Về Thực và Dối
Trong một ý hướng
không-Luân lý
Friedrich Nietzsche (1844-1900)
Über Wahrheit und
Lüge im außermoralischen Sinne
On Truth and Lies
in a Nonmoral Sense (1873)
Friedrich Nietzsche, The birth of tragedy and other writings.
Người dịch bản tiếng Anh: Ronald Speirs.
(Cambridge Texts in the History of
Philosophy – Biên tập: Raymond Geuss & Ronald Speirs . Cambridge University
Press, 1999.) [1]
1.
Ngày
xưa, một lần xưa lắm, trong một góc hẻo lánh nào đó của vũ trụ ấy, đã phân tán
thành vô số những hệ thống mặt trời lấp lánh, có một hành tinh, trên đó những
con thú thông minh đã phát minh ra sự hiểu biết. Đó là phút cao ngạo nhất và
dối trá [2] nhất của “lịch sử thế giới”, nhưng dù
sao đi nữa, nó đã chỉ dài một phút. Sau khi thiên nhiên thở một vài hơi, hành
tinh đó đã nguội lạnh và đóng băng cứng, và giống vật thông minh đã phải chết.
Ai đó đã có
thể tạo một truyền thuyết như vậy, thế nhưng người ấy đã vẫn không minh họa đầy
đủ - nhìn trong phạm vi tự nhiên - trí tuệ con người khốn khổ ra sao, nông cạn
và vô thường ra sao, vô bổ không mục đích và tùy tiện ngẫu nhiên [3]
ra sao. Đã có những thời gian vô tận nó không hiện hữu trong
đó. Và sau khi tất cả đã xong xuôi với trí tuệ con người, không có gì sẽ xảy
ra. Vì trí tuệ này không có thêm sứ mạng nào sẽ dẫn nó vượt quá sự sống con
người. Đúng hơn, nó là thuộc con người, và chỉ kẻ sở hữu và kẻ sinh ra nó mới
nhận lấy nó nghiêm trọng đến thế - như thể trục của thế giới đã quay ở trong
nó. Nhưng nếu chúng ta có thể nói chuyện với một loài muỗi nhỏ tí, chúng ta sẽ
biết rằng tương tự như vậy, con muỗi bay trong không gian với cùng một sự nghiêm
trọng [4],
rằng nó cảm thấy trung tâm bay bổng của vũ trụ nằm bên trong chính nó. Trong tự
nhiên, không có sự-vật-gì ti tiện hèn hạ và tầm thường vô nghĩa như thế lại sẽ
không ngay lập tức phồng to lên giống một quả bóng khi hít được hơi yếu nhẹ
nhất từ sức mạnh này của sự hiểu biết. Và đúng như tất cả mỗi người vác nặng
đều muốn có một người thán phục, nên ngay cả người tự hào nhất của loài người,
nhà triết học, cho rằng ông thấy mắt nhìn của vũ trụ từ mọi hướng rất xa chú
mục trên hành động và tư tưởng của ông.
Đáng chú ý
rằng điều này đã có nguyên nhân là trí tuệ, vốn nó chắc chắn đã được chia phần cho
những sinh linh bất hạnh nhất, mong manh và phù du nhất này, chỉ đơn thuần như
một khí cụ để giữ họ lâu lấy một phút trong sự tồn sinh. Vì nếu không có thêm vào
này, họ sẽ có mọi lý do để chạy trốn thoát sự hiện hữu này cũng nhanh chóng như
đứa con trai của Lessing [5]
. Sự tự hào kết nối với nhận biết và cảm biết, nằm phủ trên mắt và những giác
quan con người, như một lớp sương mù đặc, thế nên đánh lừa họ về vấn đề giá trị
của hiện hữu. Vì tự hào này chứa trong chính nó sự ước lượng tâng bốc nhất về
giá trị của sự hiểu biết. Lừa dối là tác dụng tổng quát nhất của tự hào giống
vậy, nhưng ngay cả những tác dụng đặc thù nhất của nó có chứa bên trong chúng
một gì đó thuộc cùng một cá tính lường gạt.
Trong chừng
mức mà cá nhân muốn duy trì chính mình chống lại những cá nhân khác, trong
những tình huống tự nhiên, anh sẽ sử dụng trí tuệ chính yếu vào sự che dấu.
Nhưng cũng đồng thời, từ nhàm chán và cần thiết, con người ước muốn để hiện hữu
giữa xã hội và với bầy đàn; do đó, anh ta cần làm hòa và gắng gỏi tương ứng để
xua đuổi khỏi thế giới của mình, tối thiểu là cuộc chiến của tất cả chống lại tất cả [7] hiển nhiên nhất. Thỏa thuận hòa bình
này mang đến theo chân nó một gì đó hiện ra là bước đầu tiên hướng về thu nhận
sự thúc đẩy tới sự thật khó hiểu đó: tới sự khôn ngoan [8], vốn
nó sẽ được tính kể như “sự thật”, từ đó về sau đã được thiết lập. Đó là nói
rằng, một danh xưng thỏa thuận giao ước và có hiệu lực giống nhau được phát
minh cho những sự vật, và giống như vậy, sự lập pháp này của ngôn ngữ thiết lập
những luật lệ đầu tiên của sự thật. Vì sự tương phản giữa thật và dối nổi lên ở đây
lần đầu tiên. Kẻ nói dối là một người sử dụng những danh xưng hợp lệ, những từ
ngữ, để làm một gì đó vốn là không-thực xuất hiện là thực. Người ấy nói, lấy
thí dụ, “Tôi thì giàu”, trong khi danh xưng thích đáng cho tình trạng của anh
ta sẽ là “nghèo”. Anh ta lạm dụng những quy ước cố định bằng những phương
tiện của những thay thế tùy tiện, hoặc thậm chí những đảo ngược của những
tên gọi. Nếu anh ta làm điều này trong một phương cách ích kỷ và hơn thế
nữa, gây hại, xã hội sẽ thôi không tin cậy anh ta, và do đó sẽ loại trừ anh ta.
Những gì con người tránh né, bằng cách loại trừ kẻ nói dối, không phải nhiều vì
bị lừa gạt hơn vì bị tổn hại bằng những cách gian lận. Thế nên, ngay cả ở giai
đoạn này, về cơ bản những gì họ ghét thì không phải tự thân sự lừa dối, nhưng
đúng hơn là những hệ quả khó chịu, đáng ghét của những loại nhất định nào đó
của sự lừa dối. Đó là trong cùng một ý hướng thu hẹp tương tự mà con người giờ
đây không muốn gì ngoài sự thật: anh ta muốn những hệ quả dễ chịu, bảo tồn-sự
sống của sự thật. Anh lãnh đạm với kiến thức thuần túy không có những hệ quả; với
những chân lý kia mà có thể có hại và phá hoại, thậm chí anh còn nghiêng sang chống
đối. Và cạnh đó, thế còn chính những quy ước ngôn ngữ này thì sao? Phải chăng
chúng có lẽ là những sản phẩm của tri thức, đó là, theo ý hướng của sự thật? Có
phải những danh xưng tương đẳng với những sự vật? Có phải ngôn ngữ là những
biểu tả xứng đủ của tất cả những thực tại?
Chỉ là bởi
phương tiện của sự quên-đi-không-nhớ nên con người mới từng có thể đạt đến bở
vực của tưởng tượng chính mình sở hữu một “chân lý” thuộc mức độ vừa chỉ định.
Nếu anh ta sẽ không thỏa mãn với sự thật trong những hình thức của phép lập
thừa [9],
đó là nói rằng, nếu anh ta sẽ không hài lòng với những vỏ trống không, sau đó
anh sẽ luôn luôn trao đổi những sự thật với những ảo tưởng. Một từ ngữ là gì?
Nó là sao chép bằng âm thanh của một kích thích thần kinh. Nhưng suy luận xa
thêm hơn từ kích thích thần kinh đến một nguyên nhân nằm ngoài chúng ta thì đã
là hậu quả của một ứng dụng sai lầm và vô lý rồi của nguyên lý về phải có lý do
đủ [10]
. Nếu chỉ một mình sự thật đã là yếu tố quyết định trong sự tạo lập của ngôn
ngữ, và nếu thái độ của chắc chắn đã là quyết định cho những danh xưng, làm sao
chúng ta sau đó có thể vẫn dám nói “hòn đá thì cứng,” như nếu “cứng” đã là
một-gì-đó về mặt khác quen thuộc với chúng ta, và không đơn thuần chỉ là một sự
kích thích hoàn toàn chủ quan! Chúng ta tách biệt sự vật theo như phái tính,
chỉ định loài cây này là giống đực và loài cỏ kia là giống cái [11]
. Những chỉ định thật tùy tiện làm
sao! Điều này bước thật xa quá giới hạn những tiêu chuẩn của chắc chắn! Chúng
ta nói về một “con rắn”: danh xưng (tên gọi) này chỉ chạm đến khả năng tự xoay
trườn vặn vẹo của nó và do đó có thể cũng ứng hợp với một con sâu [12].
Những phân biệt tùy tiện làm sao! Những ưa thích một chiều làm sao, đầu tiên
cho cái này, rồi sau lại cho thuộc tính kia của một sự-vật! Những ngôn ngữ khác
nhau được đặt cạnh bên nhau cho thấy rằng với những từ ngữ nó không bao giờ là
một câu hỏi của sự thật, không bao giờ là một vấn đề của sự diễn tả thỏa đáng,
nếu không, đã không có nhiều ngôn ngữ như thế [13].
“Vật-tự-thân” (vốn chính xác là những gì sự thật thuần khiết, ngoài bất kỳ nào
của những hệ quả của nó, sẽ là) thì cũng giống như vậy, là hoàn toàn không thể
hiểu được với người sáng tạo của ngôn ngữ, và là một gì đó ít đáng giá nhất để
gắng gỏi cho được. Tác giả sáng tạo này chỉ chỉ định những quan hệ của sự vật
với phái nam, và để diễn tả những quan hệ này, ông lợi dụng những ẩn dụ táo bạo
nhất. Để bắt đầu, một kích thích thần kinh được chuyển thành một hình ảnh: ẩn
dụ đầu tiên. Hình ảnh, đến phiên nó, được mô phỏng bằng một âm thanh: ẩn dụ thứ
hai. Và mỗi lần, có một trọn vẹn phủ-lên-nhau của một khu vực, ngay vào giữa
của một khu vực hoàn toàn mới và khác lạ. Người ta có thể tưởng tượng một
người, người ấy hoàn toàn điếc và không bao giờ từng có một cảm giác nào về
tiếng động và tiếng nhạc. Có lẽ một người như vậy sẽ nhìn chằm chằm kinh ngạc
trước những con số âm thanh của Chladni [14], có lẽ người này sẽ khám phá ra nguyên
nhân của chúng trong những rung động của dây đàn, và bây giờ sẽ thề rằng ông
phải biết khi người ta nói “tiếng động” có nghĩa là gì. Nó là lối này với tất
cả chúng ta về chuyện ngôn ngữ; chúng ta tin rằng chúng ta biết một gì đó về
chính những sự vật, khi chúng ta nói về loài cây, màu sắc, tuyết, và các giống
hoa; và ấy thế chúng ta không sở hữu được gì nhưng chỉ những ẩn dụ cho những sự
vật - những ẩn dụ không có cách nào chúng tương ứng với những thực thể gốc
nguồn đầu tiên [15]. Theo cùng
một cách mà âm thanh xuất hiện như là một con số cát [16]
, thế nên bí ẩn X của sự vật trong tự-thân, đầu tiên xuất hiện như là một kích
thích thần kinh, sau đó như một hình ảnh, và cuối cùng như một âm thanh [17].
Thế nên, nguồn gốc tạo lập của ngôn ngữ không tiến hành một cách lôgích trong
bất kỳ trường hợp nào, và tất cả những vật liệu bên trong, và với chúng mà
người của sự thật, nhà khoa học, và triết gia, làm việc và xây dựng về sau này,
nếu không bắt nguồn từ miếng đất tưởng tượng không tưởng [18],
thì ít nhất không bắt nguồn từ yếu tính của những sự-vật.
Đặc biệt,
chúng ta hãy cùng tiếp tục xem xét thêm nữa sự hình thành của những khái niệm.
Mỗi từ ngữ ngay lập tức trở thành một khái niệm đúng trong chừng mức như nó -
không phải đã giả định được đem dùng như là một gợi nhắc về kinh nghiệm nguyên
thủy độc nhất và hoàn toàn cá nhân, vốn nó có nguồn gốc của nó; nhưng đúng hơn,
một từ ngữ trở thành một khái niệm đến chừng mức như nó đồng thời phải vừa vặn
với vô số, hơn hoặc kém, của những trường hợp - có nghĩa là, hoàn toàn và đơn
giản, những trường hợp không bao giờ ngang bằng, và do đó tất cả hoàn toàn
không bằng nhau. Mỗi khái niệm phát sinh từ phương trình của những sự vật không
bình đẳng. Đúng như điều chắc chắn một lá cây thì không bao giờ hoàn toàn giống
như một lá cây khác, vì vậy điều chắc chắn là khái niệm “lá cây” được hình
thành bởi tùy tiện loại bỏ những khác biệt cá nhân này, và bằng cách quên đi
những khía cạnh phân biệt. Điều này đánh thức ý tưởng rằng, ngoài những chiếc
lá, trong thiên nhiên có hiện hữu cái “lá”: mô hình nguyên thủy theo như nó, có
lẽ tất cả những chiếc lá đã được dệt, phác thảo, đo lường, phỏng màu, uốn
cong, và tô vẽ – nhưng bằng những tay kém cỏi, thiếu khả năng, vì thế không vật
mẫu nào đã thành ra là một chân dung trung thực, đáng tin, và chính xác của mô
hình nguyên thủy. Chúng ta gọi một người “trung thực”, và sau đó chúng ta hỏi
“tại sao hôm nay anh cư xử trung thực như thế?” Câu trả lời thông thường của
chúng ta là, “vì lý do là tính trung thực của anh.” Trung thực! Điều này
quay sang có nghĩa rằng chiếc lá là nguyên nhân của những chiếc lá. Chúng ta
không biết gì, dù cho là gì, về yếu tính đức tính gọi là “trung thực”, nhưng
chúng ta thực có biết về vô số những hành động cá nhân và do đó không ngang bằng
nhau, mà chúng ta đánh đồng chúng, bằng cách bỏ qua những khía cạnh trong đó
chúng là không bằng nhau, và bây giờ chúng ta chỉ định như là những hành động
“trung thực” Cuối cùng chúng ta thành hình từ chúng một qualitas occulta [19]
vốn có tên “trung thực”. Chúng ta có được khái niệm, như chúng ta có được thể
dạng, bằng cách bỏ qua những gì là cá-nhân và thực-sự-có, trong khi đó thiên
nhiên thì quen thuộc với không có thể dạng và không có khái niệm, và tương tự thế,
không có những giống-loài, nhưng chỉ với một X, vốn với chúng ta, vẫn còn lại
là không-tiếp-cận được và không định nghĩa được. Vì ngay cả sự tương phản của
chúng ta giữa cá nhân và chủng loại là một gì đó của thuyết nhân cách hóa [20],
và không bắt nguồn từ yếu tính của những sự vật, mặc dù chúng ta không nên đánh
bạo để tuyên xưng rằng sự tương phản này không tương ứng với yếu tính của những
sự vật: điều đó tất nhiên sẽ là một sự khẳng định giáo điều và, như thế, sẽ là
cũng đúng không thể chứng minh được như đối lập của nó [21].
Vậy thì, sự thật là gì?
Một đạo quân di động của những ẩn dụ, những hoán dụ và những nhân cách hóa [22] :
vắn tắt, một tổng số của những quan hệ con người vốn đã từng được làm thêm sâu
đậm, chuyển đổi và tô điểm thêm đẹp, một cách thơ ca và tu từ hoa mỹ, và sau
lâu dài sử dụng, chúng xem dường với một dân tộc là đã cố định, tiêu chuẩn và
ràng buộc. Những sự thật là những ảo tưởng mà chúng ta đã quên là những ảo
tưởng - chúng là những ẩn dụ vốn đã trở thành mòn nhẵn không dùng được nữa và
bị vắt ép kiệt hết sức gợi dục cảm, những đồng tiền đã mất hình đắp nổi của
chúng, và bây giờ được xem như miếng kim loại, và thôi không như những đồng
tiền.
Chúng ta vẫn chưa biết sự
thúc đẩy về sự thực từ đâu đến. Vì đến nay, chúng ta đã chỉ nghe nói đến nhiệm
vụ vốn xã hội áp đặt ngõ hầu có thể sống còn: làm người thật thà trung thực có
nghĩa là sử dụng những ẩn dụ thông dụng thường lệ. Thế nên, để bày tỏ nó một
cách đạo đức, đây là nhiệm vụ để nói dối theo như một quy ước cố định, nói dối
với bầy đàn và trong một cách thỏa thuận ràng buộc cùng tất cả mọi người. Bây
giờ, con người tất nhiên quên rằng đây là đường lối những sự việc cho phép anh
ta. Thế nên, anh nói dối theo cách thức ấn định, từ vô thức và trong thuận hợp
với những tập quán vốn xưa hàng thế kỷ; và đúng là bằng chính những phương tiện của vô thức này và sự
lãng quên, anh đi tới ý thức về sự thật của mình. Từ ý thức rằng người ta giao
ước để chỉ định một điều là “màu đỏ”, điều khác là “lạnh”, và một điều thứ ba
là “câm tiếng”, có phát sinh một thúc đẩy đạo đức liên quan với sự thật. Sự khả
kính, độ tin cậy và tính tiện ích của sự thật là một gì đó mà một người biểu
dương cho chính mình bằng sự tương phản với kẻ nói dối, kẻ không ai tin cậy và bị
mọi người loại ra. Như một sinh vật “có
lý trí”, giờ đây anh ta đặt hành vi của mình dưới sự kiểm soát của những
trừu tượng, anh sẽ thôi không tha thứ nữa tư cách bị những ấn tượng bất ngờ, những
trực giác cuốn đi xa. Đầu tiên, anh phổ cập hóa tất cả những ấn tượng này vào
thành những khái niệm ít màu sắc hơn, lạnh lẽo hơn, như thế để anh có thể ủy
thác sự hướng dẫn đời sống và cư xử của anh với chúng. Điều quan trọng nhất vốn
phân biệt con người với loài vật tùy thuộc trên khả năng này để làm bốc thành hơi
những ẩn dụ tri thức trong một giản đồ, và do thế làm tan chảy một hình ảnh vào
thành một khái niệm. Để một-gì đó là có thể có trong địa hạt của những giản đồ này
vốn không bao giờ có thể thành tựu được với những ấn tượng sống động đầu tiên: sự
xây dựng của một trật tự hình kim tự tháp tùy theo những đẳng cấp và những trình
độ, sự sáng tạo ra một thế giới mới của luật pháp, những đặc quyền, những phụ
thuộc, và những ranh giới được đánh dấu rõ ràng - một thế giới mới, một thế
giới mà bây giờ đối mặt thế giới sống động kia của những ấn tượng đầu tiên như
vững chắc hơn, phổ quát hơn, biết rõ hơn, và con người nhiều hơn so với thế
giới được nhận thức trực tiếp ngay lập tức, và như vậy là thế giới qui định và
bắt buộc. Trong khi mỗi ẩn dụ nhận thức là cá nhân, và không có những ngang bằng,
và do đó có thể trốn tránh tất cả phân loại, những công trình xây dựng lớn lao
của những khái niệm trưng bày sự cân đối đều đặn cứng nhắc của một nhà để tro
hỏa táng Lamã [23], và thở ra
sức mạnh và lạnh lẽo đó trong logich vốn là đặc trưng của toán học. Bất cứ ai
đã cảm thấy hơi thở mát mẻ này [của logic] sẽ khó tin rằng ngay cả khái niệm –
khái niệm như là ‘bằng xương’, ‘có hình ô vuông’, và ‘có thể đặt đảo’ như một
con xúc sắc – tuy thế vẫn chỉ đơn thuần là bã-thừa
của một ẩn dụ, và rằng ảo ảnh vốn đã can dự trong sự chuyển dịch nghệ thuật
của một kích thích thần kinh vào thành những hình ảnh, nếu không phải là mẹ, vậy
là bà ngoại của mỗi khái niệm đơn độc. Nhưng trong trò chơi tào lao khái niệm
này, “sự thật” có nghĩa là sử dụng mọi con xúc sắc theo cách thức đã chỉ định, đếm
những điểm chấm của nó cho chính xác, chế tác đúng những khuôn loại, và không
bao giờ vi phạm trật tự đẳng cấp và cấp bậc tầng lớp. Cũng như những người Lamã
và người Etruscan cắt vòm trời với những đường thẳng toán học cứng nhắc, và giam
đặt một vị gót bên trong mỗi không gian do đó bị giới hạn, như bên trong một đền thờ Lamã [24],
như thế tất cả mỗi người ta đều có một vòm trời khái niệm phân chia tương tự theo
toán học, ở cao bên trên đầu chính họ, và từ đó nghĩ rằng sự thật đòi đòi hỏi
mỗi gót khái niệm được tìm kiếm chỉ
trong vòng vòm trời riêng của mình. Ở đây người ta cũng chắc
chắn có thể ngưỡng mộ con người như là một thiên tài vĩ đại của dinh thự, người
thành công trong việc lợp mái một vòm phức tạp vô tận của những khái niệm, trên
một nền móng không vững, và, như nó đã là, trên giòng nước chảy. Tất nhiên, để
có thể được một nền tảng loại như vậy hỗ trợ, công trình của hắn phải là giống một
xây dựng bằng lưới của loài nhện: mềm đủ để những luồng sóng mang theo được,
mạnh đủ để không bị mỗi cơn gió thổi tan. Như một thiên tài xây dựng, con người
đưa mình vượt cao lên trên con ong trong cách sau: trong khi ong xây dựng với
sáp ong vốn nó thu tập từ thiên nhiên, con người xây dựng với vật liệu khái
niệm tinh tế hơn nhiều vốn trước tiên hắn đã phải tự mình chế tạo lấy. Trong
điều này, hắn được ngưỡng mộ rất nhiều, nhưng không phải trên lý do của thúc
đẩy của hắn đến sự thật, hoặc đến kiến thức tinh thuần về sự vật. Khi một-ai-đó
che giấu một-gì đó sau một bụi cây, và lại đi tìm nó ở cùng chỗ đó, và cũng tìm
thấy nó tại đó nữa, không là có gì nhiều để ca ngợi trong tìm và thấy kiểu như
thế. Thế nhưng, đây là những nội dung đúng như thế nào của vấn đề tìm và thấy “sự
thực” trong lĩnh vực của lý trí. Nếu tôi dựng lên một định nghĩa về loài động
vật có vú, và rồi sau khi quan sát thật kỹ một con lạc đà, tuyên bố “nhìn, một
động vật có vú”, tôi quả thực đã mang ra ánh sáng một sự thật trong cách này,
nhưng nó là một sự thật có giá trị giới hạn. Đó là nói rằng, nó là một sự thật trước
sau hoàn toàn nhân cách hóa [25],
vốn nó không chứa đựng được đến dù chỉ một điểm vốn sẽ là “đúng thực trong tự-thân”,
hay thực sự và có giá trị phổ quát, tách ra khỏi con người. Trong bản chất,
những gì một người nghiên cứu về những sự thật loại giống vậy đương tìm kiếm là
chỉ sự biến-thái-hình-dạng [26]
của thế giới vào trong con người. Người ấy nỗ lực để hiểu thế giới như là một-gì
đó tương tự với con người, và trong điều kiện tốt nhất, bởi cuộc đấu tranh của
mình, anh ta đạt được cảm giác của sự đồng hóa. Tương tự như cách những nhà
chiêm tinh xem những vì sao là trong dịch vụ phục vụ con người, và kết nối với
hạnh phúc và buồn khổ của con người, một người nghiên cứu giống thế xem toàn bộ
vũ trụ như kết nối với con người: toàn bộ vũ trụ như là những tiếng vọng đứt
đoạn vô tận của một con người-âm thanh ban đầu, toàn bộ vũ trụ như là bản sao nhân
lên vô hạn của một con người-hình ảnh ban đầu. Phương pháp của anh ta là để đối
đãi con người như là thước đo của tất cả mọi sự-vật, nhưng khi làm như vậy, anh
ta lại tiến hành từ sai lầm của tin tưởng rằng anh nắm có những sự vật này [những
điều mà anh định đo lường] trực tiếp ngay trước anh ta, như chỉ là những đối
tượng. Anh quên rằng những ẩn dụ cảm nhận ban đầu là những ẩn dụ, và lấy chúng
là chính tự thân những sự vật.
Chỉ bằng cách quên đi thế
giới nguyên thủy này của ẩn dụ, làm người ta có thể sống với bất kỳ nghỉ ngơi,
an ninh, và nhất quán nào: chỉ bằng phương tiện của sự hóa đá và đông cứng của
một khối lượng những hình ảnh vốn ban đầu tuôn chảy trực tiếp từ những khả năng
nguyên thủy của trí tưởng tượng của con người, giống như một chất lỏng bốc lửa,
chỉ trong niềm tin không thể bị đánh bại, mà mặt trời này, cửa sổ này, cái bàn này là một sự thật trong chính nó, trong
vắn tắt, chỉ bằng cách quên đi rằng bản thân chính anh ta là một chủ thể sáng tạo nghệ thuật, làm con người sống
với bất kỳ yên ổn, vững chắc, và thuận hợp trước sau nào. Nhưng chỉ một khoảnh
khắc, nếu anh ta có thể thoát khỏi những bức tường nhà tù của tin tưởng này,
“tự-ý thức” [27] của anh sẽ
bị phá hủy ngay lập tức. Nó thậm chí còn một điều khó khăn cho anh để thú nhận
với chính mình rằng côn trùng hoặc loài chim cảm nhận một thế giới hoàn toàn
khác biệt với một thế giới mà con
người cảm nhận, và rằng câu hỏi - những nhận thức nào trong nững nhận thức này
về thế giới là những nhận thức chính xác hơn – thì hoàn toàn vô nghĩa, vì việc
này đã phải được quyết định trước đó trong phù hợp với tiêu chuẩn của (thế nào
là) nhận thức chính xác, có nghĩa là,
phù hợp với một tiêu chuẩn vốn là không
có sẵn. Nhưng dù trong trường hợp nào đi nữa, có vẻ như với tôi rằng “nhận
thức đúng” – vốn có nghĩa là “sự biểu hiện đầy đủ của một đối tượng trong chủ thể”
- là một sự không-có-thể mâu thuẫn. Vì giữa hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau, như giữa chủ thể và
đối tượng, không có quan hệ nhân quả, không có sự đúng thực, và không có biểu
hiện; có nhiều nhất là một quan hệ thẩm
mỹ: Tôi muốn nói có nghĩa là, một gợi ý chuyển nhượng, một bản dịch lắp bắp
vào trong một giọng lưỡi hoàn toàn xa lạ - vì nó mà đã có yêu cầu, trong bất kỳ trường hợp nào, một
lĩnh vực trung gian sáng tạo tự do và lực lượng trung gian. “Dạng ngoài” [28]
là một từ có chứa nhiều cám dỗ, đó là lý do tại sao tôi tránh nó càng nhiều
càng tốt. Vì là không đúng sự thật rằng bản chất của sự vật “xuất hiện” [29]
trong thế giới kinh nghiệm. Một họa sĩ không có tay, người ấy ước muốn diễn tả
qua bài hát, hình ảnh có trước não thức của mình, bằng phương tiện của sự thay
thế trong lĩnh vực này, vẫn còn tiết lộ nhiều hơn về bản chất của những sự vật,
hơn là thế giới thực nghiệm tiết lộ. Ngay cả sự liên hệ của một kích thích thần
kinh với hình ảnh được tạo nên thì không phải là một (liên hệ) cần thiết. Nhưng
khi cùng một hình ảnh đã được tạo ra hàng triệu lần, và đã được truyền xuống
cho nhiều thế hệ, và cuối cùng xuất hiện vào cùng mỗi dịp, tất cả mọi lần cho
tất cả nhân loại, sau đó nó cuối cùng có được cùng một ý nghĩa giống nhau cho
con người, nó vốn đã có, nếu như nó đã là hình ảnh tất yếu độc nhất, và nếu như
liên hệ của những kích thích thần kinh ban đầu với hình ảnh được tạo ra đã là
một liên hệ một liên hệ nghiêm chỉnh hoàn toàn nhân quả. Trong cùng một cách
thức, một giấc mơ lặp đi lặp lại mãi mãi đến vĩnh viễn, chắc chắn sẽ được cảm
nhận và đánh giá là thực tại Nhưng sự hóa đá và đông tụ của một ẩn dụ hoàn toàn
bảo đảm rằng tuyệt đối không có gì liên quan đến sự cần thiết và sự biện minh
dành riêng của nó.
Tất cả mỗi người là người quen thuộc
với những cân nhắc loại như thế, không nghi ngờ gì đã cảm thấy một sự thiếu tin
cậy sâu xa về tất cả những chủ nghĩa duy ý [30]
thuộc loại này: cũng đúng như thường xuyên như người ấy hoàn toàn đã sớm
thuyết phục chính mình về tính nhất quán trước sau như một mãi mãi, có mặt khắp
nơi, và có thể sai lầm của những luật của tự nhiên. Người ấy đã kết luận rằng
cho đến chừng mức như chúng ta có thể nhìn thấu xuốt ở đây - từ những chiều cao
của kính viễn vọng đến những chiều sâu của kính hiển vi - tất cả mọi sự-vật là
an toàn, đầy đủ, vô hạn, thường xuyên, và không có bất kỳ khoảng trống nào.
Khoa học sẽ có khả năng thành công đào xới mãi mãi trong hầm mỏ này, và những
sự vật được khám phá sẽ hài hòa và không mâu thuẫn với nhau. Có phải điều này
ít giống như một sản phẩm của sự tưởng tượng lắm không, vì nếu đã là như thế,
sẽ có một vài chỗ nào đó, ở đấy ảo tưởng và phi thực tại có thể là siêu phàm.
Chống lại điều này, phải nói như sau đây: nếu như mỗi chúng ta có một loại khác
nhau của nhận thức giác quan - nếu chúng ta chỉ có thể nhận thức sự vật bây giờ
như một con chim, bây giờ như một con sâu, bây giờ như một cây cỏ, hoặc nếu một
người trong chúng ta nhìn thấy một kích thích như màu đỏ, một người khác như
màu xanh, trong khi một người thứ ba thậm chí còn nghe nhận cùng một kích thích
như một âm thanh - sau đó không ai sẽ có thể nói về tính một tính qui củ đều
đặn thường hằng của tự nhiên như thế, đúng hơn tự nhiên sẽ được nắm bắt chỉ như
là một sáng tạo vốn nó chủ quan ở mức độ cao nhất. Dù sao cuối cùng, một luật
của tự nhiên như vậy với chúng ta là gì? Chúng ta không quen biết với nó trong
tự thân nó, nhưng chỉ với những hiệu ứng của nó, có nghĩa là trong những quan
hệ của nó với những luật khác của tự nhiên – vốn, lần lượt, được biết đến với
chúng ta chỉ như là những tổng số của những quan hệ. Thế nên tất cả những quan
hệ này luôn luôn lại nhắc dẫn đến những quan hệ khác, và với chúng ta, hoàn
toàn không thể hiểu được trong bản chất của chúng. Tất cả chúng ta thực sự biết
đó về những luật này của tự nhiên là những gì chúng ta mang đến cho chúng -
thời gian và không gian, và do đó những sự liên hệ của chuỗi kế tiếp và số.
Nhưng tất cả mọi thứ tuyệt vời về những luật của tự nhiên, tất cả mọi thứ làm
chúng ta hoàn toàn sững sờ, trong đó và xem dường đòi sự giải thích, tất cả mọi
thứ mà có thể dẫn chúng ta đến mất tin cậy vào chủ nghĩa ý tưởng: tất cả những
điều này là hoàn toàn và chỉ có trong sự chặt chẽ toán học và tính bất khả xâm
phạm của những đại diện của chúng ta về thời gian và không gian. Nhưng chúng ta
sản xuất những đại diện này trong và từ chính chúng ta, với cùng một sự cần
thiết mà với nó con nhện giăng tơ. Nếu chúng ta buộc phải hiểu tất cả mọi thứ
chỉ dưới những hình thái này, vậy sau đó thôi không còn là tuyệt vời rằng trong
tất cả mọi thứ chúng ta thực sự thấu hiểu không-gì nhưng chỉ những hình thái
này. Vì chúng tất cả đều mang bên trong chúng những luật của con số, và chính
xác là con số vốn chúng làm sững sờ nhất trong những sự vật. Tất cả tính phủ
hợp đó, tuân-theo-đúng với luật, gây nhiều ấn tượng cảm kích như thế cho chúng
ta trong chuyển vận của những ngôi sao và trong những tiến trình hóa học, trùng
hợp ở dưới đáy với những thuộc tính mà chúng ta mang đến những sự vật. Thế nên,
đó là chúng ta là người gây ấn tượng cảm kích cho tự chúng ta theo cách này.
Cùng chung với điều này, tất nhiên dẫn đến rằng tiến trình nghệ thuật của sự
hình thành phép ẩn dụ, với nó tất cả mỗi cảm giác bắt đầu trong chúng ta đã bao
hàm những hình thái này rồi, và thế nên xảy ra bên trong chúng. Cách duy nhất
mà trong đó khả năng của xây dựng tiếp nối sau đó một dinh thự khái niệm mới từ
chính tự thân những ẩn dụ có thể được giải thích bởi sự bền bỉ dai dẳng của
những hình thái ban đầu. Đó là nói rằng, dinh thự khái niệm này là một mô phỏng
những quan hệ thời gian, không gian, và bằng-số trong lĩnh vực của ẩn dụ.
Lê Dọn
Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(July/2012)
[1] Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (nhan đề này trong Anh ngữ là: “On Truth and Lies in a
Nonmoral Sense”, cũng có bản là “On Truth and Lie in an Extra-Moral Sense”
Nguyên nằm trong di thảo của Nietzsche – những gì đã không
xuất bản lúc Friedrich Nietzsche còn sống, ông viết bài này năm 1873, sau The Birth of Tragedy một năm.
Tôi dịch theo bản Anh ngữ của tùng thư Cambridge – có tham
chiếu và phân đoạn theo bản dịch phổ thông của W. Kaufmann cho dễ đọc.
Tham khảo thuật ngữ Đức trong nguyên bản, tôi dùng: http://www.nietzschesource.org
Bản Anh ngữ của Cambridge dịch từ bản Đức ngữ - Nietzche Toàn
tập – do Giogio và Mazzino Montinari biên tập, Berlin, de Gruyter, 1967-77.
[2]
“hochmüthigste und
verlogenste”
[3]
“kläglich, schattenhaft
und flüchtig, zwecklos und beliebig”
[4]
pathos
[5] Trong một
bức thư nổi tiếng Johann Joachim Eschenburg (31/12/1778), nhà viết phê bình và
lịch sử văn học người Đức, Lessing nhắc đến cái chết của đứa con trai sơ
sinh của mình, đó là người “đã hiểu thế giới quá rõ, khiến nó bỏ thế giới ngay
khi có cơ hội đầu tiên”.
[6] Forms: những “hình thái” – những khái niệm siêu hình
học của Kant; thí dụ, theo Kant không gian
và thời gian là những hình thái thuần túy của trực giác.
[7] Trong
nguyên văn “bellum omni contra omnes”
– của Thomas Hobbes – ngày nay thường hiểu là cuộc chiến của “mỗi một chống lại
tất cả”.
[8] philosophy
– triết học - ngữ nguyên Hylạp: philosophia
= “yêu sự khôn ngoan”.
[9]
tautology
[10] Principle
of Sufficient Reason (= PSR) - [principe de raison suffisante / principium
reddendae rationis]’ từ của Leibniz, tạm dịch là “nguyên lý về phải có lý do
đủ”.
Nguyên
lý PSR phát biểu : “Với mỗi sự kiện F, phải có một giải thích
tại sao F xảy ra”.
Khi
phát biểu rằng tất cả mọi sự việc phải có một nguyên nhân hay lý do. PRS là một
nguyên lý mạnh mẽ và gây tranh cãi Đòi hỏi đơn giản này về sự dễ hiểu trước sau
triệt để, đã đem lại một số luận đề táo bạo nhất và thử thách nhất
trong lịch sử siêu hình học và nhận thức luận.
Ở
đây, Nietzsche phê bình Schopenhauer.
[11]
Trong tiếng Đức: cây (mộc) = der Baum,
cây cỏ (thảo) = die Pflanze.
Như trong tiếng Pháp. Chúng ta cũng tùy tiện trong
cái/con: “cái cò cái vạc cái nông” nhưng “con trâu con bò” - hay
“con ong” nhưng “cái kiến” – dĩ nhiên cái và con của chúng ta không có chỉ phái
tính.
[12]
Câu này tùy thuộc vào ngữ nguyên của những từ trong tiếng Đức: Schlange (con rắn) và schlingen (uốn ngoằn ngoèo) đều có gốc
từ slango.
[13]
Nietzsche phản đối ở đây là lý thuyết cho rằng có một loại như liên kết “tự
nhiên ứng hợp” giữa những từ nào đó (hay âm của từ) với sự vật. Lý thuyết này
thấy trong Cratylus của Plato.
[14]
Ernst Florens Friedrich Chladni (1756–1827) : nhà vật lý và nhạc sĩ người Đức – do những công trinhh
nghiên cứu về âm thanh của ông – ông được gọi là cha đẻ của Âm học (acoustics).
[15]
Wesenheiten
[16]
Những con số trong thí nghiệm của Chladni - ghi lại khi có những chấn động tạo những dạng sóng của cát
mịn đổ trên trên mặt đĩa thí nghiệm.
[17]Một
cách tổng quát – chúng ta cảm nhận qua giác quan con người (mắt nhìn, tai nghe,
tay sờ, mũi ngửi...) – những cảm nhận đó – với chúng ta - là những gì đươc xem
là những kích thích thần kinh (tưởng tượng nếu chúng ta bị hư hại, không có,
hay có nhưng khác đi những cơ năng thần kinh đó, sự nhận biết của chúng ta sẽ
là gì, ra sao) - sau đó chúng ta
tạo dựng một hình ảnh nào đó trong não thức chúng ta (hình ảnh chúng ta có về
con rắn trườn ngoằn ngèo trước
mắt, chắc chắn khác với hình ảnh đó trong não thức, nếu có và tạm gọi vậy, của
một con thú khác – thí dụ, dơi ban đêm, chó ban ngày - khi chúng thấy cùng con
rắn - và sau cùng, chúng ta biểu
tả hình ảnh chúng ta tạo dựng đó trong não thức - vì nhu cầu truyền thông -
bằng một âm thanh - tên gọi - “con rắn” – (ngày nay, chúng ta có thể tưởng
tượng dễ dàng hơn – giả thử với một sinh vật từ một hành tinh nào khác chẳng
hạn) – Sau đó, khi nhắc đến, hồi tưởng về “con rắn” – hình ảnh chính là động
tác trườn bò ngoằn ngèo, thuộc tính chính của con thú – và khi thấy một dòng
sông, một con đường ngoằn ngèo, chúng ta cũng dùng ẩn dụ “như con rắn” để diễn tả những đối tượng dù không là
sinh vật đó, và đôi khi chúng ta
cũng có thể lầm lẫn gọi một con trùng lớn bắt làm mồi câu cá – là một con rắn
nhỏ! Chúng đều bò ngoằn ngèo giống hệt nhau.
[18]
Wolkenkukuksheim: nghĩa đen
“cloud-cuckoo-land”
[19] Đức tính ẩn
dấu, phẩm tính bí mật, siêu nhiên
[20] anthropomorphism –
nhìn những gì không-người qua dạng người, gán những tính-người cho những gì
không-phải người: gót, thú vật hay đồ vật.
[21]
Ở đây, Nietzsche phê bình Kant.
[22] “Was ist also
Wahrheit? Ein bewegliches Heer von Metaphern, Metonymien, Anthropomorphismen”.
Đây là một
phát biểu độc đáo và nổi tiếng:
Metaphor - Metaphern – ẩn dụ - gốc Hylạp: metaphora,
< metapherein - nghĩa
đen là ‘di chuyển.’
Metonymy – Metonymien - hoán dụ - gốc Hylạp: metōnumia, nghĩa đen là ‘đổi tên gọi.’
“Trời xanh quen
thói má hồng đánh ghen” – trong câu nổi tiếng này của chúng ta – có cả
hai thí dụ - ẩn dụ (Trời xanh) rồi hoán dụ (má hồng) – và cả nhân
cách hóa (trời- quen thói/đánh ghen).
Anthropomorphism – Anthropomorphismen: nhân cách hóa
– thí dụ “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” – gán những thuộc tính,
hình dạng,... những gì của con người cho không-con-người (gót, trời, cây cỏ, sự
vật,...).
[23]
Nguyên văn “columbarium”: phòng hay
nhà lớn – trữ những bình đựng di cốt tro, từ hỏa táng những người đã chết.
Trong thời cổ Lamã, những columbarium thường xây ngầm dưới đất. Các khung, hay
ô bên trong – vuông vắn, đều đặn giống như kiến trúc của chuồng bồ câu.
[24]
nguyên văn “templum”. Trong nội dung
ở đây Nietzsche chỉ một không gian bị giới hạn, cấm đoán hay bó buộc theo với
một chủ đích nào đó, đặc biệt như trong tôn giáo với những lĩnh vực cấm kị
[25]
anthropomorphic truth : sự thật được
nhìn theo/với /mô phỏng con người – ở đây tôi hiểu và tạm dịch là nhân cách hóa (人格化) - biến hóa, chuyển đổi (hóa) vướng mắc (cách) với con người - thí dụ chúng ta có khái niệm về thần
linh – như gót chẳng hạn – với định nghĩa gót không là con người, ít nhất phải
khác người - nhưng khi nói về gót, chúng ta vẫn gán những khái niệm giận dữ,
trả thù, trừng phạt, thương yêu,...của con người cho gót.
Một
ngày nào đó, nếu rồi tôi có thể “nói chuyện” - bằng trao đổi những suy nghĩ qua
những tần sóng điện trường - với một con bướm về hoa cúc, những gì con bướm nói
về hoa cúc, chắc chắn khác với những hình ảnh, thuộc từ tôi nói về hoa cúc –
loài bướm đã chết, hay di cư đi mất, cứ mỗi cuối mùa thu, nó không bao giờ có
hình ảnh hoa cúc rữa trong mưa, khô trong tuyết, tàn lụi cuối đông.
Tôi
và bướm đều cố đi đến một mô tả “đúng thực” về hoa cúc, nhưng có hai đúng thực
– một theo bướm và một theo tôi, sự thực của tôi đã bị nhân hóa, không thể tránh. Đó là một sự thực nhìn theo mắt người, cho con người. Như thế,
không có sự thật tuyệt đối, khách quan, ngoài con người.
[26]
metamorphosis
[27]
self consciousness: tự ý thức kiểu
như Descartes – cogito ergo sum.
[28]
Appearance – tiếng Đức “Erscheinung”.
[29]
tiếng Đức “erscheint”.
[30]
idealism – chủ nghĩa duy ý -
trước đây vẫn gọi là chủ nghĩa duy tâm. Nổi tiếng với Berkeley, đặc biệt những
triết gia nổi tiếng người Đức, Nietzche muốn nhắc tới trong bài này là
Kant, Schopenhauer và Hegel.