Wednesday, November 14, 2012

David Hume - Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết của Con người


Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết của Con người 
David Hume (1711-1776).

An Enquiry Concerning Human Understanding
(1748)

 





1.
Công trình triết học vĩ đại nhất của Hume [1]Trong đó, ông lập luận về sự bấp bênh, không chắc chắn của nguyên lý nhân quả. Những gì chúng ta giả định về tương quan nhân quả không thực sự hiện hữu.

Hume nhận xét rằng trong khi chúng ta có thể cảm nhận được hai sự kiện xem dường xảy ra như nối kết với nhau, nhưng không có cách nào để chúng ta biết được bản chất của sự kết nối đó. Dựa trên quan sát này, Hume lập luận chống lại chính bản thân khái niệm nhân quả, hay nguyên nhân và hậu quả. Chúng ta thường cho rằng một điều này gây ra một điều kia, nhưng cũng có thể cùng xác xuất đúng như thế rằng điều này không gây ra điều kia. Hume tuyên bố rằng nhân quả là một thói quen của con người về sự kết hợp, một tin tưởng thực ra vô căn cứ và vô nghĩa. Tuy nhiên, ông ghi nhận rằng khi chúng ta liên tục quan sát một sự kiện theo sau một sự kiện khác, chúng ta giả định rằng mình đang chứng kiến lý do và tác dụng, xem có vẻ hợp lý với chúng ta. Hume giải thích khuynh hướng đó đến từ một bản năng tin tưởng vào quan hệ nhân quả, bắt nguồn từ những thói quen sinh học của chúng ta, và chúng ta không thể chứng minh hay phản chứng minh được tin tưởng bản năng này. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhận hiểu và chấp nhận những giới hạn của chúng ta, chúng ta vẫn có thể sinh hoạt mà không phải từ bỏ những giả định của chúng ta về nguyên nhân và hậu quả. Những tôn giáo Abraham nêu lên rằng thế giới này hoạt động trên nhân quả, và do đó có phải có một Nguyên nhân Đầu tiên, gọi đó là Gót. Trong thế giới quan của Hume, nhân quả là được giả định nhưng cuối cùng không thể biết. Chúng ta không biết nếu có một nguyên nhân đầu tiên hay không, hoặc một chỗ đứng cho Gót trong vũ trụ này hay không.

Cũng là một trong những công trình vĩ đại nhất của triết học. An Enquiry Concerning Human Understanding (1748) đào sâu những nội dung của nhận thức luận. Chúng ta biết những điều chúng ta đã biết - như thế nào? Một nhà tư tưởng duy nghiệm mẫu mực bậc thày, Hume áp dụng những phương pháp khoa học duy lý vào lĩnh vực trừu tượng triết học, sử dụng quan sát và suy luận tinh tế từ những cụ thể để đi đến những nguyên lý tổng quát về sự kiện - làm thế nào chúng ta có hiểu biết về những sự vật. Là một khuôn mặt lớn của phong trào Khai sáng châu Âu; ở đây, Hume ít quan tâm đến những vấn đề siêu hình như bản chất của Gót hay linh hồn, nhưng nhiều quan tâm hơn về tiến trình suy nghĩ của con người. Trọng tâm không phải về những sự việc là thế nào trong thực tại, nhưng về như thế nào chúng ta nhận thức được chúng, ông thăm dò quan hệ giữa ý tưởng và ấn tượng và những vấn đề thực tại và ý tưởng. Những sự kiện thực tại dựa trên kinh nghiệm giác quan, chúng ta biết mặt trời đang chiếu sáng, bầu trời có màu xanh, hoặc chúng ta đang đi dạo. Ý tưởng, mặt khác, không dựa vào kinh nghiệm, nhưng dẫu vậy, chúng ta biết chúng là thực, như khi tuyên bố rằng “tất cả những góa phụ là đã từng kết hôn” là đúng lôgích. Vẽ những phân biệt thông minh và chứng minh lý thuyết của ông, tác phẩm cách mạng này của Hume sẽ làm người đọc phải tự đặt những câu hỏi về những tin tưởng và quá trình suy nghĩ của riêng mỗi người, và tự duyệt lại xem chúng ta đã đi đến nắm giữ chúng ra sao.

2.
Khi còn ở tuổi 20, những năm 1734 và 1737, Hume đã phác thảo A Treatise of Human Nature. Nhưng ông ngạc nhiên lẫn thất vọng, thấy tác phẩm này không được học giới chú ý đến. Vẫn miệt mài với triết học - sau đó ông đã trở lại với những ý tưởng đã trình bày trong công trình đầu tay này, nhưng viết thành nhiều chuyên luận ngắn, tinh luyện và sáng tỏ hơn. Tập chuyên luận này – the Enquiry Concerning Human Understanding, xuất bản lần đầu năm 1748, là một trong nỗ lực nói trên, trong đó, chính yếu ông đã viết lại tập đầu tiên của A Treatise of Human Nature. Dựa trên những lý thuyết duy nghiệm của Locke và Berkeley, ông phê bình triết học duy lý siêu hình của Descartes.

Triết học châu Âu, sau Descartes khái quát có thể phân làm hai dòng lớn – duy nghiệm và duy lý (empiricism rationalism) – nhìn theo câu hỏi về nguồn gốc và giá trị kiến thức chúng ta, có được từ đâu, giá trị ra sao – trên kinh nghiệm hay suy luận lý trí. Duy lý có xu hướng bận tâm với những câu hỏi siêu hình như bản chất của thực tại, thực thể, của Gót, của linh hồn, của vật chất, và vân vân, và thường cố gắng trả lời những câu hỏi này qua những vận dụng của lý trí thuần túy. Duy nghiệm chủ nghĩa quan tâm nhiều hơn về nhận thức luận và xác định chính xác chúng ta có thể biết những gì và biết như thế nào, lập luận rằng kinh nghiệm là hướng dẫn chắc chắn và duy nhất để đi đến kiến thức thực sự về thế giới.

Hume đã viết tập sách này như một nỗ lực để giới thiệu triết lý duy nghiệm của ông với giới độc giả trí thức châu Âu đương thời, và nhờ vậy, nó là một tác phẩm triết học cổ điển tương đối dễ đọc. Nó bao gồm hầu hết những ý tưởng độc đáo nguyên thủy của Hume trong nhiều lĩnh vực, chỉ trừ đạo đức, gồm cả phát biểu nổi tiếng của về phép lý luận qui nạp, và sự phân biệt “nĩa phân hai” ('Hume's Fork') của ông. Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết của Con người là hiện thân của chủ nghĩa triết lý kinh nghiệm và chủ nghĩa hoài nghi của ông về những tuyên bố siêu hình mơ hồ. Hume xứng đáng là một nhà triết học vĩ đại nhất của mọi thời, và Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết của Con người này là giới thiệu tốt nhất để đưa vào những ý tưởng tổng quát của Hume.

Hume được coi là một khuôn mặt quan trọng trong phong trào Khai sáng châu Âu, trong đó bao gồm Rousseau, Goethe, và những người khác. Nói chung, phong trào Khai sáng đại diện cho một bầu không khí của chủ nghĩa lạc quan trí tuệ, đề cao khả năng của lý trí con người.

Triết lý duy nghiệm hiện đại bắt đầu với công trình này, và những lý thuyết về tri thức trở thành một quan tâm trung tâm của triết học. Tác phẩm này thu gọn được những lý thuyết và những chủ đề chính của triết học duy nghiệm triệt để của Hume.

Đặc biệt - Ông không công khai phủ nhận sự hiện hữu, sự toàn hảo, những phép lạ, và sự phù hộ của Gót. Do những giới hạn về tự do tư tưởng trong thời đại của ông. Ông chỉ đơn giản đặt những câu hỏi - liệu tin tưởng vào những điều như vậy có thể có được cơ sở trên kinh nghiệm và lý trí của con người hay không. Dĩ nhiên đến nay, gần ba trăm năm sau Hume, chúng ta đều biết là không.

Và dĩ nhiên, đây vẫn là điều tất cả chúng ta nên suy ngẫm.

Lê Dọn Bàn
Nov/2012




NỘI DUNG

Ghi chú Dẫn Nhập
1. Về những loại Triết học Khác biệt
2. Về Nguồn gốc của những Ý tưởng.
3. Về sự liên kết của những Ý tưởng
4. Những Nghi ngờ Không chắc chắn liên quan đến những hoạt động của Sự hiểu biết
a. Phần I
b. Phần II
5. Những Giải pháp Không chắc chắn của những Nghi ngờ này
a. Phần I
b. Phần II
6. Về Xác suất
7. Về ý tưởng của sự Liên kết cần thiết
a. Phần I
b. Phần II
8. Về Tự do và Tất yếu
a. Phần I
b. Phần II
9. Về Lý trí của loài động vật
10. Về những Phép lạ
a. Phần I
b. Phần II
11. Về một sự phù hộ của Gót nói riêng và một Tình trạng tương lai
12. Về Triết học hàn lâm hay Hoài nghi
a. Phần I
b. Phần II
c. Phần III




Tiết I. - Về những loại Triết học Khác biệt

(Chương mở đầu của có hai phần chính. Phần thứ nhất là để phòng ngừa trước những e dè bất lợi; phần thứ hai là loan báo mục đích quan trọng của tác phẩm. Phòng ngừa bất lợi qua khuyến khích người đọc tao nhã đừng nản lòng khi những chương sau trở nên tiếp tục đọc khó khăn hơn; rằng đòi hỏi người đọc có nỗ lực sẽ không là vô lý, quá đáng. Đến cuối chương, David Hume trình bày sự tương phản giữa một triết lý dễ dãi và một triết lý thâm thúy cho người đọc còn ngờ vực thấy rằng ông tỉnh táo hiểu những ưu điểm của triết học kể trước, và cũng nhạy cảm với những thất bại của của triết học kể sau. Tuy nhiên ông nhấn mạnh rằng triết học kể sau là cần thiết và ích lợi. Như vậy, con đường mở ra phía trước sẽ là cố gắng để kết hợp tính dễ tiếp cận của triết lý dễ dãi và chiều sâu và dày của triết lý thâm thúy.)

1.
Triết học đạo đức, hay khoa học về bản chất con người [2], có thể được nghiên cứu theo hai cách thức khác nhau, mỗi cách có những ưu điểm đáng khen đặc biệt của nó, và có thể góp phần vào sự giải trí, giáo dục, và cải cách cho loài người. Cách xem con người chủ yếu như sinh ra cho hành động; và vì bị ảnh hưởng trong những tầm mức của nó trong thị hiếu và tình cảm, theo đuổi một đối tượng này, tránh một đối tượng khác, tùy thuận theo giá trị mà những đối tượng này dường như có được, và tùy thuận theo ánh sáng trong đó chúng tự biểu hiện. Về phần đức hạnh, của tất cả những đối tượng, được cho là có giá trị nhất, những loại triết học này vẽ nàng trong những màu sắc dễ thương nhất, mượn tất cả những trợ giúp đến từ thi ca và thuật hùng biện, và đối xử với đối tượng của chúng theo một cách thức dễ dãi và rõ ràng, và như thế là vừa vặn nhất để làm hài lòng óc tưởng tượng, và gọi những tình cảm dấn thân. Họ chọn những quan sát những trường hợp nổi bật nhất từ ​​cuộc sống thông thường, đặt những nhân vật trong một tương phản thích hợp và tất cả lôi cuốn chúng ta vào con đường của những đức hạnh theo những cái nhìn về vinh quang và hạnh phúc, chỉ đạo những bước đi của chúng ta trong những con đường này bằng những giới luật vững chắc nhất và những ví dụ minh họa sáng tỏ nhất. Chúng làm cho chúng ta cảm nhận được sự khác biệt giữa tà ác và đức hạnh, chúng kích thích và điều hành tình cảm chúng ta, và như vậy chúng có thể chỉ uốn trái tim của chúng ta đến tình yêu sự trội vượt đạo đức [3], và danh dự chân thực, chúng nghĩ rằng, chúng đã hoàn toàn đạt được tận cùng của tất cả những lao động của chúng.

2.
Những loại triết học khác nhìn con người trong ánh sáng của một con người hợp lý hơn là một con người hoạt động, và cố gắng hình thành sự hiểu biết của mình 



Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất 
(Nov/2012)
(còn tiếp ..)




[1] David Hume (1711-1776)
Một đại thụ của triết học phương Tây. Triết gia quan trọng nhất từng viết bằng tiếng Anh, – Triết gia cuối trong bộ ba vĩ đại của những nhà “duy nghiệm nước Anh” (sau George Berkeley và John Locke) – David Hume cũng nổi tiếng trong thời ông như một sử gia và nhà viết bình luận. Một văn phong bậc thầy trong bất kỳ thể loại nào. Những tác phẩm triết học lớn của Hume – A Treatise of Human Nature (1739-1740), the Enquiries concerning Human Understanding (1748) và An Enquiry Concerning the Principles of Morals (1751), cũng như tác phẩm xuất bản sau khi ông mất – Dialogues concerning Natural Religion (1779) – vẫn tiếp tục có ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc cho đến ngày nay. Mặc dù nhiều người đương thời của Hume đã gạt qua những tác phẩm của Hume vì chúng là những công trình của chủ nghĩa hoài nghi và tư tưởng vô thần, nhưng ảnh hưởng của ông là đã hiển nhiên ngay trong thời ông – trong triết lý đạo đức và những tác phẩm kinh tế của Adam Smith, một người bạn thân của ông. Immanuel Kant cũng thú nhận Hume đã đánh thức mình khỏi những “giấc ngủ mê giáo điều”, và khiến “những rử mắt được gột” khỏi mắt Jeremy Bentham. Charles Darwin xem Hume như là một nguồn ảnh hưởng chính yếu, cũng như “con chó dữ bảo vệ Darwin” là Thomas Henry Huxley. Những khuynh hướng đa dạng, trong đó các triết gia tên tuổi này nhận được từ những gì họ lượm lặt khi đọc Hume, không chỉ phản ánh sự phong phú của nguồn đọc mà còn phạm vi lớn rộng của chủ nghĩa kinh nghiệm của Hume. Ngày nay, các nhà triết học nhận Hume như một vị tiền phong của những ngành khoa học về nhận thức (cognitive science) hiện đại, cũng như một triết gia đã khai triển thấu đáo nhất của chủ nghĩa triết học Tự nhiên (philosophical naturalism). (theo The Stanford Encyclopedia of Philosophy)

Khi dịch tác phẩm này – Tôi dùng văn bản:
Hume, David. An Enquiry Concerning Human Understanding. Vol. XXXVII, Part 3. The Harvard Classics. New York: P.F. Collier & Son, 1909–14; Bartleby.com, 2001. www.bartleby.com
Và tài liệu tham khảo – về tác giả và tác phẩm – chính là:
Hume: An Enquiry concerning Human Understanding: And Other Writings (Cambridge Texts in the History of Philosophy) Cambridge University Press (March 5, 2007) – Người biên soạn (Editor): Giáo sư Stephen Buckle
Hume: An Enquiry concerning Human Understanding Oxford University Press, USA; New Ed. / edition (October 15, 2008) – Người biên soạn (Editor): Giáo sư Peter Millican.

(Tóm tắt đầu mỗi chương không có trong nguyên bản, tôi thêm vào, mong giúp người đọc dễ theo dõi.
Những chú thích từ hai tài liệu trên sẽ giữ trong ngoặc vuông [ ... ] Nhũng chú thích khác là của tôi, như thường lệ, nhằm đến người đọc Việt ngữ, với trình độ phổ thông – dĩ nhiên sẽ không khỏi có lầm lẫn ít nhiều – do thiếu hiểu biết, nhưng tôi sẽ đọc lại, tra cứu thêm, và chữa dần cho hoàn chỉnh).
[2] [Triết học đạo đức, theo nghĩa rộng rãi dùng ở đây, chỉ sự học hỏi về bản chất và hành động của con người – đối lại với triết học về tự nhiên, học hỏi về thế giới tự nhiên].
Trong thế kỷ 18, “moral philosophy” tương đương với khoa học nhân văn ngày nay nhưng cộng thêm triết học, hay chính xác hơn – “sự học hỏi, nghiên cứu về những gì có con người làm chủ thể”.
[3] probity: đạo đức xuất sắc hay liêm khiết, chính trực,