Sapiens: A Brief History
of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn
gọn của loài Người
6
Xây những
tổ chức xã hội theo hình Pyramid
Cách mạng Nông nghiệp là một trong những biến
cố gây bất đồng ý kiến gay gắt nhất trong lịch sử. Một số người thuộc phái ủng
hộ mạnh mẽ tuyên bố rằng nó đã đặt loài người trên con đường dẫn tới sự thịnh
vượng và tiến bộ. Những người khác nhấn mạnh rằng nó dẫn đến đoạ đày trầm luân.
Đây là bước ngoặt, họ nói, nơi Sapiens
dứt bỏ sự cộng sinh mật thiết của nó với thiên nhiên và chạy hết tốc lực về
phía tham lam ích kỷ và sự tha hóa. Dù con đường dẫn về hướng nào đi nữa, đã không
có quay trở lại. Trồng tỉa và chăn nuôi đem cho khả năng để những khối dân số
tăng lên quá triệt để và nhanh chóng khiến không một xã hội canh nông phức tạp
nào nếu quay lại với săn bắn hái lượm còn có thể tiếp tục duy trì chính nó được
lâu dài như cũ. Khoảng 10.000 TCN, trước khi chuyển sang canh nông, quả đất là
nhà ở của khoảng 5 đến 8 triệu người kiếm ăn du mục. Bước sang thế kỷ thứ nhất,
chỉ có 1-2 triệu người vẫn kiếm ăn hái lượm (chủ yếu tại Australia, America và Africa),
nhưng con số của họ đã là rất thấp, không đáng kể so với 250 triệu những nhà
nông của thế giới. [1]
Phần lớn nông dân sống trong những khu định
cư vĩnh viễn; chỉ một số ít là những chăn nuôi sống nay đó mai đây trên những đồng
cỏ [2].
Thiết lập một địa bàn thường trực để cư trú lâu dài là nguyên nhân khiến địa vực
của hầu hết mọi người thu nhỏ đi nhiều, bị co lại đáng kể. Những người săn bắn
hái lượm thời cổ thường sống trong những vùng đất trải rộng hàng chục, hay ngay
cả hàng trăm cây số vuông. “Nhà ở” là tất cả vùng đất lớn, với đồi, suối, rừng
cây và bầu trời mở rộng của nó. Những người canh tác, mặt khác, đã dành hầu hết
những ngày của họ, quần quật ở một cánh đồng hoặc vườn cây ăn quả nhỏ, và cuộc
sống gia đình của họ tập trung vào một cấu trúc chật chội bằng gỗ, đá, bùn khô,
đo không quá vài chục mét – ngôi nhà ở. Người nông dân điển hình đã phát triển
một gắn bó rất mạnh mẽ với cấu trúc này. Đây đã là một cuộc cách mạng sâu rộng,
có tác động tâm lý cũng nhiều như kiến trúc. Từ nay trở đi, gắn bó với “nhà của
tôi”, và phân tách với những người hàng xóm, đã trở thành một dấu hiệu đặc biệt
để phân biệt về tâm lý cho một sinh vật tự lấy mình làm trung tâm nhiều hơn nữa.
Những vùng đất canh nông mới không chỉ nhỏ
hơn rất nhiều so với của những người chuyên săn bắn hái lượm kiếm ăn sơ khai,
nhưng cũng rất nhân tạo nhiều hơn. Bên cạnh việc dùng lửa, những người săn bắn
hái lượm đã chủ ý gây chỉ vài thay đổi vào những vùng đất mà họ ngang qua. Những
người trồng trọt chăn nuôi, mặt khác, đã sống trong những hòn đảo con người
nhân tạo vốn họ đã khó nhọc làm việc để dựng từ những hoang dã xung quanh. Họ đốn
rừng, đào kinh, phát nương, xây dựng nhà, cày đất thành luống, và trồng cây ăn
quả theo hàng ngăn nắp. Môi trường sống nhân tạo thành quả đã có nghĩa chỉ dành
cho con người và động thực vật ‘của họ’, và thường được những bức tường và hàng
dậu rào chắn. Những gia đình trồng trọt chăn nuôi đã làm tất cả những gì có thể
làm được để ngăn chặn cỏ dại bướng bỉnh và những thú hoang. Nếu có những xâm phạm
như vậy tìm lối vào được, chúng đều bị đánh đuổi ra. Nếu chúng nhất định vẫn tiếp
tục, những đối kháng con người của chúng tìm mọi cách để tiêu diệt chúng. Những
phòng thủ đặc biệt mạnh mẽ được dựng lên xung quanh nhà ở. Từ buổi bình minh của
canh nông cho đến tận ngày hôm nay, hàng tỉ con người được trang bị với những gậy
chĩa, bẫy vợt đập, giày ủng và những dụng cụ xịt thuốc độc đã tiến hành chiến
tranh không ngừng chống lại những con kiến cần cù, gián vụng trộm, nhện mạo hiểm,
và những con sâu bọ lạc lối, nhầm đường vốn liên tục xâm nhập vào nơi cư trú của
con người.
Suốt trong hầu hết lịch sử những ốc đảo nhân
tạo này vẫn là rất nhỏ, bao quanh bởi những vùng mêmh mông của thiên nhiên còn
bỏ hoang, chưa khai phá . Diện tích bề mặt quả đất khoảng 510 triệu km vuông,
trong đó 155 triệu là đất. Trễ cho đến tận năm 1400 TCN, đa số rất lớn nông
dân, cùng với những cây trồng và động vật của họ, chúm tụm vào nhau trong một
khu vực chỉ khoảng 11 triệu km vuông – 2 phần trăm của bề mặt quả đất [3].
Khắp mọi nơi khác là hoặc quá lạnh, quá nóng, quá khô, quá ẩm ướt, hoặc không
thích hợp cho canh tác. Chính 2 phần trăm rất nhỏ này của bề mặt quả đất tạo dựng
những giai đoạn mà lịch sử diễn ra.
Người ta thấy là điều khó khăn để rời khỏi những
ốc đảo nhân tạo của họ. Họ không thể từ bỏ nhà cửa, cánh đồng lúa, và kho thóc
của họ mà không có nguy cơ mất mát nghiêm trọng. Thêm nữa, với thời gian trôi
đi, họ tích lũy ngày càng nhiều đồ vật – những đối tượng, không dễ dàng di chuyển,
vốn trói họ xuống. Những người trồng trọt chăn nuôi thời cổ, xem dường rất
nghèo với chúng ta, nhưng một gia đình điển hình sở hữu những vật dụng tạo tác còn
nhiều hơn cả một bộ lạc săn bắn hái lượm kiếm ăn.
Sự Ra
đời của Thời Tương lai
Trong khi canh tác thu hẹp không gian, canh tác
đã mở rộng thời gian. Những người săn bắn hái lượm kiếm ăn thường không phí nhiều
thời giờ để suy nghĩ về tuần tới, hay tháng tới. Những người trồng trọt chăn
nuôi dong buồm con thuyền tưởng tượng của họ lướt đi tới trước, hàng năm và chục
năm vào tương lai.
Những người săn bắn hái lượm coi nhẹ tương
lai vì họ sống rất thiếu thốn, và chỉ có thể khó khăn để dành thực phẩm hay
tích lũy của cải. Tất nhiên, rõ ràng họ đã tham dự vào một vài chương trình có
dụng ý hướng về tương lai. Những người sáng tạo những hình vẽ trên tường ở những
hang Chauvet, Lascaux và Altamira, gần như chắc chắn có ý định chúng sẽ tồn tại
lâu dài qua nhiều thế hệ sau. Những liên minh xã hội và những tranh dành chính
trị là những công chuyện có tính lâu dài. Thường mất nhiều năm để đền đáp một ơn
huệ, hoặc để báo trả một thù oán. Tuy nhiên, trong nền kinh tế tự cung tự cấp của
xã hội săn bắn và hái lượm, rõ ràng có một giới hạn để lập kế hoạch lâu dài như
vậy. Trớ trêu, nó giúp những người săn bắn hái lượm thoát khỏi được rất nhiều những
lo âu. Không có lý gì để lo lắng về những sự vật việc vốn chúng không thể ảnh
hưởng.
Cách mạng Nông nghiệp đã làm cho thời tương
lai thành quan trọng hơn nhiều so với đã từng là trước đây. Những người làm nghề
canh tác chăn nuôi phải luôn luôn giữ tương lai trong đầu óc họ, và phải làm việc
trong sự cung ứng của nó. Nền kinh tế canh nông đã dựa trên một chu kỳ theo vụ
mùa của trồng trọt, gồm những tháng dài canh tác, theo sau những thời kỳ ngắn bận
rộn của gặt hái. Đêm ngày hôm sau, kết thúc một vụ mùa có thu hoạch dồi dào, những
nông dân có thể ăn mừng cho tất cả những gì chúng đã đáng bõ công, nhưng trong
vòng một tuần hoặc khoảng thế, họ lại như cũ, thức dậy trước bình minh cho một
ngày dài trong đồng lúa, trang trại. Dẫu đã có đủ thức ăn cho ngày hôm nay, cho
tuần tới, và ngay cả cho tháng tới, họ vẫn phải lo lắng về năm tới, và những
năm sau năm tới.
Sự lo lắng về tương lai đã có gốc rễ không
chỉ trong những chu kỳ vụ mùa của trồng trọt, nhưng cũng còn trong tính không
chắc chắn nền tảng của nông nghiệp. Vì hầu hết những làng sống bằng trồng một
khác loại rất hạn hẹp về những giống thực vật và động vật được thuần hóa, họ đã
dễ dàng là nạn nhân không có gì tự vệ của hạn hán, lũ lụt và dịch hạch. Nông
dân đã bị buộc phải sản xuất nhiều hơn họ đã tiêu thụ để họ có thể xây dựng những
kho dự trữ. Nếu không có lúa trong những silo
[4],
những hũ dầu ô liu trong hầm nhà, pho mát trong phòng đựng thức ăn, và xúc xích
treo trên xà nhà bếp, họ sẽ chết đói trong những năm mất mùa. Và những năm mất
mùa như đã bị buộc sẽ đến, chỉ sớm hay muộn. Một nông dân sống với giả định rằng
những năm mất mùa sẽ không xảy đến, ắt đã không sống lâu.
Hệ quả là, từ chính sự ra đời của canh nông,
những lo lắng về tương lai đã trở nên những vai trò lớn trong sân khấu của não
thức con người. Nơi nào những nông dân tuỳ thuộc vào nước mưa để tưới những
cánh đồng của họ, sự khởi đầu của mùa mưa có nghĩa rằng mỗi sáng sớm, những
nông dân đã đăm đăm trông ngóng về chân trời, ngửi ngửi mùi gió, và căng mắt của
họ để nhìn. Có phải đó là một đám mây? Những cơn mưa có đến kịp thời không? Rồi
sẽ có đủ nước không đây? Có phải cơn bão dữ dội đã quét sạch những hạt giống trên
cánh đồng, và đập gãy những cây mới nhú mầm? Trong khi đó, ở những thung lũng của
sông Euphrates, Indus và Huang He [5],
những nông dân khác theo dõi, với không kém hoảng hốt, mực nước của giòng sông.
Họ cần những giòng sông dâng nước cao lên để tràn lan toả rộng những lớp đất phù
sa màu mỡ từ cao nguyên trôi xuống, và khiến cho nước vào đầy những hệ thống thủy
lợi lớn của họ. Nhưng những trận lụt nếu nước dâng lên quá cao, hay xảy ra sai
thời điểm, có thể phá hủy những cánh đồng của họ cũng gây tai hại nhiều như một
hạn hán.
Những nông dân đã lo lắng về tương lai không
chỉ vì họ có thêm nhiều lý do hơn để lo lắng, nhưng cũng vì họ có thể làm một
gì đó về điều đó. Họ có thể khai mở một cánh đồng khác, đào một con kênh khác để
dẫn nước, gieo hạt trồng nhiều cây hơn. Người nông dân lo lắng như cuồng dại và
cật lực khó nhọc, như một con kiến thu gặt vào mùa hè, đổ mồ hôi để trồng những
cây ô liu sẽ được con cháu của họ ép lấy dầu, nhịn ăn để dành đến mùa đông, hoặc
đến năm tới, nên hôm nay không ăn những thực phẩm đang thèm.
Sự căng thẳng của đời sống trồng trọt và
chăn nuôi đã có những hậu quả sâu rộng. Nó là nền tảng của những hệ thống chính
trị và xã hội với quy mô lớn. Đáng buồn, những nhà nông siêng năng hầu như
không bao giờ đạt được sự bảo đảm kinh tế trong tương lai, vốn họ rất khao khát
qua sự làm lụng vất vả của họ trong thời nay. Ở khắp nơi, những người cai trị
và những thiểu số chọn lọc ưu đãi đã mọc lên, sống nhờ vào thức ăn thặng dư của
những nông dân, và để lại cho họ chỉ một sinh hoạt vừa đủ mức cung cầu vật chất.
Những thặng dư thực phẩm thu nộp đã cung cấp
nguyên liệu cho chính trị, chiến tranh, nghệ thuật và triết học. Chúng đã xây những
cung điện, những pháo đài, những công trình kiến trúc tưởng niệm, và những đền
thờ. Cho đến thời kỳ thời nay vừa qua, hơn 90 phần trăm loài người là những người
canh tác chăn nuôi, là người mỗi buổi sáng sớm thức dậy để cày ruộng tưới đất bằng
mồ hôi nhọc nhằn của họ. Những thặng dư họ sản xuất đã nuôi ăn những nhóm nhỏ gồm
rất ít người, của giới chọn lọc xã hội được ưu đãi – những vua chúa, những quan
chức chính phủ, những binh sĩ, những nhà chăn chiên, những nghệ sĩ và những nhà
tư tưởng – người viết đầy những sách lịch sử. Lịch sử là một gì đó vốn rất ít
người đã từng và đang làm, trong khi những người khác vẫn cày trên những cánh đồng,
và gánh những thùng đầy nước.
Trật tự
Tưởng tượng
Những thặng dư thực phẩm do những nông dân sản
xuất, đã kết đôi với kỹ thuật giao thông mới, cuối cùng đem cho khả năng có
ngày càng nhiều người dồn đông vào nhau thành những làng lớn đầu tiên, sau đó
những thị trấn, và cuối cùng những thành phố, tất cả chúng đã kết nối với nhau bằng
những vương quốc và những mạng lưới thương mại mới.
Thế nhưng, để tận dụng lợi thế của những cơ
hội thuận lợi mới này, thặng dư lương thực và cải thiện giao thông đã là không
đủ. Thực tế đơn giản rằng người ta có thể nuôi một ngàn người dân trong cùng một
thị trấn, hay một triệu người dân trong trong cùng một vương quốc không bảo đảm
rằng họ có thể đồng ý về sự phân chia đất trồng và nước tưới thế nào, giải quyết
những tranh chấp và xung đột thế nào, và hành động thế nào trong thời có hạn
hán hay chiến tranh. Và nếu không thoả thuận được, xung đột lan rộng, ngay cả nếu
có những kho thực phẩm đang đầy ứ. Không phải tình trạng thiếu thực phẩm đã gây
ra hầu hết những cuộc chiến tranh và cách mạng trong lịch sử. Cách mạng France
đã được những luật gia giàu có dẫn đầu [6],
không phải những nông dân chết đói. Cộng hòa Rome đạt đến đỉnh cao của quyền lực
của nó trong thế kỷ thứ nhất TCN, khi những đoàn thuyền vận tải được hộ tống từ
khắp vùng biển Mediterranean đã làm giàu những người Rome vượt mức những ước mơ
ngông cuồng nhất của tổ tiên họ. Tuy nhiên, chính tại thời điểm của sự sung túc
tối đa đó mà trật tự chính trị Rome đã sụp đổ vào thành một loạt những nội chiến
tàn khốc. Yugoslavia năm 1991 đã có hơn đủ nguồn lực để nuôi sống tất cả dân cư
của nó, nhưng vẫn còn bị phân huỷ vào trong một cuộc tắm máu khủng khiếp.
Vấn đề ở gốc của những tai ương thuộc loại
như vậy là con người đã tiến hóa trong hàng triệu năm trong những bầy đoàn nhỏ
của một vài tá gồm những cá nhân. Một số ít những nghìn năm phân cách Cách mạng
Nông nghiệp với sự xuất hiện của những thành phố, những vương quốc và những đế
quốc đã không cho phép một bản năng về hợp tác với khối đông đảo quần chúng đủ
thời gian để tiến hóa.
Dẫu thiếu bản năng sinh học như vậy, trong
thời kỳ săn bắn hái lượm tìm kiếm thức ăn, hàng trăm những người lạ đã có thể hợp
tác nhờ vào những huyền thoại chung của họ. Tuy nhiên, sự hợp tác này thì lỏng
lẻo và giới hạn. Mỗi bầy đoàn Sapiens
tiếp tục tiến hành cuộc sống của nó một cách độc lập, và cung cấp cho hầu hết
những nhu cầu của nó. Một nhà xã hội học thời cổ, sống 20.000 năm trước đây,
người không có kiến thức về những sự kiện đến sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp,
cũng đã có thể kết luận rằng huyền thoại đã có một phạm vi khá giới hạn. Những
câu chuyện về những thần linh tổ tiên và những tôtem bộ lạc đã đủ mạnh để cho
500 người có được khả năng đổi chác những vỏ sò, ăn mừng những lễ hội kỳ quặc,
và nhập chung sức mạnh để xoá sạch một bầy đoàn Neanderthal, nhưng không nhiều
hơn thế. Thần thoại, những nhà xã hội học thời cổ đã có thể nghĩ, không thể nào
đem lại khả năng để hàng triệu người lạ mặt có thể hợp tác với nhau trong công
việc thường làm hằng ngày.
Nhưng điều đó quay ra là sai. Thần thoại, nó
đã xảy ra là mạnh hơn bất cứ ai đã có
thể tưởng tượng được. Khi Cách mạng Nông nghiệp mở ra những cơ hội cho việc tạo
ra những thành phố đông đúc, và những đế quốc hùng mạnh, người ta đã sáng chế
ra những câu chuyện về những gót vĩ đại, những tổ quốc, và những công ty liên hợp
cổ phần để cung cấp những nối kết xã hội cần thiết. Trong khi tiến hóa của con
người đã đang ở tốc độ sên bò thông thường của nó, trí tưởng tượng của con người
đã dựng những mạng lưới quan hệ hợp tác với khối đông quần chúng đáng kinh ngạc,
không giống như bất kỳ nào khác từng thấy trên quả đất.
Khoảng 8500 TCN, những khu định cư lớn nhất
thế giới đã là những làng loại giống như Jericho, trong đó có một vài trăm cá
nhân. Đến 7000 TCN, thị trấn Çatalhöyük ở Anatolia có số dân đông từ 5.000 đến
10.000 người. Nó cũng có thể đã khu định cư lớn nhất thế giới vào thời điểm đó.
Trong nghìn năm thứ năm và thứ tư TCN, những thành phố với hàng chục ngàn cư
dân mọc lên trong vùng Lưỡi liềm Trù mật
(châu thổ sông Tigris. Euphrates, và Nile) [7],
và mỗi thành phố này đã kiểm soát hay gây ảnh hưởng trên nhiều những làng lân cận.
Trong năm 3100 TCN toàn bộ vùng hạ lưu thung lung sông Nile đã được thống nhất
thành vương quốc Egypt đầu tiên. Vị pharaoh của nó cai trị hàng ngàn cây số
vuông và hàng trăm ngàn người. Khoảng năm 2250 TCN, Sargon Đại đế đã rèn nặn
nên đế quốc đầu tiên, Đế quốc Akkadian. Nó khoe khoang có hơn một triệu thần
dân, và một đội quân thường trực gồm 5.400 binh sĩ. Giữa năm 1000 TCN và 500
TCN, mega-đế quốc đầu tiên xuất hiện ở Trung Đông: đế quốc Late Assyria, đế quốc
Babylon, và đế quốc Persia. Những đế quốc này cai trị nhiều triệu thần dân, và
chỉ huy hàng chục nghìn binh sĩ.
Trong năm 221 TCN, nhà Qin (Tần) thống nhất nước
Tàu, và không lâu sau đó, Rome hợp nhất lưu vực những vùng hạ lưu sông quanh biển
Mediterranean. Thuế đánh trên 40 triệu thần dân của nhà Qin, đã chi tiêu cho một
đội quân thường trực gồm hàng trăm ngàn binh sĩ, và một bộ máy hành chính phức
tạp dùng hơn 100.000 quan lại. Đế quốc Rome, ở đỉnh cao của nó, thu thuế đến
100 triệu thần dân. Khoản thu này đã tài trợ một đội quân thường trực gồm khoảng
250,000 đến 500,000 lính, một mạng lưới đường bộ vẫn còn dùng 1.500 năm sau đó,
và những rạp hát và những nhà hát lộ thiên chứa hàng chục nghìn người xem, vốn vẫn
tổ chức những buổi trình diễn cho đến tận ngày nay.
Đáng ngưỡng phục, không ngờ gì, nhưng chúng
ta phải đừng nuôi dưỡng những ảo tưởng tô hồng về “những mạng lưới quan hệ hợp
tác” tại Egypt thời những Pharaon, hay đế quốc Rome. ‘Hợp tác’ đọc lên nghe rất
vị tha, nhưng không phải lúc nào cũng tự nguyện, và hiếm khi bình đẳng. Hầu hết
những mạng lưới quan hệ hợp tác của con người đều đã từng bị lái về hướng của
áp bức và bóc lột. Những nhà nông đã trả cho những mạng lưới quan hệ hợp tác
đâm chồi phát triển với những thặng dư thực phẩm quý giá của họ, tuyệt vọng khi
người thu thuế đã xóa trọn một năm khổ nhọc làm lụng với chỉ một nét chữ từ cây
bút uy quyền đế quốc của ông ta. Những nhà hát lộ thiên, có hàng chục ngàn chỗ
ngồi xây vòng cung, nổi tiếng của Rome, đã thường do những người nô lệ xây dựng,
để những người Rome giàu có và nhàn rỗi có thể xem những nô lệ khác khốc hại trong
những trận đấu ác độc giữa người và thú dữ. Ngay cả những nhà tù và những trại
tập trung đều là những hệ thống mạng lưới quan hệ hợp tác, và chỉ có thể hoạt động
vì hàng ngàn những người xa lạ, một cách nào đó đã xoay sở thành công để phối hợp
những hành động của họ.
Tất cả những mạng lưới quan hệ hợp tác này –
từ những thành phố của Vùng Mesopotania [8]
thời cổ, đến nhà Qin nước Tàu, và đế quốc Rome – đều là ‘những xếp đặt trật tự được
tưởng tượng’. Những qui củ xã hội vốn giữ cho chúng bền vững, đều không dựa
trên những bản năng đã khắc sâu, cũng không trên những quen biết cá nhân, nhưng
đúng hơn trên tin tưởng vào những huyền thoại có chung.
Những huyền thoại có thể duy trì toàn thể đế
quốc được như thế nào? Chúng ta đã thảo luận về một thí dụ như thế: Peugeot.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét hai trong những huyền thoại nổi tiếng nhất của lịch
sử: Bộ luật của Hammurabi, khoảng1776 TCN, vốn phục vụ như một bản hướng dẫn về
hợp tác cho hàng trăm ngàn người Babylon thời cổ; và bản Tuyên ngôn Độc lập của
USA, năm 1776, mà ngày nay vẫn còn phục vụ như một bản hướng dẫn hợp tác cho
hàng trăm triệu người US thời nay.
Vào năm 1776 TCN, Babylon là thành phố lớn
nhất thế giới. Đế quốc Babylon có lẽ là đế quốc lớn nhất thế giới, với hơn một
triệu thần dân. Nó cai trị hầu hết Vùng Mesopotania, gồm phần lớn Iraq ngày
nay, và nhiều phần của Syria và Iran ngày nay. Vua Babylon còn nổi tiếng nhất đến
ngày nay là Hammurabi. Danh tiếng của ông chủ yếu là từ bản văn mang tên ông, bộ
Luật của Hammurabi. Đây là một bộ sưu tập của những luật lệ, và những quyết định
tư pháp mà mục đích của nó là để trình bày Hammurabi như một mô hình khuôn mẫu
của một vị vua công chính, làm cơ sở cho một hệ thống pháp lý đồng bộ hơn trên
khắp đế quốc Babylon, và dạy cho những thế hệ tương lai công lý là gì, và một vị
vua công chính hành động như thế nào.
Những thế hệ tương lai đã ghi nhận. Tầng lớp
thiểu số ưu tú gồm trí thức và quan lại của Vùng Mesopotania thời cổ đã tôn
vinh bản văn thành điển luật sùng kính, và những luật sĩ học việc tiếp tục sao
chép nó, lâu sau khi Hammurabi chết và đế quốc của ông đã xụp đổ. Do đó, điển luật
Hammurabi là một nguồn tốt để hiểu lý tưởng về trật tự xã hội của Vùng
Mesopotania thời cổ.[9]
Bản văn bắt đầu bằng nói rằng những gót Anu,
Enlil và Marduk – những gót hàng đầu của hệ thống thần linh được thờ cúng ở Vùng
Mesopotania – đã bổ nhiệm Hammurabi ‘để làm cho công lý thắng thế trên mặt đất,
để xoá bỏ kẻ ác và cái ác, để ngăn chặn sự đàn áp của kẻ mạnh với kẻ yếu’. [10]
Nó sau đó liệt kê khoảng 300 phán xét, đưa ra theo công thức ấn định: ‘Nếu xảy
ra một sự vật việc như vậy và như vậy, sự phán xét là như vậy’. Lấy thí dụ, những
phán xét 196-9 và 209-14, đọc như sau:
196. Nếu một người thuộc tầng
lớp cao quí làm mù mắt của một người thuộc tầng lớp cao quí khác, họ sẽ làm mù
mắt ông ta.
197. Nếu ông đánh gãy xương
của một người thuộc tầng lớp cao quí khác, họ sẽ đánh gãy xương của ông ta.
198. Nếu ông làm mù mắt của
một người bình dân, hay đánh gãy xương của một người bình dân, ông sẽ cân và
đem nộp 60 đồng shekel bạc. [11]
199. Nếu ông làm mù mắt một
nô lệ của một một người thuộc tầng lớp cao quí, hay làm gãy xương một nô lệ của
một người thuộc tầng lớp cao quí, ông sẽ cân và đem nộp một nửa giá trị của người
nô lệ (bằng đồng shekel bạc) [12]
209. Nếu một người thuộc tầng
lớp cao quí đánh một người phụ nữ thuộc tầng lớp cao quí và do đó khiến đương sự
bị sẩy thai, ông sẽ cân và đem nộp mười đồng shekel bạc cho thai nhi.
210. Nếu người phụ nữ đó bị
chết, họ sẽ giết con gái ông ta.
211. Nếu ông gây cho một người
phụ nữ của lớp thường dân bị sẩy thai, bằng đánh đập, ông sẽ cân và đem nộp năm
đồng shekel bằng bạc.
212. Nếu người phụ nữ mà chết,
ông sẽ cân và đem giao nộp ba mươi đồng shekel bạc.
213. Nếu ông đánh một phụ nữ
nô lệ của một người thuộc tầng lớp cao quí và do đó khiến cô bị sẩy thai, ông sẽ
cân và đem nộp hai chục đồng shekel bằng bạc.
214. Nếu mà nô lệ phụ nữ chết,
ông sẽ cân và nộp hai mươi đồng shekel bằng bạc.[13]
Sau khi liệt kê những phán xử của ông, một lần
nữa Hammurabi tuyên bố rằng:
Đây là những quyết định công bằng mà
Hammurabi, nhà vua tài ba, đã thiết lập và do đó đã chỉ đạo núi sông theo đường
đi của chân lý và đường lối chân chính của đời sống.... Ta là Hammurabi, vị vua
cao quý. Ta đã không phải là không lo lắng, hay chểnh mảng với loài người, đã
được gót Enlil ban cho ta sự chăm sóc, và gót Marduk đã giao cho ta sự chăn dắt.[14]
Điển luật Hammurabi khẳng định rằng trật tự
xã hội Babylon bắt nguồn từ những nguyên tắc phổ quát và vĩnh cửu của công lý, những
gót đã đọc thành mệnh lệnh. Nguyên tắc của hệ thống đẳng cấp [15]
vượt trên tất cả, là hết sức quan trọng. Theo như điển luật, người ta được chia
thành hai phái tính và ba tầng lớp: lớp cao quí, những thường dân và những nô lệ.
Thành viên của mỗi phái tính và tầng lớp có những giá trị khác nhau. Đời sống của
một người phụ nư bình dân đáng ba mươi shekel bạc, và của một phụ nữ nô lệ hai
mươi shekel bạc, trong khi mắt của một người phái nam bình thường đáng giá sáu
mươi shekel bạc.
Điển luật này cũng thiết lập một hệ thống đẳng
cấp chặt chẽ trong phạm vi gia đình, theo đó trẻ em không phải là người độc lập,
những đúng hơn là sở hữu của cha mẹ chúng. Do đó, nếu một người thuộc lớp cao quí
giết chết con gái của một người khác cũng thuộc lớp cao quí, sự trừng phạt là con
gái của kẻ giết người bị giết chết. Đối với chúng ta, điều có vẻ lạ lùng rằng kẻ
giết người vẫn không hề hấn gì trong khi con gái vô tội của người này bị giết,
nhưng với Hammurabi và người Babylon, điều này xem dường như hoàn toàn công
chính. Luật Hammurabi đã dựa trên tiền đề rằng nếu những thần dân của nhà vua tất
cả đều chấp nhận những vị trí của họ trong hệ thống đẳng cấp và đều hành động
phù hợp theo đó, hàng triệu dân cư của đế quốc sẽ có khả năng để hợp tác hiệu
quả. Khi đó xã hội của họ có thể sản xuất đủ lương thực cho những thành viên của
nó, phân phối nó một cách hiệu quả, tự bảo vệ nó chống lại những kẻ thù, và mở
rộng lãnh thổ của nó để có được thịnh vượng và an ninh tốt đẹp hơn.
Khoảng 3.500 năm sau cái chết của Hammurabi,
những cư dân của mười ba thuộc địa của England ở Bắc America cảm thấy rằng vua
England đã đối xử với họ một cách bất công. Những đại diện của họ tụ họp tại
thành phố Philadelphia, và ngày 04 tháng 7 năm 1776, những thuộc địa này đã tuyên
bố rằng dân chúng của họ thôi không còn là thần dân của vương triều England.
Tuyên ngôn Độc lập của họ đã tuyên bố nguyên tắc phổ quát và vĩnh cửu của công
lý, trong đó, giống như của Hammurabi, chúng được một sức mạnh thần thánh truyền
cho cảm hứng. Tuy nhiên, những nguyên tắc quan trọng nhất được gót ở USA đọc
thành mệnh lệnh đã phần nào khác biệt so với những nguyên tắc quyết định bởi những
gót ở thành Babylon. Tuyên ngôn Độc lập của USA khẳng định rằng:
‘Chúng tôi khẳng định những
sự thật này là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, rằng họ
được Tạo hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm nhất định, trong đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’.
Giống như luật Hammurabi, tài liệu thành lập
nước US hứa rằng nếu con người hành động theo những nguyên tắc thiêng liêng của
nó, hàng triệu con người đó sẽ có khả năng để hợp tác hiệu quả, sống một cách
an toàn và hoà bình, trong một xã hội công bằng và thịnh vượng. Giống như Bộ luật
Hammurabi, Tuyên ngôn Độc lập của USA là không chỉ là tài liệu của một thời đại
và địa phương ra đời của nó – nó đã được những thế hệ tương lai cũng đều chấp
nhận như thế. Trong hơn 200 năm qua, những trẻ em US đi học, đã sao chép nó và
học nó thuộc lòng.
Hai bản văn trình bày cho chúng ta một đilemma rõ ràng. Cả hai, bộ luật của
Hammurabi và Tuyên ngôn Độc lập của USA, đều tuyên bố phác thảo những nguyên tắc
phổ quát và vĩnh cửu của công lý, nhưng theo người US tất cả mọi người đều bình
đẳng, trong khi đó theo những người Babylon, con người đã được quyết định là không
bình đẳng. Dĩ nhiên, người US sẽ nói rằng họ là đúng, và rằng Hammurabi là sai.
Hammurabi, dĩ nhiên, sẽ đáp lại rằng ông là đúng, và rằng người US là sai.
Trong thực tế, cả hai đều sai. Hammurabi và những nhà lập quốc USA đều cùng giống
nhau đã tưởng tượng một thực tại được cai quản bởi những nguyên tắc phổ quát và
bất biến của công lý, chẳng hạn như sự bình đẳng hoặc hệ thống đẳng cấp xếp đặt
trật tự xã hội. Tuy nhiên, nơi duy nhất mà những nguyên tắc phổ quát như vậy hiện
hữu là trong sự tưởng tượng phong phú của Sapiens,
và trong những huyền thoại mà họ phát minh và kể cho nhau nghe. Những nguyên tắc
này không hợp lôgích khách quan.
Điều là dễ dàng cho chúng ta để chấp nhận rằng
sự phân chia loài người thành ‘những người cao quí, ở trên’ và ‘những thường dân’
là một điều bịa đặt của sự tưởng tượng. Tuy nhiên, ý tưởng rằng tất cả mọi người
đều bình đẳng cũng là một huyền thoại. Trong ý hướng nào phải chăng tất cả mọi
người, người này bằng người kia? Có bất kỳ một thực tại khách quan nào, ngoài sự
tưởng tượng của con người, trong đó chúng ta thật sự bình đẳng? Có phải tất cả
mọi người đều bìn đẳng với nhau về sinh học? Hãy để chúng ta cố gắng dịch những
dòng nổi tiếng nhất của Tuyên ngôn Độc lập của USA vào trong những thuật ngữ sinh
học:
‘Chúng tôi khẳng định những sự thật này là
hiển nhiên, rằng tất cả mọi người đều sinh
ra bình đẳng, rằng họ được Tạo
hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm
nhất định, trong đó có quyền sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.’
Theo khoa học sinh học, người ta không được “tạo
ra”. Họ đã tiến hóa. Và chắc chắn họ đã
không tiến hoá để được là ‘bình đẳng’. Ý tưởng về bình đẳng xoắn chặt không gỡ ra
được với ý tưởng về sự sáng tạo. Người US đã có ý tưởng về bình đẳng từ đạo
Kitô, trong đó lập luận rằng mỗi người đều có một hồn người được Gót tạo ra, và
rằng tất cả những hồn người đều bình đẳng trước Gót. Tuy nhiên, nếu chúng ta
không tin vào những huyền thoại Kitô về Gót, sự sáng tạo, và rằng hồn người thì
linh liêng vì được Gót ban cho, sau đó, tất cả mọi người đều ‘bình đẳng’ có
nghĩa là gì? Sự tiến hóa dựa trên sự khác biệt, không trên sự bình đẳng. Mỗi
người mang một code di truyền có khác
nhau phần nào, và đã được tiếp xúc và chịu ảnh hưởng từ lúc lọt lòng với những môi
trường khác biệt. Điều này dẫn đến sự phát triển của những phẩm chất khác nhau vốn
mang theo với chúng những cơ may của sự sống còn. Do đó, ‘sinh ra bình đẳng nên được dịch thành ‘đã tiến hóa khác nhau’.
Đúng như con người đã chưa bao giờ từng được
tạo ra, cũng thế theo khoa học về
sinh học, chẳng có một ‘đấng Tạo Hóa’ nào là người ‘ban cho’ họ với bất cứ điều
gì. Chỉ có một quá trình tiến hóa mù loà, hoàn toàn tự do, thiếu vắng bất kỳ một
mục đích nào, dẫn đến sự ra đời của những cá nhân. Do đó, “được Tạo hóa ban cho” nên được dịch chỉ giản dị là “sinh ra”.
Tương tự, không có những thứ như những quyền trong sinh học. Chỉ có những
cơ quan sinh lý, những khả năng và những đặc điểm di truyền [16].
Loài chim bay không phải vì chúng có một quyền để bay, nhưng vì chúng có cánh.
Và đó là không đúng sự thật rằng những cơ quan, những khả năng và những đặc điểm
là “bất khả xâm phạm”. Nhiều người trong số chúng trải qua những đột biến liên
tục, và có thể cũng hoàn toàn bị mất đi theo thời gian. Đà điểu là một loài
chim đã đánh mất khả năng bay. Vì vậy, “quyền bất khả xâm phạm” nên được dịch
sang ‘những đặc điểm di truyền có thể thay đổi’.
Và những đặc điểm vốn đã tiến hoá ở người là
gì? “Đời sống”, chắc chắn. Nhưng còn “tự do”? Không có những sự việc như vậy trong
sinh học. Cũng giống như bình đẳng, quyền và những công ty trách nhiệm hữu hạn,
tự do là một gì đó mà người ta đã phát minh, và chỉ là-có trong trí tưởng tượng
của họ. Từ một quan điểm sinh học, điều là vô nghĩa để nói rằng con người trong
xã hội dân chủ là tự do, trong khi con người trong chế độ độc tài là không có tự
do. Và thế còn “hạnh phúc” là gì? Cho đến nay những nhà nghiên cứu sinh học đã
thất bại trong việc đưa ra một định nghĩa rõ ràng về hạnh phúc, hay một cách để
đo lường nó một cách khách quan. Hầu hết những nghiên cứu về sinh học thừa nhận
chỉ có sự hiện hữu của niềm vui (hay lạc thú), vốn được xác định và đo lường dễ
dàng hơn. Vì vậy, “đời sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” nên được dịch
sang “đời sống và sự theo đuổi niềm vui”.
Như thế, đây là những dòng từ bản Tuyên ngôn
Độc lập của USA, dịch sang những thuật ngữ sinh học:
‘Chúng tôi khẳng định những
sự thật này là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người đều đã tiến hoá khác nhau, rằng họ được
sinh ra với những đặc điểm có thể
thay đổi nhất định, và rằng trong số này là sự sống và sự theo đuổi vui sướng’.
Những người ủng hộ quyền bình đẳng và những quyền
con người có thể rất phẫn nộ bởi dòng suy luận này. Phản ứng của họ nhiều phần
có thể là, “Chúng tôi biết rằng người ta không bình đẳng về sinh học! Nhưng nếu
chúng ta tin rằng chúng ta đều bình đẳng trong bản chất, nó sẽ cho phép chúng
ta để tạo ra một xã hội ổn định và thịnh vượng”. Tôi không tranh luận với điều
đó. Đây đích xác là những gì tôi muốn nói với ý nghĩa của ‘trật tự tưởng tượng’.
Chúng ta tin vào một trật tự đặc biệt không phải vì nó đúng khách quan, nhưng
vì sự tin tưởng vào nó cho phép chúng ta hợp tác hiệu quả, và rèn đúc một xã hội
tốt hơn. Những trật tự tưởng tượng không phải là những âm mưu xấu xa hay những ảo
ảnh vô dụng. Đúng hơn, chúng là cách duy nhất để một khối lượng lớn con người
có thể hợp tác hiệu quả. Dẫu vậy, đừng quên rằng Hammurabi đã có thể bênh vực
nguyên tắc về hệ thống phân đẳng cấp của ông, dùng cùng một lôgích: “Ta biết rằng
những quí phái, bình dân và nô lệ không phải là những loại dân chúng vốn khác
nhau về bản chất. Nhưng nếu chúng ta tin rằng họ là thế, điều đó sẽ đem cho
chngs ta khả năng để tạo ra một xã hội ổn định và thịnh vượng”.
Những
người Thực sự Tin tưởng
Điều nhiều phần có lẽ xảy ra là sẽ có hơn dăm
ba người đọc đã giãy đành đạch trên ghế ngồi của họ, đương khi đọc những đoạn
văn trước. Hầu hết chúng ta ngày nay được giáo dục để phản ứng theo một cách
như vậy. Chấp nhận rằng luật Hammurabi là một huyền thoại là việc dễ dàng,
nhưng chúng ta không muốn nghe rằng những quyền con người cũng là một huyền thoại.
Nếu mọi người nhận ra rằng những quyền con người, thường gọi là “nhân quyền”, chỉ hiện hữu trong trí tưởng
tượng, không phải là có một nguy hiểm rằng xã hội chúng ta sẽ sụp đổ? Voltaire
nói về Gót rằng “không có Gót, nhưng đừng có nói điều đó với người hầu của tôi,
vì sợ rằng đến đêm anh ta sẽ giết tôi” [17].
Hammurabi đã cũng có thể nói cùng một điều như thế với nguyên tắc của ông về hệ
thống đẳng cấp xã hội, và cũng như thế với Thomas Jefferson về quyền con người.
Homo Sapiens không có những quyền tự
nhiên, cũng giống như loài nhện, loài chó hyenas và loài chimpanzee không có những
quyền tự nhiên nào cả. Nhưng đừng nói điều đó với những kẻ ăn người ở hầu hạ
chúng ta, vì sợ rằng ban đêm, họ giết chúng ta.
Những lo sợ như thế là cũng chính đáng. Một
trật tự tự nhiên là một trật tự ổn định. Không có cơ may nào mà luật hấp dẫn sẽ
ngừng hoạt động vào ngày mai, ngay cả khi mọi người thôi không tin tưởng vào
nó. Ngược lại, một trật tự tưởng tượng luôn luôn có nguy cơ sụp đổ, vì nó tuỳ
thuộc vào những huyền thoại, và những huyền thoại biến mất một khi mọi người ngừng
tin tưởng vào chúng. Để bảo vệ một trật tự tưởng tượng, bắt buộc phải có những
nỗ lực liên tục và vất vả. Một số của những nỗ lực này mang dạng thức của bạo lực
và cưỡng chế. Quân đội, lực lượng cảnh sát, tòa án và nhà tù đều không ngưng
nghỉ trong công việc buộc người dân phải hành động thuận hợp với nền trật tự tưởng
tượng. Nếu một người Babylon thời cổ làm mù mắt hàng xóm mình, một vài bạo lực
thường là cần thiết để thực thi luật pháp của “mắt đền mắt”. Vào năm 1860, khi đa
số công dân USA đã kết luận rằng những người nô lệ gốc Africa là những con người,
và do đó phải được hưởng quyền tự do, đã phải mất một cuộc nội chiến đẫm máu để
những tiểu bang phía nam miễn cưỡng chấp nhận.
Tuy nhiên, một trật tự tưởng tượng không thể
được duy trì chỉ đơn thuần bằng bạo lực. Nó cũng đòi hỏi một số những người thực
sự tin tưởng vào nó nữa. Hoàng thân Talleyrand, người đã bắt đầu sự nghiệp xoay
chiều như chong chóng của mình dưới thời Louis XVI, sau này phục vụ chế độ cách
mạng và cả chính quyền Napoleon, và đổi lòng trung thành kịp thời lúc cuối đời
ông khi làm việc cho chế độ quân chủ đã phục hồi, tổng kết chục năm kinh nghiệm
trong chính phủ bằng câu nói rằng “Bạn có thể làm nhiều điều với những lưỡi lê,
nhưng phải ngồi trên chúng đúng ra là điều khá khó chịu”. Một thày chăn chiên độc
nhất thường làm công việc của một trăm binh sĩ – giá cả rẻ hơn và hiệu quả hơn
nhiều. Hơn nữa, cho dù những lưỡi lê có công hiệu đến đâu, một ai đó vẫn phải nắm
và dùng chúng. Tại sao những người lính, những cai tù, những quan toà và những cảnh
sát nên duy trì một trật tự tưởng tượng vốn trong đó họ không tin? Trong tất cả
những hoạt động tập thể của con người, một trong những hoạt động khó khăn nhất
để tổ chức là bạo động. Để nói rằng một trật tự xã hội được duy trì bởi lực lượng
quân sự ngay lập tức đặt ra câu hỏi: Điều gì duy trì trật tự quân sự? Điều là
không thể nào được nếu tổ chức một đội quân chỉ đơn thuần bằng cưỡng chế. Ít nhất,
một vài trong những người chỉ huy và những binh sĩ phải thực sự tin vào một gì
đó, dù cho nó là Gót, là danh dự, tổ quốc, dũng khí đàn ông, hay tiền bạc.
Một câu hỏi lại còn đáng chú ý thú vị hơn
liên quan đến những người đứng ở đỉnh pyramid
xã hội [18].
Tại sao họ sẽ muốn thực thi một trật tự tưởng tượng nếu bản thân họ không tin
vào nó? Điều là khá phổ thông để lập luận rằng tầng lớp ưu tú có thể làm như vậy
từ sự tham lam ích kỷ, không tin ai. Tuy nhiên, một người cynic là người hoài nghi, không tin gì cả thì khó có thể xảy ra là
tham lam. Không phải cần đến nhiều để cung ứng cho những nhu cầu sinh học khách
quan của Homo Sapiens. Sau khi những
nhu cầu này được thoả mãn, nhiều tiền bạc hơn có thể được dùng để xây dựng những
pyramid, nghỉ ngơi du lịch khắp thế giới, tài trợ những vận động bầu cử, góp tiền
cho những tổ chức khủng bố bạn ưa thích, hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán
và kiếm tiền nhiều hơn nữa – tất cả chúng là những hoạt động mà một người cynic
đích thực sẽ thấy tuyệt đối vô nghĩa. Diogenes, nhà triết học Greece, người
sáng lập trường phái phái vẫn gọi chung là hoài nghi, nhưng đúng hơn là trường
phái Sống giống như Chó, ông sống khổ
hạnh trong một thùng gỗ lớn. Khi Đại Đế Alexander một lần đến thăm Diogenes, khi
ông đương nghỉ ngơi dưới ánh nắng, và hỏi nếu có bất cứ điều gì nhà vua có thể
làm cho ông ta, nhà cynic trả lời người
đã chinh phục tất cả, “Vâng, có một gì đó ngài có thể làm cho tôi. Xin hãy đứng
dịch sang một bên một chút. Ngài đang chắn ánh nắng mặt trời”.
Đây là lý do khiến những người cynic, theo
trường phái Sống giống như Chó (Cynic) [19],
những người khinh miệt, ngờ vực lòng chân thực hay chính trực của người khác, họ
không xây dựng những đế quốc, và lý do khiến một trật tự tưởng tượng chỉ có thể
duy trì được nếu phần lớn dân chúng – và đặc biệt trong những lớp thuộc giới ưu
tú và những lực lượng an ninh – thật sự tin vào nó. Đạo Kitô hẳn đã không kéo
dài được 2.000 năm, nếu không được đa số những thày chăn chiên cấp cao và những
thày chăn chiên cấp thấp, đều đã không tin vào Christ. Nền dân chủ USA sẽ không
kéo dài 250 năm, nếu phần lớn những tổn thống và những dân biểu đã không tin
vào những quyền của con người. Hệ thống kinh tế thời nay sẽ không kéo dài được
đến một ngày, nếu đa số những nhà đầu tư và nhà băng không tin tưởng vào chủ
nghĩa tư bản.
Những
Bức tường Nhà tù
Làm thế nào để bạn có thể khiến người ta tin
vào một trật tự tưởng tượng, loại giống như đạo Kitô, chính thể dân chủ, hay chủ
nghĩa tư bản? Đầu tiên, bạn không bao giờ thú nhận rằng trật tự là được tưởng
tượng. Bạn luôn luôn nhấn mạnh rằng trật tự duy trì xã hội là một thực tại
khách quan, được những gót vĩ đại tạo ra, hay bởi những quy luật của tự nhiên.
Mọi người không bình đẳng, không phải vì Hammurabi đã nói như vậy, nhưng vì
Enlil và Marduk ban sắc lệnh đó. Mọi người đều bình đẳng, không phải vì Thomas
Jefferson nói như vậy, nhưng vì Gót đã tạo ra họ như vậy. Thị trường tự do là hệ
thống kinh tế tốt nhất, không phải vì Adam Smith nói như vậy, nhưng vì đây là
những quy luật bất biến của tự nhiên.
Bạn cũng giáo dục người dân trước sau thông
suốt triệt để. Từ thời điểm họ được sinh ra, bạn liên tục nhắc nhở họ về những
nguyên tắc của trật tự tưởng tượng, được kết hợp vào bất cứ sự vật việc nào và
tất cả mọi sự vật việc gì. Chúng được kết hợp vào trong những chuyện cổ tích, phim
ảnh, kịch bản, tranh vẽ, bài hát, nghi thức, tuyên truyền chính trị, kiến trúc,
công thức nấu ăn và thời trang. Lấy thí dụ, ngày nay người ta tin vào sự bình đẳng,
vì vậy nó là thời trang cho trẻ em con nhà giàu để mặc quần jean, mà ban đầu là
trang phục của tầng lớp lao động. Trong thời Trung cổ, người ta tin vào sự phân
chia tầng lớp xã hôi, vì vậy không có nhà quý tộc trẻ nào sẽ mặc một áo khoác ngoài
của nông dân. Quay lại thời đó, để được gọi là “thưa Tôn Ông/thưa Ngài” hoặc “bẩm
Lệnh Bà/ thưa Phu nhân” [20]
là một đặc ân hiếm hoi chỉ dành cho giới quý tộc, và thường được mua bằng máu. Ngày
nay tất cả những thư từ lịch sự, bất kể người nhận, bắt đầu với ‘Thưa tôn ông/thưa
Ngài/thưa quí ông’, hay ‘thưa Phu nhân/thưa quí bà’.
Những ngành khoa học nhân văn và khoa học xã
hội dành hầu hết năng lực của chúng để giải thích trật tự tưởng tượng được đan
dệt vào trong tấm thảm muôn màu của cuộc sống chính xác như thế nào. Trong
không gian giới hạn chúng ta hiện có, chúng ta chỉ có thể nói được đôi điều bên
ngoài, trên bề mặt. Ba yếu tố chính ngăn cản mọi người khiến họ không nhận ra rằng
trật tự tổ chức đời sống của họ hiện hữu chỉ trong trí tưởng tượng của họ là:
a. Trật
tự tưởng tượng được in sâu vào trong thế giới vật chất. Dẫu trật tự tưởng tượng chỉ hiện hữu trong não thức của chúng ta, nó
có thể được dệt vào trong thực tại vật chất quanh chúng ta, và ngay cả còn khắc
vào trong đá. Hầu hết người phương Tây ngày nay tin tưởng vào chủ nghĩa cá
nhân. Họ tin rằng mỗi con người là một cá nhân, mà giá trị không tuỳ thuộc trên
những gì người khác nghĩ về họ. Mỗi chúng ta đều có trong mình một tia sáng rực
rỡ vốn sẽ đem giá trị và ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Trong nhà trường phương
Tây thời nay, thày giáo và cha mẹ nói với trẻ con rằng nếu bạn học của chúng có
phê bình chế diễu chúng, chúng nên bỏ qua việc đó. Chỉ bản thân chúng, chứ
không ai khác, biết giá trị thật sự của chúng.
Trong kiến trúc thời nay, huyền thoại này nhảy
vọt khỏi tưởng tượng để thành hình trong đá và vữa. Ngôi nhà thời nay lý tưởng
được chia thành nhiều phòng nhỏ, để mỗi đứa trẻ có thể có một không gian riêng
tư, tránh khỏi nhòm ngó, cung cấp quyền tự quản tối đa. Phòng riêng này hầu như
luôn có một cánh cửa, và trong nhiều gia đình còn chấp nhận sự thực hành cho những
trẻ con phải đóng, và có lẽ khóa, cánh cửa. Ngay cả cha mẹ đều bị cấm vào mà
không gõ cửa và xin phép. Phòng được trang trí như ý đứa trẻ thấy phù hợp, với
áp phích những ngôi sao nhạc rock trên tường, và vớ bẩn vung vãi trên sàn. Một
ai đó lớn lên trong một không gian như vậy không thể không tưởng tượng chính
mình như “một cá nhân”, giá trị thật sự của người ấy phát ra từ bên trong chứ
không phải đến từ bên ngoài.
Những quý tộc thời Trung cổ đã không tin tưởng
vào chủ nghĩa cá nhân. Giá trị của một ai đó đã được xác định bởi vị trí của người
ấy trong hệ thống xã hội, và bởi những gì người khác nói về họ. Bị cười nhạo là
một sự sỉ nhục kinh khủng. Quý tộc dạy con cái của họ bảo vệ thanh danh của mình
bằng bất cứ giá nào. Giống như chủ nghĩa cá nhân thời nay, hệ thống giá trị thời
Trung cổ rời bỏ tưởng tượng, và đã thể hiện trong đá của những lâu đài Trung cổ.
Lâu đài hiếm khi có chứa phòng riêng cho những trẻ em (hoặc bất cứ ai khác, về
vấn đề đó). Đứa con trai tuổi teen của
một nam tước thời Trung cổ đã không có một phòng riêng trên tầng hai của tòa
lâu đài, với áp phích của Richard the Lionheart và Vua Arthur trên những bức tường,
và một cánh cửa khóa trái mà cha mẹ nó không được phép mở tuỳ tiện. Nó ngủ
chung cạnh nhiều thanh niên khác cùng trong một sảnh đường lớn. Nó luôn luôn cho
thấy sự hiện diện, và luôn luôn phải chú ý vào những gì người khác thấy và nói.
Một ai đó lớn lên trong những điều kiện như vậy tự nhiên kết luận rằng giá trị
thực sự của một con người được xác định bởi vị trí của mình trong hệ thống xã hội,
và bởi những gì người khác nói về mình. [21]
b. Trật
tự tưởng tượng định hình những ham muốn của chúng ta. Hầu hết mọi người
không mong chấp nhận rằng trật tự cai quản đời sống của họ là tưởng tượng,
nhưng trong thực tế, mỗi người đều đã được sinh ra trong một trật tự tưởng tượng
đã hiện hữu từ trước, và những ham muốn của mỗi người đã được những huyền thoại
ưu thắng của xã hội định hình từ lúc mới lọt lòng. Những khát vọng cá nhân của
chúng ta qua đó trở thành những phòng thủ quan trọng nhất của trật tự được tưởng
tượng.
Lấy thí dụ, những ham muốn được trân quí nhất
của phương Tây ngày nay được định hình bởi những huyền thoại của lãng mạn, của chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa nhân bản, vốn đã từng trải hàng thế
kỷ. Bạn bè đưa lời khuyên thường nói với nhau, “hãy tuân theo trái tim của bạn”.
Nhưng trái tim là một điệp viên hai mặt vốn thường nhận những hướng dẫn của nó
từ những huyền thoại ưu thắng đương thời, và chính đề nghị “hãy tuân theo trái
tim của bạn” đã được cấy vào não thức chúng ta bằng một sự kết hợp của những
huyền thoại lãng mạn thế kỷ XIX và huyền thoại về sự tiêu dùng thế kỷ XX. Công
ty Coca-Cola, lấy thí dụ, đã quảng cáo Diet Coke trên toàn thế giới với khẩu hiệu:
“Diet Coke. Hãy uống gì cảm thấy ngon”. [22]
Ngay cả những gì người ta xem như những ham
muốn cá nhân nhất của họ, thường được trật tự tưởng tượng prôgram [23].
Hãy xem xét, lấy thí dụ, mong muốn phổ thông để có một kỳ đi nghỉ mát hàng năm ở
nước ngoài. Không có gì là tự nhiên hoặc hiển nhiên về việc này. Một con trùm đực
chimpanzee sẽ không bao giờ nghĩ đến sự dùng quyền lực của nó để đi nghỉ mát,
sang lãnh thổ của một bầy đoàn chimpanzee lân cận. Tầng lớp ưu tú thiếu số được
ưu đãi về cả tiền và quyền của Egypt thời cổ đã dành tài sản của mình xây dựng những
pyramid, và ướp xác của họ, nhưng
không ai trong số họ đã nghĩ đến việc đi mua sắm ở Babylon, hoặc tham dự một kỳ
nghỉ để trượt tuyết ở Phoenicia. Con người ngày nay tiêu rất nhiều tiền vào những
ngày nghỉ lễ ở nước ngoài, vì họ là những người thực sự tin tưởng vào những huyền
thoại của những nguyên tắc và thực hành lãng mạn đề cao tiêu thụ. [24]
Chủ nghĩa lãng mạn bảo chúng ta rằng để tận
dụng hầu hết những tiềm năng của con người, chúng ta phải có nhiều những kinh
nghiệm khác biệt đến mức chúng ta có thể có được. Chúng ta phải mở chính chúng
ta ra với một spectrum lớn rộng của những
cảm xúc; chúng ta phải nhấm nháp những loại khác biệt của những quan hệ; chúng
ta phải thử những món ăn và nấu nướng khác biệt; chúng ta phải học để thưởng
ngoạn những loại âm nhạc khác biệt. Một trong những cách tốt nhất để làm tất cả
những điều đó, là phá vỡ, thoát khỏi những thói quen hàng ngày của chúng ta, bỏ
lại đằng sau những khung cảnh sống quen thuộc của chúng ta, và đi du lịch ở những
vùng đất xa xôi, nơi đó chúng ta có thể “trải nghiệm” những nền văn hóa, những
hương vị, những thị hiếu và những khuôn thức của những dân tộc khác. Chúng ta
nghe đi nghe lại những huyền thoại lãng mạn về “một kinh nghiệm mới đã mở mắt
và thay đổi đời sống của tôi như thế nào”.
Những nguyên tắc và thực hành đề cao sự tiêu
thụ hàng hoá [25]
cho chúng ta biết rằng để có hạnh phúc chúng ta phải tiêu thụ càng nhiều sản phẩm
và dịch vụ càng tốt. Nếu chúng ta cảm thấy một gì đó thiếu vắng, hoặc không
hoàn toàn đúng, khi đó chúng ta có lẽ cần phải mua sắm một sản phẩm (một xe ô
tô, quần áo mới, thực phẩm hữu cơ [26])
hoặc một dịch vụ (nội trợ, trị liệu tâm lý quan hệ hôn nhân, những lớp học
yoga). Mỗi quảng cáo truyền hình là một truyền thuyết nhỏ khác về cách tiêu thụ
một số sản phẩm hoặc dịch vụ, tất cả hưa hẹn sẽ làm cho đời sống tốt đẹp hơn.
Chủ nghĩa lãng mạn, trong đó khuyến khích sự
đa dạng, lồng vào hoàn hảo với lý thuyết đề cao tiêu thụ. Hôn nhân của họ đã
cho ra đời những “thị trường của kinh nghiệm” vô hạn, mà trên đó những ngành kỹ
nghệ du lịch thời nay được thành lập. Kỹ nghệ du lịch không bán vé máy bay và
phòng ngủ khách sạn. Nó rao bán những kinh nghiệm. Paris không phải là một
thành phố, India cũng không phải một đất nước – chúng cả hai đều là những kinh
nghiệm, sự tiêu thụ chúng được giả định là để mở rộng chân trời của chúng ta,
phát huy tiềm năng con người của chúng ta, và làm cho chúng ta hạnh phúc hơn. Kết
quả là, khi quan hệ hôn nhân giữa một triệu phú và vợ của ông đang trải qua một
khúc chòng chành, ông đưa bà đi một chuyến du lịch tốn kém đến Paris. Chuyến đi
không phải là một sự phản ảnh của một vài mong muốn độc lập, nhưng đúng hơn là
một tin tưởng mãnh liệt trong những huyền thoại của chủ nghĩa tiêu thụ lãng mạn.
Một người giàu có ở Egypt thời cổ sẽ không bao giờ có mơ ước giải quyết một cuộc
khủng hoảng vợ chồng bằng cách đưa vợ đi nghỉ hè ở Babylon. Thay vào đó, ông có
thể đã xây cho vợ mình một lăng mộ lộng lẫy, vốn bà đã luôn ao ước.
Hình18. Pyramid lớn ở Giza. Loại công việc của
những người giàu có ở Egypt thời cổ đã làm với tiền bạc của họ.
Giống như giới
ưu tú tinh hoa của Egypt thời cổ, hầu hết người ta trong hầu hết những văn hóa
dành cuộc đời của họ để xây những pyramid. Chỉ có tên, hình dạng và kích
thước của những pyramid này đã thay đổi, từ một văn hóa sang văn hoá khác.
Chúng có thể mang hình thể, lấy thí dụ, của một ngôi nhà nghỉ mát ở ngoại ô với
một hồ bơi và một bãi cỏ xanh, hoặc một căn phòng trên tầng bin đing cao nhất, hào
nhoáng với một cảnh nhìn tuyệt vời. Ít người đặt câu hỏi về những huyền
thoại vốn trước hết đã là nguyên nhân khiến chúng ta thèm muốn pyramid.
c. Trật
tự tưởng tượng là liên não thức. Ngay cả nếu bằng một
vài nỗ lực siêu nhân, tôi thành công trong sự giải phóng những ham muốn cá nhân
của tôi khỏi sự kìm kẹp của trật tự tưởng tượng. Tôi là chỉ một người. Để thay
đổi trật tự tưởng tượng, tôi phải thuyết phục hàng triệu người lạ để hợp tác với
tôi. Vì trật tự tưởng tượng không phải là một trật tự chủ quan hiện hữu trong
trí tưởng tượng riêng của tôi – nó đúng hơn là một trật tự liên của quan giữ những
não thức [27], hiện
hữu trong trí tưởng tượng chung của hàng ngàn và hàng triệu người.
Để hiểu được điều này, chúng ta cần phải hiểu
sự khác biệt giữa “khách quan”, “chủ quan”, và “liên não thức”.
Một hiện tượng khách quan hiện hữu độc lập với ý thức con người và tin tưởng của
con người. Phóng xạ, lấy thí dụ, không phải là một huyền thoại. Hiện tượng những
nuclei phóng xạ xảy ra rất lâu trước
khi con người tìm ra chúng, và chúng là nguy hiểm ngay cả khi người ta không
tin vào chúng. Marie Curie, một trong những người tìm ra ra phóng xạ, trong những
năm dài của bà nghiên cứu trên những vật liệu phóng xạ, đã không biết rằng chúng
có thể gây tổn hại cho cơ thể của mình. Trong khi bà không tin rằng phóng xạ có
thể giết mình, bà vẫn chết vì bệnh aplastic
anemia [28],
một căn bệnh do tiếp xúc quá nhiều với những vật liệu phóng xạ.
Chủ
quan là một gì đó vốn hiện hữu tuỳ thuộc vào hữu thức
và tin tưởng của một cá nhân đơn lẻ. Nó biến mất hoặc thay đổi nếu cá nhân cụ
thể này thay đổi tin tưởng của mình. Nhiều trẻ con tin vào sự hiện hữu của một
người bạn tưởng tượng, những người khác còn lại trên thế giới đều không thể thấy
và cũng không thể nghe được người vô hình này. Người bạn tưởng tượng hiện hữu
chỉ trong hữu thức chủ quan của đứa trẻ, và khi đứa trẻ lớn lên, và thôi không
tin vào nó nữa, người bạn tưởng tượng mờ nhạt, mất dần đi.
Liên
chủ quan (hay liên não thức), là một gì hiện hữu
trong mạng lưới truyền thông nối kết những hữu thức chủ quan của nhiều cá nhân.
Nếu một cá nhân duy nhất thay đổi những tin tưởng của mình, hoặc ngay cả chết
đi, điều đó ít quan trọng. Tuy nhiên, nếu hầu hết những cá nhân trong mạng lưới
chết đi, hoặc thay đổi những tin tưởng của họ, những hiện tượng có trong liên
não thức sẽ thay đổi hoặc biến mất. Hiện tượng liên chủ quan không phải là những
gian lận độc ác, cũng không phải là những phi lý mua vui không đáng kể. Chúng hiện
hữu trong một cách khác biệt với những hiện tượng vật lý như nuclei phóng xạ, nhưng ảnh hưởng của chúng
trên thế giới vẫn có thể là rất lớn. Nhiều những yếu tố thúc đẩy quan trọng nhất
trong lịch sử là liên chủ quan: pháp luật, tiền bạc, những gót, những quốc gia.
Peugeot, lấy thí dụ, không phải là người bạn
tưởng tượng của người giám đốc điều hành của công ty Peugeot. Công ty này hiện
hữu trong trí tưởng tượng có chung cùng chia sẻ với hàng triệu người. Người
giám đốc điều hành tin vào sự hiện hữu của công ty vì ban giám đốc cũng tin vào
nó, cũng thế là những luật sư của công ty, những thư ký trong văn phòng gần đó,
những người nhân viên trong nhà bank, những nhà môi giới trên thị trường chứng
khoán, và những đại lý xe ô tô từ France đến Australia . Nếu vị giám đốc điều hành
một mình ông đột nhiên ngừng tin tưởng vào sự hiện hữu của Peugeot, ông tất
nhanh chóng nhập viện một nhà thương tâm thần gần nhất, và một người nào đó khác
sẽ chiếm văn phòng của ông.
Tương tự như vậy, đồng đôla, nhân quyền và USA
đều hiện hữu trong trí tưởng tượng chung
của hàng tỉ con người, và không một cá nhân nào có thể đe dọa sự hiện hữu của chúng.
Nếu có một mình tôi là người ngưng tin tưởng vào đồng đôla, nhân quyền, hay vào
USA, điều đó sẽ chẳng đi đến đâu, không thành vấn đề. Những trật tự tưởng tượng
này là liên chủ quan, liên não thức; do đó, để thay đổi chúng, chúng ta phải đồng
thời thay đổi ý thức của hàng tỉ người, vốn không phải là điều dễ dàng. Một sự
thay đổi về độ lớn như vậy có thể được thực hiện chỉ với sự giúp đỡ của một tổ
chức phức tạp, chẳng hạn như một đảng chính trị, một vận động tư tưởng, phong
trào của hệ ý thức, hoặc một giáo phái tôn giáo. Tuy nhiên, để thành lập những tổ
chức phức tạp như vậy, điều là cần thiết để thuyết phục nhiều những người lạ chưa
quen biết nhau để hợp tác với nhau. Và điều này sẽ chỉ xảy ra nếu những người lạ
cùng tin vào một số những huyền thoại chung. Nó dẫn đến sau đó rằng để thay đổi
một trật tự tưởng tượng hiện có, đầu tiên chúng ta phải tin vào một trật tự tưởng
tượng khác để thay thế nó.
Để tháo dỡ Peugeot, lấy thí dụ, chúng ta cần
phải tưởng tượng một gì đó uy quyền hơn, chẳng hạn như hệ thống pháp luật của nước
France. Để tháo dỡ những hệ thống pháp luật của France, chúng ta cần phải tưởng
tượng một gì đó lại còn phải nhiều uy quyền hơn, chẳng hạn như nhà nước France.
Và nếu chúng ta muốn tháo dỡ nó, chúng ta sẽ phải tưởng tượng một gì đó lại phải
càng uy quyền lớn mạnh hơn nữa.
Không có cách nào ra khỏi trật tự đã được tưởng
tượng. Khi chúng ta phá vỡ những bức tường nhà tù của chúng ta và chạy về phía
tự do, chúng ta trong thực tế chạy vào sân rộng hơn như sân tập thể dục lớn của
một nhà tù lớn hơn.
7
Trí nhớ
quá mức chất chứa
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
[1] [Angus Maddison, The World
Economy, vol. 2 (Paris: Development Centre of the Organization of Economic
Co-operation and Development, 2006), 636; ‘Historical Estimates of World
Population’, U.S. Census Bureau, accessed 10 December 2010,
http://www.census.gov/ipc/www/worldhis.html.]
[2] nomad = từ tiếng French nomade,
mượn Latin gốc Greek: nomas, nomad-
‘đi đó đây để tìm đồng cỏ’ (in search of pasture),’ từ gốc là nemein ‘đến đồng có cỏ và cây thấp.’
[3] [Robert B. Mark, The Origins of the Modern World: A Global
and Ecological Narrative (Lanham, MD: Rowman & Littlefield Publishers,
2002), 24.]
[4] tháp hình khối xi lanh, xây cao, hay hầm
đào dưới đất, để trữ lúa mì
[5] Huang He: sông Hoàng (Hoàng hà) – chúng ta có lẽ
nên ghi chép những nhân danh, địa danh Tàu theo như quốc tế vẫn dùng, thường là
tiếng England (Beijing, Tiananmen, Mao Zedong, ...) không cần phải dùng những
tên gọi Tàu, phát âm Hán Việt đặc biệt của chúng ta (di tích đáng buồn của sự
kiện lịch sử nhiều lần đã xảy ra từ nghìn năm trước, khi chúng ta bị xâm lăng,
bị cưỡng bức phải dùng chữ của những kẻ đô hộ, với ý định đồng hoá
chúng ta).
[6] Nổi tiếng như Camille Desmoulins
(1760-1794), Georges Jacques Danton (1759-1794), Maximilien de Robespierre
(1758-1794), hay ít nổi tiếng hơn như Gui Jean Baptiste Target (1733-1806), ...
đều là những luật sư thuộc tầng lớp trưởng giả trung lưu giàu có (bourgeoisie)
[7] Fertile Crescent
[8] Mesopotamia: tên đất cổ, vùng Tây Nam Asia, nay là
Iraq, nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates. Những cánh đồng phù sa của nó
là địa điểm của những nền văn minh Akkad, Sumer, Babylonia, và Assyria.
Mesopotamia: (gốc từ Greek: mesos
‘giữa’ + potamos ‘sông’); nên có thể tạm dịch là Vùng Giữa Hai Sông, cho đúng nghĩa phổ
thông hơn, vốn không phải tất cả lưu vực của hai sông Tigris và Euphrates,
nhưng chỉ vùng đất giữa hai con sông này, với trung tâm là nay là Baghdad (thay
vì vùng Lưỡng hà).
[9] [Raymond
Westbrook, ‘Old Babylonian Period’, trong A
History of Ancient Near Eastern Law, vol. 1, ed. Raymond Westbrook (Leiden:
Brill, 2003), 361–430; Martha T. Roth, Law
Collections from Mesopotamia and Asia Minor, 2nd edn (Atlanta: Scholars
Press, 1997), 71–142; M. E. J. Richardson, Hammurabi’s
Laws: Text, Translation and Glossary (London: T & T Clark
International, 2000).]
[10] [Roth, Law
Collections from Mesopotamia, 76.]
[11] shekel: a silver coin and
unit of weight used in ancient Israel and the Middle East.
[12] [Ibid., 133–3.]
[13] [Ibid., 133–3.]
[14] [Ibid., 133–3.]
[15] hierarchy: tổ chức, xếp đặt trật tự xã hội theo
những thứ bậc cao thấp được ấn định tuỳ văn hoá và xã hội; ở đây cao nhất là
giới quí tộc, trong một xã hội khác, thí dụ India, là giới giáo sĩ.
[16] trait
[17] Tôi tìm thấy nội dung trên được kể lại
trong John Morley. Diderot and the Encyclopaedists, Volume
II:
“In truth
it was a characteristic of Voltaire always to take the social, rather than the
philosophic view of the great issues of the theistic controversy. One day, when
present at a discussion as to the existence of a deity, in which the negative
was being defended with much vivacity, he astonished the company by ordering
the servants to leave the room, and then proceeding to lock the door.
‘Gentlemen,’ he explained, ‘I do not wish
my valet to
cut my throat tomorrow morning.’ It was not the truth of the theistic belief in
itself that Voltaire prized, but its supposed utility as an assistant to the
police.” Có thể tác giả dẫn từ một nguồn khác.
[18] pyramid: a monumental
structure with a square or triangular base and sloping sides that meet in a
point at the top, especially one built of stone as a royal tomb in ancient
Egypt. Pyramids were built as tombs for Egyptian pharaohs from the 3rd dynasty
( c.2649 bc) until c.1640 bc. Monuments of similar shape are associated with
the Maya and Aztec civilizations of c.1200 bc – ad 750, and, like those in
Egypt, were part of large ritual complexes.
Ở đây, có nghĩa một đối tượng, hình
thể, hay xếp đặt có cấu trúc của một pyramid,
như những tổ chức hay hệ thống trong xã hội con người. Chúng có cấu trúc gồm
nhiều tầng lớp được xếp đặt hay phân định thấp cao tương ứng, tầng thấp nhất
đông đảo nhất, lên cao dần, càng ít dần – (người Tàu, cho là giống hình chữ kim
“金” của họ, nên
dịch là Kim tự tháp: 金字塔 = tháp
hình chữ ‘kim’).
[19] Xem Bertrand Russell. Lịch sử Triết học phương Tây, Chương 26 – ‘Những triết gia phái Sống giống như
Chó (Cynic) và những triết gia phái Hoài nghi (Sceptic)’. Bản dịch của tôi giới
thiệu trên blog này:
“Diogenes
quyết định sống như một con chó, và vì thế được gọi là một “cynic” có nghĩa là
“giống chó”. Ông ném bỏ tất cả mọi tục lệ quy tắc – dù thuộc tôn giáo, cách cư
xử, ăn mặc, nhà ở, thực phẩm, hoặc khuôn phép lễ nghi. Người ta nói rằng ông đã
sống trong một bồn tắm, nhưng ... đây là một sai lầm: đó là một thùng đựng nước
lớn, thuộc loại sử dụng trong thời nguyên thủy để chôn cất. Ông như một đạo sĩ
khổ hạnh ẤnĐộ, đã sống bằng cách đi ăn xin. Ông tuyên bố tình huynh đệ của
mình, không chỉ với toàn bộ giống người, mà còn với những giống vật. Ông là một
người mà có những câu chuyện được thu thập về mình, ngay cả trong thời còn đang
sống. Tất cả mọi người đã biết ra sao về câu chuyện Alexander đến thăm ông, hỏi
ông có mong muốn bất kỳ một ơn huệ nào không; ‘chỉ xin ngài bước tránh qua một
bên, đừng chắn ánh sáng của tôi’, ông đã đáp lời.”
[20] Sir, Madam – đặc biệt trong xã hội England, những
từ: Sir, Lord, Duke, Lady, Hon. ....
đều là những tôn hiệu dành riêng cho giới quí tộc (hiệp sĩ, hầu tước..... bá
tước, quận công). Bị lạm dụng, hay dùng sai cách (như chữ ‘Ngài’ (Sir) dù với
thiện ý muốn bày tỏ sự tôn trọng, với bất cứ ai tuỳ thích, khiến những người
khác nghe cảm thấy sự khôi hài, buồn cười, mất hết ý tôn kính, và cũng cho thấy
sự thiếu hiểu biết của người nói.
[21] [Constance
Brittaine Bouchard, Strong of Body, Brave
and Noble: Chivalry and Society in Medieval France (New York: Cornell
University Press, 1998), 99; Mary Martin úng đãMcLaughlin, ‘Survivors and
Surrogates: Children and Parents from the Ninth to Thirteenth Centuries’, in Medieval Families: Perspectives on Marriage,
Household and Children, ed. Carol Neel (Toronto: University of Toronto
Press, 2004), 81 n.; Lise E. Hull, Britain’s Medieval Castles (Westport:
Praeger, 2006), 144.]
[22] “Diet Coke, do
what feels good”
[23] program: ở đây hiểu như (động từ) – gây tạo theo
một chương trình tự động trong đó mọi sự việc cân thiết để đi đến kết quả mong
muốn đã xếp đặt chi li với nhiều những bước tất yếu phức tạp, tất cả đều được
tính toán sẵn, và cân nhắc từ trước. Một thôi những danh từ quá dài dòng, không
đọc lại cũng biết vẫn chưa trọn nghĩa, nên tôi dùng “prôgram”, một khái niệm đặc biệt, quan trọng, và đã phổ thông trên
toàn thế giới trong thế kỷ XX. Nó nằm trong Cách mạng Nhận thức (vẫn đang tiếp
diễn) của Sapiens.
[24] Romentic consumerism
[25] consumerism: ở đây, không phải và không có nghĩa “chủ
nghĩa tiêu thụ”, nhưng là những nguyên tắc và thực hành liên kết với sự tiêu
dùng hàng hoá, dịch vụ, tạm dịch là lý thuyết đề cao tiêu thụ.
[26] organic food
[27] inter-subjective: như tác giả giải thích trên là liên chủ quan.
Đúng hơn trong tâm lý học định nghĩa: inter-subjective: existing between
conscious minds; shared by more than one conscious mind, vậy có thể hiểu liên chủ quan có giữa những não thức,
hữu thức = liên não thức.
[28] Aplastic anemia: a blood
disorder in which the body’s bone marrow doesn’t make enough new blood cells