Monday, May 11, 2015

Harari – Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người (02)

Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari


Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người








3
Một ngày trong Đời của người Nam và Nữ đầu tiên

Để hiểu bản chất, lịch sử và tâm lý của chúng ta, chúng ta phải hiểu được hoạt động bên trong đầu óc của những tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta. Đối với gần như toàn bộ lịch sử của loài chúng ta, Sapiens đã sinh sống như những người săn bắn hái lượm. Trong 200 năm vừa qua, đã tăng lên những con số của những Sapiens kiếm sống hàng ngày như những lao động thành thị và nhân viên văn phòng, và trong thời gian 10,000 năm trước đó, hầu hết những Sapiens đã sinh sống như những người trồng trọt và chăn nuôi, nhưng tất cả đều là chớp mắt ngắn ngủi so với hàng chục nghìn năm trong đó tổ tiên chúng ta đã săn bắn và hái lượm.


Trường phái tâm lý học tiến hóa đang hưng thịnh, thuyết phục rằng nhiều những đặc tính xã hội và tâm lý trong thời hiện nay của chúng ta đã được định hình trong suốt thời kỳ trước-canh nông lâu dài này. Ngay cả ngày nay, những học giả trong lĩnh vực này, tuyên bố rằng bộ óc và não thức của chúng ta đều đã được thích ứng với một đời sống của săn bắn và hái lượm. Thói quen ăn uống của chúng ta, những xung đột của chúng ta và khuynh hướng tình dục của chúng ta, đều tất cả là kết quả của đường lối não thức săn bắn hái lượm của chúng ta tác động qua lại với môi trường sau-kỹ nghệ thời nay của nó, với những thành phố lớn hàng triệu dân, những máy bay, những điện thoại và những cômputơ của nó. Môi trường này cho chúng ta nhiều tài nguyên vật chất hơn và sống đời lâu hơn, so với những gì của bất kỳ thế hệ nào trước đó đã được hưởng, nhưng nó thường làm cho chúng ta cảm thấy lạc lõng xa lạ, chán nản, và bị áp lực căng thẳng. Để hiểu tại sao, những nhà tâm lý học tiến hóa biện luận rằng chúng ta cần phải đào bới sâu vào trong thế giới săn bắn hái lượm vốn đã thành hình chúng ta, thế giới vốn trong tiềm thức.chúng ta vẫn đang cư ngụ

Tại sao, lấy thí dụ, người ta tọng vào mồm thức ăn nhiều calori vốn đem lại cho cơ thể họ rất ít bổ béo tốt lành? Ngày nay, những xã hội giàu có đang trong một hiểm ngèo của chứng béo phì, như một bệnh dịch nhanh chóng lan rộng sang những nước đang phát triển. Đã là một câu đố, tại sao chúng ta ngấu nghiến, ăn lấy ăn để, thực phẩm nhiều đường ngọt nhất và béo mỡ nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, cho đến khi chúng ta xem xét những thói quen ăn uống của những tổ tiên chúng ta thời còn kiếm ăn bằng hái lượm. Trong những đồng cỏ nhiệt đới và những khu rừng họ đã cư ngụ, những chất ngọt nhiều calori thì cực kỳ hiếm hoi, và thực phẩm nói chung đã không đủ nhu cầu cung ứng. Điển hình 30.000 năm trước đây, Một người đi kiếm ăn tìm gặp được duy nhất chỉ một loại thức ăn có chất ngọt – những quả chín. Nếu một người phụ nữ, kỷ Đồ Đá, đi ngang qua một cây quằn đầy những quả sung chín, điều hợp lý nhất để làm đã là hái ăn thoả thích cho đến mức hết có thể ăn nổi nữa, ngay tại chỗ, trước khi bầy đoàn baboon địa phương đến lọc hết quả chỉ còn trơ cây. Bản năng để ngấu nghiến, ăn lấy ăn để thực phẩm nhiều calorie đã được “gài dây bắt mạch điện” vào trong những gene của chúng ta. Ngày nay chúng ta có thể đang sống trong những bin-đinh cao nhiều tầng, với những tủ lạnh chật kín thức ăn, nhưng DNA của chúng ta vẫn nghĩ chúng ta đang ở trong cánh đồng cỏ nhiệt đới. Đó là điều khiến chúng ta không ngừng vục thìa xuống, vơi sạch cả một thùng con đầy cà rem, yogurt, hay sorbet của hiệu Ben & Jerry, khi chúng ta tìm thấy một thùng như thế trong tủ lạnh, và nuốt chửng nó xuống cổ họng với một chai nước ngọt Coke to tướng.

Thuyết “gene ăn tọng nuốt chửng” này thì được chấp nhận rộng rãi. Những thuyết khác vẫn chưa ngã ngũ, còn nhiều tranh luận. Lấy thí dụ, một số nhà tâm lý học tiến hóa cho rằng bầy đoàn tìm kiếm thức ăn thời thời cổ này đã không là hợp thành của những gia đình cơ bản giữ [1], tập trung vào những cặp gồm một vợ một chồng. Thay vào đó, đã sinh sống trong những công xã không có sở hữu cá nhân, không có quan hệ một vợ một chồng, và ngay cả không người nào làm bố, không ai đóng vai người cha. Trong một bầy đoàn như vậy, một người nữ có thể có quan hệ tình dục và thành hình những ràng buộc chăn gối với nhiều người nam (và nữ) cùng một lúc, và tất cả những người lớn của bầy đoàn cùng hợp tác trong việc nuôi dạy những con trẻ của nó. Vì không có người nam nào biết đích xác đứa trẻ nào là con của riêng mình, những người nam cho thấy sự quan tâm bình đẳng với tất cả những trẻ con.

Một cấu trúc xã hội như vậy không phải là một không tưởng Aquarius [2]. Nó đã được ghi chép tài liệu rất đầy đủ giữa những loài động vật, đặc biệt là những họ hàng gần nhất của chúng ta, loài chimpanzee và bonobo. Ngay cả ngày nay vẫn có một số văn hóa con người, trong đó thực hành sự làm cha tập thể, lấy thí dụ như những người Barí, thổ dân ở America [3]. Theo những sự tin tưởng của những xã hội loại như thế, một đứa trẻ đã không sinh ra từ tinh trùng của một người nam duy nhất, nhưng từ sự tích tụ của tinh trùng trong tử cung của một người nữ. Một người mẹ tốt sẽ luôn luôn thực hiện một điều thiết yếu và quan trọng là có quan hệ tình dục với nhiều những người nam khác biệt, đặc biệt là khi nàng đang mang thai, do đó con của nàng sẽ được thụ hưởng những phẩm chất (và sự chăm sóc của người cha) không chỉ đơn thuần của người thợ săn tốt nhất, mà còn của người kể chuyện hay nhất, người lính trận mạnh nhất và người tình suy nghĩ chu đáo nhất. Nếu điều này nghe ngớ ngẩn dại dột, hãy nhớ rằng trước khi có sự phát triển của ngành nghiên cứu phôi thai thời nay, người ta không có bằng chứng vững chắc rằng những trẻ sơ sinh luôn luôn được sinh ra bởi một người cha đẻ duy nhất, nhưng đúng hơn là bởi nhiều người.

Những người ủng hộ thuyết “công xã thời cổ” này biện luận rằng sự phản bội (ngoại tình) thường xuyên đặc trưng cho những hôn nhân thời nay, và tỉ lệ ly dị cao, chưa kể đến sự đầy rẫy tràn ngập những mặc cảm tâm lý vốn cả trẻ em lẫn người lớn đều đau khổ chịu đựng, tất cả kết quả từ sự bắt buộc con người phải sống trong chế độ gia đình cơ bản và những quan hệ của một vợ một chồng, vốn không phù hợp với software sinh học của chúng ta [4].

Nhiều học giả đã cực lực bác bỏ lý thuyết này, nhấn mạnh rằng cả hai, chế độ một chồng một vợ và sự thành hình những gia đình cơ bản, đều là những hành vi cốt lõi trong ứng xử của con người. Dẫu xã hội săn bắn hái lượm thời cổ nghiêng nhiều về công xã hơn và bình đẳng hơn so với những xã hội thời nay, những nhà nghiên cứu cho rằng, chúng vẫn gồm những “tế bào” riêng biệt, mỗi tế bào chứa một cặp vợ chồng ghen tuông và những đứa trẻ họ đã cùng có và nuôi chung. Đây là tại sao ngày nay những quan hệ một vợ một chồng và gia đình cơ bản là định khuôn thông thường trong phần lớn những văn hóa, tại sao những đàn ông và phụ nữ có khuynh hướng muốn nắm giữ chặt chẽ vợ hay chồng và con cái của họ, và tại sao ngay cả ở những quốc gia thời nay như Bắc Korea và Syria, thẩm quyền chính trị được truyền từ cha xuống con.

Để giải quyết tranh luận này và hiểu được xã hội, chính trị và khuynh hướng tình dục của chúng ta, chúng ta cần phải tìm hiểu một gì đó về những điều kiện sinh sống của tổ tiên chúng ta, để xem xét những Sapiens đã sống như thế nào giữa thời gian của cuộc Cách mạng Nhận thức của 70.000 năm trước và bắt đầu của cuộc Cách mạng Nông nghiệp về 12.000 năm trước.

Thật không may, có rất ít những điều chắc chắn liên quan đến cuộc sống của tổ tiên thời lang thang kiếm ăn của chúng ta. Cuộc tranh luận giữa những trường phái “công xã sơ khai” và “một vợ một chồng vĩnh viễn” đều dựa trên những bằng chứng mỏng manh. Chúng ta rõ ràng là không có những tài liệu ghi chép từ thời đại của hái lượm kiếm ăn, và những bằng chứng khảo cổ gồm chủ yếu là những xương hóa thạch và những dụng cụ bằng đá. Những vật tạo tác bằng những vật liệu dễ hỏng – như gỗ, tre hoặc da – chỉ tồn tại được trong những điều kiện đặc biệt. Ấn tượng phổ biến rằng con người thời trước-canh nông đã sống trong một thời đại của những đồ dùng bằng đá là một quan niệm sai lầm dựa trên thiên kiến về khảo cổ học này. Kỷ Đồ Đá nên đúng hơn được gọi là Thời Đồ Gỗ, vì hầu hết những dụng cụ được những người thợ săn thời sơ khai dùng đã làm bằng gỗ.

Bất kỳ sự tái dựng nào về đời sống của người săn bắn hái lượm thời cổ từ những cổ vật còn tồn tại đến nay có rất nhiều những vấn đề rất khó khăn. Một trong những sự khác biệt rõ ràng nhất, giữa những người kiếm ăn hái lượm sơ khai và những con cháu sinh sống bằng canh nông và kỹ nghệ của họ, trước tiên là những người kiếm ăn có rất ít những đồ vật do con người làm ra, và những đồ vật nhân tạo này đóng một vai trò tương đối khiêm tốn trong sinh hoạt của họ. Trong suốt cuộc đời của mình, một thành viên điển hình của một xã hội giàu có thời nay, nam hay nữ, sẽ sở hữu một số hàng triệu những đồ vật nhân tạo – từ xe cộ và nhà cửa, đến khăn ăn, đĩa giấy và những hộp sữa bằng những tông, đều dùng một lần rồi vứt đi. Hầu như không có một hoạt động, một tin tưởng, hoặc ngay cả một cảm xúc nào mà không có những đối tượng của sự chế đặt ra của chúng ta chen vào, làm trung gian. Thói quen ăn uống của chúng ta được trung gian bởi một tập hợp tràn ngập đến choáng váng của những hạng mục đó, từ thìa và ly đến những phòng thí nghiệm (chế biến thức ăn theo) kỹ thuật di truyền, và những tàu biển (như những nhà hàng nổi) khổng lồ. Trong chơi đùa, chúng ta dùng một lượng thừa thãi quá đáng những đồ chơi, từ những quân bài bằng nhựa đến những sân vận động 100.000 chỗ ngồi. Những quan hệ tình cảm lãng mạn và tình dục của chúng ta được trang bị với những nhẫn, những giường, những quần áo đẹp, những đồ lót sexy, những condom, những hiệu ăn hợp thời trang, những nhà trọ đỗ xe bên đường giá rẻ, những phòng ăn uống khi tạm nghỉ ở những sân bay, những toà nhà lớn rộng cho đám cưới và những công ty chuyên cung cấp thức ăn cho những đám tiệc. Tôn giáo mang sự linh thiêng vào đời sống của chúng ta với những nhà thờ kiểu Gothic, những mosque đạo Islam, những ashram Hindu, những cuộn giấy da (chép luật) Torah, những vòng bánh xe cầu nguyện của người Tibet, áo dài cassock của nhà chăn chiên, nến, nhang, cây Noel, bánh mì matzah của người Jews, những bia mộ và những biểu tượng.

Chúng ta hiếm khi ghi nhận những vật dụng của chúng ta thì đâu cũng có, nhan nhản khắp nơi như thế nào, đến khi chúng ta phải di chuyển chúng đến một ngôi nhà mới. Những người hái lượm kiếm ăn chuyển nhà hàng tháng, hàng tuần, và đôi khi ngay cả mỗi ngày, bất cứ gì họ có họ vác trên lưng họ. Không có những công ty di chuyển chuyên nghiệp, xe wagông, hoặc ngay cả những thú vật thồ hàng để chia sẻ gánh nặng. Họ do đó buộc phải sinh hoạt với chỉ những vật dụng sở hữu thiết yếu nhất. Điều là hợp lý để giả định, khi đó, là một phần lớn của đời sống tinh thần, tôn giáo và tình cảm của họ đã được tiến hành với không có những vật dụng nhân tạo giúp đỡ. Một nhà khảo cổ học, làm việc 100.000 năm sau, có thể ghép những mảnh vụn vào nhau thành một bức tranh hợp lý về sự tin tưởng và thực hành của người Muslim từ vô số những vật dụng mà ông khai quật được tại một mosque Islam đã bị hư hoại. Nhưng chúng ta phần lớn là hoang mang, phân vân trong việc cố gắng để hiểu được tin tưởng và nghi lễ của những người săn bán hái lượm thời cổ. Đó rất giống cùng một đilemma mà một sử gia tương lai sẽ phải đối mặt, nếu ông phải mô tả thế giới xã hội của những trẻ tuổi teen của thế kỷ 21, chỉ trên cơ sở của những thư từ gửi qua bưu điện chậm như rùa còn nếu còn giữ lại được của họ – vì không có ghi chép giấy mực như hồ sơ tài liệu nào sẽ còn lại về những nói chuyện phone, email, blog và tin nhắn của họ.

Một sự tuỳ thuộc vào những đồ tạo tác như vậy khiến một giải thích về cuộc sống săn bắn hái lượm thời cổ sẽ bị thiên lệch. Một cách để khắc phục điều này là nhìn vào những xã hội hái lượm kiếm ăn thời nay. Những xã hội này có thể được nghiên cứu trực tiếp, bằng sự quan sát trong ngành nhân loại học. Nhưng có những lý do chính đáng để phải rất cẩn thận trong việc suy diễn từ những xã hội hái lượm thời nay mở rộng về những xã hội hái lượm kiếm ăn thời cổ.

Thứ nhất, tất cả những xã hội hái lượm kiếm ăn sống sót nào còn tồn tại được vào tận thời những nghìn năm của ngày nay đều đã bị ảnh hưởng bởi những xã hội canh nông và kỹ nghệ lân cận. Do đó, điều là liều lĩnh để cho rằng những gì là đúng thực với họ thì cũng đã đúng thực như trong hàng chục nghìn năm trước đây.

Thứ nhì, những xã hội hái lượm kiếm ăn trong thời hiện nay đã sống sót chủ yếu ở những vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt và địa hình khó khăn, không thích hợp cho canh nông. Những xã hội đã thích nghi với những điều kiện cực đoan của những nơi như sa mạc Kalahari ở miền nam Africa cũng có thể cung cấp một mô hình rất lừa dối cho sự tìm hiểu những xã hội thời cổ ở những khu vực phì nhiêu, chẳng hạn như thung lũng sông Yangtze. Đặc biệt, mật độ dân số trong khu vực như sa mạc Kalahari thì thấp hơn rất nhiều, so với vùng bao quanh sông Yangtze thời cổ, và điều này có những suy diễn ý nghĩa sâu xa cho những câu hỏi quan trọng về kích thước và cấu trúc của những bầy đoàn con người và những quan hệ giữa họ.

Thứ ba, đặc điểm đáng chú ý nhất của những xã hội săn bắn hái lượm, là chúng khác biệt đến thế nào giữa một xã hội này với một xã hội khác,. Chúng khác biệt không chỉ từ một vùng này của thế giới với một vùng khác, nhưng ngay cả trong cùng khu vực. Một thí dụ điển hình là sự đa dạng lớn lao những người Europe định cư đầu tiên đã tìm thấy giữa những thổ dân của Australia. Ngay trước khi cuộc chinh phục của người Britain, có khoảng từ 300.000 đến 700.000 thổ dân săn bắn hái lượm sống trên lục địa này, trong khoảng 200 đến 600 bộ lạc, mỗi trong số đó đã lại được phân thành nhiều bầy đoàn [5]. Mỗi bộ lạc có ngôn ngữ, tín ngưỡng, khuôn thức và tập quán riêng của họ. Sinh sống quanh vùng bây giờ là Adelaide, miền nam Australia, đã có nhiều gia tộc theo chế độ phụ hệ vốn nhìn nhận dòng dõi từ phía cha. Những gia tộc này liên kết với nhau thành những bộ lạc hoàn toàn trên cơ sở lãnh thổ. Ngược lại, có một số bộ lạc ở miền bắc Australia đã cho dòng dõi theo mẫu hệ thì quan trọng hơn, và danh tính bộ lạc của một người tuỳ thuộc vào tôtem của người ấy hơn là lãnh thổ của người ấy.

Kết luận hợp lý rằng sự đa dạng về sắc tộc và văn hóa giữa người săn bắn hái lượm thời cổ cũng gây ấn tượng sâu sắc không kém, và rằng 5 triệu đến 8 triệu những người săn bắn hái lượm kiếm ăn cư ngụ trên thế giới, vào đêm trước của cuộc Cách mạng Nông nghiệp, được chia thành hàng ngàn bộ lạc riêng, với hàng ngàn ngôn ngữ và văn hoá khác biệt [6]. Sự kiện này, sau cùng tất cả, là một trong những di sản chính của cuộc Cách mạng Nhận thức. Nhờ sự xuất hiện của truyện tưởng tượng bịa đặt, ngay cả những người có cùng cấu tạo gene di truyền, là người sống trong những điều kiện sinh thái tương tự, đã có thể tạo ra những thực tại được tưởng tượng rất khác biệt, trong đó thể hiện rõ trong những khuôn thức và những giá trị khác biệt.

Lấy thí dụ, có mọi lý do để tin rằng, nếu có một bầy đoàn kiếm ăn sống khoảng 30.000 năm trước đây tại nơi hiện nay là đại học Oxford, hẳn đã nói một ngôn ngữ khác biệt với một bầy đoàn khác, khi ấy đang sống ở nơi trường Cambridge hiện nay toạ lạc. Một bầy đoàn có thể là hiếu chiến và bầy đoàn kia thì chuộng hòa bình. Có lẽ bầy đoàn tại địa điểm Cambridge theo tổ chức công xã, trong khi bầy đoàn tại Oxford dựa trên những gia đình cơ bản. Những người ở Cambridge có thể đã dành nhiều thì giờ vào việc khắc những tượng gỗ những thần linh giám hộ của họ, trong khi những người ở Oxford thể đã thể hiện sự thờ phụng qua hình thức nhảy múa. Những người kể trước có lẽ tin vào sự tái sinh, trong khi những người kể sau, họ nghĩ rằng điều này là vô nghĩa. Trong một xã hội này, những quan hệ đồng tính có thể được chấp nhận, trong khi ở một xã hội kia, chúng là những tabu.

Nói cách khác, trong khi những quan sát nhân loại học về những người hái lượm kiếm ăn của thời hiện nay có thể giúp chúng ta hiểu được một vài những điều có thể xảy ra với những người kiếm ăn thời cổ, chân trời của những điều có thể xảy ra thời xa xưa đã rộng rãi hơn nhiều, và nó hầu hết bị che dấu khỏi tầm nhìn của chúng ta [7]. Những tranh luận sôi nổi về “cách sinh sống tự nhiên” của Homo Sapiens đã bỏ hụt mất điểm chính. Kể từ cuộc Cách mạng Nhận thức, đã chưa bao giờ từng có một cách sinh sống tự nhiên duy nhất cho những Sapiens. Chỉ có những lựa chọn văn hóa, từ một bảng đầy những màu sắc, phức tạp đến lúng túng, rắc rối đến hoang mang, của những những điều đã có thể xảy ra.

Xã hội Giàu có Nguyên thủy

Dù sao đi nữa, những khái quát gì chúng ta có thể nói được về đời sống trong thế giới ở thời trước-canh nông? Điều xem dường an toàn để nói rằng đa số rất lớn dân chúng đã sống trong những bầy đoàn nhỏ đếm được trong số nhiều vài tá, hoặc nhiều nhất vài trăm cá nhân, và rằng tất cả những cá nhân này là những con người. Điểm sau này là quan trọng để lưu ý, vì nó khá ngược với những gì vẫn xem là hiển nhiên. Hầu hết những thành viên của những xã hội canh nông và kỹ nghệ là những động vật đã được thuần hóa. Dĩ nhiên, chúng và những chủ nhân của chúng không bình đẳng, nhưng chúng tất cả như nhau đều là những thành viên. Ngày nay, xã hội gọi là New Zealand gồm 4,5 triệu Sapiens và 50 triệu con cừu.

Chỉ có một ngoại lệ với luật tổng quát này: con chó. Con chó là con vật đầu tiên đã được Homo Sapiens thuần hóa, và điều này đã xảy ra trước cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những nhà chuyên môn không đồng ý về năm tháng chính xác, nhưng chúng ta có bằng chứng không thể phủ nhận của loài chó đã thuần hoá khoảng từ 15.000 năm trước đây. Chúng có thể đã nhập vào những bầy người hàng ngàn năm trước đó.

Chó đã dùng vào việc đi săn và chiến đấu, và như một hệ thống báo động chống lại những thú dữ và những kẻ lạ đột nhập. Trải qua nhiều thế hệ, hai loài này đã cùng tiến hóa để truyền thông tốt với nhau. Những con chó nào đã chăm chú nhất với những nhu cầu và cảm xúc của con người đồng bạn của chúng, nhận thêm được chăm sóc và thức ăn nhiều hơn, và chắc đã có nhiều cơ hội để sống còn hơn. Đồng thời, giống chó học gây được ảnh hưởng vào con người cho những nhu cầu riêng của chúng. Một gắn bó chặt chẽ 15.000 năm đã mang lại một hiểu biết và tình cảm sâu xa giữa loài người và loài chó, hơn giữa loài người và bất kỳ loài vật nào khác [8]. Trong một vài trường hợp, những con chó chết đã được chôn theo nghi lễ, rất giống như con người.

Những thành viên của một bầy đoàn hiểu biết lẫn nhau rất riêng tư chi tiết, và có những bạn bè và những họ hàng bao bọc quanh họ suốt cuộc đời. Sự cô đơn và sự riêng tư đã là rất hiếm hoi. Những bầy đoàn láng giềng có thể tranh dành những nguồn tài nguyên, và ngay cả đã chiến đấu với nhau, nhưng họ cũng có những tiếp xúc thân thiện. Họ trao đổi những thành viên, cùng đi săn với nhau, trao đổi những vật dụng xa xỉ hiếm lạ, thắt chặt liên minh chính trị và ăn mừng những lễ hội tín ngưỡng. Sự hợp tác như thế đã là một trong những nhãn hiệu quan trọng của Homo Sapiens, và đem cho nó một sự lấn lướt sắc bén chủ yếu trên những loài khác của con người. Đôi khi liên hệ với những bầy đoàn lân cận đã đủ chặt chẽ khiến họ đã cùng nhau tạo thành một bộ lạc duy nhất, chia sẻ một ngôn ngữ chung, những huyền thoại phổ biến, và những khuôn mẫu và giá trị chung.

Tuy nhiên, chúng ta không nên đoán định quá mức về sự quan trọng của những liên hệ mặt ngoài như vậy. Ngay cả trong những thời khủng hoảng, những bầy đoàn láng giềng đã xích lại gần nhau hơn, và ngay cả nếu họ thỉnh thoảng tụ tập để săn bắn hoặc ăn uống chung với nhau, họ vẫn dành phần lớn thời giờ của họ trong hoàn toàn cô lập và độc lập. Đổi chác buôn bán hầu hết giới hạn trong những mặt hàng được xem trọng như những vỏ sò, hổ phách và những bột màu. Không có bằng chứng cho thấy người ta trao đổi thức ăn hàng ngày như trái cây và thịt, hay sự hiện hữu của một bầy đoàn tuỳ thuộc vào việc nhập cảng hàng hóa từ bầy đoàn khác. Quan hệ chính trị xã hội cũng vậy, có khuynh hướng lẻ tẻ bất định. Bộ lạc đã không được dùng trong khả năng như một khuôn khổ chính trị thường trực, và ngay cả nếu nó có những địa điểm hội họp theo mùa, không thường xuyên, đã không có những thị trấn hoặc những tổ chức cố định. Con người trung bình sống trong nhiều tháng mà không nhìn thấy, hoặc nghe một con người nào khác từ bên ngoài bầy đoàn riêng của mình, và trong suốt cuộc đời của mình, người ấy gặp không quá một vài trăm người. Dân chúng Sapiens đã trải mỏng rộng ra trên những lãnh thổ rộng lớn. Trước Cách mạng Nông nghiệp, dân số của cả hành tinh đã nhỏ hơn so với của thành phố Cairo ngày nay.


Hình 7. Thú cưng đầu tiên? Một ngôi mộ 12.000 năm được tìm thấy ở miền bắc Israel. Nó chứa bộ xương của một người phụ nữ năm mươi tuổi, bên cạnh đó có bộ xương của một con chó con (góc dưới cùng bên trái). Con chó con đã được chôn gần đầu của người phụ nữ. Tay trái của bà được đặt nằm trên con chó trong một cách vốn có thể chỉ định một liên hệ tình cảm. Dĩ nhiên, có thể có những cách giải thích khác. Lấy thí dụ, có lẽ con chó là một món quà cho người gác cổng của thế giới bên kia.

Hầu hết những bầy đoàn Sapiens sống trên đường, lang thang nơi này đến nơi khác để tìm thức ăn. Những chuyển dịch của họ đã chịu ảnh hưởng của sự thay đổi mùa màng, những di cư hàng năm của những loài động vật và những chu kỳ sinh trưởng của những thực vật. Họ thường đi lại tới lui xuyên ngang trên cùng một lãnh thổ quê nhà, có diện tích từ hàng chục đến hàng trăm cây số vuông.

Thỉnh thoảng, những bầy đoàn lang thang ra ngoài đồng cỏ nhiệt đới của họ và thám hiểm những đất mới, dù nguyên nhân là thiên tai, xung đột bạo động, áp lực dân số hay sự khởi đầu ​​của một người thủ lãnh có sức lôi cuốn. Những lang thang này đã là động cơ của sự mở rộng trên toàn thế giới của con người. Nếu một bầy đoàn kiếm ăn phân đôi một lần mỗi khoảng bốn mươi năm, và nhóm phân ly của nó di cư đến một lãnh thổ mới một trăm cây số về phía đông, khoảng cách từ Đông Africa sang nước Tàu, sẽ đi được trong khoảng 10.000 năm.

Trong một vài những trường hợp ngoại lệ, khi có những nguồn thức ăn đặc biệt phong phú, những bầy đoàn đã liên tiếp ở lại một chỗ, theo mùa trong năm, và ngay cả vĩnh viễn. Kỹ thuật phơi khô, hun khói và đông lạnh thực phẩm cũng làm nó có thể ở yên trong những thời gian lâu dài hơn. Quan trọng nhất, dọc theo những vùng biển và những con sông giàu thuỷ sản và những loài chim nước, con người lập làng đánh cá vĩnh viễn – những khu định cư lâu dài đầu tiên trong lịch sử, từ lâu trước khi có cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những làng đánh cá có thể đã xuất hiện trên những bờ biển của quần đảo Indonesia, sớm cũng khoảng 45.000 năm trước đây. Đây có thể là căn cứ để từ đó Homo Sapiens đã bắt đầu công trình vượt đại dương đầu tiên của mình: sự xâm lăng châu Australia.

Trong hầu hết những môi trường sống, những bầy đoàn Sapiens tự cung tự cấp thức ăn trong một kiểu thức co dãn và cơ hội. Họ lùng kiếm những loài mối, hái quả chín, đào đất tìm củ, đuổi theo thỏ và săn bò bison và voi mammoth. Mặc dù hình ảnh phổ biến là “con người thợ săn”, nhưng hái lượm là hoạt động chính của Sapiens, và nó cung cấp cho họ hầu hết những calorie, cũng như những vật liệu thô như đá lửa, gỗ và tre.

Sapiens đã lùng kiếm không chỉ thức ăn và vật liệu. Họ cũng tìm kiếm kiến ​​thức nữa. Để tồn tại, họ cần biết nằm lòng một bản đồ chi tiết lãnh thổ của họ trong đầu óc họ. Để có hiệu quả nhiều nhất sự tìm kiếm hàng ngày của họ với thức ăn, họ đòi hỏi thông tin về những mô hình phát triển của mỗi thực vật và những thói quen của mỗi động vật. Họ cần phải biết những loại thực phẩm nào đã nuôi dưỡng, đã gây bệnh, và dùng những thức ăn uống khác để chữa trị như thế nào. Họ cần biết sự tiến triển của mùa màng và những dấu hiệu nào báo trước một cơn bão, hoặc một mùa khô. Họ đã học hỏi tất cả mỗi dòng nước, mỗi cây walnut, mỗi hang có gấu, và mỗi mạch ngầm đá flint, trong vùng xung quanh họ. Mỗi cá nhân phải biết làm một con dao bằng đá flint như thế nào, vá một chiếc áo choàng bị rách như thế nào, đặt một cái bẫy thỏ như thế nào, và đối phó với nạn tuyết lở, rắn cắn hoặc sư tử đói mồi như thế nào. Thành thạo mỗi một của những kỹ năng này đòi hỏi nhiều năm học nghề và thực hành. Một người kiếm ăn trung bình thời cổ, đã có thể biến mảnh đá lửa thành một mũi giáo nhọn trong vòng vài phút. Khi chúng ta cố gắng bắt chước kỳ công này, chúng ta thường thất bại thảm hại. Hầu hết chúng ta thiếu kiến ​​thức về những thuộc tính của đá flint, và đá bazan, và những kỹ năng vận động cần thiết để làm việc chính xác với chúng.

Nói cách khác, người thu lượm kiếm ăn trung bình có kiến ​​thức sâu hơn, rộng hơn, và đa dạng hơn về môi trường trực tiếp xung quanh, so với hầu hết những hậu duệ thời nay của mình. Ngày nay, hầu hết mọi người trong những xã hội kỹ nghệ không cần biết nhiều về thế giới tự nhiên để có thể sống còn. Những gì bạn thực sự cần biết ngõ hầu vượt qua khó khăn, thành công được như một kỹ sư cômputơ, một đại diện bán bảo hiểm, một thày giáo dạy lịch sử, hay một người làm công nhà máy? Bạn cần phải biết thật nhiều về lĩnh vực chuyên môn nhỏ nhoi của mình, còn đối với phần lớn những nhu cầu cần thiết của đời sống, bạn mù loà, dựa vào sự giúp đỡ của những nhà chuyên môn khác, vốn có hiểu biết riêng chỉ giới hạn trong một lĩnh vực nhỏ cũng của chuyên môn. Tập thể con người ngày nay hiểu biết hơn rất nhiều so với những bầy đoàn cổ đã hiểu biết. Nhưng ở mức độ cá nhân, những người kiếm ăn hái lượm ngày xưa đã là những người am hiểu nhất, và khéo léo nhất trong lịch sử.

Có một vài bằng chứng cho thấy kích thước bộ óc Sapiens trung bình thực sự đã giảm nhỏ đi từ thời hái lượm [9]. Sống còn trong thời đại đó đòi hỏi tất cả mọi người phải có những khả năng não thức trác tuyệt. Chuyển sang thời canh nông và kỹ nghệ, con người ngày càng có thể dựa vào những kỹ năng của người khác để sống còn, và đã mở ra “những hang ẩn náu mới cho những đần độn”. Bạn có thể sống còn và truyền những gene tầm thường của mình cho thế hệ sau bằng cách làm việc như một người gánh nước, hoặc một người làm thuê, làm việc trong hệ thống dây chuyền-lắp ráp.

Những người hái lượm kiếm ăn đã không chỉ thành thạo tinh thông về thế giới xung quanh của những động vật, thực vật và những vật dụng, nhưng cũng cả về thế giới bên trong cơ thể và những giác quan của họ. Họ lắng nghe động tĩnh nhỏ nhất trong đám cỏ để tìm xem liệu một con rắn có thể rình mò ở đó hay không. Họ cẩn thận quan sát những vòm lá nhằm tìm ra những trái cây, tổ ong và tổ chim. Họ di chuyển với tối thiểu sức lực và tiếng động, và biết cách thế nào để ngồi, để đi bộ và chạy một cách nhanh nhẹn và hiệu quả nhất. Liên tục dùng cơ thể trong nhiều cách khác biệt khiến họ sung sức mạnh khoẻ cũng như những lực sĩ điền kinh chạy marathon. Họ có sự khéo léo tay chân mà con người ngày nay không thể đạt được, ngay cả sau nhiều năm tập luyện yôga hoặc tàichí.

Cách sinh hoạt của người săn bắn hái lượm khác biệt đáng kể từ vùng này sang vùng khác, từ mùa trước sang mùa sau, nhưng trên toàn bộ, những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm dường như đã vui hưởng một phong cách sống dễ chịu thoải mái hơn và thoả mãn bổ ích hơn so với của hầu hết những nhà nông, người chăn cừu, những người lao động và nhân viên văn phòng, là những người đi tiếp theo sau những bước của chân họ.

Trong khi mọi người trong xã hội giàu có ngày nay làm việc trung bình 40-45 giờ một tuần, và mọi người trong thế giới đang phát triển làm việc 60, ngay cả 80 giờ một tuần, những người săn bắn hái lượm ngày nay sống trong những môi trường sống khắc nghiệt nhất – chẳng hạn như những người ở sa mạc Kalahari làm việc trung bình chỉ 35-45 giờ một tuần. Họ đi săn chỉ một trong ba ngày, và hái lượm chỉ chiếm 3-6 giờ mỗi ngày. Trong bình thường, thế này là đủ để nuôi bầy đoàn. Điều cũng rất có thể là những người săn bắn hái lượm thời cổ, sống trong một vùng màu mỡ hơn Kalahari, đã dành thời gian ngay cả còn ít hơn để có được thức ăn và vật liệu thô sống. Thêm vào đó, những người hái lượm kiếm ăn vui hưởng một gánh gồm những công việc bếp núc gia đình nhẹ hơn. Họ không có đĩa ăn để phải rửa, không có thảm để phải hút bụi, không có sàn nhà để phải đánh bóng, không có tã lót trẻ con để phải thay, và không có những hóa đơn để phải thanh toán.

Nền kinh tế hái lượm kiếm ăn đã cung cấp cho hầu hết con người với đời sống thú vị hơn, so với của canh nông hay kỹ nghệ. Ngày nay, một thợ máy người Tàu ra khỏi nhà khoảng 7 giờ sáng, đi đến xưởng lao động vất vả thuộc loại tất bật liên tay, đổ mồ hôi suốt giờ làm lụng, qua những đường phố ô nhiễm, và ở đó, điều khiển cùng một thiết bị máy móc, theo cùng một cách, ngày này sang ngày kia, đầu óc ê ẩm đằng đẵng suốt 10 tiếng đồng hồ, khoảng 7 giờ tối trở về nhà, lại làm việc để rửa chén bát và giặt ủi, chẳng hạn. Ba mươi nghìn năm trước đây, một người kiếm ăn Tàu có thể rời khỏi trại định cư với bạn của cô, tạm nói, khoảng 8 giờ sáng. Họ đi lang thang trong những khu rừng lân cận và những cánh đồng, nhặt nấm, đào rễ, bắt ếch và đôi khi chạy trốn những con hổ. Đến chiều sớm, họ đã trở lại trại định cư để làm bữa ăn trưa. Như thế, cho họ rất nhiều thời giờ để buôn chuyện rỗi hơi, kể chuyện, chơi với trẻ em, và chỉ rong chơi, chẳng phải làm gì. Dĩ nhiên đôi khi những con hổ vồ họ, hay một con rắn cắn họ, nhưng mặt khác, họ không phải đối phó với những tai nạn ô tô, và sự ô nhiễm kỹ nghệ.

Ở hầu hết mọi nơi và trong hầu hết thời gian, đi tìm kiếm hái lượm thức ăn đem cho sự dinh dưỡng lý tưởng. Điều đó hầu như không có gì phải ngạc nhiên – đây đã từng là tập hợp những thức ăn uóng thông thường của con người trong hàng trăm nghìn năm, và cơ thể con người cũng đã giỏi thích nghi với nó. Bằng chứng từ những bộ xương hóa thạch chỉ ra rằng những người hái lượm kiếm ăn sơ khai ít có khả năng bị chết đói hoặc thiếu dinh dưỡng, và nhìn chung, họ cao hơn và khỏe mạnh hơn những con cháu trồng trọt làm ruộng của họ. Tuổi thọ trung bình là dường như chỉ khoảng bốn mươi năm, nhưng điều này phần lớn do tỉ lệ tử vong cao của trẻ em. Trẻ em nào vượt qua được những năm tháng nguy hiểm đầu tiên, có một cơ hội may mắn hơn để sống cho đến những năm sáu mươi, và một số ngay cả còn đến những năm tám mươi của họ. Trong số những người hái lượm kiếm ăn thời nay, phụ nữ đã 45 tuổi hy vọng có thể sống thêm 20 năm, và khoảng 5-8 phần trăm dân số trên 60. [10]

Bí mật của sự thành công của những người hái lượm kiếm ăn, vốn bảo vệ họ khỏi chết đói và thiếu dinh dưỡng, đã là thức ăn thường ngày thay đổi của họ. Những nông dân có khuynh hướng ăn một thức ăn thường ngày thông thường rất hạn hẹp và không cân bằng. Đặc biệt trong thời trước thời nay, hầu hết những calori bồi dưỡng một tập thể dân số sống bằng canh nông đến từ một loại cây trồng duy nhất – chẳng hạn như bột mì, khoai tây, hay gạo – vốn thiếu một số vitamin, khoáng chất và những chất dinh dưỡng khác vốn con người cần. Người nông dân điển hình trong truyền thống Tàu, bữa ăn sáng ăn cơm, bữa trưa ăn cơm và bữa tối ăn cơm. Nếu cô ấy thật may mắn, cô có thể mong đợi ngày hôm sau lại được ăn cơm. Ngược lại, những người hái lượm kiếm ăn thời cổ thường xuyên ăn hàng chục thực phẩm khác biệt. Tổ tiên của những người trồng trọt canh tác sơ khai, những người hái lượm kiếm ăn, có thể ăn những quả berries, và nấm cho bữa ăn sáng; trái cây, ốc và rùa cho bữa trưa; và thịt thỏ với hành tây mọc hoang cho bữa tối. Thực đơn ngày mai có thể là khác biệt hoàn toàn. Sự đa dạng này bảo đảm rằng những người chuyên hái lượm kiếm ăn thời cổ, nhận được tất cả những chất dinh dưỡng cần thiết.

Hơn nữa, do không bị lệ thuộc vào bất kỳ một loại thực phẩm duy nhất nào, họ ít phải chịu khổ khi một nguồn thực phẩm đặc biệt nào nó bị hư hỏng. Xã hội canh nông bị nạn đói tàn phá khi hạn hán, hỏa hoạn, hay động đất, chúng tàn phá một vụ lúa hoặc khoai tây; thức ăn cho trọn năm. Xã hội kiếm ăn hiếm mà hoàn toàn được miễn nhiễm với những thảm họa thiên nhiên, và với những thời kỳ phải chịu thiếu thốn và đói khát, nhưng họ thường có khả năng đối phó với thiên tai những loại như thế dễ dàng nhiều hơn. Nếu họ bị mất một số những gì ăn được hàng ngày, những nguồn thức ăn chính của họ, họ có thể hái lượm hoặc săn bắt những loài khác, hoặc chuyển tới một khu vực khác, ít chịu ảnh hưởng hơn.

Những người hái lượm kiếm ăn thời cổ cũng ít phải khổ vì những bệnh truyền nhiễm. Hầu hết những bệnh truyền nhiễm từng khiến những xã hội canh nông và kỹ nghệ (như bệnh đậu mùa, bệnh sởi và bệnh lao) có nguồn gốc từ những động vật được thuần hóa và được truyền sang con người chỉ sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những người hái lượm kiếm ăn thời cổ, đã thuần hoá chỉ một mình loài chó, họ đã không bị buộc vào với những tai họa này. Hơn nữa, hầu hết mọi người trong xã hội canh nông và kỹ nghệ sống trong những khu định cư lâu dài đông đảo, dày đặc, thiếu vệ sinh – những hang ổ lý tưởng cho bệnh tật. Những người hái lượm, trong những bầy đoàn nhỏ, đã rong ruổi đây đó kiếm ăn, khiến không thể duy trì những dịch bệnh.

Tập hợp những thức ăn uóng thông thường lành mạnh và đa dạng, tuần làm việc tương đối ngắn, và sự hiếm có của những bệnh truyền nhiễm đã khiến nhiều nhà chuyên môn định nghĩa xã hội kiếm ăn trước-canh nông là ‘xã hội giàu có nguyên thuỷ’. Sẽ là một điều sai lầm, tuy nhiên, để lý tưởng hoá cuộc sống của những người cổ xưa này. Dẫu họ có một cuộc sống tốt hơn so với hầu hết mọi người trong xã hội canh nông và kỹ nghệ, thế giới của họ vẫn có thể là khắc nghiệt, hiềm thù và và không khoan dung. những giai đoạn của thiếu thốn và khó khăn không phải là không phổ thông, tỉ lệ tử vong trẻ em đã cao, và một tai nạn nào đó sẽ là nhỏ trong thời nay có thể dễ dàng trở thành một bản án tử hình. Hầu hết mọi người có thể được hưởng sự thân mật gần gũi của những bầy đoàn di chuyển lang thang, nhưng những người không may đó, người đã gây nên sự thù địch hay nhạo báng của những thành viên của bầy đoàn mình có thể cực kỳ đau khổ. Những người hái lượm kiếm ăn thời nay đôi khi bỏ rơi, và ngay cả giết chết, những người già hoặc người tàn tật, khi họ không thể còn theo kịp với bầy đoàn. Những trẻ sơ sinh và trẻ em không được mong muốn có thể bị giết, và ngay cả có những trường hợp đem con người làm vật hy sinh, vốn đã khởi hứng từ tôn giáo.

Dân tộc Aché, những người săn bắn hái lượm, họ sống trong những khu rừng già ở Paraguay cho đến tận những năm 1960, thoáng cho chúng ta một cái nhìn vào phía mặt tối của xã hội kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm. Khi một thành viên được trọng vọng của đoàn chết, những người Aché theo tập tục, đã giết một em bé gái và chôn chung. Những nhà nhân loại học đã hỏi chuyện những người Aché, đã ghi lại một trường hợp trong đó một đoàn những người dân tộc này đã bỏ rơi một người tuổi trung niên bị ốm và không thể theo kịp sinh hoạt với những người khác. Người này bị bỏ lại dưới một gốc cây. Kền kền lượn sẵn bên trên, chờ đợi một bữa ăn thịnh soạn. Nhưng người này đã kịp hồi phục, và, bước đi nhanh nhảu, đã thành công nhập lại với đoàn của mình. Mình mẩy ông đầy những phân chim rơi, do đó, có biệt danh “Đống phân rơi Kên kên” từ đó.

Khi một phụ nữ Aché già đã trở thành một gánh nặng cho phần còn lại của đoàn, một trong những người nam trẻ tuổi sẽ lẩn ra đằng sau bà, và giết bà bằng một cái rìu bổ vào đầu. Một người nam Aché nói với những nhà nhà nhân loại học tò mò hỏi chuyện về những năm tươi trẻ của mình trong khu rừng nhiệt đới. “Tôi đã theo tập tục giết những phụ nữ già. Tôi đã thường giết những cô dì của tôi ... Những người phụ nữ sợ tôi ... Bây giờ, ở đây với những người da trắng, tôi đã trở nên yếu đuối”. Những trẻ em sinh ra không có tóc, người được coi là chậm phát triển, đã bị giết chết ngay lập tức. Một người phụ nữ kể lại rằng đứa con gái đầu tiên của bà đã bị giết vì những người trong bầy đoàn đã không muốn một bé gái khác. Trong một dịp khác, một người đã giết một bé trai nhỏ vì người này đã đang ‘trong một tâm trạng xấu và đứa trẻ đang khóc’. Một đứa trẻ khác đã bị chôn sống vì “nó trông buồn cười và những trẻ em khác cười nhạo nó”.[11]

Tuy nhiên, chúng ta nên cẩn thận, đừng phán đoán những người Aché quá vội vàng. Những nhà nhân loại học, những người đã sống với họ trong nhiều năm, tường thuật rằng bạo lực giữa những người trưởng thành là rất hiếm. Cả đàn bà và đàn ông đều tự do thay đổi những bạn tình ăn nằm theo ý muốn. Họ không ngừng cười mỉm và cười lớn tiếng, không có hệ thống lãnh đạo theo cấp bậc, và thường xa lánh những người hay sai bảo ra lệnh. Họ hết sức hào phóng với một ít của cải của họ, và đã không bị ám ảnh với sự thành công hay sự giàu có. Những điều họ cho là có giá trị nhất trong đời sống là những tương quan tốt đẹp trong xã hội và tình bạn có phẩm chất cao. Họ xem việc giết trẻ em, người bệnh và người già như nhiều người ngày nay xem việc phá thai và giết không đau để chữa đau khổ [12]. Cũng nên lưu ý rằng người Aché đã bị những nông dân Paraguay săn đuổi và giết không thương tiếc. Sự cần thiết phải né tránh kẻ thù của họ có thể là nguyên nhân khiến người Aché chấp nhận một thái độ khắc nghiệt khác thường với bất cứ ai là người có thể trở thành một gánh nặng cho cả bầy đoàn.

Sự thật là xã hội Aché, như mọi xã hội loài người, là rất phức tạp. Chúng ta nên cẩn thận với sự bôi đen xấu ác hoặc tô hồng lý tưởng nó trên cơ sở của một sự quen biết hời hợt. Những người Aché không phải là những thiên thần hay quái vật – họ đều là những con người. Vì thế, cũng vậy là những người săn bắn hái lượm thời cổ.

Nói chuyện Hồn ma Bóng Quế

Chúng ta có thể nói được những gì về đời sống tâm lý và tinh thần của những người săn bắn hái lượm thời cổ? Những cơ bản của nền kinh tế hái lượm kiếm ăn có thể được tái tạo với một vài tự tin dựa trên những yếu tố định lượng và khách quan. Lấy thí dụ, chúng ta có thể tính toán một người cần bao nhiêu calori mỗi ngày để sống còn, thu được bao nhiêu calori từ một kilogram những hạt walnut, và bao nhiêu hạt walnut có thể thu thập được từ diện tích đất rừng một cây số vuông. Với dữ liệu này, chúng ta có thể làm một phỏng đoán dựa trên hiểu biết về tầm quan trọng tương đối của hạt walnut trong tập hợp những thức ăn uống hàng ngày thông thường của họ. 

Nhưng có phải họ đã xem hạt walnut là một món ăn chán ngắt hay khoái khẩu? Có phải họ đã tin rằng có những thần linh trú ngụ trên những cây walnut? Có phải họ đã đã thấy lá cây walnut đẹp? Nếu một chàng trai săn bắn hái lượm muốn đưa một cô gái săn bắn hái lượm đến một địa điểm thơ mộng, có phải bóng mát của một cây walnut là đủ lãng mạn? Thế giới của tư tưởng, tín ngưỡng và cảm xúc là theo định nghĩa rất nhiều khó khăn để giải đoán chúng.

Hầu hết những học giả đều đồng ý rằng những tin tưởng mang nội dung vật có hồn [13] đã là phổ thông giữa những người săn bắn hái lượm thời cổ. Thuyết vật có hồn (từ ‘anima” “hồn” hay “tinh thần” trong tiếng Latin) [14] là tin tưởng rằng hầu hết mỗi nơi chốn, mỗi động vật, mỗi thực vật và mỗi hiện tượng tự nhiên đều có nhận thức và cảm xúc, và có thể truyền thông trực tiếp với con người. Thế nên, những người theo thuyết vật có hồn có thể tin tưởng rằng tảng đá lớn ở trên đỉnh đồi có những ham muốn và những đòi hỏi. Tảng đá có thể tức giận về một gì đó mà người ta đã làm và mừng rỡ về một vài hành động khác. Tảng đá có thể khiển trách con người hoặc đòi hỏi những đối xử đặc biệt. Con người, về phần mình, có thể nói chuyện với tảng đá, hoặc để xoa dịu hoặc đe dọa nó. Không chỉ tảng đá, nhưng cũng cả cây sồi dưới chân đồi là một hữu thể sống động, và cũng thế là dòng nước chảy dưới ngọn đồi, là con suối trong khoảng rừng trống, là những bụi cây mọc quanh nó, là con đường dẫn đến khoảng rừng trống, và là những con chuột đồng, những con chó sói và những con quạ vốn chúng uống nước ở đó. Trong thế giới của những người theo thuyết vật có hồn, đối tượng và những sự vật việc không chỉ là sinh vật sống động. Ngoài ra còn có những thực thể phi vật chất – những thần linh của người chết, và những hữu thể thân thiện và ác độc, những loại mà ngày nay chúng ta gọi là những quỷ thần, tiên thần và thiên thần [15].

Những người của tín ngưỡng vật có hồn tin rằng không có rào cản giữa con người và những sinh vật khác. Họ tất cả có thể truyền đạt thông tin trực tiếp qua lời nói, bài hát, vũ điệu và nghi lễ. Một người thợ săn có thể nói chuyện với một đàn hươu và yêu cầu rằng một trong số chúng tự hy sinh. Nếu chuyến đi săn thành công, người thợ săn có thể đòi hỏi con vật đã chết hãy tha thứ cho mình. Khi có người ốm đau, một thày mo có thể liên hệ với thần linh gây bệnh và cố gắng để trấn an thần linh, hay làm thần linh sợ phải bỏ đi. Nếu cần, thày mo có thể gọi những thần linh khác trợ giúp. Những gì đặc trưng cho tất cả những hành vi truyền đạt thông tin này là những đơn vị (được xem như có thực – thực thể) được giải quyết là những đơn vị địa phương. Họ không phải là những gót phổ quát, nhưng đúng hơn, là một con nai cụ thể, một cái cây cụ thể, một dòng nước cụ thể, một bóng ma cụ thể.

Đúng như không có rào cản giữa con người và những sinh vật khác, cũng không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt. Những ‘thực thể’ không phải là con người không có mặt như thế để đơn giản chỉ nhằm cung ứng cho những nhu cầu của con người. Họ cũng không là những gót toàn năng điều hành thế giới theo như ý họ muốn. Thế giới không xoay quanh con người, hoặc quanh bất kỳ nhóm những sinh vật đặc biệt, thực hay tưởng tượng, nào khác.

Thuyết vật có hồn không phải là một tôn giáo hay tín ngưỡng xác định được rõ ràng. Nó là một tên gọi chung cho hàng ngàn những tôn giáo, những giáo phái và những tín ngưỡng, tất cả đều rất khác biệt. Những gì làm tất cả chúng có tính “tin vật có hồn”, tin cây cỏ, đất đá và những hiện tượng thiên nhiên đều có hồn, là cách tiếp cận có chung này với thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Khi nói rằng có lẽ những người kiếm ăn hái lượm thời cổ đã là những người tin vật có hồn, thì giống như nói rằng những người canh nông thời trước-thời nay chủ yếu là những người tin có gót. Thuyết tin có gót (từ ‘theos’, ‘gót’ trong tiếng Greek) [16] là quan điểm rằng trật tự vũ trụ dựa trên một quan hệ theo thứ bậc giữa con người và một nhóm nhỏ những đối tượng siêu thế gọi là những gót. Điều chắc chắn là đúng khi nói rằng những người canh nông, thời trước thời nay, có khuynh hướng đã là những người tin có gót, nhưng nó không nói cho chúng ta biết nhiều về những trường hợp cụ thể đặc thù. Đề mục chung những người “tin có gót” bao gồm những rápbai Jew từ thế kỷ XVIII ở Poland, Những tín đồ Puritans thiêu sống phù thủy trong thế kỷ XVII ở Massachusetts, những giáo sĩ Aztec thế kỷ XV Mexico, những tín đồ thần bí Sufi thế kỷ XII của Iran, Những chiến binh Viking thế kỷ X, những lính lê dương Rome thế kỷ II, và những quan lại nước Tàu thế kỷ thứ nhất. Mỗi nhóm này nhìn những tin tưởng và thực hành của những nhóm kia như quái đản và phản tôn giáo. Những khác biệt giữa những tin tưởng và những thực hành của những nhóm tin “vật có hồn” chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm có lẽ cũng lớn như thế. Những kinh nghiệm tôn giáo của họ có thể đã từng là rối loạn chao đảo, và đầy những tranh chấp bất hoà, những cải cách và những cách mạng.

Nhưng những khái quát hoá dụt dè này là cũng đã xa đến như mức độ chúng ta có thể đến được. Bất kỳ cố gắng nào để mô tả những chi tiết cụ thể về tinh thần hay tâm lý con người thời cổ là phỏng đoán rất nhiều, vì bằng chứng nếu có để đi theo là hầu như cạnh sự không có gì; và ít ỏi bằng chứng chúng ta có – một nắm tay những vật dụng tạo tác và những tranh vẽ trong những hang động – chúng có thể giải thích được theo vô số cách. Những lý thuyết của những học giả là những người tuyên bố hiểu biết những người chuyên hái lượm kiếm ăn cảm nhận gì, chiếu sáng về những thành kiến ​​của những tác giả của chúng, hơn là về những tôn giáo của kỷ Đồ Đá.

Thay vì dựng lên những núi lý thuyết trên một đụn đất của những di tích mộ địa, những tranh hang động và những tượng nhỏ bằng xương, điều tốt hơn là thẳng thắn và thú nhận rằng chúng ta chỉ có những khái niệm lờ mờ nhất về những tôn giáo của những người săn bắn, hái lượm, kiếm ăn thời cổ. Chúng ta giả định rằng họ là những người theo tín ngưỡng vật có hồn, nhưng đó không phải là thông tin rất nhiều hữu ích. Chúng ta không biết họ cầu nguyện với những thần linh nào, họ tổ chức ăn mừng những lễ hội nào, hoặc họ tuân giữ những tabu gì. Quan trọng nhất, chúng ta không biết họ kể cho nhau những những câu chuyện gì. Đó là một trong những lỗ hổng lớn nhất trong sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử loài người.

Thế giới chính trị xã hội của những những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn, hái lượm là một lĩnh vực khác mà mà chúng không biết gì về nó. Như đã giải thích ở trên, những học giả ngay cả không thể đồng ý về những điều cơ bản, chẳng hạn như sự có mặt của sở hữu cá nhân, cơ bản gia đình nòng cốt và những quan hệ một vợ một chồng. Có nhiều phần xảy ra rằng những bầy đoàn khác biệt đã có những cấu trúc khác biệt. Một số có thể đã là theo định chế thứ bậc, căng thẳng và bạo lực như những nhóm chimpanzee xấu tính nhất, trong khi những đoàn khác đã là nhàn nhã dễ dãi, yên bình và dâm dật như một bầy những con bonobo.


Hình 8. Một bức họa trong hang Lascaux, khoảng 15,000-20,000 năm trước. Chính xác chúng ta nhìn thấy gì, và ý nghĩa của bức tranh là gì? Một số người cho rằng chúng ta nhìn thấy một con người với cái đầu của một con chim và một dương vật cương cứng, bị giết bởi một con bò rừng. Bên dưới con người là một con chim mà có thể tượng trưng cho hồn người, thoát ra từ cơ thể vào lúc chết. Nếu vậy, hình ảnh mô tả không phải là một tai nạn săn bắn tầm thường, mà là sự chuyển dịch từ thế giới này sang thế giới tiếp theo. Nhưng chúng ta không có cách nào để biết liệu những suy đoán này là đúng sự thật. Đó là một thử nghiệm Rorschach mà tiết lộ nhiều về những định kiến ​​của những học giả thời nay, và ít về tin tưởng của những người săn bắn hái lượm thời cổ.


Tại địa điểm Sungir, Russia, những nhà khảo cổ tìm ra vào năm 1955, một nơi chôn cất có tuổi khoảng 30.000 năm, thuộc một văn hóa (của những người sống bằng) săn loài mammoth. Trong một ngôi mộ, họ tìm thấy bộ xương của một người 50 tuổi, được bao phủ với chuỗi hạt bằng ngà voi mammoth, có một tổng số khoảng 3.000 hạt. Trên đầu của người chết là một chiếc mũ trang trí với răng chồn, và trên cổ tay ông, có 25 lăm vòng đeo tay bằng ngà voi. Những ngôi mộ khác từ cùng một địa điểm lại có chứa rất ít những đồ vật như thế. Những học giả suy luận rằng những người Sungir săn loài mammoth đã sống trong một xã hội phân đẳng cấp, và rằng người chết đó có lẽ là người thủ lĩnh của một bầy đoàn, hay của một bộ lạc gồm toàn bộ một số bầy đoàn. Điều không chắc rằng nếu chỉ một vài chục thành viên của một bầy đoàn duy nhất đã tự họ có thể sản xuất được những đồ vật tìm thấy nhiều đến như thế chôn theo trong mộ.


Hình 9. Những người săn bắn hái lượm đã làm những dấu tay này, khoảng 9.000 năm trước đây trong “Hang những bàn tay - Hands Cave”, ở Argentina. Có vẻ như những bàn tay đã chết từ lâu này, từ bên trong tảng đá, đang vươn ra về phía chúng ta. Đây là một trong những di tích cảm động nhất của thế giới kiếm ăn thời cổ – nhưng không ai biết nó có nghĩa gì.


Những nhà khảo cổ sau đó, tìm ra một ngôi mộ lại còn thú vị hơn. Nó chứa hai bộ xương, chôn nối đầu vào nhau. Một bộ xương thuộc về một đứa bé trai ở tuổi khoảng 12 hay 13, và bộ xương kia là của đứa bé gái khoảng 9 hoặc 10 tuổi. Cậu bé được phủ với 5.000 hạt ngà. Em đội một chiếc mũ răng chồn và một dây lưng với 250 răng chồn (phải nhổ răng của ít nhất là 60 con chồn để có được số đó). Em bé gái được trang trí với 5.250 hạt ngà voi. Cả hai em được bao quanh bởi những tượng nhỏ và những vật thể khác biệt đều bằng ngà. Một thợ thủ công lành nghề (nam hay nữ) có lẽ cần khoảng 45 phút để chuẩn bị một hạt ngà duy nhất. Nói cách khác, làm thành trang điểm 10.000 hạt ngà bao phủ hai trẻ em, chưa kể đến những vật thể khác, đòi hỏi một số 7.500 giờ làm việc cần mẫn tỉ mỉ, hơn 3 năm lao động của một nghệ nhân nhiều kinh nghiệm!

Có rất nhiều phần không chắc rằng ở một tuổi còn trẻ như vậy, những em bé Sungir đã chứng tỏ mình là những lãnh tụ, hay đã là những thợ săn voi mammoth. Chỉ có những tin tưởng văn hóa mới có thể giải thích tại sao họ nhận được một chôn cất lộng lẫy quá mức hoang phí như vậy. Một giả thuyết cho rằng họ có được như thế nhờ vào thứ hạng với cha mẹ của họ. Có lẽ họ là con cái của những lãnh tụ, trong một nền văn hóa mà tin tưởng hoặc vào uy tín gia đình hoặc vào những quy luật kế thừa nghiêm ngặt. Theo một giả thuyết thứ hai, những em bé đã được xác định khi sinh ra là hiện thân của một số hồn người đã chết từ lâu. Một giả thuyết thứ ba cho rằng cách chôn cất những trẻ em phản ảnh cách họ chết hơn là thân thế của họ trong đời sống. Họ đã bị giết theo nghi lễ hiến sinh – có lẽ là phần của những nghi lễ chôn cất của người lãnh tụ – và sau đó được chôn với nghi lễ đầy huy hoàng và quan trọng hoá.[17]

Dù trả lời nào là đúng đi nữa, những trẻ em Sungir là một trong những mảnh tốt nhất của những bằng chứng rằng 30.000 năm trước Sapiens đã có thể phát minh những qui định chính trị xã hội, vượt xa những mệnh lệnh của DNA của chúng ta, và những mẫu thức những hành vi ứng xử của những loài người và động vật khác.

Hòa bình hay chiến tranh?

Cuối cùng, có câu hỏi gai góc về vai trò của chiến tranh trong những xã hội kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm. Một số học giả tưởng tượng xã hội săn bắn hái lượm xưa như là những thiên đường hòa bình, và cho rằng chiến tranh và bạo lực khởi đầu chỉ với Cách mạng Nông nghiệp, khi người ta bắt đầu tích lũy tài sản cá nhân. Những học giả khác khẳng định rằng thế giới của những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm thời cổ đã là đặc biệt tàn nhẫn và bạo động. Cả hai trường phái tư tưởng đều là những lâu đài xây trên không, nối với mặt đất bởi những sợi dây mỏng dính của những di vật khảo cổ ít ỏi và những quan sát nhân loại học trên những người còn sống ngày nay kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm.

Các bằng chứng nhân loại học thì hấp dẫn nhưng kèm theo rất nhiều câu hỏi khó khăn. Những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm ngày nay sống chủ yếu ở những khu vực bị cô lập và khắc nghiệt như Bắc Cực hay Kalahari, nơi mật độ dân số rất thấp, và những cơ hội để đánh nhau với những người khác thì hạn hẹp ít ỏi. Hơn nữa, trong những thế hệ gần đây, những săn bắn hái lượm ngày càng thành đối tượng thuộc thẩm quyền của những nhà nước thời nay, vốn ngăn chặn những bùng nổ của những xung đột với quy mô lớn. Những học giả Europe đã chỉ có hai cơ hội để quan sát những người săn bắn hái lượm độc lập trong những quần thể lớn và tương đối tập trung đông đảo: ở Tây Bắc America trong thế kỷ XIX, và ở miền bắc Australia trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Cả hai nền văn hóa của thổ dân Australia và Amerindian đều chứng kiến ​​những cuộc xung đột võ trang thường xuyên. Điều gây tranh luận, tuy nhiên, là không biết sự việc này biểu hiện cho một tình trạng “phi thời gian”, hoặc nó là tác động từ chủ nghĩa thực dân của những đế quốc Europe.

Những kết quả tìm được trong khảo cổ học đều hiếm hoi và không rõ ràng. Những manh mối thuật kể nào có thể may còn lại được về những chiến tranh diễn ra đã hàng chục nghìn năm trước? Thời đó chưa có những hào luỹ và những tường thành, không có vỏ đạn hoặc ngay cả gươm và khiên. Một mũi giáo nhọn thời cổ có thể đã được dùng trong chiến tranh, nhưng nó cũng rất có thể đã dùng trong một cuộc đi săn. Những xương người hóa thạch đều không kém khó khăn để giải thích. Một vết nứt có thể chỉ ra một vết thương chiến tranh hay một tai nạn. Cũng không phải sự vắng mặt của những vết vỡ nứt và những vết cắt trên một bộ xương cổ là bằng chứng kết luận rằng người có bộ xương đó đã không chết một cái chết hung bạo đau đớn. Cái chết có thể được gây ra bởi chấn thương vào những mô mềm của cơ thể mà không để lại dấu vết trên xương. Quan trọng hơn nữa, trong thời tiền kỹ nghệ, hơn 90 phần trăm những cái chết do chiến tranh đã bị giết chết bởi đói, lạnh và bệnh chứ không bằng vũ khí. Hãy tưởng tượng rằng 30.000 năm trước đây, một bộ tộc đã đánh bại hàng xóm của mình và đuổi nó ra khỏi địa bàn thức ăn thèm muốn. Trong trận chiến quyết định, chỉ 10 thành viên của bộ tộc bị bại đã bị giết. Trong năm sau, 100 thành viên của bộ tộc bại trận này bị chết vì đói, lạnh và bệnh tật. Những nhà khảo cổ đào và gặp 110 bộ xương này, có thể quá dễ dàng đi đến kết luận rằng hầu hết đã là những nạn nhân của một vài thiên tai tự nhiên. Làm thế nào chúng ta có thể nói rằng tất cả họ đều là nạn nhân của một cuộc chiến tranh tàn nhẫn?

Đã báo trước theo thông lệ như thế, bây giờ chúng ta có thể quay sang những tìm kiếm khảo cổ học. Ở Portugal, đã thực hiện một cuộc khảo sát 400 bộ xương của thời kỳ ngay trước khi có Cách mạng Nông nghiệp. Chỉ có hai bộ xương cho thấy những dấu hiệu rõ ràng về bạo lực. Một khảo sát tương tự, trên 400 bộ xương của cùng thời kỳ, ở Israel, đã tìm ra một vết nứt duy nhất trong một xương sọ duy nhất vốn có thể được quy cho bạo lực của con người. Một cuộc khảo sát thứ ba, trên 400 bộ xương thuộc thời kỳ trước-canh nông ở khác biệt, ở những địa điểm trong vùng thung lũng Danube, đã tìm thấy bằng chứng của bạo lực trong 18 bộ xương. Mười tám bộ xương trong tổng số 400, xem có vẻ không nhiều, nhưng nó thực sự là một tỉ lệ rất cao. Nếu tất cả 18 người này thực sự chết đều vì bạo động, nó có nghĩa là khoảng 4,5 phần trăm những tử vong ở thung lũng Danube thời cổ, đã do bạo lực của con người gây ra. Ngày nay, tỉ lệ này trên toàn cầu trung bình chỉ là 1,5 phần trăm, gộp chung cả chiến tranh và những tội ác với nhau. Trong thế kỷ XX, chỉ có 5 phần trăm những trường hợp tử vong của con người là kết quả của bạo lực con người – và đây là trong một thế kỷ đã chứng kiến những chiến tranh đẫm máu nhất và nạn diệt chủng lớn nhất của lịch sử. Nếu sự vén lên cho thấy này là điển hình, hung bạo, bạo động của thung lũng Danube thời cổ đã cũng khốc liệt như của thế kỷ XX. [18]

Những khám phá nản lòng đáng buồn từ thung lũng Danube được hỗ trợ bằng một chuỗi những khám phá cũng đều nản lòng đáng buồn từ những khu vực khác. Tại Jabl Sahaba ở Sudan, một nghĩa trang cổ khoảng 12.000 năm, tìm thấy được 59 bộ xương. Đầu mũi tên và mũi giáo đã được tìm thấy gắn trong, hoặc nằm gần xương của 24 bộ xương, 40 phần trăm của tổng số tìm thấy. Một bộ xương của một người nữ cho thấy 12 vết thương. Trong hang Ofnet ở Bavaria, những nhà khảo cổ đã tìm ra ra di tích của 38 người kiếm ăn bằng săn bán hái lượm, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, những người đã bị ném vào hai hố chôn. Một nửa những bộ xương, bao gồm cả những trẻ em và trẻ sơ sinh, mang dấu hiệu rõ ràng về thương tích từ vũ khí của con người như những gậy và dao. Một vài bộ xương thuộc về phái nam trưởng thành mang những dâu hiệu tồi tệ nhất của bạo lực. Tất cả, với xác xuất phỏng đoán cao, bầy đoàn kiếm ăn bằng săn bán hái lượm tại Ofnet, tất cả đã bị tàn sát.

Sự việc nào đại diện tốt hơn cho thế giới của những người kiếm ăn sơ khai: những bộ xương yên bình từ Israel và Portugal, hay những lò giết mổ, tàn sát của Jabl Sahaba và Ofnet? Trả lời là không sự việc nào cả. Cũng đúng như những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã trưng bày một mảng rộng của những tôn giáo và những cấu trúc xã hội, cũng như thế, họ có lẽ đã cho thấy rõ một loạt những mức độ khác biệt về bạo động. Trong khi một số khu vực, và thời kỳ của thời gian có thể được hưởng hòa bình và yên tĩnh, những khu vực, thời kỳ khác đã bị những xung đột tàn bạo xé nát. [19]

Tấm Màn phủ Im lặng

Nếu hình ảnh rộng lớn hơn của đời sống kiếm ăn săn bắn hái lượm xa xưa là khó để tái tạo, những sự kiện đặc biệt đều phần lớn là vĩnh viễn không thể phục hồi. Khi một bầy đoàn Sapiens đầu tiên đi vào một thung lũng đã có người Neanderthal sinh sống, những năm tiếp sau đó có thể đã chứng kiến ​​một vở kịch lịch sử nín thở ngoạn mục. Thật không may, không gì đã có thể tồn tại từ một cuộc gặp gỡ loại như vậy, trừ ra tốt nhất, một vài xương hóa thạch và một số ít những dụng cụ bằng đá vốn vẫn câm lặng dưới những tra khảo mãnh liệt nhất của những học giả. Chúng ta có thể rút ra từ ​​chúng thông tin về cơ thể con người, kỹ thuật của con người, tập hợp những thức ăn uóng thông thường của con người, và có lẽ ngay cả cấu trúc xã hội con người. Nhưng chúng không tiết lộ gì về những liên minh chính trị giả dối giữa những đoàn Sapiens láng giềng, về thần linh của người chết đã ban phúc cho liên minh này, hoặc về những hạt ngà voi đã bí mật trao cho những thày mo thông thái địa phương để bảo đảm những phước lành của những thần linh.

Bức màn phủ của im lặng này trùm trên hàng chục nghìn năm lịch sử. Những nghìn năm dài này cũng rất có thể đã chứng kiến những chiến tranh và những cách mạng, những phong trào tôn giáo xuất thần ngây ngất, những lý thuyết triết học sâu xa, những kiệt tác nghệ thuật vô song. Những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm có thể đã có những Napoleon-chinh phục-tất cả, người đã cai trị những đế quốc có kích thước bằng một nửa của Luxembourg; có những Beethoven thiên tài, người đã thiếu dàn nhạc symphony, nhưng đã làm người ta rơi nước mắt bằng âm thanh của những sáo tre của họ; và những tiên tri lôi cuốn đám đông, những người đã vén màn lên cho thấy, đã tiết lộ những lời thiêng của một cây sồi tại địa phương hơn là của một đấng sáng tạo phổ quát. Nhưng đó là tất cả chỉ những phỏng đoán. Bức màn của im lặng thì quá dày đến nỗi chúng ta ngay cả không thể chắc chắn những điều thế đó đã có xảy ra hay không – chứ đừng nói chi đến việc mô tả chúng trong những chi tiết.

Những học giả có khuynh hướng đặt chỉ những câu hỏi mà họ có thể thuận lý mong đợi để trả lời được. Nếu không có sự khám phá của những dụng cụ khảo cứu vẫn còn chưa có sẵn, chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết những người kiếm ăn sơ khai đã tin tưởng gì, hoặc những vơ kịch chính trị nào mà họ có kinh nghiệm. Thế nhưng, điều là quan trọng để đặt những câu hỏi mà những trả lời là vẫn chưa sẵn sàng, nếu không chúng ta có thể bị cám dỗ để gạt bỏ 60.000 đến 70.000 năm của lịch sử loài người với lý do là “những người sống vào thời đó đã không làm gì quan trọng”.

Sự thật là họ đã làm được rất nhiều điều quan trọng. Đặc biệt, họ đã định hình dạng thế giới xung quanh chúng ta đến một mức độ lớn hơn nhiều so với hầu hết mọi người nhận ra. Những người đi bộ dường trường đến thăm đồng cỏ hàn đới (tundra) Siberia, những sa mạc ở trung tâm Australia, và những khu rừng nhiệt đới Amazon, đã tin rằng họ đã đến những cảnh quan nguyên sơ, hầu như bàn tay con người chưa chạm đến. Nhưng đó là một ảo tưởng. Những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã ở đó trước chúng ta, và họ đã đem đến những thay đổi đột ngột mạnh mẽ, ngay cả trong những khu rừng sâu dày nhất và vùng hoang dã vắng vẻ nhất. Chương tiếp theo giải thích những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã hoàn toàn thay đổi lại hình dạng hệ sinh thái của hành tinh của chúng ta rất lâu, trước khi những làng canh nông đầu tiên được xây dựng. Những bầy đoàn lang thang của những Sapiens biết kể chuyện là động lực quan trọng nhất và huỷ diệt tàn khốc nhất vốn thế giới động vật đã từng sản xuất được.





Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)





[1] Nuclear family hay elementary family: gia đình cơ bản gồm: cha và mẹ và những con, khác với gia đình mở rộng (extended family)
[2] an Aquarian utopia (Age of Aquarius): sinh sống làm việc trong hài hoà với thiên nhiên
[3] Barí là một nhóm dân bản địa ở Nam châu America, sinh hoạt luân canh, canh tác bằng khai hoang đốt rừng, cư ngụ ở vành đai vùng trũng Maracaibo (Colombia-Venezuela)
[4] [Christopher Ryan and Cacilda Jethá, Sex at Dawn: The Prehistoric Origins of Modern Sexuality (New York: Harper, 2010); S. Beckerman and P. Valentine (eds.), Cultures of Multiple Fathers. The Theory and Practice of Partible Paternity in Lowland South America (Gainesville: University Press of Florida, 2002)].
[5] [Noel G. Butlin, Economics and the Dreamtime: A Hypothetical History (Cambridge: Cambridge University Press, 1993), 98–101; Richard Broome, Aboriginal Australians (Sydney: Allen & Unwin, 2002), 15; William Howell Edwards, An Introduction to Aboriginal Societies (Wentworth Falls, NSW: Social Science Press, 1988), 52.]
[6] [Fekri A. Hassan, Demographic Archaeology (New York: Academic Press, 1981), 196–9; Lewis Robert Binford, Constructing Frames of Reference: An Analytical Method for Archaeological Theory Building Using Hunter-Gatherer and Environmental Data Sets (Berkeley: University of California Press, 2001), 143]
[7] [*Một ‘chân trời của những có thể xảy ra’ có nghĩa là toàn bộ một loạt dài của những tín ngưỡng, tập quán và kinh nghiệm được mở ra trước một xã hội cụ thể, với những giới hạn về môi trường sinh thái, kỹ thuật và văn hóa của nó. Mỗi xã hội và mỗi cá nhân thường khám phá chỉ là một phần nhỏ của đường chân trời của họ về những sự vật việc có thể.]
[8] [“Brian Hare, The Genius of Dogs: How Dogs Are Smarter Than You Think (Dutton: Penguin Group, 2013)].
[9] [Christopher B. Ruff, Erik Trinkaus and Trenton W. Holliday, ‘Body Mass and Encephalization trong Pleistocene Homo’, Nature 387 (1997), 173–6; M. Henneberg and M. Steyn, ‘Trends in Cranial Capacity and Cranial Index trong Subsaharan Africa During the Holocene’, American Journal of Human Biology 5:4 (1993): 473–9; Drew H. Bailey and David C. Geary, ‘Hominid Brain Evolution: Testing Climatic, Ecological and Social Competition Models’, Human Nature 20 (2009): 67–79; Daniel J. Wescott and Richard L. Jantz, ‘Assessing Craniofacial Secular Change trong American Blacks and Whites Using Geometric Morphometry’, trong Modern Morphometrics in Physical Anthropology: Developments in Primatology: Progress and Prospects, ed. Dennis E. Slice (New York: Plenum Publishers, 2005), 231–45.]
[10] [Nicholas G. Blurton Jones et al., ‘Antiquity of Postreproductive Life: Are There Modern Impacts on Hunter-Gatherer Postreproductive Life Spans?’, American Journal of Human Biology 14 (2002), 184–205.]
[11] [Kim Hill and A. Magdalena Hurtado, Aché Life History: “The Ecology and Demography of a Foraging People (New York: Aldine de Gruyter, 1996), 164, 236.]
[12] euthanasia
[13] animistic: cây cỏ, đất đá và những hiện tượng thiên nhiên đều có hồn.
[14] Animism: có hai nghĩa: (a) Quan điểm, lập trường gán ép, cho rằng cây cỏ, đất đá và những hiện tượng thiên nhiên đều có hồn. (b) Tin tưởng rằng có một quyền năng siêu nhiên đã sắp đặt và tác động vào vũ trụ vật chất, khiến những sự vật thành “sống” động, như có “hồn”, như có “tinh thần”, như có sự sống giống như của con người
Theo ngữ nguyên: animism = anima ‘life, soul’ + -ism (Latin), chúng ta hiểu là thuyết/quan điểm/ cho rằng sự vật có sự sống (như con người), chúng có “hồn”; do đó, tôi tạm dịch là thuyết vật có hồn; trước đây có chỗ đã dịch là thuyết vật linh, và thuyết bái vật .
[15] Tôi dùng “thần linh” để chỉ “spirit” = cái “thần”, phần tinh anh của con người (khác với tinh thần).
demon, fairy, angel = quỉ thần, tiên thần, thiên thần
[16] Xem Huyễn tưởng Gót – những thuật ngữ khác về tín ngưỡng, tôn giáo của tôi:
Atheism:               Thuyết Không-tin-có-gót
Deism:                  Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay;
Theism:                 Thuyết Tin-có-gót, hay rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay.
Pantheism:           Thuyết Tin-gót-là-khắp-cả
Panentheism:       Thuyết Tin-gót-trong-khắp-cả
[17] [Edward Evan Evans-Pritchard, The Nuer: A Description of the Modes of Livelihood and Political Institutions of a Nilotic People (Oxford: Oxford University Press, 1969); E. C. Amoroso and P. A. Jewell, ‘The Exploitation of the Milk-Ejection Reflex by Primitive People’, trong Man and Cattle: Proceedings of the Symposium on Domestication at the Royal Anthropological Institute, 24–26 May 1960, ed. A. E. Mourant and F. E. Zeuner (London: The Royal Anthropological Institute, 1963), 129–34]
[18] [Có thể lập luận rằng không phải tất cả 18 người vùng sông Danube thời cổ có những dấu hiệu có thể thấy được trên hài cốt của họ đã chết thực sự đều vì bạo lực. Một số đã có thể chỉ bị thương. Tuy nhiên, điều này có lẽ đã làm đối trọng để cân bằng với những cái chết do chấn thương không để lại đấu tích và từ những thiếu thốn vô hình, vẫn đi kèm với chiến tranh.]
[19] [Johannes Nicolaisen, Ecology and Culture of the Pastoral Tuareg (Copenhagen: National Museum, 1963), 63.]