là xã hội phụ quyền gia trưởng. Egypt đã được cai trị với pháp luật của những Pharaon, luật pháp Greece, luật Rome, luật đạo Islam, luật Ottoman và luật pháp England – và tất cả đều kỳ thị đối với những ai là người không phải là “người thực sự đàn ông”.

Bởi chế độ phụ quyền phổ quát như vậy là, nó không thể là sản phẩm của một cái vòng tròn luẩn quẩn vốn đã khởi động bằng một cơ hội may mắn, xuất hiện ngẫu nhiên. Điều đặc biệt đáng chú ý là ngay cả trước năm 1492, hầu hết những xã hội ở cả America và Africa-Asia là phụ quyền, dẫu chúng đã không tiếp xúc với nhau trong hàng nghìn năm. Nếu chế độ phụ quyền trong Asia-Africa là kết quả của một số cơ hội xảy ra, tại sao là những Aztec và Incas cũng là phụ quyền? Có rất nhiều phần đã xảy ra là dẫu những định nghĩa chính xác của “đàn ông” và “phụ nữ” khác biệt giữa những nền văn hóa, có một số lý do sinh học phổ thông khiến tại sao hầu như tất cả những nền văn hóa đều xem nam giới có giá trị hơn nữ giới. Chúng ta không biết những gì lý do này là gì. Có rất nhiều lý thuyết, không một nào trong số chúng thì thuyết phục.

Sức mạnh Bắp thịt

Lý thuyết phổ biến nhất trỏ về sự kiện là những đàn ông đều mạnh mẽ hơn những phụ nữ, và rằng họ đã dùng sức mạnh của thể lực mạnh mẽ hơn của họ để buộc phụ nữ phải phục tùng. Một giải thích tinh tế hơn của lập luận này cho rằng sức mạnh của họ cho phép nam giới chiếm độc quyền những nhiệm vụ đòi hỏi lao động chân tay nặng nhọc, chẳng hạn như trồng tỉa, cày cấy và gặt hái. Điều này cho phép họ kiểm soát sự sản xuất thực phẩm, qua đó chuyển thành sức mạnh chính trị.

Có hai vấn đề với sự nhấn mạnh này vào sức mạnh bắp thịt. Thứ nhất, tuyên bố rằng ‘những người nam mạnh hơn những người nữ’ chỉ đúng khi nói trên tầm mức trung bình, và chỉ với một số loại sức mạnh nào đó. Phụ nữ thường có nhiều khả năng chống đói, bệnh tật và mệt mỏi hơn phái nam. Ngoài ra còn có rất nhiều phụ nữ có thể chạy nhanh hơn, và nâng, gánh những trọng lượng nặng hơn so với nhiều đàn ông. Hơn nữa, và điều khiến phải nghi ngờ nhất về lý thuyết này là trong suốt lịch sử, phụ nữ đã bị loại trừ chủ yếu là khỏi những công việc đòi hỏi ít nỗ lực thể chất nhất (như chăn chiên, làm luật và chính trị), trong khi vẫn tham gia vào những công việc nặng nhọc trên ruộng đồng, trong những lĩnh vực thủ công và trong nội trợ gia đình. Nếu quyền lực xã hội đã được phân chia theo như tỉ lệ trực tiếp với sức mạnh thể chất, hay sức chịu đựng, phụ nữ tất đã có thêm rất nhiều điều đó.

Lại còn quan trọng hơn nữa, không chỉ giản dị là không có quan hệ trực tiếp giữa sức mạnh thể chất và quyền lực xã hội giữa người với người. Những người trong những tuổi sáu mươi của họ thường thực hành nhiều quyền lực hơn những người trong độ tuổi hai mươi của họ, dẫu tuổi 20 mạnh hơn rất nhiều so với những người lớn tuổi hơn của họ. Những chủ đồn điền điển hình ở Alabama vào giữa thế kỷ XIX đã có thể bị một bất kỳ nô lệ nào làm việc trong những cánh đồng bông vải của ông ta vật ngã nằm thẳng cẳng trên mặt đất chỉ trong vài giây. Đánh bốc đã không dùng để tranh tài chọn lựa những pharaoh của Egypt, hay những vua chiên Catô [54]. Trong những xã hội kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm, sự thống trị chính trị nói chung, nằm với người sở hữu những kỹ năng xã hội tốt nhất, chứ không phải những bắp thịt phát triển nhất. Trong những tổ chức tội ác, những đầu đảng không nhất thiết phải là người mạnh mẽ, vạm vỡ nhất. Người này thường là một người lớn tuổi, rất hiếm khi phải dùng bàn tay của chính mình; sai bào những người trẻ tuổi hơn và thích hợp hơn để làm những công việc không để tay mình phải bị “bẩn”. Một tay anh chị nếu là người nghĩ rằng cách để nắm quyền băng đảng là đánh bại người thủ lãnh, thường không sống đủ lâu để học được sai lầm của chính mình. Ngay cả trong đám những con chimpanzee, con trùm đực giành được vị trí của nó bằng cách xây dựng một liên minh ổn định với những con đực và con cái khác, không phải qua bạo lực ngu độn.

Trong thực tế, lịch sử loài người cho thấy rằng thường có một quan hệ nghịch đảo giữa sức mạnh thể lực và quyền lực xã hội. Trong hầu hết những xã hội, đó là tầng lớp thấp hơn là những người làm lao động chân tay. Điều này có thể phản ảnh vị trí Homo Sapiens trong chuỗi thức ăn như chính những sinh vật. Nếu tất cả những gì quyết định đã là khả năng thể lực, Sapiens sẽ tìm thấy chính mình trên một nấc giữa những bậc thang. Nhưng kỹ năng não thức và xã hội của họ đã đặt họ ở phía trên cùng. Do đó, chỉ là tự nhiên rằng những nấc cao thấp của chuỗi quyền lực bên trong loài cũng sẽ do những khả năng tinh thần và xã hội quyết định hơn là sức mạnh thú vật. Do đó, khó có thể tin rằng đẳng cấp xã hội ổn định nhất và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử được lại được thành lập trên khả năng thể lực của nam giới để ép buộc những phụ nữ.

Cặn bã của Xã hội

Một giả thuyết khác giải thích rằng sự thống trị của nam giới kết quả không phải từ sức mạnh nhưng từ sự gây hấn hung hãn. Hàng triệu năm tiến hóa đã làm cho người nam bạo động hơn rất nhiều so với phụ nữ. Phụ nữ có thể sánh bằng với đàn ông cũng ngang ngửa trong những gì có liên quan đến hận thù, tham lam và lạm dụng, nhưng khi đẩy đến lấn lướt áp đảo, theo lý thuyết, đàn ông sẵn sàng hơn để tham dự vào võ lực thể chất thô bạo. Đây là tại sao trong suốt lịch sử, chiến tranh đã là một đặc quyền của nam giới.

Trong những thời chiến tranh, sự kiểm soát những lực lượng võ trang của nam giới đã làm họ cũng trở thành những ông chủ của xã hội dân sự. Khi đó, họ dùng sự kiểm soát của họ trong xã hội dân sự để đánh thêm nhiều cuộc chiến hơn nữa, và số lượng những chiến tranh càng lớn, sự kiểm soát xã hội của nam giới càng thêm lớn hơn. Vòng phản hồi này giải thích cả sự phổ biến của chiến tranh và sự phổ biến của chế độ phụ quyền.

Các nghiên cứu gần đây về những hệ thống nhận thức và chất nội tiết, của phái nam và phụ nữ, làm vững thêm giả thuyết rằng những người nam thực sự có những khuynh hướng hung hãn và bạo lực nhiều hơn, và do đó, trên trung bình, phù hợp hơn để phục vụ như những binh lính vẫn thường thấy. Chưa nói rằng những người lính thường thấy đều tất cả là phái nam, điều đó có phải cũng dẫn theo rằng những người điều khiển những chiến tranh, và vui hưởng những thành quả của chúng cũng phải là phái nam? Điều đó không có nghĩa lý. Nó giống như giả định rằng vì tất cả những người nô lệ trồng tỉa trên những cánh đồng bông vải là người da đen, chủ đồn điền cũng sẽ là người da đen. Cũng như một lực lượng lao động toàn người da đen có thể được một ban quản lý toàn người trắng kiểm soát, tại sao không thể có quân đội toàn phái nam được một chính phủ toàn nữ, hoặc ít nhất một phần nữ, điều khiển ? Trong thực tế, nhiều xã hội trong suốt lịch sử, những sĩ quan cao cấp đã lên đến những cấp bậc của họ không từ cấp bậc thấp nhất của người lính trơn. Những quý tộc, những người giàu có và những người có học đã được tự động gán cho cấp bậc sĩ quan và chưa bao giờ phục vụ đến một ngày trong đội ngũ.

Khi Công tước Wellington, đối thủ đã đánh bại Napoleon, nhập ngũ quân đội England ở tuổi mười tám, ông đã ngay lập tức được giao trách nhiệm như một sĩ quan. Ông đã không nghĩ nhiều về những người thuộc giới bình dân dưới quyền chỉ huy của ông. ‘Chúng ta có trong dịch vụ những cặn bã của quả đất như những lính trơn”, ông viết cho một nhà quý tộc đồng bạn trong những cuộc chiến tranh chống France. Những người lính trơn thường được trưng binh giữa những khối người rất nghèo, hay dân tộc thiểu số (chẳng hạn như những người Catô Ireland). Cơ hội thăng tiến của họ trong hàng ngũ quân sự là không đáng kể. Những cấp bậc cao cấp được dành cho những công tước, và những vương hầu. Nhưng tại sao chỉ cho công tước, mà không cho nữ công tước?

Đế quốc France ở Africa được thành lập và bảo vệ bằng mồ hôi và máu của những người Senegal, Algeria và tầng lớp lao động France. Tỉ lệ người France quí tộc trong hàng ngũ là không đáng kể. Tuy nhiên, tỉ lệ người France quí tộc trong tầng lớp ưu tú nhỏ được chọn lọc dẫn đầu quân đội France, cai trị đế quốc và hưởng hoa trái của nó là rất cao. Tại sao chỉ là đàn ông người France, mà không phải những phụ nữ người France?

Ở nước Tàu có một truyền thống lâu đời đặt quân đội dưới sự phục tùng giới quan lại dân sự, vì vậy những quan lại là người chưa bao giờ cầm một thanh kiếm để giao đấu thường điều khiển những chiến tranh. “Bạn không phí sắt tốt để làm những cây đinh”, một tục ngữ của người Tàu, có nghĩa là những người thực sự có tài năng gia nhập vào hàng ngũ quan liêu dân sự, không phải hàng ngũ quân đội. Tại sao, sau đó, tất cả những quan lại này đều là những người nam?

Người ta không thể biện luận hợp lý được rằng sự yếu đuối về thể chất, hoặc mức độ testosterone thấp, đã ngăn cản phụ nữ thành công trong giới của những quan lại, tướng lĩnh và chính trị gia. Để quản lý một cuộc chiến tranh, bạn chắc chắn cần sức chịu đựng, nhưng không cần nhiều sức mạnh thể chất hoặc gây hấn. Chiến tranh không phải là một cuộc ẩu đả trong quán rượu. Chúng là những dự án rất phức tạp đòi hỏi một mức độ phi thường của sự tổ chức, hợp tác và đổi chác nhường nhịn. Khả năng duy trì hòa bình bên trong nhà, ở hậu phương, có được đồng minh bên ngoài, và hiểu được những gì đi qua não thức của người khác (đặc biệt là những kẻ thù của bạn) thường là chìa khóa để chiến thắng. Do đó một kẻ võ phu hung hăng thường là lựa chọn tồi tệ nhất để điều khiển một cuộc chiến tranh. Tốt hơn là một người biết hợp tác khéo léo, người biết xoa dịu, biết thao túng, và biết nhìn mọi sự vật việc từ những quan điểm khác biệt. Đây là những thứ đã làm thành những nhà dựng nên những đế quốc. Người không đủ năng lực quân sự như Augustus đã thành công trong việc thiết lập một triều đại đế quốc ổn định, đạt được một gì đó vượt ngoài cả Julius Caesar lẫn Đại đế Alexander, những người đã là những tướng lãnh tài giỏi hơn nhiều. Cả những sử gia đương thời và thời nay ngưỡng mộ ông, thường gán kỳ công này với đức tính clementia của ông – sự dịu ngọt và khoan hồng.

Phụ nữ thường được nói đến theo rập khuôn như thao túng tốt hơn và chiều lòng người khác hơn phái nam, và cũng có tiếng với khả năng trỗi vượt của họ để nhìn những sự việc từ quan điểm của những người khác. Nếu có bất kỳ sự thật trong những khuôn mẫu này, khi đó phụ nữ tất đã thành những nười xuất sắc trong chính trị và xây dựng đế quốc, để lại những công việc bẩn thỉu trên chiến trường cho những đàn ông hung hãn gây gổ và đầy testosterone nhưng đầu óc đơn giản. Tuy có những huyền thoại phổ biến, nhưng điều này hiếm khi xảy ra trong thế giới thực. Điều không phải tất cả là rõ ràng tại sao không là lý do.

Những Gene Trưởng Tộc Phụ Quyền

Loại giải thích sinh học thứ ba cho vũ lực và bạo động ít quan trọng hơn, và đưa ra ý tưởng rằng qua hàng triệu năm tiến hóa, đàn ông và phụ nữ đã phát triển theo những chiến lược để sống còn và truyền giống khác nhau. Khi những người nam cạnh tranh với nhau cơ hội để làm thụ thai những phụ nữ có thể sinh sản, những cơ hội truyền giống của một cá nhân tuỳ thuộc trước hết vào người ấy có khả năng làm được hay hơn và đánh bại được những người nam khác. Với thời gian trôi qua, những gene nam tính được di truyền cho thế hệ tiếp theo là thuộc về những người nam này, những người đầy tham vọng, năng nổ tích cực và cạnh tranh nhất.

Một người phụ nữ, mặt khác, không phải gặp khó khăn trong việc tìm một người sẵn sàng làm nàng thụ thai. Tuy nhiên, nếu nàng muốn những đứa con của mình, đến lượt chúng, lại đem cho mình những đứa cháu nội hay ngoại, nàng cần phải cưu mang đứa con đang thai nghén trong bụng suốt chín tháng nhọc nhằn, và sau đó nuôi dưỡng nó trong nhiều năm. Trong thời gian đó, nàng có ít hơn những cơ hội để kiếm lấy thức ăn, và đã cần rất nhiều giúp đỡ. Nàng cần một người đàn ông đỡ đần. Để bảo đảm sự sống còn của chính mình, và sự sống còn của những đứa con nàng, người phụ nữ đã có ít lựa chọn nhưng phải đồng ý với bất cứ những điều kiện nào người nam qui định, như thế khiến hắn sẽ gắn bó quanh nàng, và chia sẻ một số gánh nặng. Với thời gian trôi qua, những gene nữ tính vốn di truyền thành công cho những thế hệ tiếp theo, thuộc về những người phụ nữ chăm sóc và phục tùng. Những phụ nữ đã dành quá nhiều thời gian chiến đấu để tranh dành quyền lực, hẳn đã không để lại một bất kỳ nào của những gen mạnh mẽ đó, cho những thế hệ tương lai.

Kết quả của những chiến lược sống còn khác nhau – theo lý thuyết như thế – là người nam đã được prôgram để là tham vọng và cạnh tranh, và để vượt trội trong chính trị và kinh doanh, trong khi đó, phụ nữ có khuynh hướng tránh ra khỏi những vướng bận đó, và dành trọn đời họ vào việc nuôi dạy con cái.

Nhưng lối giải quyết này cũng có vẻ như được đi ngược lại những bằng chứng thực nghiệm. Vấn đề đặc biệt rắc rối là giả định rằng sự tuỳ thuộc của phụ nữ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài làm họ tuỳ thuộc vào những người nam, chứ không phải với những người nữ khác, và sự năng động cạnh tranh của phái nam đã làm cho những người nam chi phối xã hội. Có rất nhiều loài động vật, như loài voi, và loài chimpanzee bonobo [55], trong đó động lực giữa những con cái cần nương tựa, chịu tuỳ thuộc và những con đực cạnh tranh, dẫn đến kết quả là một xã hội mẫu quyền. Kể từ khi những con cái cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, chúng đã buộc phải phát triển những kỹ năng xã hội của chúng, và học lấy cách thế làm sao để hợp tác và an ổn thuận lòng. Chúng đã xây dựng những mạng lưới xã hội gồm toàn những con cái, để giúp mỗi thành viên, những con cái khác, nuôi dạy con của mình. Những con đực, trong khi đó, dành nhiều thời gian của chúng để chiến đấu và cạnh tranh. Kỹ năng xã hội và ràng buộc xã hội của những con đực vẫn còn kém phát triển. Xã hội bonobo và voi được những mạng lưới vững mạnh của những cộng đồng hợp tác của những con cái kiểm soát, trong khi những con đực chỉ lấy mình làm trung tâm, và không hợp tác, đã bị đẩy qua bên rìa. Dẫu con bonobo cái yếu hơn so với con đực, những con cái thường xúm nhau thành băng đông đảo, đánh gục những con đực nào dám vượt qua những giới hạn của chúng.

Nếu đây là có thể có xảy ra giữa loài bonobo và loài voi, tại sao không có giữa những Homo Sapiens? Sapiens là loài động vật tương đối yếu, lợi thế của họ nằm trong khả năng của họ để hợp tác với những số đông lớn. Nếu vậy, chúng ta nên mong đợi rằng người phụ nữ tuỳ thuộc, ngay cả nếu họ tuỳ thuộc vào những người nam, sẽ dùng những kỹ năng xã hội cao của họ để hợp tác để vượt thắng và thao túng những người nam vốn lấy mình làm trung tâm, độc lập và năng nổ gây hấn háo thắng.

Sự việc đã xảy ra như thế nào, khiến trong một loài có sự thành công của nó tuỳ thuộc trên hết vào sự hợp tác, nhưng những cá nhân được cho là ít tính hợp tác cá nhân (phái nam) lại kiểm soát những cá nhân được cho là có tính hợp tác nhiều hơn (phụ nữ)? Hiện nay, chúng ta không có trả lời tốt. Có lẽ những giả định chung đều đúng là sai. Có lẽ những con đực của loài Homo Sapiens có đặc điểm là không phải bởi sức mạnh thể chất, gây hấn và sự cạnh tranh, nhưng đúng hơn là những kỹ năng xã hội cao và một khuynh hướng lớn hơn để hợp tác. Chúng ta đúng là không biết.

Những gì chúng ta biết, tuy nhiên, đó là trong thế kỷ vừa qua, những vai trò của giới tính đã trải qua một cuộc cách mạng rộng lớn sâu xa. Ngày nay, ngày càng có nhiều hơn những xã hội không chỉ cung cấp cho người nam và người nữ, những tư thế địa vị pháp lý, những quyền chính trị và những cơ hội kinh tế như nhau, nhưng cũng suy nghĩ lại hoàn toàn những quan niệm cơ bản nhất của họ về phái tính và tình dục. Dẫu khoảng cách giới tính vẫn còn đáng kể, những biến cố đã vẫn chuyển động với một tốc độ choáng váng ngạc nhiên. Vào đầu thế kỷ XX, ý tưởng trao quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, ở USA nói chung, đã được xem như thái quá; triển vọng sẽ có một nữ bộ trưởng, hay nữ thẩm phán tòa của Tối cao Pháp viện, đều chỉ giản dị là lố bịch buồn cười; trong khi đó, đồng tính luyến ái đã là một chủ đề tabu đến nỗi nó ngay cả không có thể được thảo luận công khai. Vào đầu thế kỷ XXI, quyền biểu quyết của phụ nữ được nhận lấy như đương nhiên; những nữ bộ trưởng hầu như không là nguyên nhân để bình phẩm; và trong năm 2013, năm thẩm phán của Tối cao Pháp viện USA, ba trong số họ là phụ nữ, đã quyết định ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính (không chấp nhận sự phản đối của bốn thẩm phán nam).

Những thay đổi mạnh mẽ này là những gì làm cho lịch sử về giới tính thành rất mù mịt khó hiểu. Nếu, như đang được chứng minh ngày nay như vậy là rõ ràng, hệ thống phụ quyền đã được dựa trên những huyền thoại không có cơ sở, chứ không phải dựa trên những thực tại sinh học, giải thích cho sự phổ biến và tính ổn định của hệ thống này là gì?



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 đọc lại Oct/2018)





[1] larva: sinh vật vừa sinh xong chưa định dạng rõ rệt, chưa giống, nhiều phần khác hẳn một con trưởng thành. Thường thấy trong trong loài ong, bướm, sâu; những con kén, nhộng là những larva; chúng chưa phải là ong con, bướm con, tằm con, larva là con sâu chưa là con sâu con, nhưng chỉ mới trong một dạng chuyển tiếp (metamorphosi), vừa mới vỡ ra khỏi trứng. (Vẫn dịch là ấu trùng, nhưng từ này không trọn nghĩa)
[2] program
[3] database – tạm dịch như trên
[4] mnemonist
[5] mathematical data : theo nghĩa hạn hẹp trình bày ở trên.
[6] Sumerians: những người bản địa, không-Semitic, của thành Babylon thời cổ. Họ có một trong những ngôn ngữ viết cổ xưa nhất được biết đến, quan hệ của nó với một ngôn ngữ bất kỳ nào khác thì còn không rõ. Họ có nền văn minh đầu tiên của loài người, đã được lịch sử chứng thực, và họ đã phát minh chữ viết hình nêm (cuneiform), hệ đếm cơ sở số 60 (sexagesimal) trong toán học (như giờ/phút, độ, góc), và những tổ chức chính trị xã hội của nhà nước thành phố. Nghệ thuật, văn học và gót học của họ đã có một ảnh hưởng sâu xa, kéo dài rất lâu sau sự sụp đổ của họ khoảng năm 2000 TCN.
[7] data processing system: tạm dịch như trên
[8] writing / ecriture:
[9] thập phân và lục phân (base 10 và base 6)
[10] [Andrew Robinson, The Story of Writing (New York: Thames and Hudson, 1995), 63; Hans J. Nissen, Peter Damerow and Robert K. Englung, Archaic Bookkeeping: Writing and Techniques of Economic Administration in the Ancient Near East (Chicago, London: The University of Chicago Press, 1993), 36.]
Trong hình chụp tôi tìm được (thay vì lấy từ bản in hay ebook của tác giả):
Nhan đề (cổ vật) : Sản xuất rượu bia tại đền Inanna ở Uruk
Văn bản theo tài liệu này có thể diễn giải như sau: Sản xuất rượu bia, 134.813 lít lúa mạch được giao hơn 3 năm ( 37 tháng ) cho nhân viên chính phủ Kushin chịu trách nhiệm cho việc làm rượu bia tại đền Inanna ở Uruk.
(http://www.schoyencollection.com/24-smaller-collections/wine-beer/ms-1717-beer-inanna-uruk)
[11] spectrum
[12] hieroglyphics: dùng những hình vẽ cách điệu (glyph), theo ước lệ cố định tuỳ ngôn ngữ nói, để thay cho những chữ, vần, và âm thanh của ngôn ngữ nói. Điển hình là chữ viết của những văn minh: Hittite, Egypt, Cretan ở Trung Đông, Olmec, Aztec, Maya và thổ dân Ojibwe ở châu America.
(Hieroglyphics = gốc từ Greek: hierogluphikos = hieros ‘thần linh’ + gluphē ‘khắc vẽ’, theo tin tưởng rằng những hình vẽ khắc chạm là tri thức được ghi chép, tri thức vốn đến từ thần linh, là quà tặng của những gót của họ)
[13] [Marcia and Robert Ascher, Mathematics of the Incas – Code of the Quipu (New York: Dover Publications, 1981).]
[14] [Gary Urton, Signs of the Inka Khipu (Austin: University of Texas Press, 2003); Galen Brokaw, A History of the Khipu (Cambridge: Cambridge University Press, 2010).]
[15] Siamese twins
[16] những thuật ngữ này đã thành phổ thông trong tiếng Việt, nên giữ nguyên, hoặc phiên âm, spreadsheets như chúng ta đã biết, không hẳn chỉ dùng để tính toán với những con số, nên không dịch là bảng tính điện tử được
[17] Một người đồng thời với vua Hammurabi của Babylon, Zimri-Lim cai trị thành Mari (nay là thành phố Tell Hariri, Syria) trong thời gian khoảng 14 năm (ca. 1775–1761 TCN)
[18] [Ngay sau khi Akkad đã trở thành ngôn ngữ nói, Sumerian vẫn là ngôn ngữ của chính quyền và do đó ngôn ngữ được ghi lại với bản văn. Thầy thông giáo Aspiring do đó phải nói Sumer.]
[19] [Stephen D. Houston (ed.), The First Writing: Script Invention as History and Process (Cambridge: Cambridge University Press, 2004), 222.]
[20] scribe: “thày viết chữ”, những người viết chữ (trên đất sét, đá, da, giấy papyrus,..) bằng tay, trước khi có kỹ thuật in. (Latin scriba < scribere ‘viết.’= ghi chép, sao chép).
Những “thày viết chữ”; trong Egypt là “zakhau”, nghĩa là “người dùng (bút cọ như) bàn chải để viết chữ”; trong Mesopotamia là “dub-sar”, nghĩa là “người viết trên những phiến bảng bằng gốm”, qua đó tóm tắt những dụng cụ cơ bản của những người chuyên môn viết chữ chữ khắc hình (hieroglyphics), và viết chữ hình nêm (cuneiform), dùng thanh gỗ cứng viết bằng cách ấn mạnh trên đất sét ướt còn mềm, và sau đó, ở Egypt, mới viết với bút, thân bằng gỗ hay ngà, đầu nhọn nhưng vạt nghiêng, để có thể vẽ nét đậm nhạt tuỳ ý, mực thường dùng màu đất-đỏ hay than-đen, pha bằng dầu hay nước, trộn với bột thảo mộc đốt để khô, trên giấy papyrus, làm bằng cách lấy thân của một giống cọ nước, tước bỏ vỏ, tất cả cắt dài bằng nhau, ngâm nước, sau đó xếp thành hai lớp ngang và dọc đè lên nhau, rồi ép chung thành một, cho ráo nước, sau khi để thật khô vài ngày; chúng sẽ thành những “tờ giấy” papyrus. Sau cùng, sang đến văn hoá của những sách Thánh đạo Juda và Kitô, thuật ngữ này thành “những thày thông hiểu chữ nghĩa kinh thánh”; những người này “viết xuống”, chứ không “viết sao/chép” nữa, và họ cũng viết những chữ viết có alphabet mới và khác hẳn những hệ thống chữ viết cũ; từ đó, scribe chỉ những luận sư, học giả tôn giáo.
[21] holistic: Từ holism gốc Indo-European kailo, có nghĩa: whole, intact, or uninjured. A holistic person does not tear things apart mentally, to understand them. The holistic person tends to approach a subject by trying to understand its gist or general meaning. Analytic thinking involves understanding a system by thinking about its parts and how they work together to produce larger-scale effects. Holistic thinking involves understanding a system by sensing its large-scale patterns and reacting to them.
[22] compartmentalisation: phân mục hóa, nhưng ở đây có nghĩa như tôi dịch trên.
[23] bureaucracy: guồng máy hành chính, hệ thống quan lại, nhưng ở đây có nghĩa như tôi dịch trên.
[24] the poverty line: the estimated minimum level of income needed to secure the necessities of life
[25] Subjective well-being: Một trong những định nghĩa phổ thông của Subjective well-being (SWB): is ‘a person’s cognitive and affective evaluations of his or her life’ The cognitive element refers to what one thinks about his or her life satisfaction in global terms (life as a whole) and in domain terms (in specific areas of life such as work, relationships, etc.) The affective element refers to emotions, moods and feelings. Affect is considered positive when the emotions, moods and feelings experienced are pleasant (e.g. joy, elation, affection etc.) Affect is deemed negative, though, when the emotions, moods and feelings experienced are unpleasant (e.g. guilt, anger, shame etc.)
A person who has a high level of satisfaction with their life, and who experiences a greater positive affect and little or less negative affect, would be deemed to have a high level of SWB [or in simpler terms, be very happy].
[26] credit rating: an estimate of the ability of a person or organization to fulfill their financial commitments, based on previous dealings.
[27] AI: Artificial Intelligence = trí tuệ thông minh hay ‘machine intelligence’ = máy móc thông minh.
Artificial Intelligence là một ngành học của khoa học computer về lý thuyết và phát triển hệ thống computer có khả năng thực hiện những công việc thường đòi hỏi trí thông minh của con người
[28] Aristotle đã nghĩ rằng chế độ nô lệ là một điều tự nhiên và con người sinh ra trong hai loại – nô lệ và không nô lệ.
“Do điều đó, một số nên cai trị và một số khác bị cai trị là một điều không chỉ cần thiết, nhưng có lợi thiết thực; từ giờ phút sinh thành của họ, một số người được đánh dấu cho tùng phục, những người khác để cai trị....”Aristotle, Chính trị
Một số người, ông cho biết, được sinh ra với bản chất nô lệ tự nhiên, và phải là nô lệ dưới bất kỳ hoàn cảnh nào. Những người khác đã được sinh ra để cai trị những người nô lệ, có thể sử dụng những nô lệ như ý họ thích, và có thể đối xử với họ như tài sản. Những nô lệ tự nhiên là những nô lệ bởi vì hồn người của họ không hoàn toàn – chúng thiếu những phẩm chất nhất định, chẳng hạn như khả năng suy nghĩ đúng, và vì vậy họ cần phải có những chủ nhân để nói cho họ biết phải làm gì. Rõ ràng rằng Aristotle nghĩ rằng chế độ nô lệ là tốt cho những người sinh ra là nô lệ tự nhiên, nếu như không có chủ, họ sẽ không biết làm thế nào để sống đời sống của họ. Trong thực tế Aristotle dường như đã nghĩ rằng những nô lệ là những “công cụ sống”, có phần đúng hơn là họ giống như những gia súc, chỉ phù hợp với lao động thể chất.
“Và quả thực việc sử dụng dùng những nô lệ và những động vật thuần hóa không phải là rất khác nhau; vì cả hai với thân xác của chúng giải quyết cho những nhu cầu của đời sống.”
Aristotle, Chính trị
Những người nô lệ không hoàn toàn là không có khả năng suy nghĩ, nhưng họ cần chỉ một số tối thiểu khả năng lý trí; chỉ đủ để hiểu và thực hiện nhiệm vụ của họ.. Aristotle không cung cấp bất kỳ phương pháp hợp lý thực tế nào cho việc phân biệt ai là nô lệ tự nhiên, và không có nó, là không thể tránh khỏi một số người sẽ bị buộc làm nô lệ nhưng họ đáng lẽ không phải như vậy. Aristotle cũng đã có một thể loại ông gọi là “nô lệ pháp lý”; đây là những người không phải là nô lệ tự nhiên nhưng qua bất hạnh – có lẽ bị bắt làm tù binh trong chiến tranh, – họ chỉ xảy ra để là phải làm nô lệ ở một thời điểm cụ thể nào đó. Aristotle lập luận rằng nếu thế giới là công bằng, những nô lệ pháp lý nên được trả tự do, và nếu bất kỳ nô lệ tự nhiên nào do cơ hội ngẫu nhiên, may mắn nên đươc tự do, họ nên bị buộc làm nô lệ.

Trước đó, Plato đã đưa ra lập luận nổi tiếng “Noble lie”, hay “Royal lie” khi Socrates kể một “huyền thoại về kim loại” cho Glaucon, ở cuối quyển III, Republic, 414b – 414c. Rusell trong, đã tóm tắt như sau:
Royal lie” – nổi tiếng của Plato. Lừa trên tất cả dân chúng để cai trị, biện chính bằng ổn định xã hội.
Nói dối, Plato nói toạc ra rõ ràng hiển nhiên, là một đặc quyền của chính quyền, cũng giống như ra toa thuốc là của những y sĩ. Chính quyền, như chúng ta đã thấy, là để đánh lừa người ta trong sự giả vờ sắp xếp những hôn nhân bằng rút thăm, nhưng đấy không phải là một vấn đề tôn giáo.
Có “một nói dối cho vua”, vốn Plato hy vọng, có thể đánh lừa những người cai trị, nhưng trong bất cứ mức nào đi nữa, sẽ đánh lừa toàn phần còn lại của thành phố. Điều “nói dối” này được đặt định ra rõ ràng trong chi tiết đáng kể. Phần quan trọng nhất của nó là giáo điều nói là Gót đã tạo ra con người thành ba loại, loại tốt nhất làm bằng vàng, tốt thứ hai bằng bạc, và đám bầy đàn thông thường (còn lại) bằng đồng thau và sắt. Những người làm bằng vàng là xứng hợp để làm những giám hộ; những người làm bằng bạc nên là những binh sĩ; những người khác nên làm những công việc chân tay. Thông thường, nhưng không có nghĩa là luôn luôn, trẻ em sẽ thuộc về cùng một thứ bậc như cha mẹ của chúng, khi chúng không như thế, chúng phải được đẩy lên hoặc kéo xuống cấp cho phù hợp. Đã được nghĩ là khó có thể làm cho những thế hệ đương thời tin vào huyền thoại này, nhưng thế hệ sau đó, và tất cả những thế hệ tiếp nối theo, không nghi ngờ là chúng có thể được giáo dục cho tin vào như thế.
Plato đã đúng trong suy nghĩ rằng niềm tin vào huyền thoại này có thể được tạo ra trong hai thế hệ. Người Japan đã được dạy từ năm 1868, rằng hoàng đế Japan (Mikado) là hậu duệ của nữ thần-mặt trời, và rằng Japan đã được tạo ra sớm hơn so với tất cả phần còn lại của thế giới. Bất kỳ giáo sư đại học nào, những người, ngay cả trong một công trình uyên bác, ném nghi ngờ về những tín điều này, là bị mất việc vì phạm những hoạt động phản-Japan.”
[29] white supremacy: tin tưởng rằng người da trắng là ưu việt, vượt trên tất cả những người có màu da khác, đặc biệt là người da đen, và do đó nên thống trị xã hội.
[30] Caucasian (hay Caucasoid): ngày nay được dùng như đồng nghĩa với ‘người da trắng, hay người gốc Europe’, mặc dù sự phân chia chủng tộc như thế nay đã lỗi thời, và không được khoa học chấp nhận (cũng như những “chủng tộc” kia là Australoid và Mongoloid). Trước đây, từ này bao gồm những người Europe, Tây Asia, phần của India, và Bắc Africa. Gọi như vậy, vì nhà sinh lý học người Germany, Blumenbach tin rằng những người nhóm này gốc từ vùng núi Caucasus, đông nam Europe.
Khái niệm chủng tộc (human races) là sản phẩm tưởng tượng của xã hội. Khái niệm này không có cơ sở di truyền sinh học. Trong tự nhiên, về sinh lý con người, không có những nhóm sinh học khác biệt giữa loài người. Những khác biệt thấy trong những nhóm người về ngôn ngữ, tôn giáo, tập quán, khi họ sống trong cùng lĩnh thổ sinh sống, có cùng lịch sử hình thành, có cùng văn hoá, khái niệm để chỉ sự khác biệt này là “sắc tộc” (ethnicity), không phải “chủng tộc” (race). Chủng tộc không phải là một khái niệm khoa học, nhưng chỉ là một khái niệm văn hoá lỗi thời, gây nhiều ngộ nhận tai hại, đưa đến kỳ thị chủng tộc.
Thế nên, sự kỳ thị quen thuộc của chúng ta với người Tàu, lấy thí dụ, không đến từ lý do chủng tộc (ngoài những lý do chính trị, lịch sử), nhưng đúng hơn từ những lý do văn hoá, trong khái niệm “sắc tộc”. Chúng ta phân biệt những khác biệt giữa ta/người trong những yếu tố của sắc tộc, thấy những yếu tố, biểu hiện của văn hoá, từ ngôn ngữ, phong tục, đến thực phẩm y phục, ... đã thích hợp với chúng ta, đã thành truyền thống, để gìn giữ và phát triển chúng, và những gì là của riêng họ, hay của những sắc tộc lớn (dân tộc) khác (như Korea, Japan, Thailand, Laos) dù hay, đẹp, nhưng đã phát triển trong lịch sử và văn hoá của người, đã là bản sắc của người, chúng ta không muốn lẫn lộn, không thể hay không nên bắt chước, để đừng đánh mất những gì mình cũng có tương tự, đừng “gánh vàng đi đổ sông Ngô”.
[31] Một trong những huyền thoại sáng tạo sớm nhất kể lại trong Rigveda, văn bản cổ xưa nhất của India, purusha cũng là người nguyên thủy vốn vũ trụ đã được tạo ra từ cơ thể của ông. Một trong những bài thánh ca trong Rigveda mô tả vào lúc bắt đầu của thế giới, một người khởi thủy đã hy sinh như thế nào. Từ cơ thể của ông, bốn nhóm chính của đạo Hindu (được gọi là varna, nghĩa đen là “màu sắc”) được tạo ra: từ miệng purusha thành ra những giáo sĩ (Brahman), từ tay của ông là những chiến binh và những người cai trị (Kshatriya), từ đùi của ông, là những người sống bằng nghề nông hoặc thương mại (Vaishya) và lớp nông nô (Shudra) từ chân của ông.
Những nhóm này có lẽ phản ảnh ba lớp của xã hội Aryan, với lớp Shudra ở dưới đáy, là những người dân bản địa India bị chinh phục. Những phân biệt này còn tồn tại cho đến ngày nay, và thường được coi như là một hệ thống phân giai cấp, mặc dù chúng chỉ là một phần nhỏ của nó. Yếu tố chủ yếu trong hệ thống giai cấp là sự phân chia của xã hội vào thành rất nhiều nhóm loại trừ lẫn nhau – jati trong tiếng Hindi. Jati trong đó một người được sinh ra ấn định địa vị xã hội của người ấy suốt đời, cũng như jati của một người chỉ định rằng người đó phải kết hôn chỉ với người bên trong cùng nhóm đó. Mỗi jati có chỗ của nó trong một hệ thống phân chia giai cấp đươc thiết lập rõ ràng và vững chắc. Làm công việc thuộc về một loại ô uế, không trong sạch (thuộc da, quét nhà, đổ rác) sẽ bảo đảm nhận một vị thế xã hội rất thấp. Ngay cả đến ngày nay, những Brahman vẫn tự coi mình bị ô nhiễm, nếu tiếp xúc với người Hindus thuộc một giai cấp thấp – một thái độ đã dẫn đến những nhóm thấp nhất của tất cả bị xếp vào loại tiện dân, hay “đừng ai chạm đến”. Mặc dù cứng rắn, nhưng điều này là trong ngắn hạn, mô hình có thể bị phá vỡ, giai cấp có thể vượt qua. Đôi khi toàn bộ jati thành công trong việc chuyển lên cao trên nấc thang xã hội, chỉ đơn giản bằng cách bỏ đi một nghề sinh sống hoặc phong tục hèn hạ; sau một hay hai thế hệ, những jati khác đi đến chấp nhận hành vi thuộc giai cấp cao hơn này là bằng chứng của một địa vị thuộc giai cấp cao hơn. Trên một mức độ cá nhân sự cứng rắn của hệ thống được làm mềm đi, bằng niềm tin Hindu về sự tái sinh. Một trong những phần thưởng chính của một đời sống đạo đức và thánh thiện là để được tái sinh vào một giai cấp cao hơn.
Một câu chuyện của India, muộn hơn nhiều về sau này, liên quan đến thần Brahma. Bắt đầu từ không-gì, ông đi qua một quá trình dài. Đầu tiên, ông tạo ra, chỉ trong ý nghĩ, Nước. Trong đó ông tiền gửi hạt giống của mình, phát triển thành một quả trứng vàng. Bản thân ông được sinh ra trong trứng. Sau một năm, một lần nữa chỉ trong ý nghĩ, ông tách quả trứng thành hai. Mỗi nửa trở thành, theo cách thông thường, trời và đất.
Nhưng triết học India cũng đưa ra một phản ứng ít bóng gió hơn trước những bí ẩn vĩnh cửu tôn giáo này. Một trong những bài thánh ca trong Rigveda suy đoán về những sức mạnh vũ trụ khác nhau vốn có thể đã tạo ra vũ trụ. Nó kết thúc bằng một đoạn hoài nghi phức tạp nhất, bắt đầu: “Nhưng, dù sao đi nữa, ai biết, và ai có thể nói từ đâu tất cả đã đến, và sự sáng tạo đã xảy ra thế nào?”.
[32] [Sheldon Pollock, ‘Axialism and Empire’, in Axial Civilizations and World History, ed. Johann P. Arnason, S. N. Eisenstadt and Björn Wittrock (Leiden: Brill, 2005), 397–451.]
[33] [Harold M. Tanner, China: A History (Indianapolis: Hackett Pub. Co., 2009), 34.]
[34] Patrician và Plebeian (Latin: patricius/plēbēius), chỉ một nhóm những gia đình thuộc tầng lớp cầm quyền cai trị, và thường dân ở Rome thời cổ.
[35] Gypsy
[36] outcast
[37] Untouchables hay Dalit (từ Hindi gốc Sanskrit “dalita” ‘bị áp bức.’) là tên gọi chỉ a group of people traditionally regarded as untouchable. Dalits are a mixed population, consisting of numerous social groups from all over India; they speak a variety of languages and practice a multitude of religions. Có nhiều tên gọi khác nhau để chỉ những người này, gồm Panchamas (Varna thứ năm) và Asprushya (untouchables). Bị xem là nhơ bẩn, ô uế và có thể làm người tiếp xúc cũng bị nhơ bẩn ô uế theo, nên họ bị loại trừ và cô lập; sinh hoạt tách biệt với phần còn lại của xã hội India. Họ thường làm những nghề bị xem là hèn hạ như đồ tể, thợ thuộc da, quét dọn rác, và đỡ đẻ.
[38] [Ramesh Chandra, Identity and Genesis of Caste System in India (Delhi: Kalpaz Publications, 2005); Michael Bamshad et al., ‘Genetic Evidence on the Origins of Indian Caste Population’, Genome Research 11 (2001): 904–1,004; Susan Bayly, Caste, Society and Politics in India from the Eighteenth Century to the Modern Age (Cambridge: Cambridge University Press, 1999).]
[39] Trường hợp Việt Nam, những thực dân France đưa những “cu-li” (một thứ nô lệ) sang Tân Đảo (New Caledonie) vì gần hơn; nhưng khi không có yếu tố kinh tế quyết định, họ đưa tù nhân Việt sang Madagascar, Đông Africa hay Guyane, Nam America, dù xa hơn.
[40] Lời nguyền của Ham (còn gọi là lời nguyền của Canaan) là từ Noah, cha của Ham, đã nguyền rủa Canaan là con trai út Ham, sau khi Ham “thấy sự trần truồng của cha mình”, lúc Noah đang say rượu nằm trong lều của Noah. Câu chuyện này kể lại trong Genesis 9: 20-27.
“Lời nguyền của Ham” đã được một số tín đồ của những tôn giáo Abraham (Juda, Kitô, Islam) dùng để biện minh cho sự kỳ thị chủng tộc và sự nô lệ những người gốc Africa, những người, theo tin tưởng của tín đồ những tôn giáo này, là hậu duệ của Ham. Những người Africa thường được gọi là Hamites và được cho là có dòng dõi từ Canaan hay người England của Canaan. Lý thuyết kỳ thị chủng tộc này đã được phổ biến ộng rãi trong thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX.
Thực ra Ham không trực tiếp bị cha nguyền rủa cho hành động của mình; nhưng lời nguyền giáng xuống con trai út Canaan của Ham. Lời nguyền dường như quá nghiêm trọng đến bất thường nếu chỉ với sự “trông thấy” Noah nằm say sưa trần truồng. Đã có một giải thích khác, xem dường hữu lý hơn, cho rằng cụm từ “phơi bày sự trần truồng của cha mình” vốn đã được dùng nhiều lần ở những nơi khác trong sách Thánh, cho thấy đây là một uyển ngữ để chỉ quan hệ tình dục với người mẹ, như thế Ham đã phạm một tội ác khác, nên mới bị cha nguyền rủa nặng nề như trên, tội ác đó có thể thấy trong những đoạn sách Thánh sau: “Nếu một người đàn ông có quan hệ tình dục với vợ của cha mình, hắn đã phơi bày sự trần truồng của cha mình” (Leviticus 20:11). “Ngươi không được phơi bày sự trần truồng của cha ngươi bằng cách có quan hệ tình dục với mẹ của ngươi. Bà là mẹ của ngươi; ngươi phải không có giao hợp với bà ấy. Ngươi phải không có giao hợp với vợ của cha ngươi; bà là sự trần truồng của cha ngươi”(Leviticus 18: 7-8). (Những bản dịch tiếng Việt có thể có dụng ý che dấu những hiện tượng loạn luân, say sưa phi đạo đức vốn rất thông thường trong những nhân vật sách Thánh, nên đã dịch cho khác đi, tôi dịch như trên theo những bản tiếng England, (If a man has sexual intercourse with his father’s wife, he has exposed his father’s nakedness (Leviticus 20:11). You must not expose your father’s nakedness by having sexual intercourse with your mother. She is your mother; you must not have intercourse with her. 8 You must not have sexual intercourse with your father’s wife; she is your father’s nakedness (Leviticus 18:7-8).)
[41] Jim Crown laws: Những luật tiểu bang và địa phương có nội dung phân biệt chủng tộc được ban hành sau giai đoạn Tái thiết ở miền Nam USA, vẫn tiếp tục có hiệu lực đến năm 1965. Những luật này công nhận sự phân biệt dựa trên chủng tộc là hợp pháp trong tất cả những phương tiện, tiện nghi, cơ sở công cộng trong những tiểu bang miền nam USA, đều trong Liên Minh miền Nam (Confederacy) trước đây. Bắt đầu năm 1890 với một tư cách pháp lý “riêng rẽ nhưng bình đẳng” cho những người US gốc Africa (a “separate but equal” status for African Americans).
(Jim Crow: Tên một nhân vật da đen trong một bài hát phổ thông ở những đồn điền nô lệ da đen, thế kỷ 19). Từ ngữ trở thành một tên gọi xỉ nhục những người da đen và một tên gọi đánh dấu đời sống phân li của họ với cộng đồng da trắng).
[42] Confederate States of America: 11 tiểu bang miền nam USA đã tách ra khỏi Hiệp chủng quốc Mỹ trong năm 1860-61, khi Abraham Lincoln được bầu làm Tổng thống (Nov1860) trong thời Chiến Tranh Nội chiến USA.
[43] Sau ghi thử cố gắng ghi tên theo học tại trường toàn-trắng Đại học Mississippi, Alabama, năm 1958, trong tiểu bang South Carolina; Clennon King đã bị bắt và tống vào bệnh viện Whitfield State Mental Hospital để thẩm định liệu có bị bệnh tâm thần không.
[44] Oracle bone – xương để tiên tri: dùng để thực hành một hình thức đoán trước những gì chưa xảy ra, hay bói toán, gọi là Xem-Xương-Cháy (Pyro-osteomancy), thực hành này được biết đến từ di tích thời tiền sử ở Đông và Đông Bắc Asia, và từ những báo cáo về dân tộc học Asia-Âu và Bắc America. Trong một số xã hội, xương được đem đốt nóng, và những thày mo hay thày tu sẽ dùng kết quả của sự đốt xương thú này, vào việc đoán tương lai. Phương pháp này gồm cách sử dụng xương của một con thú mới làm thịt. Ở nhiều vùng của nước Tàu trong triều đại Shang (nhà Thương ), họ dùng xương bả vai của một con trâu lớn (scapulomancy). Trước đó, ngoài vỏ rùa (giáp), họ cũng dùng xương cừu, bò, hươu nai, và lợn. Họ khoan một loạt những lỗ vào xương, hoặc là yếm rùa, hoặc là xương bả vai trâu.
Khi dùng xương để bói toán, một thầy bói làm hai câu nói, một tích cực và một tiêu cực (âm/dương; thường được thể hiện như một đôi, gồm hai kết quả có thể xảy ra). Mỗi xương bói toán, cũng có hai nửa, một tích cực và một tiêu cực, và mỗi nửa đều có những lỗ dùi sẵn. Chủ yếu là xương bả vai trâu và mai hoặc yếm rùa, sau khi được làm cho nóng (chẳng hạn như có một thanh kim loại nóng luồn qua xương), xương sẽ nứt vỡ. Nhà vua hay phú ta của ông, hay thày bói phụ trách buổi lễ, sẽ “đọc” những vết nứt để đoán, tìm hiểu trả lời cho một câu hỏi đã viết vào xương. Không ai biết chính xác những vết nứt này thực sự đã được giải thích như thế nào. Sau đó, những gì biết được qua sự đoán định này là những kết quả cũng được khắc vào xương, để giữ lại.
Người tiên tri/bói toán nhìn cả hai: thấy một vết nứt hay thiếu một vết nứt để nghiệm chừng sức mạnh tương đối của trả lời này với trả lời khác, hoặc để cân bằng sức nặng giữa bất kỳ hai hoặc nhiều câu hỏi khác nhau. Thường thì những nghi lễ này sẽ được cử hành để đoán trước tương lai. Khi những câu hỏi và trả lời đã trở thành công thức và chúng được ghi vào sách và chú thích, điều trở nên thuận tiện là để loại bỏ những xương có khuynh hướng nứt theo cách không thể chấp nhận, và chỉ nhận những xương nào đã có kích thước và độ dày với số đúng của những vết nứt ở những chỗ đúng. Do kích thước giới hạn của xương thú xử dụng, thành ra nó có thể được có được những hình vẽ 6 vạch (hexagrams) – nhưng không 7 hoặc 8 vạch – mặc dù sự kiện là trong sáu vạch liên tiếp, bất kỳ vạch nào trong số đó có thể là nguyên vẹn hoặc bị nứt, cộng lên đến 64, đó là con số khả dĩ thuận lợi nhất cho công việc làm này. (Sáu vạch liền hay dứt thành một quẻ, và có chỉ ó thể có 64 kết hợp của những 6-vạch, liền và đứt, (26 ) nên có lẽ phát triển thành 64 quẻ, sau này trong kinh Dịch).
Qua bói toán như vậy, người Shang hy vọng khám phá nguyên nhân của những sự kiện, ý định của tổ tiên và của gót cao nhất của họ, và những đường lối hành động phải thực hiện, khi phải đối mặt với những quyết định khó khăn. những sử gia cũng xem những vết trầy xước khắc trên mặt những xương thú dùng trong bói toán đời Shang, như tiền thân của chữ viết của người Tàu, Họ gọi chúng là 甲骨文 (Giáp cốt văn=mai rùa: giáp, và xương trâu: cốt).
[45] [Houston, First Writing, 196.]
[46] Kinh Thánh nôm na 1930’s: ‘Nếu một người nam gặp một con gái trẻ đồng trinh, chưa hứa gả, bắt nàng nằm cùng, mà người ta gặp tại trận, thì người nam đã nằm cùng con gái trẻ đó phải nạp cho cha màng năm mươi siếc-lơ bạc, rồi nàng sẽ làm vợ người, bởi vì người có làm nhục nàng. Người còn sống ngày nào, thì chẳng được phép đuổi nàng đi.’ Đây có lẽ là cách ‘lấy’ vợ nhanh gọn nhất dù có tốn kém ‘năm mươi siếc-lơ bạc’!
[47] [The secretary general, United Nations, Report of the Secretary General on the In-depth Study on All Forms of Violence Against Women, delivered to the General Assembly, UN Doc. A/16/122/Add.1 (6 July 2006), 89.]
[48] photosynthesize
[49] theology: gót học – (từ gốc Greek: theos ‘gót’ + logia (môn học)) .
[50] Xã hội chúng ta xếp chung phụ nữ và trẻ con (nhi nữ)
[51] [Sue Blundell, Women in Ancient Greece (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1995). 113–2.9.131–3.]
[52] alpha female
[53] bishop, archbishop
[54] nước như England, có thể có vua bà (queen), Thái, Korea, Germany, ... có thể có nữ thủ tướng; nhưng vua chiên (pope) phải là một người đàn ông (con trùm đực của hội nhà thờ Catô)
[55] Chimpanzee loài mặt đen và lông đen, sống trong rừng già vùng nhiệt đới của Congo, cũng gọi là pygmy chimpanzee. [Genus Pan, family Pongidae: the common chimpanzee (P. troglodytes) and the bonobo (P. paniscus)]