Đạo
Phật như Triết học
Một Dẫn
nhập
Mark
Siderits
Trường
Phái Diṅnāga: Tri Thức Học Đạo Phật
Những trường phái và những vận động đạo Phật chúng ta đã khảo sát cho
đến giờ tất cả đều có những tên gọi phân biệt riêng của chúng: đạo Phật ban
đầu, Abhidharma, Mahāyanā, Theravāda, Vaibhāṣika, Sautrāntika, Yogācāra, Madhyamaka. Không
như thế là trường phái vốn là đề tài của chương này. Vì nó được nhà lôgích
Diṅnāga (480 – 540) sáng lập, những học giả thời nay thường nói về nó như
trường phái của Diṅnāga. Nhưng nó cũng được gọi là ‘Yogācāra-Sautrāntika’,
và đôi khi chỉ là ‘lôgích học đạo Phật’. Những học giả không có một tên duy
nhất cho nó, vì không có một tên gọi nào vốn những người đạo Phật India cổ điển
đã dùng cho tất cả những nhà tư tưởng trong truyền thống này. Đây có lẽ vì
nó là một trường phái trong một ý nghĩa khác với những trường phái chúng ta đã
xem xét đến giờ. Mục đích của nó không là để nói rõ ràng một con đường đặc
biệt nào đi đến nirvanā. Thay vào đó, nó bắt đầu vào việc phát triển những
dụng cụ triết học vốn nó hy vọng những người đang theo một bất kỳ nào trong một
số những con đường khác nhau đều dùng. [1]
Những trường phái chúng ta đã khảo sát đến giờ, tất cả đều đã có quan
điểm siêu hình phân biệt riêng của chúng. Thí dụ, Sautrāntika giảng dạy
rằng tất cả mọi sự vật việc đều là khoảnh khắc hay nhất thời, trong khi
Yogācāra có tuyên bố của nó rằng chỉ những ấn tượng tồn tại. Tuy nhiên, như tên
gọi ‘Yogācāra-Sautrāntika’ gợi ý, trường phái Diṅnāga không đứng vào phe nào,
ít nhất trong một vấn đề siêu hình quan trọng – không biết có những đối tượng
vật lý hay không. Trên hết, Yogācāra phủ nhận sự tồn tại của những đối tượng
vật lý, trong khi Sautrāntika khẳng định sự tồn tại của chúng. Như thế một
người có thể là một ‘Yogācāra-Sautrāntika’ chỉ bằng việc kiềm chế không đi vào
trong tranh luận này. Những giảng dạy của truyền thống vốn bắt đầu với
Diṅnāga có ý định là để đồng thuận với cả hai lập trường. Điều này có
nghĩa là họ không thực sự trả lời câu hỏi quan trọng về thực tại thì giống như
thế nào. Và một con đường đạo Phật đi đến giải thoát được giả định là dựa
trên một giải thích về bản chất của thực tại. Điều này không có nghĩa là
những người trong phái Diṅnāga không quan tâm đến nirvanā. Nó cũng không
có nghĩa là họ nghĩ triết học không liên quan gì đến nirvanā. Thay vào đó,
họ dường như có ý nghĩ rằng sự tranh luận về một số vấn đề siêu hình nhất
định – như sự tồn tại của một thế giới bên ngoài – sẽ không
bao giờ được giải quyết hài lòng với mọi người. [2] Tuy nhiên, triết học vẫn có thể góp phần vào sự giải thoát, nếu nó
ít nhất có thể bảo cho chúng ta những gì tạo dựng thành một phương tiện của
kiến thức. Những gì Diṅnāga và những người theo ông đã làm là đã khai triển một
trả lời của đạo Phật với tri thức học Nyāya. Suy nghĩ của họ là nếu tri
thức học này được chấp nhận với cả những người duy thực Sautrāntika và những
người duy ý Yogācāra, khi đó nó sẽ giúp người ta tiến bộ tới hướng giải thoát
bất kể lập trường của họ về vấn đề siêu hình. Thế nên trường phái này
không đem cho một kiện hàng tất cả gói sẵn – một bức tranh toàn bộ về thế giới,
cùng với khuyên bảo về cách chúng ta nên hành động thế nào dựa trên bức tranh
đó. Nó có thể được coi như một nhóm gồm những nhà chuyên môn về triết học,
nhường lại phần lớn công việc đó cho những người khác. Nó thấy việc của nó
như chỉ trang bị cho họ những dụng cụ tri thức học tốt nhất đang sẵn có.
Nói điều này không có nghĩa để nói rằng không có những học thuyết siêu
hình bất kỳ nào trong trường phái Diṅnāga. Như chúng ta sắp thấy, trường
phái này có thể được coi là đỉnh cao nhất của chương trình tập thể
Abhidharma. Và chương trình đó đã là một vận động của phát triển của siêu
hình học về con người như những cá thể trống rỗng. Đúng hơn,
để nói ba điều: rằng Yogācāra-Sautrāntika không giảng dạy một con đường đặc
biệt đến nirvanā, rằng bất kỳ siêu hình học giảng dạy nào nó chứa đựng đều dựa
trên những quan điểm tri thức học của nó, và rằng tri thức học của nó có ý định
để được chấp nhận với tất cả những người đạo Phật, bất kể những quan điểm của
họ về một số vấn đề siêu hình nhất định. Vì vậy, với điều này trong não
thức, chúng ta hãy nhìn vào những gì họ thực sự phải nói. Chỗ bắt đầu hiển
nhiên là với những giải thích của họ về những phương tiện của kiến thức.
10.1
Ở chỗ Nyāya nói có bốn phương tiện của kiến thức, Yogācāra-Sautrāntika
nói có chỉ hai: tri giác và suy luận. Hai phương tiện kia, họ tuyên bố,
chỉ những trường hợp đặc biệt của suy luận. Trong trường hợp của lời
chứng, thí dụ, họ nói chúng ta nhận thức một sự kiện bằng việc suy luận nó từ
những lời nói của một người có kiến thức chuyên môn. Nhưng đây không là
điều khác biệt quan trọng nhất giữa trường phái Nyāya và Diṅnāga về những
phương tiện của kiến thức. Điều quan trọng hơn nhiều là phát biểu của
Diṅnāga rằng mỗi phương tiện của kiến thức nhận thức đối tượng riêng biệt của
nó. Điều này khác với quan điểm Nyāya, rằng một và cùng một sự kiện có thể
được nhận thức dùng những phương tiện khác nhau của tri thức. Giả định,
lấy thí dụ, những sự vật việc như khói, ngọn lửa và những ngọn đồi tồn
tại. [3] Giả định rằng từ dưới thung lũng thấp, tôi thấy khói trên đồi, và khi
đó suy luận rằng có lửa trên đồi. Giả định rằng trong khi tôi ở dưới lũng,
bạn đang ở trên đồi, nơi bạn trông thấy và cảm thấy ngọn lửa. Nyāya sẽ nói rằng
bạn và tôi đang nhận thức một sự việc và cùng một sự việc. Ngọn lửa vốn
bạn tri giác chính là ngọn lửa có sự xảy ra của nó vốn tôi suy
diễn. Yogācāra-Sautrāntika không đồng ý. Họ tuyên bố rằng nhận thức
của bạn và nhận thức của tôi thực sự có những đối tượng riêng biệt. Những gì
bạn tri giác là một đặc thù thực. Tuy nhiên, những gì tôi suy luận không
là chính ngọn lửa đó. Tôi nhận thức một gì đó trừu tượng hơn, một gì đó giống
như ‘lửa trong tổng quát’.
Diṅnāga gọi
đối tượng của tri giác là ‘bản chất riêng biệt (svalaksana), và đối tượng của suy luận là ‘bản chất tổng
quát’ (sāmānya-laksana). [4] Nhưng ông chủ
trương một cái nhìn giống như của Sautrāntika liên quan đến những gì là thực
cuối cùng; không có thực sự khác biệt giữa một bản chất và sự vật việc có bản
chất đó. Và đối tượng của tri giác thì giả định là thực cuối cùng. Vì
vậy, sẽ là sai lầm để nghĩ về ‘bản chất riêng biệt như bản chất của một gì
đó. Giống như những dharma của
Sautrāntika, nó thì chỉ là một đặc thù vốn là một tính chất. Ngõ hầu giữ
cho điều này được rõ ràng, chúng ta sẽ gọi nó là một đặc thù. Trong trường
hợp của đối tượng của suy luận, mặt khác, chúng ta không cần phải lo lắng về
việc chồng lên nó ý tưởng của chúng ta rằng một bản chất phải là bản chất của
một gì đó. Đối tượng của suy luận thì không là thực cuối cùng, nó là một
xây dựng trên khái niệm. Và một phần của những gì não thức đặt vào nó khi
não thức xây dựng đối tượng của suy luận là ý tưởng cho rằng bản chất luôn luôn
là thuộc về một gì đó. Vì vậy,
nó không là một sai lầm để nghĩ về điều này như một gì đó có một bản chất phổ
quát. Hãy đồng ý gọi nó là đối tượng-trong-tổng
quát.
Những gì chúng
ta nhận biết được là những đặc thù. Những gì chúng ta biết qua suy luận là
những đối tượng-trong-tổng quát. Đặc thù thì là thực cuối cùng. Đối
tượng-trong-tổng quát. là một khái niệm giả tạo. Đây là những tuyên bố của
Diṅnāga. Những gì bạn nhìn thấy trên ngọn đồi là một đặc thù thực cuối
cùng. Những gì tôi suy diễn khi ở dưới thấp là một đối tượng-trong-tổng
quát đã xây dựng trong khái niệm. Chúng ta nhận thức được những sự vật việc
khác nhau. Có lẽ chúng ta có thể thấy những gì Diṅnāga đang muốn nói, khi
chúng ta suy nghĩ về sự khác biệt giữa việc được nghe kể về sự hùng vĩ của rặng
núi Himalaya và việc thực sự trông thấy chúng. (Hãy nhớ rằng
Yogācāra-Sautrāntika xếp loại việc học hỏi qua lời chứng như một loại suy
luận). Từ sự mô tả của người khác, chúng ta có lẽ có thể hình thành một khái
niệm tổng quát về nó thì giống như cái gì. Nhưng cho dù khái niệm của
chúng ta chính xác đến đâu, nó vẫn thiếu sự vững chắc trực tiếp của kinh nghiệm
thị giác. Một người mù được thông tin đầy đủ có thể có khả năng để nói
được bất kỳ một số đúng nào về màu sắc-và-hình dạng chúng ta thấy khi chúng ta
nhìn từ Kathmandu trong một ngày quang đãng. Nhưng họ sẽ không bao giờ có
những kinh nghiệm giác quan vốn những lời của họ đã mô tả chính xác.
Tại sao, mặc
dù, có phải điều này có nghĩa rằng bạn và tôi nhận thức những sự vật việc khác
nhau khi cả hai chúng ta cùng nhận thức ngọn lửa (trên đồi)? Tại sao không
nói, thay vào đó, chỉ rằng chúng ta nhận thức một đối tượng trong hai cách khác
nhau? Đây là những gì phán đoán thực tiễn với kiến thức thông thường nói –
và Nyāya đồng ý: bạn nhận thức ngọn lửa trực tiếp (vì tri giác thị giác của bạn
thì trong tiếp xúc với nó), tôi nhận thức nó chỉ gián tiếp (bằng cách của khói
vốn là một dấu hiệu của sự hiện diện của nó). Nó là cùng một đặc thù thực
vốn cả hai chúng ta đi đến nhận thức được. Sự nhận thức của chúng ta có
thể cảm nhận khác nhau. Ngọn lửa thể hiện ra sống động với bạn hơn với
tôi. Nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa chúng ta nhận thức những sự
vật việc khác biệt. Tại sao những người Yogācāra-Sautrāntika phủ nhận bàn
luận này của phán đoán thực tiễn với kiến thức thông thường?
Hơn nữa, ngọn
lửa vốn bạn nhận thức thì nói là thực cuối cùng, trong khi ngọn lửa tôi nhận
thức thì chỉ một xây dựng tinh thần. Nhưng Diṅnāga nói rằng cả tri giác và
suy luận đều là những phương tiện của kiến thức. Và một gì đó là một
phương tiện của kiến thức chỉ khi nó luôn luôn dẫn đến sự thực hành thành
công. Nếu bạn đã cảm thấy lạnh ở trên đồi, nhận thức của bạn về ngọn lửa
có thể dẫn bạn đến thành công trong những cố gắng của bạn để sưởi ấm. Nhưng
cùng sự việc như thế xảy ra với tôi ở dưới thung lũng. Nó sẽ khiến tôi mất
thì giờ lâu hơn để lên đến ngọn lửa và được sưởi ấm, nhưng kết quả sẽ vẫn là
giống nhau. Trong cả hai trường hợp, đều có sự thực hành thành công. Làm
thế nào sau đó có thể rằng những gì bạn nhận thức là thực cuối cùng, trong khi
những gì tôi nhận thức thì không phải?
Trả lời
cho câu hỏi thứ nhất quay về lối trong đó chúng ta nhận thức được những sự vật
việc qua sự suy luận. Nhớ lại cách Nyāya giải thích điều này. (Xem
Chương 5, §2). Tôi thấy rằng có khói trên đồi. Và vì trước đây tôi đã từng
thấy khói và lửa cùng với nhau (trong những nơi , thí dụ như nhà bếp), và tôi
đã dò xét cẩn thận để xem có phải những nơi vốn tôi biết thiếu lửa (như hồ nước)
thì cũng thiếu khói hay không (những gì tôi thấy có trong buổi sáng chỉ là
sương mù), tôi biết rằng khói bốc lên từ lửa – rằng bất cứ nơi nào có khói thì
ở đó có lửa. Vì vậy, tôi biết phải có lửa trên đồi. Bây giờ
Yogācāra-Sautrāntika chỉ ra rằng ngọn lửa hiện diện trên đồi tôi do đó suy luận
là thứ một gì đó vốn hiện diện ở bất kỳ nơi nào có khói và sự vắng mặt của nó
thì không bao giờ tìm thấy được nơi xảy ra khói. Nhưng loại lửa nào thì nó
có mặt ở tất cả những địa điểm khác nhau, và sự vắng mặt của nó luôn luôn được
tìm thấy cùng với sự vắng mặt của khói? Một ngọn lửa có thể có mặt ở nhiều
nơi khác nhau và vắng mặt ở nhiều những nơi khác thì không là ngọn lửa đặc thù
vốn bạn nhìn thấy trên đồi. Ngọn lửa bạn thấy tồn tại trong chỉ một địa
điểm – trên đồi. Ngọn lửa vốn tôi nhận ra bởi suy luận không là ngọn lửa
đặc thù, nhưng là lửa-trong-tổng quát.
Vậy tại
sao Nyāya đã nghĩ rằng cả hai chúng ta nhận thức cùng một ngọn lửa? Trả lời,
trong vắn tắt, là Nyāya chấp nhận những phổ quát. Trong giản đồ thể loại Nyāya, ngọn lửa là một thực
thể. Một thực thể. là một sự vật việc đặc thù, một gì đó xảy ra ở một
số địa điểm và thời gian cụ thể. Tuy nhiên, trên giải thích của họ, những
gì bạn thấy thì không chỉ thực thể, ngọn lửa vốn ở trên đồi. Bạn không chỉ
thấy sự vật cụ thể đó. Bạn thấy thấy sự vật cụ thể đó đó như một sự vật
việc gì đó: như một trường hợp cá biệt, một thí dụ của lửa. Bạn thấy thực
thể và bạn thấy cái phổ quát vốn thừa kế trong đó. Bạn thấy lửa-như-được-tính-lửa-thừa kế bên trong. Đây là
lý do khi bạn thấy nó, bạn có thể xác định nó là lửa, một loại sự vật việc vốn
bạn đã thấy nơi nào đó khác. Những phổ quát cũng đóng một vai trò trong
nhận thức suy diễn của tôi về lửa. Những gì tôi thấy là khói trên
đồi.Nhưng khi nhìn thấy khói này, tôi cũng thấy tính-khói thừa kế trong đó. Và vì của kinh nghiệm quá khứ của
tôi với khói và lửa, tôi biết rằng tính-khói
thì thấm nhập khắp bởi tính-lửa. Vì
vậy, khi tôi nhìn thấy tính-khói
trong khói này, tôi cũng trong tiếp xúc với tính-lửa
vốn thấm nhập khắp nó. Tính-lửa,
đến lượt nó, thừa kế trong mọi ngọn lửa, kể cả ngọn lửa trên đồi. Vậy nên
bởi việc nhận thức khói và cũng sự thấm nhập của tính-khói bởi tính-lửa,
nhận thức của tôi thì trong tiếp xúc với lửa trên đồi. Tiếp xúc nhận thức của
tôi tôi thì kém trực tiếp hơn của bạn. Của tôi xảy ra như thế này: khói – thừa
kế – tính-khói – thấm nhập khắp – tính-lửa – thừa kế – lửa. Tiếp xúc
nhận thức của bạn thì trực tiếp với ngọn lửa, đó là ở phần cuối của chuỗi của
tôi. Thế đó giải thích tại sao nhận thức của bạn thì sống động hơn của
tôi. Nhưng nó là một và cùng một ngọn lửa (như được thừa kế trong nó bởi tính-lửa) vốn cả hai chúng ta đều nhận
thức.
Chú ý vai
trò của những phổ quát đóng trong câu chuyện Nyāya. Đó là vì những Nyāya
tin những sự vật việc loại như tính-lửa và tính-khói là có trong thế giới ngoài
kia, khiến họ có thể tuyên bố suy luận của tôi đặt tôi vào trong tiếp xúc nhận
thức với cùng một thực thể đặc thù cụ thể vốn bạn tri giác. Nếu chúng ta
tin rằng những phổ quát không là những sự vật việc thực, nhưng chỉ là những xây
dựng tinh thần, câu chuyện sẽ là rất khác. Bạn, đang ở trên đồi, vẫn sẽ
trong tiếp xúc với ngọn lửa cụ thể. Nhưng sự tiếp xúc của tôi với khói
trên đồi không thể đến được ngọn lửa đó bằng cách của những nối kết có ở ngoài
kia trong thế giới. Nó chỉ có thể đến được lửa bằng cách nối kết giữa khói
và lửa đã được tạo ra trong đầu tôi. Và trong khi não thức có thể làm đủ mọi
sự vật việc tuyệt vời, nó thì không là ma thuật. Nó không thể hoàn toàn tự
nó vươn ra và chạm vào ngọn lửa trên đồi. Vì vậy, làm thế nào để tôi nhận
thức được ở đó có lửa đang cháy trên đồi? Theo Yogācāra-Sautrāntika, ngọn
lửa vốn nó được nhận thức khi tôi phỏng đoán sự tồn tại của lửa trên ngọn đồi
là một ý tưởng hay hình ảnh tinh thần. Cụ thể là nó là hình ảnh tinh thần
gắn liền với từ ‘lửa’. Đó là thứ gì đó có thể hiện diện bất cứ khi nào có
khói, và thứ gì đó nếu không có khói sẽ luôn không tìm thấy nó. Nó là một
gì đó có thể có mặt ở nhiều nơi, vắng mặt ở nhiều nơi khác. Nếu không có
những phổ quát, nếu mọi sự vật việc thực đều là đặc thù, khi đó không gì trong
thực tại có thể là giống điều này. Nhưng một xây dựng tinh thần có
thể. Chúng ta có thể đi đến để đối xử với một hình ảnh tinh thần như sự ủy
nhiệm, đứng đại diện cho một bất kỳ và tất cả những ngọn lửa cá biệt. Khi
chúng ta làm như vậy, hình ảnh tinh thần đó đóng vai trò của lửa-trong-tổng
quát. Đó là những gì tôi nhận thức khi đứng ở dưới thấp trong thung lũng.
10. 2
Đó đã là
dòng suy nghĩ này dẫn Diṅnāga đến kết luận rằng đối tượng của tri giác và đối tượng
của suy luận là hai loại sự việc khác nhau. Chúng ta vẫn còn chưa trả lời câu
hỏi thứ hai chúng ta đã hỏi, tại sao suy luận sẽ ‘hoạt động’ nếu đối tượng của
nó thì không là thực cuối cùng. Có lẽ bây giờ bạn có thể thấy
Yogācāra-Sautrāntika trả lời câu hỏi đó thế nào. Nhưng chúng ta sẽ phải
hoãn một thảo luận đầy đủ về nó, cho đến khi chúng ta giải quyết một vài vấn đề
khác. Có một câu hỏi khác bây giờ chúng ta cần phải đi đến: tại sao chúng ta không nên tin rằng có những
phổ quát? Chúng ta vừa thấy rằng những Yogācāra-Sautrāntika tuyên bố
rằng tri giác và suy luận có những đối tượng riêng biệt dựa trên sự phủ nhận
của những phổ quát. Họ chủ trương quan điểm của thuyết duy danh [5]: quan điểm rằng phổ quát là chỉ một ‘tên-gọi
xuông’, và không là một gì với thực tại vốn độc lập với não thức. Nhưng lý
do gì có ở đó để chấp nhận chủ nghĩa duy danh, nhưng không chủ nghĩa duy thực
về những phổ quát Nyāya đã bênh vực?
Điều này
có thể xem giống một câu hỏi lạ lẫm. Đối với nhiều người, điều hiển nhiên
rằng chỉ những sự vật việc đặc thù là thực, và rằng một sự vật việc không thể ở
nhiều nơi khác nhau cùng một thời. Nhưng nếu bạn nghĩ về vai trò những phổ
quát trong lý thuyết về kiến thức của Nyāya, nó có thể không còn xem như khá rõ
ràng rằng không có bất kỳ những phổ quát nào. Khi chúng ta thấy một con bò,
chúng ta có thể nói rằng nó là một con bò. Khi chúng ta thấy một vệt màu
đỏ, chúng ta có thể nói rằng nó thì màu đỏ. Để nói những sự vật việc này
là gì, là để nói rằng những gì chúng ta thấy bây giờ cùng với những sự vật việc
khác vốn đều cũng được gọi bằng cùng tên. Làm thế nào là có thể thế được
nếu không có một gì đó vốn tất cả chúng đều cùng có chung? Điều gì làm con
Bò Bảnh đi cùng với con Bò Xếp và con Bò Hoa, nếu không có điều gì như tính-là-bò trong mỗi chúng? Làm thế nào
để chúng ta biết rằng màu sắc của cà chua, táo chín, và bộ quần áo của ông già
Noel tất cả gọi bằng cùng một tên, nếu không có một sự vật việc – tính-là-đỏ – tất cả chúng đều có
chung? Có lẽ nó có thể như dễ dàng để nói rằng tính-là-bò và tính-là-đỏ đều
là chỉ những ‘trừu tượng’, chỉ những ‘ý tưởng’, điều đã chứng minh là rất khó
khăn một cách ngạc nhiên để nói làm thế nào chúng ta có thể hình thành ‘những ý
tưởng trừu tượng’ như vậy nếu đã không có một số cơ bản thực cho việc chúng ta
áp dụng những từ ‘bò’ và ‘đỏ’. Đây là những gì được gọi là vấn đề của Một Trên Nhiều. Vì xem
dường như với nhiều người rằng những phổ quát thực sẽ là chính những sự vật
việc đặc biệt, vấn đề đã thường xem nhẹ, bị bỏ qua. Nhưng bỏ qua một vấn
đề thì không cùng một việc như việc giải quyết nó.
Chúng ta
có thể thấy một thí dụ của điều này trong Abhidharma. Những trường phái
Abhidharma đều chính thức tất cả là duy danh. Họ đã phủ nhận sự tồn tại
của những phổ quát trên những nền tảng rằng những phổ quát thực tất phải là vĩnh cửu. Vì vậy, sự tồn tại của
chúng sẽ mâu thuẫn với phát biểu của đức Phật rằng mọi sự vật việc đều vô
thường. Việc phủ nhận những phổ quát đã giúp những nhà bình luận
Abhidharmas trong cố gắng của họ để thay thế bảy thể loại của Nyāya với chỉ một
thể loại, đó là của dharma. Việc
này không chỉ loại bỏ thể loại của những phổ quát, nó cũng đem loại bỏ thừa kế
và những chỉ định
phân biệt, dư thừa không cần thiết. Khó khăn là đồng
thời khi những trường phái Abhidharma phủ nhận sự tồn tại của những phổ quát,
họ cũng nói rằng những dharma thì
hình thành một cách tự nhiên những loại hay những lớp. Một vố những dharma được đặt vào loại
rūpa-skandha. Một số trong số
này là những dharma đối tượng
hữu hình Và một vài của những số này thì màu đỏ, một số thì màu vàng, vv ...
Nếu không có những phổ quát, đó là gì làm nhiều những dharma đối tượng hữu hình tất cả tự nhiên thuộc về một loại,
màu đỏ? Họ đã không nói.
Nhưng có
phải ở đây, thực sự có một vấn đề? Có lẽ chúng ta có thể giải thích
cách thức những dharma này
thành hình những loại tự nhiên bằng việc dùng sự kiện là tất cả chúng đều giống
lẫn nhau. Đó có thể là lý do khiến những nhà bình luận Abhidharmas nghĩ
rằng họ có thể bỏ qua vấn đề của Một Trên
Nhiều? Không. Để thấy tại sao không, hãy xem xét sự việc sau. Hãy
gọi quả cà chua là dharma T, quả
táo là dharma A, và ông già Noel
là dharma S. chúng ta phán đoán
rằng T giống A, A giống S và S giống với T. Có phải đây là ba sự giống nhau hay
chỉ một? Nếu chúng ta nói chúng tất cả là một, và cùng một sự giống nhau,
sau đó chúng ta trở lại để viện dẫn một xảy ra của Một Trên Nhiều Chúng ta ngầm lén đem những phổ quát vào bức tranh
của chúng ta với không nhìn nhận nó. Nếu chúng là ba, thì tại sao những sự
giống nhau này lại khiến T, S và A đều có màu đỏ? Xét cho cùng, hương vị
của xoài giống như hương vị của đu đủ, thế nhưng chúng ta không gọi hương vị
nào (trong hai hương vị) là màu đỏ. Vì vậy, phải có những sự giống nhau
khác nhau. Điều gì làm cho sự giống nhau giữa T, S và A là loại làm cho
một gì đó màu đỏ? Xem dường như trả lời duy nhất chúng ta có thể đưa ra là
rằng đây đều tất cả những giống nhau nhìn về phương diện là có màu
đỏ. Nhưng sau đó chúng ta đã chưa giải thích một gì đó có màu đỏ thì nghĩa
là gì. Những giống nhau sẽ không giúp chúng ta tránh được những phổ quát.
Ở điểm
này, khi đó, Abhidharma đã không nhất quán: nó đã phủ nhận sự tồn tại của những
phổ quát, nhưng đã không giải thích làm thế nào chúng ta có thể tránh khỏi việc
không có chúng. Trường phái Diṅnāga cố gắng để giải quyết dự án Abhidharma
trong một lối nhất quán. Chỗ Abhidharma nhìn thấy những thực tại cao nhất của
nó, những dharma, như rơi vào
trong vào những loại tự nhiên,Yogācāra-Sautrāntika nói rằng những thực tại cao
nhất của nó, những đặc thù cụ thể, đều là độc nhất và do đó không thể diễn tả
được. Nếu bản chất cao nhất của thực tại là thế giới thì độc lập như thế
nào với tất cả xây dựng tinh thần, và những bản chất có chung, như tính-là-đỏ
là những công trình tinh thần, sau đó không có vật thể thực nào có thể cuối
cùng thì giống như bất kỳ vật thể khác. Những cái-thực chỉ là những đặc
thù độc nhất. Trong Chương 8 chúng ta thấy Yogācāra đưa ra một phát biểu
tương tự. Vì vậy, ở đây Yogācāra-Sautrāntika dường như tôn vinh Yogācāra
về di sản của nó. Diṅnāga và những người theo ông cũng nói rằng bản chất
thực của thực tại thì không thể diễn đạt được. Đây không chỉ là vì con người
chúng ta không thể mô tả mọi sự vật việc cho đủ kỹ lưỡng, hay trong những chi
tiết đầy đủ. Bất kỳ từ nào được dùng để mô tả thực tại sẽ là xuyên tạc
nó. Để mô tả một gì là gán một số thuộc tính cho nó, vốn những sự vật việc
khác có thể cũng có. Nếu những đặc thù thực đều đích thực độc nhất, chúng
có thể không bao giờ mô tả được. Chúng ta có ý thức về chúng trong tri
giác. Nhưng vì chúng không cùng có những bản chất chung, chúng ta không
bao giờ có thể diễn tả nội dung của nhận thức của chúng ta trong những lời nói.
Nhưng
điều này tất cả tùy thuộc vào sự phủ nhận của những phổ quát thực. Và
chúng ta vẫn chưa trả lời câu hỏi chúng ta đã bắt đầu với nó. Bây giờ chúng
ta thấy đúng là những phổ quát thực có thể là có ích, tại sao chúng ta sẽ từ
chối rằng chúng tồn tại? Trả lời căn bản đã được gợi ý nhiều lần: vì chúng
sẽ là bất biến, vĩnh cửu. Nhưng có phải có vấn đề gì với những sự vật việc
vĩnh cửu nào khác hơn sự kiện rằng đức Phật dường như đã nói rằng không có một
vĩnh cửu nào? Những Yogācāra-Sautrāntika nghĩ họ có thể cho thấy rằng
có. Lập luận của họ có thể là như thế này:
1. Chỉ những
gì là có tác dụng nhân quả là thực.
2. Để là có
tác dụng nhân quả là tạo một tác dụng ở một thời điểm cụ thể.
3. Một gì đó
vĩnh cửu sẽ là không thay đổi.
4. Sẽ không
có lý do cho một sự vật việc không thay đổi để tạo một tác dụng ở bất kỳ một
thời điểm cụ thể và không ở một thời điểm khác.
5. Do đó
không gì vĩnh cửu có thể có tác dụng nhân quả
Thế nên,
không có những sự vật việc tồn tại là vĩnh cửu.
Tiền
đề (1) nói rằng để cho một gì để tồn tại là để cho nó để làm một sự
khác biệt như thế nào với những sự vật việc trong thế giới. Ý tưởng đằng
sau (2) là một tác dụng gồm một biến cố, một gì đó xảy ra. Như thế, nó
phải xảy ra ở một số thời điểm cụ thể. Nếu nó luôn luôn tồn tại khi đó sẽ
không có một biến cố liên quan nào. Vì vậy, bất cứ một gì là nguyên nhân
của một tác dụng phải tạo ra tác dụng đó ở một vài thời điểm cụ thể. Tiền
đề (3) dựa trên ý tưởng rằng bất cứ một gì vĩnh cửu sẽ phải là đơn giản hay
không-phần. Bất cứ một gì hợp-phần có thể luôn luôn có những phần của nó
sắp xếp lại trong một cách vốn làm xảy ra hủy diệt của nó. Và một gì đó
vốn là đơn giản sẽ không thể tiếp tục tồn tại trong khi trải qua sự thay đổi
tính chất. Vì điều đó đòi hỏi phải có một phần thay đổi và một phần khác
không thay đổi. Tiền đề (4) sau đó trỏ cho thấy rằng nếu thực thể vĩnh cửu
của chúng ta không thay đổi, nó không thể là những gì đưa đến một tác dụng ở một
số thời điểm cụ thể. Để nói nó tạo một tác dụng là để nói rằng cách vốn nó
giải thích sự xuất hiện của tác dụng. Vì nó sẽ luôn luôn là là cách mà nó
là thế, nếu nó tạo ra bất cứ gì nó sẽ luôn luôn là tạo ra cái đó. Và ý tưởng
đó thì không mạch lạc, không hiểu được. Để tạo ra một gì đó là làm cho một
gì đó xảy ra ở một thời điểm cụ thể. Vì vậy, một thực thể vĩnh cửu không
thể là nguyên nhân của bất kỳ tác dụng nào, từ đó chúng ta có thể kết luận rằng
một sự vật việc như vậy không thể tồn tại.
Có những
câu hỏi có thể được nêu lên về lập luận này, nhưng chúng ta sẽ không đưa chúng
ra ở đây. Chúng ta đã thấy rằng có những lý do để nghĩ rằng có thể không có bất
kỳ những thực thể vĩnh cửu nào. Vì những phổ quát tất sẽ phải là vĩnh cửu,
điều này cho chúng ta một số lý do để tin rằng không có những phổ
quát. Trong trường hợp đó, Diṅnāga sẽ là đúng để chủ trương rằng những đối
tượng của tri giác và suy luận là những loại khác nhau của những sự vật việc:
đối tượng của tri giác là đặc thù thực cuối cùng độc nhất, rằng của suy luận là
đối tượng-trong-tổng quát xây dựng tinh thần. Nhưng chúng ta cũng thấy
rằng người duy danh phải trả một giá đắt đỏ cho sự tiện tặn về bản thể học của
họ. Nếu không có những phổ quát, vậy tại sao xem dường như chúng ta có thể
bày tỏ kinh nghiệm tri giác của chúng ta bằng ngôn ngữ? Và tại sao suy
luận là một phương tiện của kiến thức, một gì đó giúp chúng ta đạt được những
mục tiêu của chúng ta? Những trả lời cho hai câu hỏi này quay ra là được
nối kết. Bây giờ chúng ta quay sang trả lời Yogācāra-Sautrāntika cho câu
hỏi thứ nhất, liên quan đến tri giác. Trả lời của họ với câu hỏi thứ hai,
liên quan đến suy luận, sẽ cuối cùng hiện ra từ giải thích về những phán đoán
tri giác của họ.
10. 3
Chúng ta
đã thấy trước đó (trong Chương 5) rằng theo như Nyāya có hai giai đoạn trong
một nhận thức tri giác: có giai đoạn khái niệm, trong đó chúng ta ý thức đối
tượng như hữu thể một cách nhất định nào đó; nhưng việc này luôn luôn có
trước nó một giai đoạn không-khái niệm, trong đó
chúng ta ý thức riêng lẻ về những thành phần của một phán đoán nhận thức, với
không ý thức về chúng như hình thành một quan hệ phức tạp. Giả định chúng
ta thấy con Bò Bảnh. Đó là giai đoạn khái niệm được vốn được diễn tả như
là phán đoán tri giác rằng Bò Bảnh là một con bò. Điều này diễn tả nội
dung của một khái niệm nhận thức, vì đối tượng của tri giác này là Bò Bảnh như
đã thừa kế trong tính-là-bò. Nhưng
Nyāya phát biểu chúng ta có thể có nhận thức này chỉ sau khi chúng ta đầu tiên
ý thức Bò Bảnh, tính-là-bò và
tính thừa kế trong riêng lẻ. Chỉ sau khi ý thức được chúng một cách riêng
lẻ, chúng ta có thể ý thức được chúng như tạo nên quan hệ phức tạp. Giai
đoạn nhận thức không-khái niệm không thể diễn tả bằng lời. Để diễn tả một
điều gì đó bằng lời nói là làm một phán đoán, để gán một tính chất cho một gì
đó. Trên giải thích Nyāya, tất cả những yếu tố của phán đoán này đều có
trong thế giới ngoài kia, không một nào được não thức xây dựng. Nhưng não
thức trước hết phải có ý thức về chúng trước khi nó có thể có ý thức quan hệ
phức tạp chúng tạo nên.
Bây giờ Yogācāra-Sautrāntika không đồng ý với nhiều
chi tiết của bức tranh này của tri giác. Nhưng họ có đồng ý với Nyāya rằng
nhận thức tri giác gồm hai giai đoạn; không-khái niệm và khái niệm. Họ
cũng đồng ý rằng phán đoán liên quan đến việc gán một số tính chất tổng quát
cho một đối tượng. Mặc dù vậy, họ không chấp nhận những phổ quát, thế nên
họ phải gạt bỏ rằng những phán đoán tri giác phản ảnh những gì tồn tại bên
ngoài não thức. Chỉ tri giác không-khái niệm mới có thể làm việc đó. Đây
là những gì Diṅnāga có ý muốn nói khi ông gọi tri giác ‘nhận thức vốn không có
sự xây dựng khái niệm’. Nhận thức khái niệm của tôi về Bò Bảnh như một con bò
gồm việc gán tính-là-bò vào một đặc
thù thực cụ thể ở ngoài kia. Nhưng trong khi thế giới chứa đựng những đặc
thù thực, nó không chứa những phổ quát như tính-là-bò. Vì vậy, nếu tri giác đặt chúng ta tiếp xúc với thế
giới, khi đó giai đoạn khái niệm của nhận thức tri giác thì không là tri
giác. Chúng ta có thể gọi nó là ‘phán đoán tri giác’, vì nó luôn có cái
được gọi là đúng là ‘tri giác’ đi trước. Nhưng nó là một phán đoán, một gì
đó gồm những khái niệm. Và điều đó làm nó là một loại của suy luận.
Nó khiến nhiều người bất ngờ khi nói rằng việc nhìn
thấy con Bò Bảnh như một con bò gồm một suy luận. Chắc chắn là điều không
cảm thấy như chúng ta phải dừng lại và lý luận theo lối của chúng ta đến kết
luận rằng Bò Bảnh là một con bò. Việc nhìn thấy Bò Bảnh như một con bò cảm
thấy giống như một gì đó chúng ta chỉ làm khi chúng ta trông thấy con Bò Bảnh. Đây
là những gì Nyāya có ý muốn nói khi nó nói chúng ta thấy những phổ quát
như tính-là-bò. Nhưng nếu
không có những phổ quát ngoài kia, chỗ có con Bò Bảnh, phải có một vài tiến
trình xây dựng tinh thần liên quan đến việc chúng ta thấy nó như một con bò –
một tiến trình vốn chúng ta thông thường không ý thức. Diṅnāga bắt đầu với
ý tưởng rằng đây là tiến trình tinh thần liên quan đến việc kết hợp những gì
chúng ta thực sự trông thấy –con Bò Bảnh cụ thể, một đặc thù – với một từ,
trong trường hợp này là ‘bò’. Cái nhìn sâu xa thực của ông đi đến khi ông
nói rằng việc biết từ nào để gọi một gì đó liên quan với một suy luận. Để
biết rằng những gì tôi thấy thì gọi là một con bò, tôi cần phải biết rằng bất
cứ sự vật gì giống sự vật này thì gọi là một con bò, và tôi cần phải biết rằng
bất cứ sự vật gì vốn không được gọi bằng tên đó thì không giống sự vật
này. Và điều này cũng giống đúng như những gì tôi cần để biết để suy luận
rằng có một ngọn lửa trên đồi: rằng bất cứ điều gì giống như ngọn đồi này có
khói cũng có lửa, trong khi không có gì không có lửa có thể có khói. Vì
vậy, nếu việc nhìn thấy Bò Bảnh như một con bò là một vấn đề của việc kết hợp
những gì tôi thấy với từ ‘bò’, sau đó nhìn thấy Bò Bảnh như một con bò phải
liên quan đến một loại suy luận. Chúng ta không ý thức về việc thực hiện suy
luận này vì chúng ta làm điều đó một cách nhanh chóng và tự động. Đó là
một gì chúng ta học để làm khi chúng ta đã học để nói, và kể từ đó chúng ta đã
làm việc đó liên tục. Vì thế, không ngạc nhiên khi chúng ta không ý thức
về làm điều đó, cũng giống như chúng ta không còn nhận thức được tất cả những
gì chúng ta đang làm khi chúng ta đứng thẳng lưng và đi bộ.
Theo như Yogācāra-Sautrāntika, có hai điều xảy ra
nhanh chóng liên tiếp, khi bạn đang ở trên đồi và thấy ngọn lửa ở đó. Đầu
tiên bạn có một nhận thức không-khái niệm trong đó bạn đang ý thức bằng trông
thấy đặc thù duy nhất đó có vị trí trên đồi. Đây là những gì được gọi là
‘tri giác’ thực sự. Sau đó bạn rất nhanh chóng thực hiện một loại suy luận
vô thức qua đó bạn phán đoán rằng những gì bạn thấy là loại những sự vật việc
vốn gọi là ‘lửa’. Chúng ta có thể gọi nhận thức này là một nhận thức khái
niệm. Nhưng điều quan trọng để nhớ rằng với Diṅnāga và trường phái của
ông, nó không là một tri giác, vì nó là về ngọn lửa-trong-tổng quát, vốn không
thực sự là ở ngoài đó. Điều này không làm cho nhận thức của bạn sai lầm.
Hoàn toàn ngược lại. Bây giờ bạn nhận thức về ngọn lửa như lửa, bạn có thể
dùng kiến thức của bạn về lửa-trong-tổng quát. Một trong những sự vật việc
bạn biết về lửa là nó có thể làm cho bạn ấm áp khi bạn lạnh. Vì bạn đang
lạnh và muốn ấm, nhận thức tri giác của bạn về lửa giúp bạn thỏa mãn mong muốn
của mình. chúng ta đã nói ở trên rằng một phương tiện của kiến thức phải có khả
năng dẫn đến thực hành thành công. Mặc dù sự phán đoán của bạn là về một
sư xây dựng tinh thần, không phải gì đó trong thế giới ngoài kia, nó vẫn dẫn
bạn đến thực hành thành công. Vì vậy, nó được kẻ như một phương tiện của
kiến thức. Nó chỉ quay ra rằng nó là một suy luận. Nó thì giống
đúng như nhận thức của tôi về lửa-trong-tổng quát qua suy luận tôi thực hiện ở
dưới thung lũng.
Tri giác cũng là một phương tiện của kiến
thức. Nhưng vì nó không-khái niệm,[6]
Yogācāra-Sautrāntika tuyên bố nó không làm phát sinh trực tiếp sự thực hành
thành công. Bạn có thể chỉ biết rằng đặc thù đó bạn thấy sẽ làm ấm tay bạn
sau khi bạn đã có khái niệm nó như ngọn lửa. Và điều đó liên quan đến suy
luận. Vậy tại sao tri giác là một phương tiện của kiến thức? Vì nó
dẫn bạn đến xây dựng lửa-trong-tổng quát, và xây dựng đó dẫn đến sự thực hành
thành công. Cả hai, tri giác và suy luận (gồm cả phán đoán tri giác) là
phương tiện của tri thức vì cả hai đều mang về nhận thức đúng thực. Và một nhận
thức đúng thực là một nhận thức không bị kinh nghiệm tiếp theo làm cho
thấy là sai lầm. Và một nhận thức thì sai lầm bởi việc mang về thực hành
không thành công. Giả định tôi sai lầm khi xem khói trên đồi như một dấu
hiệu của một vụ núi lứa động sắp phun dung nham. Tôi có thể cố gắng cứu mạng
mình bằng việc bỏ chạy cho xa. Nhưng điều này sẽ không gặp thành
công. Chạy thật nhanh và cho thật xa sẽ là vô nghĩa, vì không có núi lửa
nào phun dung nham đe dọa mạng sống tôi. Đây là một trường hợp của một suy
luận sai lầm. Sự sai lầm của nó nằm trong việc nó dẫn đến thực hành không
thành công. Tri giác không làm phát sinh những hành động; chúng chỉ
dẫn đến những phán đoán tri giác. Vì vậy, một tri giác không thể trực tiếp
bị một hành động làm cho sai lầm. Nó chỉ có thể bị làm cho sai lầm bằng
việc dẫn đến phán đoán vốn tự nó làm cho sai lầm qua việc dẫn đến thực hành
không thành công của nó.
10. 4
Suy luận là phương tiện thứ hai của tri
thức. Nó là nguyên nhân tin cậy được của nhận thức đúng thực gián
tiếp. Đó là để nói, nó là những gì thường xuyên là nguyên nhân cho chúng
ta để có những tin tưởng đúng thực về những sự kiện vốn chúng ta không thể nhận
hiểu trực tiếp qua tri giác. Dharmakīrti [7] định
nghĩa suy luận như ‘sự nhận thức về một gì không suy diễn [8] được nhờ
vào một lý do với ba dấu hiệu’. Gọi
là một lý do có nghĩa một thuộc tính vốn dùng như một dụng cụ cho sự nhận thức
gián tiếp về một sự vật việc gì khác. Trong suy luận về lửa trên đồi,
thuộc tính có khói là lý do. Tin tưởng đúng thực của tôi rằng có lửa trên
đồi được phán đoán tri giác của tôi về khói làm xảy ra [9], một gì
đó ‘có ba dấu hiệu’. Ba dấu hiệu thì:
1. là
trong chủ đề của suy luận
2. chỉ là
có mặt khi sādhya (thuộc
tính để được chứng minh) thì có mặt
3. không
bao giờ có mặt khi sādhya thì
vắng mặt.
Như thế, trong trường hợp của suy luận về
lửa, khói đã phải là có mặt trên đồi
(vốn là chủ đề của suy luận), nó phải luôn luôn xảy ra cùng với lửa (sādhya), và nó phải không bao giờ
xảy ra ở chỗ nào không có lửa. Nhận thức của một lý do với những đặc điểm
này là một nguyên nhân tin cậy được của nhận thức về chủ đề có sādhya. Vì có khói trên đồi, khói chỉ có
mặt chỗ nào có có lửa, và khói không bao giờ có mặt chỗ nào không có lửa, tin
tưởng của tôi rằng có lửa trên đồi thì đúng.[10]
Đã là Diṅnāga, người đầu tiên đã hình thành định
nghĩa này của suy luận. Những nhà lôgích đạo Phật sau ông, tất cả đều đi
theo phương pháp căn bản của ông. Nhà bình luận ông, Dharmakīrti, đã thêm
một phân loại gồm ba loại của lý do: tác dụng (hậu quả), tính đồng nhất và
không-nhận thức. Lý do của tác dụng được dùng trong việc suy luận sự xảy
ra của nguyên nhân từ nhận thức về tác dụng của nó. Suy luận về lửa là một
thí dụ về việc này. Khói dùng như nguyên nhân của nó vì lửa là nguyên nhân
của khói. Ý tưởng tổng quát là rằng – nếu x là
nguyên nhân của y, khi đó sau khi biết rằng y đã xảy ra cho
phép chúng ta để suy luận rằng x phải đã xảy ra. Chú ý rằng nó
không làm việc theo cách ngược lại. Tôi không thể an toàn suy luận từ
nguyên nhân ra tác dụng. Để nói lửa là nguyên nhân của khói là để nói rằng
tất cả khói là tác dụng của một ngọn lửa nào đó. Nhưng điều này không có
nghĩa là mọi ngọn lửa đều gây ra khói. Có thể có những đám lửa không
khói. Vì vậy, nếu tôi thấy một ngọn lửa tôi không thể suy luận rằng ở đó
phải có khói. Tương tự như vậy, nếu tôi thấy một mầm cây mọc lên từ đất,
tôi có thể phỏng đoán rằng một hạt giống đã phải được trồng ở đó. Nhưng
nhìn thấy một hạt giống được trồng không cho tôi khả năng để kết luận rằng một
mầm cây sẽ xuất hiện sau này. Thí dụ, một chất độc nào đó trong đất ở đó
có thể ngăn chặn sự nảy mầm.
Một lý do của tính đồng nhất là một lý do vốn có sự
xảy ra trong chủ đề thì trong thực tế thì giống hệt như một, hay đồng nhất với
sự xảy ra ở đó của sādhya. Giả
định, lấy thí dụ, tôi phán đoán những gì tôi thấy là một cây phong. Sau đó
tôi có thể suy luận rằng nó là một cái cây. Lý do tôi dùng trong suy luận
này là thuộc tính của tư cách là một
cây phong. Dharmakīrti gọi đây là lý do đồng nhất, ông phát biểu, vì cây
với tư cách là một cây phong thì thực sự đồng nhất với tư cách của nó là một
cây. Để thấy lý do ông tuyên bố điều này, hãy xem xét sự kiện rằng theo
như Yogācāra-Sautrāntika, chỉ có đặc thù duy nhất là thực. Từ điều này
theo đến rằng bất cứ gì làm nó đúng với đặc thù tôi đang nhìn đó, nó là một cây
phong, có thể chỉ là chính đặc thù đó. Và cùng điều tương tự xảy ra như
thế với những gì làm nó là một cái cây. Vì nó là một và là cùng một đặc
thù những gì nó là, làm cho nó là cả hai: một cây phong và một cây, tư cách là một cây phong. và tư cách là một một cây đều có dạng giống
hệt nhau.[11]
Bây giờ bạn có thể nghĩ rằng một lý do của đồng
nhất liên quan đến những gì những triết gia ngày nay gọi một sự thật phân tích [12]. Để
nói về một phát biểu rằng nó là phân tích là để nói rằng nó là thật bởi như một
kết quả của những ý nghĩa của những từ vốn được kết hợp thành. Thí dụ sẵn
có là ‘Tất cả những người nam độc thân đều không lấy vợ’. Điều này nhận là đúng
vì ‘người nam độc thân’ có nghĩa là một người nam trưởng thành không lập gia
đình. Những người tin rằng có những sự thật phân tích nói rằng chúng có
thể được biết a priori [13], chúng
ta không cần phải làm bất kỳ tìm hiểu thực nghiệm nào hầu biết rằng những người
nam độc thân đều không lập gia đình, Chúng ta biết điều đó chỉ bằng vào việc
biết nghĩa của những từ đó. Nên phát biểu ‘Tất cả những người nam độc thân
đều không lấy vợ’ không thực sự bảo chúng ta biết bất cứ gì mới. Nhưng
Dharmakīrti sẽ không đồng ý. Ông cho rằng những suy luận như ‘Đây là một
cái cây vì nó là một cây phong’, và ‘ông ấy không lấy vợ vì ông là một người
độc thân’ có thể là cung cấp thông tin hữu ích. Nếu không thế, chúng sẽ không
được ông kể là những phương tiện của kiến thức. Giống như những nhà nhận
thức luận India khác, ông xây dựng một đòi hỏi mang tính thông tin vào trong ý
tưởng của ông về một phương tiện của kiến thức Đây là lý do ký ức, thí
dụ, không là một phương tiện của kiến thức. Cho dù ký ức có chính xác
đến đâu, nó không bao giờ có thể khiến chúng ta nhận thức được điều gì đó vốn
chúng ta chưa từng được nhận thức. Nhưng Dharmakīrti nói chúng ta có thể suy
luận rằng cây phong là một cái cây, như thế ông phải nghĩ rằng chúng ta có thể
học được điều gì đó mới mẻ bằng việc thực hiện suy luận này. Dharmakīrti, giống
Quine, không tin rằng có những sự vật việc chúng ta có thể biết a priori. [14]
Loại thứ ba của lý do, lý do của không-nhận thức,
được dùng trong việc biết về sự vắng mặt của một gì
đó. Yogācāra-Sautrāntika gạt bỏ lập trường Nyāya rằng những vắng mặt là
thực. Nhưng tôi có khả năng để biết những sự vật việc loại như không có
tiền trong ví của tôi. Và điều này xem giống một trường hợp của việc nhận thức
sự vắng mặt của tiền trong ví của tôi. Nếu những gì vắng mặt đều là không
thực, làm thế nào tôi có thể biết một điều như vậy? Dharmakīrti giải thích
rằng việc này liên quan đến một loại suy luận. Khi tôi nhìn vào trong ví
của tôi, tôi thấy cả hai bên ngăn trong ví. Vì mắt của tôi lành mạnh và ánh
sáng thì đủ, nếu có bất kỳ tiền bạc nào trong đó, tôi sẽ thấy nó. Việc tôi
thấy cả hai bên ngăn trong của ví thì không tương thuận với việc tôi thấy tiền. Vì
vậy, tôi có thể suy luận rằng không có tiền trong ví của tôi. Nhận thức
của tôi về một gì đó vốn không tương đồng với sự có mặt của một gì
khác vốn tôi tất đã nhận thức được nếu như nó đã có ở đó, cho tôi có
quyền suy diễn sự vắng mặt của một gì đó khác. [15]
Dharmakīrti tuyên bố rằng tất cả những suy luận gồm
trong một này hay một kia của ba loại này của lý do. Sẽ rất thú vị để khảo
nghiệm tuyên bố này. Có bất kỳ lý luận vững chắc hợp lý nào không tuân
theo một trong ba mô hình này? Nhưng có một câu hỏi khác thúc bách
hơn. Tất cả những suy luận này đều liên quan đến sự thấm nhập. Tôi
không thể suy luận rằng đồi có lửa trừ khi khói được thấm nhập, hay trở nên phổ
biến khắp mọi phần, bởi lửa. Tôi không thể suy luận rằng những gì tôi thấy
là một cây trừ khi tính-là-cây phong
được thấm nhập, hay trở nên phổ biến khắp mọi phần, bởi tính-là-cây. Và tôi không thể suy luận rằng không có tiền
trong ví tôi trừ khi tính trông-thấy-được
của bên trong của cái ví được thấm nhập bởi tính
không tương đồng với sự có mặt của tiền. Bây giờ thấm nhập xem giống
như một quan hệ giữa những phổ quát. Suy luận về cây, thí dụ,
dường như liên quan đến sự kiện rằng cây phong là một loài cây. Và điều
này trông giống một quan hệ giữa những gì có chung, phổ biến với tất cả những
cây phong, tính-là-cây-phong, và
những gì là có chung cho tất cả những cây, tính-là-cây. Thế nhưng Yogācāra-Sautrāntika phủ nhận rằng
không có bất kỳ phổ quát nào.[16] Nó
phủ nhận có bất cứ gì là thực vốn là có chung cho tất cả những đặc thù cụ thể
chúng ta gọi là những cây phong, và tương tự như vậy, cho tất cả những đặc thù
chúng ta gọi là những cây. Vậy làm thế nào suy luận có thể hoạt
động? làm thế nào có thể có sự kiện rằng những đặc thù này được gọi đúng
là một cây phong là một lý do để cũng gọi nó là một cây? Có lẽ tất cả
những cây phong tôi gặp phải trong quá khứ đã cũng là những cây. Nhưng nếu
không có gì vốn tất cả những cây phong cùng chia sẻ như có chung, vậy tại sao
điều gì đúng cho những cây đó trong quá khứ lại có ảnh hưởng đến cây này đang
bây giờ ở trước mặt tôi?
Về vấn đề đó, những gì có thể làm nó là đúng, để
gọi những gì tôi bây giờ đang trông thấy là một cây phong? Khi tôi đã
học nghĩa của ‘cây phong’, tôi đã được cho thấy một số đặc thù cụ thể khác và
bảo để gọi nó bằng tên đó. Đây là một đặc thù cụ thể khác vốn tôi bây giờ
đang trông thấy. Nếu không có phổ quát vốn có chung với đặc thù đó và đặc
thù này, tại sao nó là đúng để gọi (đặc thù cụ thể) này cũng là một cây
phong? Và khả năng của tôi để gọi nó bằng đúng tên là thử nghiệm của tri
giác tôi nếu là đúng thực. Hãy nhớ rằng để tính như một phương tiện của kiến
thức, một nhận thức giác quan phải là có khả năng để dẫn đến sự thực hành thành
công. Và điều này, chúng ta đã thấy, đi theo đường của phán đoán tri giác
vốn liên kết nội dung của nhận thức với một từ ngữ. Thử nghiệm của tri giác là
đúng thực hay không là phán đoán của tôi rằng những gì tôi thấy là một cây
phong. Vì khi đó, tôi có thể áp dụng những gì tôi biết về những cây phong,
chẳng hạn rằng chúng là một nguồn củi đốt lò sưởi. Nếu tri giác của tôi là
chính xác, khi đó nó có thể dẫn đến thực hành thành công, chẳng hạn như sưởi ấm
tay tôi trước một ngọn lửa. Có lẽ khi tôi đã học từ ‘cây phong’, tôi đã
học rằng cây phong là một cây và nó ‘mọc lên’ thành gỗ, là một nguồn nhiên
liệu. Và có lẽ tất cả những điều đó đã đều đúng với đặc thù vốn tôi đã
thấy khi đó. Nhưng nếu đặc thù đó và đặc thù cụ thể này không cùng một bản
chất, thì tại sao nó sẽ cũng là đúng với đặc thù cụ thể này? Làm thế nào
có thể có bất kỳ thực hành thành công nào về phương diện những sự vật việc thực
chúng ta tri giác, nếu những sự vật việc này là những đặc thù duy
nhất? Yogācāra-Sautrāntika có một vài việc giải thích để làm.
10. 5
Sự giải thích đến trong dạng của lý thuyết của
apoha, hay lý thuyết về ‘sự loại
trừ’.[17] Theo
như thuyết apoha, nghĩa của một từ là ‘sự loại trừ của cái kia’. Điều này
có nghĩa là gì? Dùng một từ (có nghĩa là, một từ chỉ một loại sự vật việc
gì đó) như ‘lửa’ hay ‘màu vàng’. Để biết ý nghĩa của một từ là biết dùng nó thế
nào. Vì vậy, chúng ta sẽ nghĩ rằng biết nghĩa của ‘lửa’ là biết từ đó áp
dụng vào những gì. Nhưng cách tiếp cận này dẫn thẳng đến ý tưởng rằng
phải có một gì đó tất cả những sự vật việc này đều có chung vốn làm nó là đúng
để áp dụng cùng một từ với chúng. Cách tiếp cận này dẫn thẳng thắn đến ý
tưởng rằng phải có những phổ quát. Cái nhìn trực giác sâu xa đã đưa
Diṅnāga đến quan điểm apoha của
ông là rằng chúng ta biết dùng từ ‘lửa’ thế nào, nếu chúng ta có thể phân biệt
giữa những sự vật việc vốn đều gọi là lửa và những sự vật việc đều không gọi là lửa. Học để dùng một
từ là học đẻ vẽ ra một sự phân biệt nhất định nào đó. Đó là để học để phân
chia thế giới thành những phần nhỏ theo một cách nhất định: tất cả những sự vật
việc này đến chỗ này, tất cả những sự vật việc kia đến chỗ kia. Bây giờ cách
tiếp cận vốn dẫn đến những phổ quát giả định rằng chúng ta chỉ có thể học để vẽ
ra một sự phân biệt như thế, nếu có một gì đó có chung, phổ biến với ‘tất cả
những sự vật việc này’. Ý tưởng của Diṅnāga đã là chúng ta có thể cũng học
để vẽ ra sự khác biệt theo cách khác ngược lại, bằng việc tập trung vào ‘những
sự vật việc khác đó’.
Để học dùng từ ‘lửa’, thí dụ, chúng ta phải học để
nói sự khác biệt giữa những sự vật việc được gọi đúng là ‘lửa’ và những gì đó
không gọi là lửa. Bây giờ lớp
của tất cả những sự vật đó vốn không-lửa thì lớn vô cùng, và cũng vô cùng không
đồng nhất. Nó gồm mọi sự vật việc, từ đất và băng đến loài bò, mèo và những màu
sắc. Không ai mong đợi ở đó có một phổ quát thực duy nhất, không-tính-là-lửa, có mặt trong tất cả những
thành viên của lớp này. Nhưng lửa chỉ là những sự vật việc còn lại sau khi
chúng ta loại trừ lớp này.Vì vậy, ngay cả khi không có gì có chung với tất cả
những sự vật việc được gọi là ‘lửa’, chúng vẫn tạo thành một lớp, dù không có
liên kết với nhau, bằng tính cách khác biệt với những không-lửa. Ngay cả
nếu tất cả những lửa đều là những đặc thù duy nhất, không cùng chung bản chất,
chúng vẫn tạo thành một lớp riêng
biệt: lớp của sự vật việc vốn là không
không-lửa. Và điều này không dựa trên sự có chung bản chất của chúng. Đây
chỉ là một trường hợp của việc bỏ qua sự khác biệt. Mỗi ngọn lửa là một
đặc thù duy nhất, tuyệt đối không giống bất cứ gì khác trong vũ trụ. Chúng ta
thu thập tất cả chúng lại với nhau bằng việc bỏ qua tính riêng lẻ đặc thù của
mỗi chúng, sau khi nhìn chúng như là thống nhất trong sự khác biệt của chúng
với những không-lửa. Đây là cách chúng ta xây dựng lửa-trong-tổng quát.
Đây là trực giác căn bản đằng sau tuyên bố của
Diṅnāga rằng ý nghĩa của một từ chỉ loại
[18], là sự
loại trừ của loại kia. Nếu mọi sự vật việc là duy nhất, khi đó bản chất
của một đặc thù thì chỉ là sự khác biệt của nó với mọi sự vật việc
khác. Bản chất của nó là để loại trừ tất cả những đặc thù khác. Một
số những đặc thù nào đó vẫn có thể được gộp lại với nhau trong một từ chỉ loại
nếu chúng ta có thể bỏ qua những khác biệt lẫn nhau của chúng, và thay vào đó
tập trung vào sự loại trừ có chung của chúng về một số nhóm vốn là ‘khác’. [19] Nhưng có
một phản đối hiển nhiên với phương sách này. Chúng ta giả định để nói thế
nào khi gọi một gì đó là một ngọn lửa? Thuyết apoha nói rằng chúng ta
không cần phải tìm những gì có chung cho tất cả những (gì gọi là) lửa (không có
bất cứ gì là thế), chúng ta chỉ bỏ qua những cách chúng khác biệt với lẫn nhau,
và tập trung vào sự khác biệt chung của chúng với những không-lửa. Nhưng
chúng ta không thể làm điều đó trừ khi chúng ta đã biết những sự vật việc nào
là không-lửa. Và không có bất cứ điều gì vốn những không-lửa có chung –
ngoại trừ là khác biệt của chúng với lửa! Vì vậy, xem dường như chúng ta không
thể nói những sự vật việc nào là không-lửa, trừ khi chúng ta đã biết làm thế
nào để nói có phải một gì đó là một ngọn lửa. Và đó chính xác là những gì
lý thuyết được giả định là để giải thích. Xem dường như chúng ta đã đi
quanh một vòng tròn kín đóng rất chặt!
Đây là Yogācāra-Sautrāntika trả lời như thế nào với
phản đối này. Đoạn văn thứ nhất và thứ hai là từ chương Nhận thức và tự-bình
luận của Pramāṇavārttika, tác phẩm
chính yếu của Dharmakirti, trong khi đoạn văn thứ ba là của Śāntarakṣita
và học trò của ông là nhà bình luận Kamalaśīla:
PV
III. 73. Dù là có một khác biệt, một số nhiều (đa số) thì được xác
định bằng những phương tiện của bản chất bẩm sinh tự nhiên, ở đó là sự thiết
lập của một nghĩa duy nhất qua sự nhận thức, vv ... , về đối tượng của một khái
niệm duy nhất, như với những giác quan và tương tự.
Vì [theo
như chúng ta] chức năng giác quan, đối tượng, ánh sáng và sự chú ý, hay [theo
như bạn, những người Nyāya] tự ngã, chức năng giác quan, não thức và sự tiếp
xúc với đối tượng của nó, mặc dù không có tính phổ quát vốn xác định bản chất
của chúng, nhận thức một sự nhận thức màu sắc duy nhất, do đó, những cây siṃsapā khác
nhau, vv.., mặc dù không liên quan với nhau, mang lại khái niệm về một bản chất
duy nhất và một hình dạng duy nhất, hay như gỗ, theo quy ước của là có hậu quả
của việc có được lửa và tương tự. Và đây không là trường hợp của những sự
vật việc khác nhau, như nước và tương tự, hay nhận thức về màu sắc và tương tự
qua thính giác, v.v.
74. Hay
nhiều loại cây cỏ làm thuốc, cùng nhau hay riêng biệt, chữa bệnh sốt vv ... ,
mặc dù chúng là thuộc nhiều những loại khác nhau; và đây thì không là thế
với những (cây cỏ) khác.
Trong khi
guduchi, musta, v.v., mang lại
một hậu quả, có định nghĩa đặc trưng là chữa bệnh sốt, vv ... , chúng không tùy
thuộc, trong việc này, trên một phổ quát, chúng là khác biệt, vì đó là bản chất
của chúng. Cũng không là điều này được tìm thấy trong những gì thiếu này
dấu phân biệt này, chẳng hạn như sữa quấy
chua. [Pandya, trang 209 – 10]
PV
III. 82. Có [trong trường hợp của nhiều những đặc thù] những gì là nhiều
thì [được xem như] có một khả năng nhân quả duy nhất khi nó đi đến sự chỉ định
và nhận thức – người đời xem như một [loại của sự vật việc] có như cơ sở của nó
là tất cả là-có khác biệt của chúng với mọi sự vật việc thiếu khả năng cho [mục
đích] đó. [Pandeya, trang. 214]
TS 1034.
Nhưng bất cứ khi nào một số nhiều thì được coi là nguyên nhân của một hậu quả
duy nhất, khi đó một từ duy nhất thì áp dụng [với chúng] bằng sự áp đặt của một
thuộc tính duy nhất.
TSP: Dù
không có phổ quát, nhưng nó thì vẫn xác định, trong sự thuận hợp với một qui
luật liên quan đến những từ ngữ phổ quát, khi có sự thật hiện bới nhiều (số
đông) của một chức năng duy nhất. Mặc dù nhiều, một số những sự vật việc bới
bản chất của chúng, tất cả thực hiện một chức năng. Ngõ hầu để biểu lộ khả
năng của chúng cho một chức năng duy nhất, bằng việc áp đặt một hình thức duy
nhất cho lợi ích của nhẹ gánh cho những tác nhân, một từ duy nhất được áp
dụng. Như từ ‘cái bình’ được áp dụng cho những gì có nhiều màu sắc, vv ...
, khi chúng có khả năng để hoàn thành chức năng ấn định của việc chứa mật ong,
nước vv...
Chúng ta có thể thấy điều này thì được giả định để
làm việc như thế nào, nếu chúng ta nghĩ về thí dụ về những cây cỏ dùng làm
thuốc. Có nhiều những loài cây cỏ khác nhau vốn tất cả có thể được dùng để
giảm bệnh sốt. Vì chúng từ những loài khác nhau, chúng hoạt động khác
nhau. Nhưng tất cả chúng tạo một hậu quả vốn chúng ta quan tâm, đó
là, giảm nóng sốt. Và vì thế chúng ta nảy ra một từ duy nhất để chỉ
định tất cả chúng: ‘chống-bệnh sốt’. Việc chúng ta dùng từ duy nhất này
dẫn đến cảm giác rằng tất cả chúng đều phải có chung cùng một gì đó. Nhưng
điều này cũng giống như tin tưởng rằng một cỗ xe ngựa là một sự vật duy nhất. Nó
là kết quả của việc phóng chiếu những quan tâm của chúng ta lên trên thế
giới. Cũng giống như sự quan tâm của chúng ta về phương tiện của chuyên
chở dẫn chúng ta đii đến nhìn những bộ phận của cỗ xe ngựa như tạo thành một
toàn bộ duy nhất, vì vậy quan tâm của chúng ta đến việc giảm nóng sốt dẫn chúng
ta đến xem những loại cây cỏ khác nhau như có một bản chất chung. Và giống
đúng như thực sự thì không có gì ngoài những phần xe ngựa được lắp ráp theo một
cách nhất định, vì vậy thực sự thì không có gì ngoài những loại cây cỏ khác
nhau, mỗi loại đều hoạt động theo cách riêng biệt của chúng.
Yogācāra-Sautrāntika tuyên bố rằng sự việc tương tự
xảy ra khi chúng ta học quy ước cho một loại từ ngữ như ‘cây phong’. Chúng ta
có thể nghĩ rằng tất cả những cây phong có một bản chất chung là điều hiển
nhiên, và rằng đó là lý do chúng ta gọi tất cả chúng là những cây
phong. Nhưng những nhà lôgích đạo Phật nói rằng điều đó thì thực sự là một
cách khác ngược lại. Chúng xem có vẻ cây này giống cây kia vì chúng ta đã
học để gọi chúng tất cả bằng cùng một tên gọi. Và chúng ta có một từ cho
tất cả chúng vì mỗi cây có thể, trong cách riêng biệt của nó, thỏa mãn một mong
muốn nhất định, chẳng hạn như mong muốn cho xirup
hay củi đốt. Chúng ta bỏ qua những khác biệt của chúng, và học để nhìn chúng
như tất cả giống nhau, vì chúng ta đã đi đến để xem chúng như một nhóm, đứng
chung phản lại tất cả những sự vật việc vốn không thỏa mãn mong muốn. Điều
này giải thích tại sao Dharmakīrtii nghĩ rằng nó là có tính thông tin để suy
luận rằng những gì tôi thấy là một cây từ sự kiện là những gì tôi thấy là một
cây phong. Giả định tôi đã học để gọi một ‘cây phong’ tất cả những sự vật
không thuộc vào lớp của những sự vật vốn không đáp ứng mong muốn với xirup của tôi. Và giả định tôi đã
học để gọi một cái ‘cây’ cho mọi sự vật vốn không thỏa mãn mong muốn của tôi
với củi đốt. Như đã thực xảy ra, những gì trước mặt tôi bây giờ sẽ hài
lòng cả hai mong muốn. Nhưng tôi không tất yếu biết điều đó khi tôi xác
định nó là một cây phong. Vì theo cách của tôi, để bảo không biết một gì
có là một cây phong hay không, không cần gồm mong muốn của tôi cho củi
đốt. Để biết rằng đó là một cái cây, tôi có thể phải nhớ lại những sự kiện
về kinh nghiệm quá khứ của tôi với xirup và củi. Những sự kiện đó liên
quan đến những đặc thù khác hơn đặc thù tôi nhìn thấy bây giờ.Thế nên, ngay cả
nếu đặc thù này đặt vừa vặn vào trong cùng mô thức như chúng, tôi vẫn đang học
một gì đó mới về đặc thù này
Cho đến giờ, trong thảo luận của chúng ta về
thuyết apoha, chúng ta đã từng
nói về đó là gì rằng chúng ta học khi chúng ta học để dùng một từ chỉ-loại. Nhưng có thể không rõ
ràng rằng chúng ta thực sự có thể học cách dùng những từ chỉ-loại theo thuyết
này. Vì vậy, nó có thể có ích để xem tiến trình học tập thì cho là xảy ra
thế nào. Giả định chúng ta đang dạy một đứa bé dùng từ ‘lửa’. chúng ta sẽ
không thành công cho đến khi đứa bé có thể cũng làm những phán đoán như chúng
ta làm về có phải một gì đó là lửa hay không. Theo như lý thuyết, ý nghĩa
của’lửa’ được công thức ‘không không-lửa’ đưa ra. Đứa bé học để áp dụng
công thức này thế nào? Hiển nhiên bắt đầu với việc chúng ta cho đứa bé
thấy một ngọn lửa và phát âm từ ‘lửa’. Nhận thức của đứa bé về ngọn lửa
gây nên việc xảy ra của một hình ảnh tâm lý, và hình ảnh tâm lý đó là một gì có
thể được sao chép và lập lại. (Đây là những gì xảy ra khi chúng ta nhớ một
kinh nghiệm và sau đó diễn lại nó trong não thức chúng ta). Những gì chúng ta
muốn là để cho đứa bé hình thành một hình ảnh tâm lý vốn trong tương lai nó có
thể dùng để xác định liệu từ đó có áp dụng không. Đứa bé sẽ làm điều này
bằng việc nhớ lại hình ảnh tâm lý đó và so sánh nó với những gì khi đó đứa trẻ
đang kinh nghiệm. Nhưng sự so sánh không là một vấn đề của việc tìm sự giống
nhau. Không có sự giống nhau. Sự so sánh chỉ có thể là một vấn đề tìm
để xem liệu tri giác hiện tại thì có không-tương đồng với hình ảnh tâm lý được
nhớ lại hay không. Nếu nó là, nếu tri giác hiện tại bị hình ảnh tâm lý nhớ
lại loại trừ, khi đó những gì đứa trẻ nhìn thấy là không-lửa. Nếu nó không
bị loại trừ, khi đó những gì đứa trẻ nhìn thấy là không không-lửa.Vì vậy, sẽ là
chính xác để gọi nó là lửa.
Dù vậy, đứa bé hình thành hình ảnh này thế
nào? Hình ảnh tri giác được ngọn lửa trước mặt đứa bé hình thành khi chúng
ta đang dạy đứa bé thì chỉ cũng là một đặc thù như ngọn lửa gây ra nó. Vì ngọn
lửa là một đặc thù duy nhất, nó thì khác với mọi gì khác. Vậy hình ảnh nó
gây ra trong đứa bé sẽ loại trừ mọi tri giác khác – gồm cả những tri giác khác
gây nên do những lửa cháy khác. Nếu đó đã là hình ảnh vốn đứa bé đã học để
liên kết với từ ‘lửa’, thì đứa bé sẽ không bao giờ gọi bất cứ gì khác bằng tên
đó. Những gì chúng ta phải làm là giúp đứa bé tạo một hình ảnh vốn không
tương thuận với tất cả những không-lửa; trong khi không loại trừ những hình ảnh
đó có nguyên nhân cho tri giác những lửa đặc thù khác. Ở đây là chỗ sự hài
lòng của mong muốn đi vào. Giả định ngọn lửa chúng ta đang dùng thì trên một
sườn đồi lạnh. Sự hiện diện của nó khi đó sẽ thỏa mãn mong muốn sưởi ấm
của đứa bé. Sau đó chúng ta có thể dẫn đứa bé đến những phần khác của sườn
đồi và chỉ cho thấy tất cả những không-lửa vốn không thỏa mãn mong muốn
đó. Cách này, chúng ta có thể đưa đứa bé đến thành hình và giữ lại một
hình ảnh vốn loại trừ, trên cơ sở của sự thất bại để thỏa mãn mong muốn sưởi
ấm. Sau đó, khi đứa bé tri giác những lửa đạc thù khác trong tương lai, những
hình ảnh tri giác chúng gây ra sẽ không tương thuận với hình ảnh vốn đứa bé đã
học được để liên kết với ‘lửa’. Vì vậy, đứa bé sẽ biết rằng chúng cũng có thể
được gọi bằng tên đó.
Lý thuyết của apoha là giải pháp
Yogācāra-Sautrāntika cho vấn đề phổ quát. Nó đại diện cho một loại ngữ
nghĩa học duy danh [20] : một lý
thuyết về cách những từ có thể có ý nghĩa trong sự vắng mặt của những phổ quát
thực. Vấn đề của những phổ quát đã được tranh luận trong triết học phương
Tây, ít nhất kể từ thời Plato và Aristotle. Nhưng trong truyền thống triết
học phương Tây hoàn toàn không có bất cứ gì giống như lý thuyết
của apoha. Lý thuyết
này có thành công không? Có phải nó cho chúng ta thấy cách chúng ta có thể
xoay sở thành công với không những thực thể đặc thù nào gọi là những phổ
quát? Nêu lên nghi ngờ sẽ là phải, vì giải pháp vốn nó đưa ra gần như quá
đơn giản. Nó có cái nhìn về nó như một loại của sự đánh lừa
lôgích. Tuy vây, nghi ngờ là một việc, và tìm ra một khiếm điểm là một
việc khác. Để thử nghiệm lý thuyết bạn cần tìm kiếm một khiếm khuyết thực
sự. Cách làm điều này là tìm chỗ nào đó, ở đó lý thuyết có thể đã dấu diếm
đem vào những phổ quát khi không ai nhìn vào đấy. Có bất kỳ chỗ nào trong
lý thuyết ở đó có xảy ra điều này? Một điều có thể hỗ trợ việc thăm dò là
việc dùng lý thuyết làm nên bởi quan hệ nhân quả. Nó dựa trên ý tưởng
rằng, lấy thí dụ, những loại cây thuốc khác nhau mỗi chúng có thể làm giảm
sốt. Có phải có thể có quan hệ nhân quả nếu không có những phổ quát? chúng
ta có thể cũng muốn suy nghĩ nhiều hơn về phát biểu rằng một người học ngôn ngữ
có thể thành hình một hình ảnh và sau đó tái tạo hình ảnh đó về sau
này. Nếu không có những phổ quát, những gì làm cho một hình ảnh tôi có bây
giờ là một bản sao của một hình ảnh tôi đã có trước đó? Những nhà lôgích
đạo Phật đã đưa ra những suy nghĩ đáng kể cho cả hai câu hỏi này. Vì vậy,
có thể là họ có những trả lời tốt, nhất quán cho chúng. Tuy nhiên nó luôn
luôn có ích để tự tay chúng ta đặt một lý thuyết triết học vào thử nghiệm.
10.6
Những nhà
lôgích đạo Phật, bắt đầu với Diṅnāga, phân biệt giữa hai loại khác nhau của suy
luận: suy luận cho chính mình, và suy luận cho những người khác. Định
nghĩa của suy luận vốn chúng ta đã thảo luận trước đây thực sự áp dụng cho loại
đầu tiên và không cho loại thứ hai. Vì một suy luận cho những người khác có
nghĩa là thuyết phục người khác rằng một số phát biểu là đúng, nó phải được
trình bày chi tiết hơn là suy luận cho chính mình, phần lớn của nó là thực hiện
‘trong đầu’. Những bản văn của những nhà lôgích đạo Phật tiêu biểu thường dành
một chương riêng cho mỗi loại suy luận. Trong một tác phẩm như vậy, chương
về suy luận cho những người khác sẽ đem cho một định nghĩa với nghĩa là để bắt
đầu đặt định tất cả những gì phải được nói để cung cấp một biện luận vững chắc
lôgích. Chúng ta sẽ không đi vào những chi tiết của một định nghĩa loại như vậy
ở đây. Nhưng những chương này điển hình thường đem cho những gì có ý định
để là những khuôn mẫu cho việc xây dựng lý luận triết học đúng cách. Và
chúng có thể khá thú vị, vì chúng cho chúng ta thấy Yogācāra-Sautrāntika đã
nghĩ những dụng cụ tri thức học họ đã phát triển có thể được dùng thế nào để
lập luận chính đáng một số phát biểu đạo Phật quan trọng. Chúng ta hãy xem
một thí dụ của lập luận như thế từ một quyển sách hướng dẫn lôgích đạo Phật cho
sinh viên, thế kỷ thứ mười hai, của Mokṣākaragupta. [21]
Thí dụ
của chúng ta là một biện minh ủng hộ trả lời của Diṅnāga đã cho câu hỏi sau
đây: Nhận thức thì biết được thế nào? Phần lớn tri thức học India đã trở
nên quan tâm hoặc tham dự vào một theo đuổi những câu hỏi liên quan đến sự nhận
thức những đối tượng khác nhau. Nhưng chúng ta chỉ có thể hỏi những câu
hỏi như vậy nếu chúng ta biết có một gì như sự nhận thức. Vì thế câu hỏi nêu
lên là một gì này thì biết được thế nào. Những trường phái khác nhau đã cho
những trả lời khác nhau. Nyāya, thí dụ, phát biểu rằng một nhận thức cá
nhân được nhận biết bởi một hành động tự xem xét trở lại chính mình tiếp
theo. Sau nhìn thấy một gì đó, tôi có thể ‘nhìn vào bên trong’ và ý thức
được sự kiện tri giác vừa xảy ra. Một trường phái khác (Bhāṭṭa Mīmāṃsā)
chủ trương rằng chúng ta suy luận rằng một nhận thức phải đã xảy ra từ sự kiện
là đối tượng thì được nhận thức. Sau khi biết rằng con bò tôi đang trông
thấy thì được nhận thức, tôi suy luận rằng phải có một nhận thức đã làm sự nhận
thức. Cả hai trả lời đều cho rằng nhận thức chỉ được biết một cách gián
tiếp. Trường phái của Diṅnāga gạt bỏ những trả lời như vậy. Nó tuyên
bố rằng nhận thức phải là tự-nhận thức. Lấy thí dụ của nhận thức màu
xanh. Nhớ lại rằng đối với Yogācāra-Sautrāntika, tri giác thì không là ý
thức về một đối tượng bên ngoài. Những gì tôi ý thức được trong tri giác
về màu xanh là một hình ảnh tinh thần: với Sautrāntika là một đại diện, với
Yogācāra là một ấn tượng. Hình ảnh tinh thần này có dạng của ‘màu xanh’.
Nhưng, hình ảnh tinh thần-có-dạng-màu-xanh này, Diṅnāga tuyên bố, là một gì
khác biệt với sự nhận thức vốn là ý thức về nó. Sự xảy ra của tri giác tôi
thì chỉ là sự xảy ra của một việc tự-nhận thức sự nhận thức
có-dạng-màu-xanh. Nó là vì tri giác của tôi được cấu trúc theo cách này
khiến tôi có thể nhận biết không chỉ màu xanh, nhưng cũng về nhận thức của tôi
về màu xanh. Đây là cách thức, trong tổng quát, những nhận thức được biết
đến. Bây giờ có một phản đối hiển nhiên đối với quan điểm này. Nó
trông giống như một vi phạm rành rành của Nguyên Lý Chống-Tự Phản. Hãy xem
làm thế nào tác giả Mokṣākaragupta, phái Yogācāra-Sautrāntika, hình thành lập
luận cho quan điểm của Diṅnāga và cố gắng trả lời phản đối này:
Sự minh chứng của Tự-nhận thức
Tất cả những ý thức và những hiện tương tinh thần
đồng thời đi kèm, chúng nhận thức chính chúng, chúng là tự-nhận thức. Một sự
hiểu biết là một nhận thức vốn nắm bắt được chỉ đối tượng. Ở đó có ý thức,
có những hiện tương tinh thần đi kèm; chúng nắm chặt được hình thức đặc
biệt của đối tượng và được đặc trưng bởi vui sướng, đau đớn và lãnh
đạm. Tự-nhận thức thì nói để là sự tri giác, tránh khỏi sự khái niệm hóa
và không-là-sai lầm, vì nó thì được tao ra (là kết quả) của sự ý thức trực tiếp
về hình thức riêng của nó; đối với tất cả những ý thức và những hiện tương
tinh thần đồng thời đi kèm, nó là cái vốn chính nó nhận thức hình thức đó qua
(hình thức) đó, nó thì đặc trưng.
Ở đây một số đối tượng, nói rằng tự-nhận thức của
những ý thức và những hiện tương tinh thần đồng thời đi kèm thì không thể được,
vì nó thì mâu thuẫn cho một gì đó để thực hiện một hoạt động trên chính
nó. Một vũ công, dù người này đã từng tập luyện rất giỏi, vẫn không thể trèo
lên vai chính mình. Lưỡi kiếm của một thanh kiếm, cho dù nó có sắc đến
đâu, không cắt chính nó. Một ngọn lửa bùng cháy, bất kể mãnh liệt đến đâu,
không đốt cháy chính nó. Vậy làm thế nào là ý thức và hiện tương tinh thần
đồng thời đi kèm để nhận thức chính nó? Đối với quan hệ giữa nhận thức
được và cái-nhận thức thì chỉ là một trường hợp cá biệt của quan hệ giữa đối
tượng và tác nhân. Và nó được phổ thông thừa nhận rằng đối tượng và tác
nhân thì khác biệt, giống như cây và thợ mộc.
Điều này thì được trả lời rằng trong một nhận thức,
việc nhận thức của cái nhận thức được không xảy ra bằng phương tiện của quan hệ
đối tượng-tác nhân. Vậy là thế nào? Bằng những phương tiện của quan
hệ giữa những gì được thể hiện và những gì làm thể hiện. Như một ngọn đèn
chiếu sáng chính nó, do đó, nhận thức cũng thế, không giống những đối tượng trơ
trơ bất động, phát sinh với bản chất bẩm sinh tự nhiên của việc chiếu sáng từ
nguyên nhân riêng của nó, được xác định là tự-nhận thức. Và vì vậy, đã nói:
Ý thức nảy sinh với một bản chất vốn là trái ngược
với cái của vật chất trơ trơ bất động, Tư cách không-trơ trơ bất động của nó
thì chỉ ý thức của nó của chính nó.
Nhưng sự tự-nhận thức của nó thì không bằng phương
tiện của quan hệ đối tượng-tác nhân,
Vì một gì đó là đơn nhất và không-phần trong
hình thức không thể có ba phương diện.
[TS 2000 – 2001]
Điều đó cũng được tác giả của Alankara [Prajnākaragupta] đã nói:
Đối tượng, tác nhân và những tương tự, đều là được
xây dựng khái niệm và không là thực cuối cùng; Nó được giải thích rằng tự ngã
phá hủy chính nó bởi chỉ chính nó.
[PVBh III .369]
‘Ba
phương diện’ được nhắc đến ở đây là tác nhân, đối tượng và hành động, đó là sự
nhận thức, những gì nó ý thức (chẳng hạn như màu xanh), và hành động của việc
nhận thức (việc nhận thức màu xanh của sự nhận thức). Chúng ta thường hiểu
nhận thức gồm cả ba. Nhưng Diṅnāga tuyên bố rằng chúng ta nghĩ điều này
chỉ vì chúng ta áp đặt những khác biệt khái niệm trên những gì thực sự là một
sự vật việc thống nhất duy nhất. Hai trích dẫn đều phát biểu rằng vì nhận
thức là một gì đó vốn là thực cuối cùng và do đó không-phần, nó sẽ không nên
được nghĩ đến như thực sự có thể phân tích vào thành ba phương diện
này. Chúng đơn thuần phản ảnh một cách có ích cho chúng ta nghĩ về sự nhận
thức. Nhưng Nguyên Lý Chống-Tự Phản áp dụng chỉ cho những trường hợp ở đó
chúng ta có thể áp dụng sự khác biệt của tác nhân-đối tượng, chẳng hạn như
trường hợp của người thợ mộc và gỗ là đối tượng của hành động cắt xẻ của người
thợ mộc.
Hơn nữa, nó không thể là đúng rằng ý thức và tinh
thần đồng thời đi kèm đều được một ý thức khác chiếu sáng. Vì điều là
không thể có đươc cho một ý thức tồn tại đồng thời khác để chiếu sáng ý thức và
tinh thần đồng thời đi kèm, vì không có quan hệ của sự hỗ trợ nhân và quả [giữa
những gì tồn tại đồng thời], giống như sừng trái và sừng phải của một con
bò. Cũng không thể là một gì đó tồn tại ở một thời điểm khác biệt chiếu
sáng, vì những sự vật việc đều là nhất thời, những gì được chiếu sáng, khi đó
sẽ không tồn tại. Cũng vậy, nếu đã không có tự-nhận thức, sẽ là khó khăn
để xem làm thế nào có thể là nhận thức rằng đối tượng thì được nhận thức, nhờ
vào sự lý luận, ‘Nhận thức về những gì là đủ điều kiện không xảy ra trừ khi sự
định điều kiện đã được thấu hiểu’. Ở đây đối tượng là những gì đủ điều
kiện, được nhận thức là sự định điều kiện, và những gì được nhận thức là đủ
điều kiện bởi phương tiện của nhận thức. Nếu nhận thức thì không được nghĩ
trong hình thức của những gì nó là tự nó nhận thức được, sau đó đối tượng vốn
đủ điều kiện bởi nhận thức được nghĩ về (nó) sẽ thế nào? Điều là không thể để
cảm nhận một người giữ-cái gậy không cảm nhận cái gậy.
Và về phần những gì [Naiyayika] Trilocana đã nói [22]: ‘Cũng giống như một người thì ý thức về màu sắc
thấy rõ vốn mắt không cảm nhận được, vì vậy sẽ là diều có thể để ý thức rằng
đối tượng thì được biết ngay cả dù một người thì không ý thức về nhận thức’,
thế đó là sai. Về [thí dụ] đó thì không liên quan đến chủ đề hiện
tại. Mắt không là một đính tính chất của màu sắc. Thế thì là
gì? Y thức thị giác. Nếu ý thức thị giác thì không được nhận biết,
màu sắc sẽ được biết thế nào? Và như thế lý thuyết của chúng ta thì tuyệt
đối vô sự.
Giả định
tôi cảm nhận màu xanh, và tôi cũng ý thức được rằng tôi ý thức về màu xanh –
rằng tôi nhận thức được sự nhận thức qua nó tôi cảm nhận màu xanh. Phía
đối lập chủ trương rằng nó là một nhận thức riêng biệt vốn thì ý thức về sự
nhân thức tri giác C1 vốn nhận thức màu xanh. Khi đó, hoặc là
nhận thức riêng biệt C2 này xảy ra đồng thời với nhận thức C1,
hay nó xảy ra tiếp sau với sự nhận thức tri giác. Giả định C1 và C2
là đồng thời. Vì C2 là một nhận thức, và nó có là có thể
để là ý thức được bất kỳ nhận thức nào, theo quan điểm của phía đối lập, điều
này sẽ phải là một vài nhận thức riêng biệt nào đó vốn nó là nhận thức của C2.
Nếu nó là một nhận thức thứ ba tồn tại đồng thời, chúng ta đã bắt đầu vào
một chuỗi lý luận thoái lui không dứt. Cách duy nhất để tránh chuỗi thoái lui
là để có nhận thức gốc C1 là sự nhận thức vốn nhận thức C2. Nhưng
khi đó, chúng ta có hai sự việc tồn tại đồng thời trong một quan hệ nhân quả
của tùy thuộc lẫn nhau. Và điều này thì vô nghĩ lý. Sẽ không hợp lý
nếu tuyên bố rằng sừng trái của con bò là nhân của sừng phải, và cùng một lúc
sừng phải là nhân của sừng trái.
Giả định
C2 thì tiếp theo với C1. Vì những nhận thức là nhất
thời, điều này có nghĩa là C1 không còn tồn tại khi tôi trở nên ý
thức được nó. Nhưng chúng ta không thể cảm nhận những gì không tồn
tại Và quán sát bên trong chính mình là một loại của tri giác; nó là
một loại ‘nhìn vào sâu bên trong’. Vì vậy, điều này nghĩa là ý thức của
tôi về nhận thức tri giác không là bởi sự quán sát bên trong chính
mình. Khi đó, nó phải là bằng phương tiện hoặc của ký ức hoặc của suy
luận. Mokṣākaragupta không thảo luận về trường hợp của ký ức, nhưng điều
này có thể là do Diṅnāga đã cung cấp luận chứng chống lại ký ức: vì chúng ta
không nhớ những gì chúng ta trước đây chưa từng có kinh nghiệm, chúng ta chỉ có
thể nhớ việc nhận thức màu xanh của chúng ta nếu chúng ta đã trước đây đã nhận
thức việc nhận thức màu xanh của chúng ta. Vì vậy, cách tiếp cận này sẽ
đòi hỏi rằng sự nhận thức nhận thức chính nó.
Giả định
ý thức của tôi về C1 trước đây là qua suy luận. Chủ đề của suy
luận sẽ là màu xanh, lý do sẽ là sự đã nhận thức, và sādhya (thuộc tính sẽ chứng minh) là nhận thức. Lý do
sẽ là thuộc loại tác dụng: được nhận thức là một tác dụng của nhận
thức. Đây sẽ là một suy luận tốt, miễn là chúng ta có thể xác định sự hiện
diện của lý do trong chủ đề. Làm cách nào tôi biết rằng màu xanh thì đủ
điều kiện bởi sự đã nhận thức? Trả lời vững chắc hợp lý duy nhất sẽ có vẻ là có
màu xanh này trong sự có ý thức của tôi, và tôi lý luận rằng sẽ không có màu
xanh này trừ khi nó thì đủ điều kiện bởi sự đã nhận
thức. Nhưng tôi đã không thể có ý thức được màu xanh như một gì
đó là đủ điều kiện bởi nhận thức trừ khi tôi đã ý thức được sự nhận
thức. Tôi không thể có ý thức một ai đó như ‘người cầm một cây gậy’ trừ
khi tôi có ý thức về cây gậy. Tương tự như vậy, tôi không thể ý thức được
màu xanh như một gì đó đủ điều kiện bởi thuộc tính của đã được nhận thức trừ
khi tôi đã ý thức được nhận thức, nhờ đó màu xanh thì được nhận thức. Như
vậy, suy luận không thể bắt đầu nếu không có tự-nhận thức. Naiyayika Trilocana
phản đối rằng mặc dù hai mắt là nhân của một người nhìn thấy màu xanh, tôi có ý
thức về màu xanh với không là có ý thức về hai mắt chính tôi. Bởi cùng một
cách thức, ngay cả dẫu nhận thức là nhân của việc nhận thức được màu xanh, điều
là có thể là có ý thức rằng màu xanh được nhận thức nhưng là có ý thức về sự
nhận thức. Trả lời của Mokṣākaragupta với phản đối này là một thí dụ tốt
về loại chú ý đến từng chi tiết là dấu hiệu của phương pháp những nhà
lôgích học.
Tiếp
theo, Mokṣākaragupta quay sang những quan điểm của một số người trong trường
phái Mīmāṃsā, những người đã tuyên bố rằng một nhận thức không thể là được cảm
nhận [23] nhưng chỉ được nhận thức bởi suy luận:
Lại nữa,
sau đó có những gì [Kumārila] Bhātta đã nói, để chứng minh rằng nhận thức thì
không thể nhận biết: ‘Giống như có bằng chứng về sự tồn tại của những giác quan
bằng dùng sự kiện vốn nếu không thế thì sự chiếu sáng về màu sắc và tương tự là
đã không giải thích, do đó, sự tồn tại của sự nhận thức thì được thiết lập
trong cùng một cách’. Về điều này, [bình luận] Bhāsya nói, ‘Trong sự vắng mặt của một đối tượng đã nhận thức,
không ai cảm nhận sự có ý thức của [họJ. Một đối tượng là được biết, tuy
nhiên, nó thì được biết bởi suy luận’. Và Vārttika nói,
‘Nhận thức của nó là nhờ vào tính-được-nhận
thức [của đối tượng]’. Và tính-được-nhận thức [24] được cho
là sự biểu hiện của đối tượng.
Điều này
thì cũng không đúng. Vì liên quan với sự biểu hiện này cũng thế, có tính
trơ lì bất động trong sự xuất hiện của hình thức của đối tượng ngoại trừ sự
nhận thức, và sự chiếu sáng không thuộc về tính trơ lì bất động. Và nếu nó
đã là một gì đó khác hơn đối tượng, nó sẽ vẫn là tính trơ lì bất động và sẽ
không có khả năng để chiếu sáng chính nó. Nếu sự chiếu sáng là bởi một
biểu hiện khác sẽ có một chuỗi lý luận thoái lui không dứt. Và cũng có hệ quả
phi lý vốn sự biểu hiện, một gì đó có bản chất bẩm sinh tự nhiên là sự nhận
thức, thì không thể cảm nhận được. Vì vậy, nó phải được khẳng định rằng
nhận thức là tự-nhận thức. Tự-nhận thức được đem cho trong kinh nghiệm,
tại sao phủ nhận nó? Điều này đã được [bởi Dharmakīrti] nói:
Không thể
có sự nhìn thấy đối tượng khi sự cảm nhận thì không được cảm nhận.
Và tác
giả của Alankara [Prajnāikaragupta]
đã nói:
Nếu sự
nhận thức thì không thể cảm nhận được, khi đó làm thế nào sẽ có nhận thức về nó
tính-được-nhận thức của nó?
Ai có thể
định nghĩa bản chất của cái vốn nó thì không cảm nhận được?
Một lần nữa, sự giải thích với suy luận tổng quát
về tính có ý thức của chúng ta về những nhận thức của chúng ta sẽ không làm
việc nếu không giả định rằng những nhận thức nhận thức chính chúng. Để xem
biện luận cho điều này, chúng ta cần phải suy nghĩ cẩn thận về những gì nó thì
giống như để có một nhận thức tri giác. Màu xanh vốn tôi biết thì ‘trơ trơ’,
không sống động, không phải loại sự vật việc vốn có thể để lộ ra hay chiếu sáng
chính nó. Ý thức của tôi về màu xanh là một kinh nghiệm của sự biểu hiện
hay sự để lộ ra của đối tượng trơ trơ bất động này. Dường như, sau đó, tôi
ý thức không chỉ về đối tượng, nhưng cũng cả về những yếu tố của sự để lộ ra
hay sự chiếu sáng nữa. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào tôi có thể là có ý
thức về điều đó trừ khi nhận thức đã nhận thức chính nó:
Tuy
nhiên, nếu tất cả những nhận thức là tự-nhận thức và do đó là những tri giác,
như thế nào – nó sẽ không là trường hợp vốn một nhận thức khái niệm như ‘Đây là
một cái bình’ thì không-khái niệm, và rằng một nhận thức giống như thế về của
vỏ ốc xà cừ màu vàng – sẽ là không sai lầm? Trả lời với điều này rằng ngay cả
một nhận thức khái niệm, (khi) tiếp nhận chỉ chính nó, thì không-khái
niệm. Bằng phương tiện của phán đoán ‘Đó là một cái bình’, chỉ đối tượng
bên ngoài tự thân là được khái niệm hóa, không [sự nhận thức] tự thân.
[Dharmakīrti] đã nói:
Nếu một
gì đó nắm bắt ý nghĩa của một từ có [trong đối tượng], trong trường
hợp đó, [nhận thức thì khái niệm,
Nó thì
không là có sẵn bên trong [với một nhận thức] rằng ý nghĩa của một từ [là đối
tượng], do đó nó [nhận thức] thì có thể cảm nhận được một cách hoàn toàn.
Hơn nữa,
những gì là sai lầm thì trong chính nó không sai lầm, vì nó hiện ra chỉ qua
việc tự chiếu sáng. Và một gì đó được cho là một sai lầm do có một đối
tượng không thực. Đã được nói rằng:
Nhìn theo
liên quan với hình thức riêng của nó, mỗi nhận thức thì không sai lầm, sai lầm
là nhìn theo liên quan với hình thức của một (nhận thức) khác.
Thế nên,
điều được đồng ý rằng, nếu khác đi, sẽ là không có giải thích cho sự chiếu
sáng, nếu chúng chiếu sáng, khi đó những sự vật việc tồn tại chiếu sáng đã có
phát sinh từ những gì bởi tự nhiên chiếu sáng chỉ vì nhân riêng của
nó. [TB I § 13, trang. 22 – 24]
Giả định Moksakaragupta đã thuyết phục chúng ta
rằng mọi nhận thức đều là (hành đông) tự-nhận thức. Bây giờ tự-nhận thức trông
giống như một loại của tri giác. Vì nó là sự ý thức tức thời về một gì đó
(cụ thể là một nhận thức); nó không gồm có sự khái niệm hóa; vì những
cơ năng giác quan đều không liên quan trong việc nhận thức về một nhận thức, nó
không thể là bị sai lầm qua những cơ năng giác quan sai lầm. Nhưng khi đó
những nhận thức suy luận và những nhận thức được những cơ năng giác quan sai
lầm tạo ra, sẽ cũng quay ra là những trường hợp của tri giác. Lấy thí dụ,
sự nhận thức suy luận của tôi về lửa trên đồi. Giả định tôi đã xem xét cẩn
thận trước sau (hành động) lý luận vốn đưa tôi đến kết luận rằng có lửa cháy
trên đồi. Như một kết quả, tôi có một nhận thức về lửa. Nhận thức
này, giống tất cả những nhận thức, thì tự-nhận thức. Nhưng tự-nhận thức là
một một loại của tri giác. Chắc chắn một và cùng một nhận thức không thể
là một trường hợp của vừa cả nhận thức và suy luận. Trả lời là rằng, lấy
trong một cách một nhận thức suy luận là không-khái niệm, lấy trong một cách
khác nó là khái niệm (và vì thế không-suy luận). Hai cách này là
gì? Và có phải điều này thực sự giải quyết sự khó khăn?
Bây giờ, lấy trường hợp nhận thức về màu vàng vốn
người bị bệnh hoàng đản có khi nhìn vào vỏ ốc xà cừ màu trắng. Nhận thức này
cũng là việc tự-nhận thức, và tự-nhận thức là một dạng của tri giác. Nếu,
chúng ta theo Dhannakirti và chủ trương rằng một nhận thức phải là không sai
lầm để là tri giác, sau đó theo đến rằng nhận thức này là tri giác và cũng là
chỉ giả-tri giác. Vì như một trường hợp của tự-nhận thức, nó thì không-sai
lầm. Nhưng vì nó là kết quả của thị giác rối loạn, nó thì sai lầm. Ở
đây cũng thế, trả lời cho phản đối này liên quan đến việc phân biệt giữa hai
cách khác nhau trong đó chúng ta có thể nghĩ về một nhận thức: như tự-trình
bày, và như là sự đại diện của một số đối tượng khác biệt. Tuyên bố là
nhận thức đó và cùng một nhận thức có thể là trung thực khi được nhận trong
cách thứ nhất, nhưng không-trung thực khi được nhận trong cách thứ hai.
Đây là một câu hỏi xa hơn nữa để suy ngẫm: liệu nó
có ý nghĩa không khi gọi một gì đó là một mẩu của kiến thức nếu nó là một gì
đó, vốn trên nguyên tắc, chúng ta đều không có khả năng là bị sai lầm về nó?
Yogācāra-Sautrāntika nói rằng tự-nhận thức không bao giờ có thể là không-trung
thực. Và điều đó xem dường đúng. Làm thế nào một nhận thức có thể thành
lầm lẫn trong việc tự biểu hiện đơn giản? Những nhà lôgích đạo Phật đã rất
cố gắng để cho thấy rằng tự-nhận thức sẽ không vi phạm Nguyên
Lý Chống-Tự Phản. Bây giờ chúng ta có thể thấy rằng qua việc
tự-nhận thức, họ không có ý chỉ về hành động không thể được của một con mắt
quay hướng mắt nhìn của nó vào chính nó. Bằng việc tự-nhận thức họ muốn nói
với nghĩa là một gì đó nhiều phần giống như sự tự-trình bày, một sự chiếu sáng
của nhận thức về nội dung của nó, qua một loại của việc tự biểu hiện. Tuy
nhiên, câu hỏi vốn điều này nêu lên, là không biết sự tự-nhận thức sẽ thực sự
nên nghĩ như một phương tiện của tri thức không.
Chúng ta sẽ chấm dứt sự trình bày của chúng ta về
triết học đạo Phật ở điểm này. Có rất nhiều nữa với trường phái Diṅnāga
hơn là chúng ta đã từng có thể trình bày ở đây. Và cũng có những phát
triển rất thu hút đáng chú trọng khi triết học đạo Phật được đưa lên Tibet và sang
những nước Đông Asia. Một quyển sách như quyển sách này không thể đem cho
một khảo sát toàn diện về toàn bộ đạo Phật truyền thống. Nhưng có lẽ nó có
thể trang bị những dụng cụ căn bản sẽ cần cho những ai là người muốn khám phá
thêm nữa.
Đọc thêm
Hiện nay
có những bản dịch tốt của bốn công trình Yogācāra-Sautrāntika quan
trọng. Đầu tiên và thứ hai trong số này là những chương duy nhất của những
bản văn, trong khi thứ ba và thứ tư là những bản văn hoàn chỉnh:
• Hattori Masaaki, Dignaga: On Perception (Cambridge, MA: nxb Đại học Harvard 1971).
• Tom Tillemans, Dharmakirti's Pramanavarttika: An annotated Translation of the fourth
chapter (Vienna: Verlag der 6sterreichischen Akademie der Wissenschaften, 2000)
• Mrinalkanti Gangopadhyaya, Vinītadeva's Nyāyabindutika on Dharmakīrti’s Nyāyabindu, Indian Studies Past and Present 3 (Calcutta,
1971).
• Kajiyama Yuichi, An Introduction to Buddhist Philosophy: An Annotated Translation of the Tarkabhasa
of Moksakaragupta, Wiener Studien zur
Tibetologie und Buddhismuskunde 42 (Arbeitskreis Für Tibetische Und
Buddhistische Studien, Universität Wien (1998)
Hai
nghiên cứu khá dài và đã cũ về Yogācāra-Sautrāntika nhưng vẫn còn có ích. Đầu
tiên là Theodor Stcherbatsky, Buddhist Logic (New York: Dover, 1962, in lại; xuất bản lần
đầu trong tùng thư Bibilotheca
Buddhica của Hàn lâm viện Khoa học U S S R, Leningrad, 1930). Thứ
hai là Satkari Mookerjee, The
Buddhist Philosophy of Universal Flux (Calcutta: nxb Đại học Calcutta
1935).
Một cố
gắng tham vọng gần đây để trình bày sự thành hình của Dharmakīrti về
Yogācāra-Sautrāntika là John D. Dunne, Foundations
of Dharmakīrti
's Philosophy
(Somerville, MA: Wisdom, 2004).
Cho một
nghiên cứu xuất sắc về sự truyền bá đạo Phật từ India sang Tàu, xem Erik
Zurcher, The Buddhist conquest of China:
the spread and adaptation of Buddhism in early medieval China (Leiden: EJ.
Brill, 1972).
Cho một
giải thích về lịch sử ban đầu của đạo Phật vào vào Tibet, xem David Seyfort
Ruegg, Buddha-nature, Mind and the
Problem of Gradualism in a Comparative Perspective: on the transmission and
reception of Buddhism in India and Tibet (London: School of Oriental and
African Studies, 1989).
Cho một
giải thích thú vị lôi cuốn của giáo dục tu viện đạo Phật Tibet, xem Georges
Dreyfus, The Sound of Two Hands Clapping (Berkeley:
nxb Đại học California, 2003).
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Oct/2020)
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Diṅnāga (दिङ्नाग – Trần Na 陳那) (khoảng 480 – 540)
cùng Dharmakīrti (धर्मकीर्ति, cũng là Serlingpa
Dharmakīrti hay Suvarnadvipi Dharmakīrti – Pháp Xứng 法称) (, là
những người sáng lập
lôgích học India (hetu vidyā).
Tác phẩm của Dignāga đặt nền tảng cho sự phát triển của lôgích diễn dịch ở
India và đã tạo dựng hệ thống lôgích học và tri thức hoc đạo Phật ((pramāṇavāda) đầu tiên.
a.
Trong những truyền thống ngoài-đạo Phật của tư
tưởng triết học India, và có lẽ cả trong tư tưởng đạo Phật ban đầu, dường như
có sự chấp nhận ngầm về khả năng của việc đạt được kiến thức về thực tại. Tuy
nhiên, Nāgārjuna, nhà tư tưởng biện chứng đạo Phật đã nêu lên những nghi ngờ
nghiêm trọng về khả năng của tri thức bằng chỉ ra tính chất mâu thuẫn nội tại
của tất cả những phương tiện của thu nhận tri thức. Những phản đối của
Nāgārjuna (catuṣkoṭi đã được ông đặc biệt đem dùng và phát triển) đã thúc đẩy
và buộc tất cả những triết gia sau ông, phải cung cấp một nền tảng vững chắc
cho nhận thức luận và lôgích học trước khi tiếp tục với những quan điểm triết
học của họ.
Trong đạo Phật, Asaṅga và Vasubandhu đã có những nỗ
lực tiên phong để xây dựng nhận thức luận và lôgích trên khuôn mẫu đạo Phật.
Tuy nhiên, chính Dignāga là người đã đặt một nền tảng vững chắc vào nhận thức luận
và lôgích và tạo cho chúng một đặc điểm riêng biệt. Do đó, ông được coi là
người sáng lập nhận thức học và lôgích học đạo Phật, cũng như của India thời
trung cổ nói chung, vì ông không chỉ đưa ra một công thức chính xác nhưng còn
truyền đạt một hướng đi mới cho nhận thức luận và lôgích học India qua việc
soạn thảo những luận văn về nhận thức luận và lôgích học, và cũng xen trong
chúng những giải quyết của ông về những vấn đề siêu hình. Văn học đạo Phật
trước Dignaga giải quyết vấn đề của kiến thức và những phương tiện của kiến
thức một cách tùy tiên, hoặc hoàn toàn không theo phương pháp chính thức nào.
Dường như cũng chưa có công trình nào dành cho vấn đề này. Nhưng Dignaga thấy
cần thiết phải có một luận thuyết chuyên biệt về nhận thức luận và lôgích để
thiết lập những học thuyết đạo Phật theo phương cách lôgích. Ông đề cập rõ ràng
trong Pramâna-samuccaya rằng
công trình chính yếu này của ông được dẫn dắt bởi nhu cầu thiết lập những
phương tiện của nhận thức theo lôgích.
Dharmakīrti (khoảng 635 CN), một trong những nhà lô
gích học lỗi lạc nhất trong lịch sử triết học, tiếp tục công trình do Dignaga
đã khởi xướng. Pramâna-vârtika, Pramânaviniscaya và Nyaya-bindu của
Dharmakīrti, là những kiệt tác của nhận thức luận và lôgích học. Trên cơ
sở những công trình cuối cùng của Dignāga, ông đã phát triển một hệ thống nhận
thức luận với sự nhấn mạnh mạnh mẽ vào lôgích học, đưa nó ra như một giải
thích và bảo vệ tư tưởng của Dignāga. Đặc biệt, lôgích của ông là mới; Để tạo
dựng một hệ thống logic đạo Phật thích hợp, nó đã thiết lập rõ ràng ý tưởng
chung của lôgích India rằng những quan hệ lôgích được thiết lập trên
thực tại. Nhận thức luận của đạo Phật được Dharmakīrti định hình đã trở thành
một truyền thống duy lý mạnh mẽ và có ảnh hưởng trong đạo Phật India thời kỳ
cuối và được nghiên cứu và tiếp tục, đặc biệt ở Tibet, cho đến nay. Darmottara
(khoảng 847 CN) sau đó, Jñānaśrīmitra (nổi tiếng khoảng 975-1025), Ratnakīrti
(thế kỷ 11) là những triết gia tiếp tục truyền thống Dharmakīrti,
b.
Nếu siêu hình học đạo Phật phát
triển từ quan tâm đến việc giải thích bản chất của thực tại của – thì nhận thức
luận đạo Phật cung cấp nền tảng phương pháp luận để theo đuổi mục tiêu thực
tiễn này. Dignāga đã thách thức những sự tùy thuộc của người đương thời của ông
vào thẩm quyền của thánh thư Veda, và chuyển trọng tâm của những phát triển
tiếp theo trong triết học India từ một quan tâm với những mục tiêu và những quy
luật của tranh luận sang một nghiên cứu về những phương pháp qua đó người ta có
thể đạt được kiến thức tin cậy (pramāṇa). Điều đáng ngưỡng phục là ông đã
hoàn thành nhiệm vụ này, không giống như những người đi trước, bằng cách lôi
cuốn đối thủ của mình trong những phương cách phần lớn của chính họ. Người kế
vị vĩ đại của ông, Dharmakīrti, đã sửa chữa, bảo vệ và mở rộng hơn nữa nhận
thức luận của Dignāga, đã có những đóng góp xuất sắc riêng ông và trong nhiều
phương diện, đã vượt trội cả Dignāga. Thật vậy, ảnh hưởng bao trùm của
Dharmakīrti với những thế hệ triết gia sau này, trong và ngoài India, đã khiến
ông thường được coi như mẫu mực tiêu chuẩn của siêu hình học và nhận thức luận
đao Phật. Chỉ có Nāgārjuna mới giữ một vị trí nổi bật lỗi lạc hơn trong lịch sử
triết học đạo Phật.
[2] [Nói điều này không có nghĩa rằng những người trong một truyền thống
không có quan điểm riêng của họ về những vấn đề này. Thí dụ, Dharmakīrti, có lẽ
là một nhà duy ý. Ông và những người khác cẩn thận để xây dựng tri thức
luận của họ trong một cách tương thuận với môt số đông khác loại của những lập
trường siêu hình học. Nhưng điều này không có nghĩa là họ đã chủ trương
rằng không có trả lời đúng cho những câu hỏi loại như liệu có một thế giới bên
ngoài hay không.]
[3] [Dĩ nhiên hầu hết những người đạo Phật sẽ phủ nhận điều này. Họ sẽ
chỉ ra cho thấy rằng những ngọn đồi và những sự vật việc tương tự được làm
thành của những phần, vì vậy chúng chỉ có thể là khái niệm giả tạo. Tuy
nhiên, nói chuyện của chúng ta về những ngọn đồi, ho tin rằng vẫn có thể giải
thích được trong những điều kiện của sự xảy ra của nhữn dharma vốn chúng là thực cuối cùng. Và
những người ngoài đạo Phật như như những Nyāya nghĩ rằng thực sự là có những sự
vật việc như những ngọn đồi. Vì vậy, những nhà lôgích học đạo Phật dùng
những ngọn đồi và những tương tự làm thí dụ khi thảo luận về những phương tiện
của kiến thức. Như thế, phía đối lập của họ có thể hiểu họ đang nói về
những gì. Vì một ngọn đồi luôn luôn có thể được phân tích diễn dịch vào
một tập hợp thể của dharma, những thí dụ này luôn có thể được
thay thế bằng những thí dụ về những sự vật việc vốn người đạo Phật nghĩ là cuối
cùng là thực. Vì thế không có hại trong việc dùng những sự vật việc thực
theo qui ước thông thường như những ngọn đồi làm thí dụ.]
[4] sva-lakṣaṇa: (Skt., dấu
riêng). Thuộc tính hoặc đặc điểm cụ thể của một sự vật. Thuật ngữ này đặc biệt
được sử dụng trong nhận thức luận đạo Phật (pramāṇa) để biểu thị khía cạnh thực
sự của bất kỳ đối tượng nào khi nó thể hiện trong kinh nghiệm ‘trơn trụi’ trước
khi có sự chồng chất của những khái niệm làm phát sinh sự thể hiện gọi là 'thuộc
tính tổng quát' của nó (sāmānya-lakṣaṇa). Theo Abhidharma, chỉ những vật thể với
những thuộc tính cụ thể mới có khả năng mang lại hiệu quả nhân quả
(artha-kriyā)
sāmānya-lakṣaṇa:
(Skt.). . Thuộc tính chung hoặc đặc tính tổng quát, ví dụ thuộc tính về độ giãn
hoặc độ cứng. Thuật ngữ này được tìm thấy trong các chú giải Pāli từ thời
Buddhaghoṣa trở đi. [sāmānya> sāmāna] có thể hiểu là một tính chất
tổng quát, dấu hiệu chung thấy trong nhiều cá thể.
[5] nominalism: (< nominalis Lat.)
có nghĩa là ‘thuộc về hoặc có liên quan đến những tên gọi’) vẫn quan dịch là
thuyết duy danh; tôi tạm dịch nôm na là ‘thuyết-chỉ-là-tên-gọi’: ở đây tạm hiểu
là lý thuyết cho rằng những từ/lời/chữ có nghĩa tổng quát (ngựa) hay trừu tượng
(trắng) không đại diện cho những thực thể tồn tại, và những phổ quát (tính trắng/tính
ngựa) đều không là gì khác hơn những cái tên được gán cho chúng.
[6] non-conceptual (nirvikalpaka)
[7] [Dharmakīrti (cuối thế
kỷ 6 hay đầu thế kỷ 7 CN) không là một ‘luận sư’ bình thường. Trong khi có mục
đích giải thích tư tưởng Diṅnāga,
ông thực sự đã đem vào những sáng tạo xứng đáng để xem ông như người sáng lập
thứ hai của trường phái Yogācāra-Sautrāntika]
Dharmakīrti là học
trò của Dharmapāla ở viện Nālandā, và Dharmapāla trước đó là học trò của chính
Dignāga,
[8] không suy diễn được hiểu như không kết
luận với bằng chứng sẵn có hay suy diễn với lý trí thông thường.
[9] hay: phán đoán tri giác có tác dụng là tin tường này
[10] liṅga:
dấu hiệu; sādhya: điều phải chứng
minh; asādhya: điều không/chưa được
chứng minh; trairūpya: ba dấu hiệu suy diễn, hay ba tiêu chuẩn suy diễn.
a. Vấn đề của lôgích Nyāya
Tiêu chuẩn được thiết lập trong
truyền thống vāda, trong lôgích Indi,
là như sau: Giả định, một người nào đó, hãy gọi là người đề xuất, trình bày với
đối phương của ông, một luận đề dưới dạng sau:
Luận đề:
“Có một thuộc tính (dharma) S trong sở hữu thuộc tính (dharmin) P.”
(dharmin, ở đây hiều như khác với
dharma, nhưng là sở hữu
những thuộc tính (dravyaḥ)
Một luận đề loại như vậy, lấy thí
dụ, có thể là: “Cái tôi (ātman) thì vĩnh cửu”. Hay phát biểu mệnh đề này theo
cấu trúc trên: “Có sự vĩnh cửu trong Tự ngã.”
Sau khi tuyên bố phát biểu này
như một luận đề, và giả định rằng đối phương không đồng ý với luận điểm trong
luận đề, người đề xuất buộc phải đưa ra một lý do cho tuyên bố của mình và sau
đó, phải chứng minh rằng nó là một lý do hợp lệ, tức là một lý do trên thực tế
chứng minh được cho lập luận của ông. Theo truyền thống, lý do để chứng minh
như vậy được đưa ra qua sự trình bày của một dharma khác H, gọi là ‘hetu’,
vốn hoạt động như một dấu hiệu (linga),
chỉ định rằng dharma S được chứng
minh thì thực sự có mặt trong dharmin
P:
Lý do:
“Vì dharma H.”
Công bố luận điểm và lý do là hai
bước đầu tiên trong phép tu từ triết học India thời cổ, theo sơ đồ Nyāya: “Diễn Dịch Có Năm Thành Phần” (the
five-membered syllogism). Chúng ta đã đề cập bước 1 (Luận đề) và bước 2 (Lý
do); bước 3 và 4 gồm trong việc cho thây rằng rằng lý do thì “hợp lệ”, tức là
nó chứng minh được luận đề (bằng việc kiểm chứng rằng sự tồn tại của hetu ở một vị trí hàm ý có sự tồn tại
của sādhya – bước 3 – và của sự tồn
tại của hetu trong pakṣa- bước 4). Học thuyết Trairūpya cung cấp ba điều kiện để bảo
đảm rằng những bước 3 và 4 này có thể được thực hiện. Lý thuyết Trairūpya, tạm
gọi là “Ba Dấu Hiệu Của Một Lý Do Chính Đáng”, là dụng cụ trung tâm tinh xảo và
phức tạp của lôgic học India. Dấu hiệu' (linga) logic phải đáp ứng để trở thành
'nguồn tri thức hợp lệ' (pramana).
Nguồn gốc của Trairūpya không được rõ, nhưng qua những tài liệu tham khảo ban
đầu khác nhau về nó, được cho là của Asaṅga.
b. Thuyết Trairūpya
Trở lại một trường hợp thảo luận
giữa một người đề xuất và đối phương, chúng ta hãy giả định rằng người đề xuất
đã đưa ra những mênh đề phát biểu như thí dụ trên, đặt cơ sở cho một biện luận
với đối phương về tính hợp lệ của lý do và trong kết quả, của luận đề:
Luận đề:
“Dharma S (gọi là sādhya) xảy ra trong dharmin P (gọi là paksa). “
Lý do:
“Vì dharma H (hetu).”
Như một ví dụ, chúng ta hãy tưởng
tượng rằng người đề xuất nói: “đố tượng này thì nhân tạo, bởi vì nó thì vô
thường”. Trong đó chúng ta có: pakṣa= đối tượng này; sādhya = nhân tạo; hetu =
vô thường. Học thuyết Trairūpiya đưa
ra ba điều kiện để kiểm chứng:
T1 dharmin
H, hetu, xảy ra trong dharmin P, paksa.
T2 Có một dharmin trong đó S xảy ra và trong đó H xảy ra.
T3 Không
có dharmin nào trong đó H xảy ra và trong đó S không xảy ra.
Theo phán đoán lý trí thông
thường, lý luận phổ thông, T3 hàm ý rằng, bất cứ khi nào H xuất hiện trong một dharmin P, tức là, nếu T1 được giữ đúng,
khi đó nhất thiết S xảy ra trong P. – vì do T3, rằng H xảy ra và S không
xảy ra là không thể có được. Thế nên, T1 và T3 cùng nhau hàm ý sự xảy ra của S
trong P, tức là tính lôgích hợp lý của luận đề được người đề xuất trình bày.
Vai trò của T2 là một loại của
‘kiểm chứng nghiêm nhặt’, người đề xuất phải thực hiện, nhằm bảo đảm việc loại
trừ một lập luận hiển nhiên vô nghĩa: Việc cố gắng thuyết phục đối phương về sự
kiện rằng H là một dấu hiệu cho S, người đề xuất phải thêm vào ít nhất một thí dụ trong đó – được sự
đồng ý của cả hai bên – rằng hai thuộc tính H và S (dấu hiệu và thuộc tính để
chứng minh) cùng nhau xảy ra.
Chúng ta hãy xem xét ví dụ đã nói
ở trên.
Luận đề
và lý do: “Vật thể này là do con người tạo ra, bởi vì nó là vô thường.”
Trong trường hợp này, thuộc tính
H = “vô thường” và S = “nhân tạo” thỏa mãn T2, bởi vì mọi người đã từng nhìn
thấy một đồ vật nhân tạo bị hư hỏng trước đây. Nhưng T3 thì không đứng vững –
nó mâu thuẫn với sự kiện rằng bất kỳ sự vật việc vô thường nào không do con
người tạo ra, chẳng hạn như tia chớp. Trong trường hợp này, chúng ta có thể nói
rằng, mặc dù H là một dấu hiệu “nghiêm chỉnh” với S, nó không là một dấu hiệu hợp lệ.
Thảo luận giữa hai bên có thể
được đồng để tiến hành theo “nghi thức” sau:
1. Người
đề xuất nêu luận điểm và lý do.
2. Hai
bên đồng ý với T1 – nếu không, luận điểm chưa được chứng minh
2. Người
đề xuất có trách nhiệm đưa ra một thí dụ theo T2. Nếu người ấy không đưa ra
được một ví dụ như thế, luận đề của người ấy đã không được chứng minh.
3. Người
đề xuất nêu lên T3; nếu đối phương không đồng ý, người ấy (đối phương) phải đưa
ra một ví dụ phản chứng. Nếu người ấy làm vậy, luận đề đó chưa được chứng minh,
ngược lại nó phải được chấp nhận.
Học thuyết Trairūpya, được thể hiện trong những quy tắc tranh luận này, ấn
định một cơ sở tinh vi phức tạp để quyết định kết quả của một thảo luận công
bằng đối với một luận đề trong tranh luận. Dignāga đã phát triển phương pháp
này thêm nữa vào thành một phương tiện của thuần túy chứng minh những luận
chứng bằng lí luận lý trí. Ông đã biến đổi dụng cụ này của vāda (tranh luận) truyền thống thành một dụng cụ của suy luận diễn
dịch, tức là cho sự thu nhận và truyền đạt kiến thức. Bằng Hetucakra của ông, ông đã đặt một cơ sở
lý thuyết vững chắc cho lý thuyết này. (theo Klaus Glashoff)
[11] [Không phải điều này cũng chứng nhận suy luận không hợp lệ của ‘Đây là
một phong’ với ‘Đây là một cái cây’ hay sao? Sự nhận dạng của là một cây phong và là một cái cây chỉ có liên hệ với đặc thù này (vốn vừa là một cây
phong và một cây). Có những đặc thù khác vốn thuộc tính của là một cây thì
giống hệt với không phải thuộc tính của một cây phong nhưng với thuộc tính của là một cây liễu. Vì vậy, từ sự kiện
rằng một gì đó là một cây nó không hợp lệ để suy luận rằng nó là một cây
phong. Việc nhận dạng của một thuộc tính có thể thay đổi như thế này, như
thế nào, là chủ đề của lý thuyết apoha, thảo luận dưới đây.]
[12] sự thật phân tích và sự thật tổng
hợp (analytic truth & synthetic truth)
[13] ‘tiên nghiệm’ nếu muốn dùng từ đã quen, và rõ hơn nên gọi là ‘có-trước kinh nghiệm’
[14] [Xem W.V.O. Quine, ‘Two Dogmas of Empiricism’, Philosophical Review 60 (1951): 20
– 43]
[15] [Hầu hết những Nyāya cũng chủ trương rằng những vắng mặt đều được biết
đến bởi suy luận. Tranh luận của họ với Yogācāra-Sautrāntika liên quan với
không biết những vắng mặt có tồn tại hay không. không phải chúng ta nhận
ra chúng cách nào.]
[16] theory of universals (sāmānyalakṣaṇa)
[17] vyāvṛtti:
sự loại trừ – Apoha (nghĩa đen là ‘loại
trừ’) là lý thuyết về ý nghĩa của đạo Phật. Theo lý thuyết này, ý nghĩa của một
từ là một hình ảnh khái niệm (vikalpa)
chỉ một đối tượng không trực tiếp nhưng bằng loại trừ những đối tượng khác (anyäpoha): từ ‘bò’ có nghĩa là loại trừ những đối tượng không phải là bò. Apoha được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Đối với một số người, nó là một kỹ thuật để giải quyết vấn đề của những
phổ quát – vấn đề về tính là-một/cái một
trong nhiều cá thể (cái nhiều) – vấn đề của Một Trên Nhiều nói
trong những chương trước. Hệ thống triết học duy thực
Nyäya-Vaiçeñika công nhận những phổ quát (sämänya). Nhưng những người đạo Phật
chỉ tin vào những đặc thù cụ thể (svalakñaëa)
và coi những phổ quát chỉ là những cấu tạo tinh thần, không tạo nên cấu trúc của
thế giới, vượt trên những đặc thù. Theo một nghĩa khác, apoha được coi như một
giải thích cho ý tưởng về ý nghĩa vốn thiết yếu đã dựa quan hệ nhân quả được
cho là giữa những đặc thù. Quan trọng hơn, lý thuyết apoha tìm cách giải thích
khả năng của chúng ta trong việc dùng những thuật ngữ phổ thông nhưng không phải
thừa nhận sự tồn tại của bất kỳ thực thể vĩnh cửu (nitya) hay bất biến như những phổ quát.
[18] a kind term: hiểu như
danh từ chung
[19] [Điều này thì giống phương sách vốn thường dùng để
tạo một ý thức của bản sắc dân tộc giữa khối dân chúng với những quyền lợi rất
khác biệt: nuôi dưỡng một ý thức về chúng
ta qua sự đối lập có chung với một kẻ địch chung gọi là họ/chúng]
[20] nominalist semantics
[21] Mokṣākaragupta (khoảng thế kỷ 10) tác giả Tarkabhāṣā
[22] Trilocana (thế kỷ 9);
học giả phái Nyaya
[23] nhận biết,
xác định bằng giác quan
[24] cognizedness: một nhận thức, là một
hành động, tạo ra một đặc điểm trong đối tượng nó nhận thức được, là ‘tính-được-nhận
thức’ (theo Bhāṭṭa Mīmāṃsā)