Tuesday, October 29, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (09)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 

 





Chương 7

 Sinh-Ngôn ngữ học Và Khả Năng Con Người

 

Tôi muốn nói vài lời về những gì đã đi đến được gọi là “quan điểm sinh-ngôn ngữ học, vốn đã bắt đầu hình thành nửa thế kỷ trước đây, trong những thảo luận giữa một ít sinh viên ban tiến sĩ, những người đã nhận nhiều ảnh hưởng của những phát triển trong sinh học và toán học trong những năm đầu sau chiến tranh, gồm nghiên cứu trong hành vi động vật học mới được biết đến ở nước Mỹ [1]. Một trong số họ là Eric Lenneberg, người có nghiên cứu nền tảng Biological Foundations of Language, năm 1967, vẫn là một tài liệu cơ bản của lĩnh vực. Vào thời điểm đó, những trao đổi đáng kể đã được tiến hành, gồm những hội thảo liên ngành và hội nghị quốc tế. Môn học có ảnh hưởng sâu rộng nhất, vào năm 1974, lần đầu tiên được gọi là “sinh-ngôn ngữ học”. Nhiều câu hỏi hàng đầu được thảo luận ở đó vẫn còn rất sống động cho đến ngày nay.

Monday, October 28, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (08)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 

 

 

 


Chương 6

Ngữ học và Triết học

 

Những phương pháp và những quan tâm của những nhà ngữ học và triết gia giống nhau trong rất nhiều phương diện đến mức tôi tin rằng sẽ là thiếu khôn ngoan nếu đòi nhấn mạnh trên sự tách biệt rạch ròi giữa những ngành học này, hoặc để một trong hai giữ thái độ phớt lờ hẹp hòi với những hiểu biết đã đạt được ở ngành kia. Có thể trích dẫn một số thí dụ để minh họa khả năng của trao đổi có thành quả giữa hai ngành. Zeno Vendler, trong quyển sách gần đây, Linguistics and Philosophy / ngữ học và Triết học, còn đi xa hơn khi chủ trương rằng “khoa học của ngôn ngữ học cấu trúc” [1] đem “một kỹ thuật mới” cho triết học phân tích, một kỹ thuật “không gì khác hơn là sự tiếp tục tự nhiên của dòng phát triển vốn được định hình bởi những triết gia về ngôn ngữ thông thường đến J. L. Austin”. [2]Vì những lý do tôi sẽ quay lại sau, tôi có một chút hoài nghi về sự đóng góp vốn ngữ học có thể đem cho triết học theo những đường lối vốn ông phác họa, nhưng tôi nghĩ ông đã cho thấy rằng một số những khái niệm nhất định của ngữ học có thể được dùng một cách hiệu quả trong nghiên cứu những vấn đề vốn đã nổi lên trong triết học phân tích.

Sunday, October 27, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (07)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 

 

 




Chương 5

 

Bản chất cấu trúc và qui luật của ngôn ngữ

(tiếp theo)

  

Cấu Trúc Của Thành Phần Cú Pháp

 

Thành phần cú pháp của một ngữ pháp phải phát sinh (xem chú thích 12) những cặp (D, S), trong đó D là một cấu trúc sâu và S là cấu trúc ngoài mặt liên kết. Cấu trúc ngoài mặt S là một dấu ngoặc vuông có dán nhãn của một chuỗi của những dạng thức và những mối nối liên kết. Cấu trúc sâu D là một dấu ngoặc vuông có dán nhãn phân loại ngữ pháp xác định một mạng lưới chức năng ngữ pháp nhất định và những quan hệ ngữ pháp giữa những phần tử và nhóm phần tử vốn nó cấu thành. Rõ ràng, thành phần cú pháp phải có một số hữu hạn của những quy luật (hay lược đồ quy luật), nhưng chúng phải được tổ chức sao cho có thể phát sinh một số vô hạn của những cặp (D, S) của những cấu trúc ngoài mặt và cấu trúc sâu, mỗi cặp tương ứng với mỗi câu được diễn giải. (nghĩa là được giải thích về phương diện ngữ âm và ngữ nghĩa) của ngôn ngữ. [1] Trên nguyên tắc, có nhiều cách khác nhau để tổ chức một hệ thống như vậy. Thí dụ, nó có thể gồm những quy luật độc lập tạo ra những cấu trúc ngoài mặt và sâu và những điều kiện tương hợp nhất định liên quan với chúng hay những quy luật tạo ra những cấu trúc ngoài mặt kết hợp với những quy luật ánh xạ  chúng vào cấu trúc sâu liên quan hay những quy luật tạo ra những cấu trúc sâu kết hợp với ánh xạ  quy luật chúng thành những cấu trúc ngoài mặt.[2] Sự lựa chọn đúng trong số những phương án thay thế này tùy thuộc vào bằng chứng khách quan và những thuộc tính thực sự của ngôn ngữ, không vào sở thích cá nhân hay những quyết định tùy tiện. Chúng ta phải hỏi lựa chọn thay thế nào có thể thực hiện được những khái quát hóa sâu xa nhất và giải thích sâu rộng nhất của những loại hiện tượng ngôn ngữ thuộc nhiều loại khác nhau. Giống như những phương diện khác của ngữ pháp phổ quát, ở đây chúng ta đang giải quyết một tập hợp những câu hỏi thực nghiệm; Có thể khó thu được bằng chứng quan trọng, nhưng từ đó chúng ta không thể kết luận rằng, trên nguyên tắc, không có đúng sai trong vấn đề này.

Saturday, October 26, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (06)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 

 

 

 

Chương 5

 

Bản chất cấu trúc và qui luật của ngôn ngữ

 

Những thuộc tính tổng quát của ngôn ngữ

 

Dù đã có nhiều thế hệ nghiên cứu học thuật thành quả, những câu hỏi bài viết này nói đến có thể nhận được chỉ những trả lời khá dọ dẫm, không chắc chắn. Chỉ một số ít ngôn ngữ được nghiên cứu và mô tả chi tiết, với phân tích toàn diện về cấu trúc, ngữ pháp và cách dùng, và chỉ có những phương diện đã chọn lọc của ngôn ngữ đã từng được nghiên cứu với đủ thận trọng và thành công để đem bằng chứng hỗ trợ cho những kết luận của một bản chất tổng quát. Tuy nhiên, với một mức độ tự tin nào đó, vẫn là có thể nói đại cương về những thuộc tính và những điều kiện nhất định vốn phân biệt những ngôn ngữ con người giữa những hệ thống tùy tiện của vận dụng về dấu hiệu, truyền thông giao tiếp và tự biểu hiện.

 

Năng lực và hiệu năng

Thursday, October 24, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (05)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky







Chương 4

 

Dạng Thức Và Ý Nghĩa Trong Những Ngôn Ngữ Tự Nhiên.

 

Khi nghiên cứu ngôn ngữ con người, chúng ta đi đến gần sự hiểu biết sâu hơn vào những gì một số người có thể gọi là “yếu tính con người”, những đặc tính phân biệt của não thức, như chúng ta biết cho đến nay, là duy nhất với con người và không thể tách ra khỏi bất kỳ giai đoạn quan trọng nào của sự hiện hữu con người, cá nhân hay xã hội. Do đó là sự lôi cuốn của nghiên cứu này, và cũng không kém, sự bế tắc thất vọng của nó. Sự bế tắc thất vọng nổi lên từ sự kiện là mặc dù có nhiều tiến bộ, chúng ta vẫn bất lực như trước đây trong việc giải quyết vấn đề cốt lõi của ngôn ngữ loài người, vốn tôi cho là như thế này: sau khi đã thành thạo một ngôn ngữ, người ta có thể hiểu được một số vô hạn của những diễn đạt mới lạ với kinh nghiệm của mình, không có sự giống nhau đơn giản nào về phương diện vật lý và không có bất kỳ cách tương tự nào với những diễn đạt cấu thành kinh nghiệm ngôn ngữ của cá nhân; và người ta có thể, với khả năng ít nhiều, tạo ra những diễn đạt như vậy vào một dịp thích hợp, bất chấp sự mới lạ của chúng và độc lập với những hình thành kích thích có thể nhận ra được, và được những người khác hiểu, những người cùng có khả năng vẫn còn bí ẩn này. [1] Theo ý hướng này, việc thông thường dùng ngôn ngữ là một hoạt động sáng tạo. Phương diện sáng tạo này của việc thông thường dùng ngôn ngữ là một yếu tố nền tảng vốn phân biệt ngôn ngữ con người với bất kỳ hệ thống truyền thông giao tiếp nào được biết của loài vật.

Tuesday, October 22, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (04)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 


 


Chương 3


Những đóng góp của ngữ học cho việc nghiên cứu não thức: tương lai

 

Trong thảo luận về quá khứ, tôi đã nhắc đến hai truyền thống chính vốn đã làm giàu cho nghiên cứu ngôn ngữ trong những đường lối riêng biệt và rất khác biệt của chúng; và trong bài giảng cuối của tôi, tôi đã cố gắng đem cho một số chỉ dẫn về những đề tài xem dường ngày nay đã thấy ở chân trời, khi một dạng tổng hợp giữa ngữ pháp triết học và ngôn ngữ học cấu trúc bắt đầu hình thành. Mỗi truyền thống nghiên cứu và giả thuyết chính vốn tôi dùng như một điểm viện dẫn đã liên kết với một phương pháp nghiên cứu giải quyết biểu thị đặc điểm nhất định với những vấn đề của não thức; chúng ta có thể nói một cách công bằng rằng mỗi truyền thống phát triển như một nhánh chuyên biệt của tâm lý học thời bấy giờ, đóng góp những hiểu biết và lý thuyết riêng biệt của nó vào sự hiểu biết rộng hơn về nhận thức của con người.