(Facets
Of Buddhist Thought)
K. N. Jayatilleke
3
Khái Niệm Về Sự Thật Trong Đạo Phật
Một trong năm giới luật một người đạo Phật phải nhận để tuân theo là “tránh không nói
những gì là sai lầm”.
Được nêu trong dạng tiêu cực cũng như tích cực của nó, người này phải
“kiềm chế không nói những gì là sai lầm,
khẳng định những gì là đúng (sacca-vádi),
tận tụy hết lòng với sự thật (sacca-sandha),
là trung thực (theta), là đáng tin
cậy (paccayika) và không là một người lừa dối
thế gian” (avisaívádako
lokassa) (AN 4: 198 / A II 209). Sự cần
thiết của việc nói sự
thật là một trong Mười Đức Hạnh (dasa kusala-kamma) vốn một người
phải thực hành cho sự tốt lành riêng của chính mình cũng
như cho sự tốt lành của xã hội. Vì đã chủ trương rằng một trật tự xã hội công chính, trong số những sự việc khác, đòi
hỏi rằng dân chúng trong đó là chân thực và
nói sự thật. Trong nội dung này, mô
tả đã có nghiêng sang mặt xã hội, về phần tại sao người ta nên nói sự thật: “Ở đây, một người cư sĩ nhất định nào đó bác bỏ sự
giả dối, cố gắng tránh nói những gì là sai lầm, và khẳng định sự thật cho dù người
ấy có ở trong một nhóm
người hội họp chính thức hay không, hay trong một đám đông, hay ở nhà riêng giữa
những người thân của người ấy hay ở nơi làm
việc của người
ấy, hay khi người ấy được gọi để làm
chứng theo luật pháp trước tòa
án, từ chối đã biết hay nhìn thấy những gì người ấy không biết, hay thấy và tuyên bố đã biết hay nhìn thấy những gì người ấy đã biết hay
đã thấy. Vì vậy, không vì lợi ích của mình hay vì lợi ích của người khác, cũng
không phải vì lợi ích vật chất nào đó, người ấy sẽ đưa lên một
sự giả dối có chủ ý”. (Sáleyyaka
Sutta, MN 41.13 / MI 288).
Tuy nhiên, chính ngữ thì không giới hạn vào đòi hỏi của nói sự thật. Cũng là cần thiết rằng (1) một người tránh vu
khống, vốn gây những chia rẽ, những bất đồng
giữa mọi người, và hạn chế chính mình với những
phát biểu vốn làm xảy ra sự hòa hợp và hiểu biết xã hội; (2) một người kiềm
chế ngôn ngữ ác độc tàn nhẫn hay tục tằn thô lỗ và cư xử hòa nhã và lịch sự trong lời nói của người ấy, nói những gì dễ chịu; và (3)
tránh những chuyện ngồi lê đôi mách, tầm phào, đồn nhảm, và nói đúng lúc, thuận hợp với luật pháp vốn những gì là có lợi,
chính đáng và sự thật.
Đôi khi, một ngoại lệ được đưa ra trong trường hợp (2) ở đó được cho rằng những phát biểu của chúng
ta, ngay cả khi đúng, có thể hoặc dễ chịu hoặc khó chịu.
Đó là đôi khi cần để nói những
gì là đúng nhưng khó chịu khi nó có ích,
cũng giống như nó là cần thiết để móc ngón tay
vào cổ họng một đứa trẻ, ngay cả khi
nó bị hơi đau, để lôi
ra một gì đó vốn đã mắc nghẹn trong đó ở đó. Thế nên, trong Abhayarájakumára
Sutta (MN 58), [1] người ta
chỉ ra rằng những phát biểu có thể đúng hay sai, có ích hay vô ích và dễ chịu
hay khó chịu. Điều này dẫn đến tám khả năng như sau:
1. Đúng thực có ích dễ
chịu
2. Đúng thực có ích
khó chịu
3. Đúng thực vô ích dễ chịu
4. Đúng thực vô ích khó chịu
5. Sai lầm có ích dễ
chịu
6. Sai lầm có ích
khó chịu
7. Sai lầm vô ích dễ chịu
8. Sai lầm vô ích khó chịu
Trong tám điều có thể xảy ra, đã nói rằng Như Lai (Tathágata) khẳng định những điều 1. và 2. vào thời điểm thích hợp. Bản văn viết: “Người ấy sẽ khẳng định
vào thời điểm thích hợp một phát biểu vốn người
ấy biết là đúng, căn cứ trên sự thật, có ích,
hợp ý và dễ chịu với những người
khác”, tức là (1) … “Người ấy sẽ khẳng định vào thời điểm thích hợp một phát biểu vốn người ấy biết là đúng, căn cứ trên sự
thật, có ích,
không hợp ý và khó chịu với người khác”, nghĩa
là (2) Việc nói dối thì bị cấm và cần thiết để tìm và nói
sự thật thì đã nhấn mạnh
vì hành động như thế thúc đẩy
hạnh phúc của một người cũng
như sự tiến bộ và hòa hợp xã hội. Tuy nhiên, một người chỉ gánh chịu chỉ trích về đạo
đức nếu người ấy có một ý định để lừa dối
và gây sự bất hòa. Nhưng bất cẩn thì cũng phải tránh để một người đạo Phật phải hành
động với một ý thức cao về trách nhiệm với những gì người ấy nói, nhìn theo những hậu
quả xã hội có thể xảy ra.
Bản Chất Của Sự Thật
Những phát biểu của đạo
Phật hay Dhamma được tuyên bố là đúng thực. Những đúng thực trung tâm của đạo Phật, gắn liền với lý thuyết của thực tại
và đạo đức học, được
khẳng định trong dạng của Bốn Sự Thật Cao Quí (cattari ariya-saccáni). Nibbāna được tuyên bố là “sự đúng thực” (sacca)
[2],
là sự thật tối cao (parama-sacca). Cũng chú ý ghi nhận rằng hai điều được tuyên bố là “những giá trị
vĩnh cửu” (sanantana dhamma) là sự thật và thương yêu. Đối với điều trước, đã
được phát biểu
rằng: “Sự thật, quả thực, là
lời nói sống mãi — đây là
một giá trị vĩnh cửu” (saccaí ve amatá vvá — eso Dhammo sanantano). Ngày
nay có khuynh hướng coi những gì cũ là cổ. Đây là một cái nhìn sai lầm, vì tất cả những gì được xác minh và thiết lâp như đúng thực, thì mãi mãi
là hiện đại bất kể
thời đại trong đó những sự thật này được tìm ra.
Bản chất của sự thật là gì? Chúng ta thường dùng những từ “đúng” hay
“sai” trong những phát biểu. Chúng ta nói rằng phát biểu “Có một bến tàu ở
Colombo”, thì đúng, trong khi phát biểu, “Có
một bến tàu ở Kandy” thì sai.
Nhưng chúng ta cũng nói về việc tin
tưởng, có ý tưởng và biết
sự thật và như vậy chúng ta có kinh nghiệm về sự thật. Kiến thức về sự thật hay
ngay cả tin
tưởng trong nó giúp chúng ta hành động hiệu
quả trong môi trường của chúng ta, với không gây
rắc rối cho những người
khác. Khi chúng ta biết con đường đến thành phố Kandy, nó giúp chúng ta đến đó không khó khăn và không cần phải làm
phiền những người khác. Kiến thức về những
luật nhân quả vận hành
trong chúng ta hay trong tự nhiên giúp chúng ta điều khiển bản thân hay thiên nhiên cho lợi ích
của chính mình cũng như của những người
khác.
Khi chúng ta tiếp tục nghĩ đến bất kỳ
điều ác nào vốn một ai đó đã
làm với chúng ta, chúng ta có khuynh hướng oán ghét
người ấy. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục nghĩ đến ngay cả một số điều tốt vốn người ấy đã làm với chúng ta,
thì oán ghét của chúng
ta có khuynh hướng mất đi. Vì vậy,
bằng việc hiểu được tâm lý của những hiện tượng tinh thần,
chúng ta có thể dần dần gột sạch được oán ghét của chúng ta và do đó làm
bản thân cũng như những người khác hạnh phúc. Đây là tại sao kiến thức về sự
thật cả về bản thân cũng như về môi trường thì đều quan
trọng, vì nó giúp chúng ta điều khiển bản thân
cũng như môi trường cho lợi ích
của mình cũng như của những người
khác. Khi chúng ta nhận thức được sự thật, chúng ta có kiến thức (hay những tin tưởng
đúng thực). Kiến thức đem cho chúng
ta sự điều khiển hay khả năng và điều
này có thể giúp chúng ta phát triển tự do và hạnh phúc của cá nhân và xã hội.
Những đặc điểm hay tiêu chuẩn của sự thật là gì? Những nhà triết học đã
đưa ra bốn lý thuyết chính liên quan đến điều này. Một số người chủ trương rằng sự thật là những gì phù hợp hay tương ứng với thực tế. Đây được gọi là thuyết tương ứng. Những người khác cho rằng sự
thật là những gì nhất quán. Đây được gọi là thuyết mạch lạc. Tuy
nhiên, có những người khác chủ trương rằng những gì đúng thì có ích và
những gì có ích thì đúng. Đây
được gọi là thuyết thực dụng. Những người khác, lại nữa, chủ trương rằng sự thật có thể kiểm chứng được trong ánh sáng
của kinh nghiệm. Đây được gọi là thuyết xác minh của sự thật.[3]
Tương Ứng Và Mạch Lạc
Thuyết (về Sự thật) trong đạo Phật là gì? Rất rõ ràng, đạo Phật duy trì rằng sự
thật thì để được định
nghĩa trong những điều kiện của sự tương ứng
với thực tế. Một lý thuyết
hay phát biểu thì đúng khi
nó “phù hợp với thực tế” (yathábhútaí).
Nó là đối tượng của kiến thức – “một người
biết những gì trong thuận hợp với thực tế” (yathábhútaí pajánáti, DN 2.97 / DI 84). Ngược lại, một phát biểu, lý thuyết, tin tưởng hay khái niệm sẽ là sai lầm khi nó không phù hợp với thực tế. Như Apaóóaka Sutta nói: “Khi trong thực tế là có một thế giới sau cái chết, tin tưởng xảy ra với tôi rằng không có thế giới sau cái chết,
đó sẽ là một tin tưởng sai lầm.
Trong thực tế, có một thế giới sau cái chết, nếu một người nghĩ rằng không có thế giới sau cái chết, đó sẽ là một khái niệm sai
lầm. Khi trong thực tế, có một thế
giới sau cái chết, nếu một người
khẳng định rằng không có thế giới sau cái chết, đó sẽ là một phát biểu sai lầm… “(MN 60.8 / MI 402). Mặt khác, những tin
tưởng, những khái niệm hay những phát biểu đúng đều tương ứng
với thực tế: “Khi trong thực tế, có một thế
giới sau cái chết, nếu tin tưởng xảy
ra với tôi rằng có một thế giới sau cái chết, đó sẽ là một tin tưởng đúng thực” (MN 60.10 / M 1 403).
Mặc dù tương ứng với thực tế thì được coi
là một đặc tính thiết yếu của sự thật, tính nhất quán hay sự chặt chẽ lô gích thuận hợp trước sau cũng được chủ trương là một tiêu chuẩn. Ngược lại, sự không nhất quán
là một tiêu chuẩn của sự sai lầm. Khi biện luận với
những đối lập của ngài, đức Phật thường cho thấy rằng những lý thuyết
của họ dẫn đến mâu thuẫn hay không trước sau chặt chẽ
lô gích, do đó chứng minh rằng họ
là sai khi dùng những gì được biết như phương
pháp hỏi đáp và tranh luận biện chứng theo Socrate [4]. Trong
tranh luận với Saccaka, ở một giai đoạn nhất định trong tranh luận, đức
Phật đã chỉ ra rằng “phát biểu sau của ông không thuận hợp với một phát biểu trước đó, cũng không
với phát biểu trước với phát biểu sau” (MN 35.17 / MI 232). Citta, một trong những học trò của đức Phật
tranh luận với Nigaóþha Nátaputta, người sáng lập đạo Jain, nói: “Nếu lời phát biểu trước của bạn là đúng, thì phát biểu sau của
bạn là sai và nếu phát biểu sau của
bạn là đúng, thì lời phát biểu trước của
bạn là sai” (SN 41: 8 / S IV 298).
Điều này có nghĩa là sự thật phải là thuận hợp trước sau như một. Do đó, khi một số lý thuyết liên quan đến bản
chất của con người và số phận của con người trong vũ trụ mâu thuẫn với nhau,
chúng không thể tất cả là đúng, mặc
dù chúng đều có thể tất cả là sai, nếu
không một nào trong chúng thuận hợp với thực
tế. Vì vậy, vào một thời khi
một số những vị thày tôn
giáo và triết gia khác nhau đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau về con người và vũ
trụ, Suttanipáta đặt câu hỏi: “Tự xưng là những người có thẩm quyền kiến thức uyên bác, tại sao họ lại đưa ra những lý
thuyết đa dạng – có phải những sự thật
có rất nhiều và khác nhau thế không?” Trả
lời đã đem cho là: “Thật vậy, những sự thật, quả thưc, thì không nhiều và khác nhau. … Sự thật thì có một, không có
hai “(ekaí
hi saccaí, na dutiyaí atthi Sn 884). Do đó, tính nhất quán hay thiếu sự mâu thuẫn
là một tiêu chuẩn của sự thật. Hiển nhiên là nếu
chúng ta lấy những lý thuyết khác nhau như thuyết duy vật, thuyết tin-có-gót, thuyết hoài nghi, học thuyết đạo Phật,
v.v., không phải tất cả đều có thể đúng, dù tất cả có thể là sai.
Tuy nhiên, chúng ta phải phân biệt tính nhất quán giữa những lý thuyết
khác nhau và tính nhất quán trong mỗi lý thuyết. Hai lý thuyết có thể nhất quán
nội bộ mặc dù trái ngược nhau. Vì vậy, tính nhất quán là tiêu chuẩn cần nhưng
không phải là đủ của sự thật. Nói cách khác, nếu một lý thuyết không nhất quán
bên trong thì nó là sai, nhưng sự kiện là nó
nhất quán thì không đủ cho chúng ta để chấp nhận
nó như đúng. Từ
cùng một mẩu bằng chứng, hai luật sư có thể pha chế ra hai giả thuyết trái ngược nhau về những gì đã xảy
ra. Mỗi giả thuyết này có
thể nhất quán về nội bộ nhưng riêng điều này thì không phải là tiêu chuẩn xác
định sự thật của chúng. Đây là lý do tại sao đức Phật bác bỏ những lý thuyết
dựa trên lý luận đơn thuần là không thỏa đáng, vì lý luận có thể hợp lệ hay không hợp lệ, và ngay cả nếu hợp lệ
(theo nghĩa là nhất quán bên trong), nó có thể tương ứng hoặc có thể
không tương ứng với thực tế (Sandaka Sutta, MN 76.23– 29 / MI 520).
Trong khi sự nhất quán lý thuyết bên trong là tiêu chuẩn cần thiết nhưng
không phải là đủ của sự thật, đạo Phật cũng chủ trương rằng, đối với những lý thuyết liên quan đến hành vi
con người, thì cũng phải có sự nhất quán giữa lý thuyết và thực hành. Đức Phật
tuyên bố rằng “Ngài thực hành những gì ngài thuyết giảng và thuyết giảng những
gì ngài đã thực hành” (It 4: 13 / p. 122). Ngài mong những học trò của ngài cũng noi gương ngài. Nếu tôi rao giảng chống lại tệ
nạn của việc uống rượu nhưng tội lại uống rượu, thì có thể ngụ ý rằng tôi không hoàn toàn đã được thuyết phục về sự thật của những gì tôi nói. Vì vậy, nếu ai đó khẳng
định một lý thuyết nào đó và hành động như thể người ấy tin tưởng rằng ít nhất một phần của nó là sai, thì cách thực hành của người ấy sẽ không
phù hợp với lý thuyết vốn người ấy đưa ra.
Thuyết Thực Dụng
Đạo Phật nói gì về thuyết thực dụng? Nó có đề cao một thuyết thực dụng về sự thật không? Rõ ràng là không, vì nó không duy
trì rằng tất cả những phát biểu đúng đều có
ích hay tất cả những phát biểu có ích
đều đúng. Như chúng ta đã thấy ở trên, có những sự thật vô ích và những sai lầm có ích, theo như đạo Phật.
Lý thuyết thực dụng về sự thật đã đưa ra để
phù hợp với những tin tưởng
tin-có-gót, nhưng đạo Phật không chủ trương rằng một
lý thuyết là đúng vì người ta thích
tin vào nó và do đó, nó thì có một số sử dụng cho họ. Đồng
thời, chúng ta phải nhấn mạnh sự kiện rằng đức
Phật tự hạn chế ngài với việc
khẳng định những phát biểu vốn chúng là đúng
và có ích, dù dễ chịu hay khó chịu, do đó Dhamma thì thực
dụng, mặc dù nó không bày tỏ tán thành với một thuyết thực dụng về sự thật.
Sự kiện này được
minh họa rõ ràng qua hai ngụ ngôn, về mũi tên và về chiếc bè. Câu chuyện ngụ
ngôn về mũi tên nói rằng một người bị trúng một mũi tên tẩm độc, phải quan tâm đến việc lấy bỏ nó ra, và hồ phục lại hơn
là với những câu
hỏi thuần túy lý thuyết (về bản chất của mũi tên, ai đã bắn nó, v.v.) vốn không có
ích lợi thực tiễn. Một số câu hỏi liên quan đến những vấn đề vượt ngoài sự
xác minh thực nghiệm đã không được đức Phật trả lời một cách dứ khoát, vì điều này đã là “không có
ích, không liên quan đến những nền tảng của tôn
giáo, không dẫn đến khác quan, an bình, kiến thức cao hơn, sự chứng ngộ
và Nibbāna” (MN 63.8 / MI 431).
Ngay cả những phát biểu đúng thực trong Dhamma cũng
không phải là để được bám giữ. Chúng được dùng cho sự hiểu biết thế giới và vượt
qua nó. Người ta không nên đồng nhất bản thân mình với nó bằng hình thành một
tình cảm gắn bó (upádána) với nó và biến nó đơn thuần thành một cơ sở
cho tranh luận. Câu chuyện ngụ ngôn về cái bè kể rằng một người có ý định băng
qua sông để sang bờ
bên kia, chỗ an toàn và vững chãi,
làm một cái bè và nhờ nó đã lên bờ
kia an toàn. Nhưng chiếc bè dù có ích đến đâu, người ấy sẽ ném nó qua bên và tiếp
tục đi con đường của mình, không cần vác theo nó trên vai. Tương tự như vậy, đã
nói “những người nhận ra Dhamma để là giống một cái bè, nên chuẩn bị để loại bỏ
ngay cả Dhamma, đừng nói chi đến những gì không phải Dhamma” (MN 22.13–14 / MI
135). Giá trị của Dhamma nằm trong sự hữu dụng của nó để đạt được giải thoát.
Nó ngừng có giá trị với mỗi cá nhân, dù nó không ngừng là đúng, khi mục tiêu của
một người đã được thực hiện.
Khả Năng Xác Minh
Những tuyên bố của Dhamma có ý nghĩa (sappáþiháriya) và được lý trí và kinh nghiệm (sanidánaí) hỗ trợ, và do đó có thể kiểm chứng được (ehipassika). Đó là nhiệm vụ của mỗi người đạo Phật để cố gắng và xác minh sự thật của chúng trong thực hành. Người người đạo Phật bắt đầu với những tin tưởng đúng trong chính kiến (sammádiþþhi) của mình, cố gắng dần dần để loại bỏ tham lam và hận thù, và kết thúc hành trình tìm kiếm sự thật với kiến thức đúng (sammáñáóa) và giải thoát đúng (sammávimutti) [5]. Trong tiến trình đó, mỗi người phải kiểm chứng những sự thật của Đạo Phật cho chính mình. Do đó, khả năng kiểm chứng dưới ánh sáng của lý trí và kinh nghiệm là một đặc điểm của sự thật của đạo Phật.
Con Đường Ở Giữa
Một đặc điểm khác của nhiều những sự thật quan trọng của đạo Phật xảy ra là chúng nằm ở giữa hai điểm cực đoan của quan điểm. Thuyết hiện thực cực đoan, nói rằng “mọi sự vật việc đều tồn tại” (sabbaí atthi) vì mọi sự vật việc đều tồn tại, là một cực đoan, trong khi thuyết hư vô cực đoan, khẳng định rằng “không có gì tồn tại” (sabbaí natthi) vì mọi sự vật việc đều mất đi, là cực đoan khác — sự thật là mọi sự vật việc đang trở thành.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2022)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Kinh Vương Tử Vô Úy
(Abhayaràjakumàra Sutta) – ThíchMinhChâu:
"... Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời
nói, do lời nói ấy những người
khác không ưa, không thích chăng?”
[2] Saccā (Pali: सच्चा; (Sanskrit:
Satya सत्य) [cũng viết sachchha]: sự thật, đúng, thực.
[3] the correspondence theory, the coherence theory, the pragmatic theory, the verifiability theory of truth: Thuyết tương ứng: Ý tưởng cơ bản của thuyết tương ứng là những gì chúng ta tin hay nói là đúng nếu nó tương ứng với cách thức những sự vật việc là trong thực sư – với những thực tế. Ý tưởng này có thể được thấy
trong nhiều dạng khác nhau trong suốt lịch sử
triết học. Lịch sử hiện đại của nó bắt đầu với những khởi đầu của triết học phân tích vào đầu thế kỷ 20,
đặc biệt là trong công trình của G. E. Moore và Bertrand Russell. Thuyết mạch lạc: Giống như thuyết tương ứng, nó thì quan trọng khởi nguyên của triết học phân tích ở England vào đầu thế kỷ 20. Đặc biệt, thuyết mạch lạc của sự thật liên kết với những triết gia duy ý người England vốn Moore và
Russell đã phản ứng với họ. Thuyết thực dụng của sự thực gắn với lịch sử của chủ nghĩa thực dụng cổ điển của
America. Theo như giải thích phổ thông, C.S. Peirce được nhận là đầu tiên đưa ra một thuyết thực dụng về sụ thật, William James có công trong việc phổ biến thuyết thực dụng, và John Dewey sau đó đã
diễn đat lại sự thực trong những điều kiện của tính khẳng định tất yếu. Cụ thể hơn, Peirce thì được liên kết với ý tưởng rằng những tin tưởng thực là những tin tưởng vốn chúng sẽ đứng vững thử thách của
những khảo sát kỹ lưỡng trong tương
lai; James thì được liên kết với ý tưởng rằng tin tưởng đúng thì tin cậy được và hữu ích; Dewey với ý tưởng rằng sự thật là một thuộc tính của những
tuyên bố được xác minh rõ ràng (hay “những phán đoán”).Thuyết
xác minh của sự thật như một số (Ayer) chủ trương tính có thể kiểm chứng được là một thuyết về ý nghĩa,
nhưng không phải về sự thật. Vì vậy những sự vật việc không thể kiểm chứng
được thì đúng là vô nghĩa. Nó nhằm nêu đặc điểm là để cho một câu/phát biểu có nghĩa
là gì, và cũng như đối tượng
trừu tượng của một câu có ý nghĩa thì thuộc loại gì. Một
giả thích ngắn gọn được Rudolph Carnap đưa ra, một trong
những người bảo vệ thuyết này nổi bật nhất: “Nếu chúng ta đã biết những gì sẽ là cho một câu đem cho thì được thấy là đúng khi đó chúng ta sẽ biết ý nghĩa của nó là gì. [...] Thế nên, ý nghĩa
của một câu thì trong một ý hướng nhất định nào đó đồng nhất với cách thức chúng ta xác định sự đúng thật hay sai lầm của nó;
và một câu có ý nghĩa chỉ nếu một xác định quả quyết loại như vậy thì có thể được”. Nói vắn tắt, thuyết
xác minh của ý nghĩa tuyên bố rằng ý nghĩa của một câu là phương
pháp của sự xác minh của nó.
[4] elenchus
[5] Con Đường Cao Quí Tám Thành Phần đôi khi được trình bày trong giảng dạy đạo
Phật như dẫn thêm đến hai bước gọi là kiến thức đúng (sammáñáóa) và
giải thoát đúng (sammávimutti)