Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần I – Các triết gia trước Socrates
Chương I – Sự bừng dậy của Văn minh Hylạp
Trong xuốt lịch sử,
không có gì thật ngạc nhiên và khó khăn đến thế, khi giải thích sự bừng dậy đột
nhiên của văn minh tại Hylạp. Phần lớn những gì làm nên văn minh đã có mặt hàng
nghìn năm ở Egypt và ở Mesopotamia, và đã từ đấy lan ra các nước láng giềng.
Nhưng vẫn còn thiếu một số yếu tố cho đến khi Hylạp đem thêm. Những gì họ đạt
được về mỹ thuật và văn chương thì quen thuộc với mọi người, nhưng những gì họ
đã làm được trong lĩnh vực trí thức thuần tuý thì siêu việt, lại còn khác thường
hơn. Họ phát minh toán học [1],
và khoa học và triết học; họ đầu tiên viết sử, thay vì chỉ là các biên niên, họ
bàn luận rộng rãi về bản chất thế giới và những mục đích của đời người, không bị
xiềng xích tín điều thừa hưởng nào trói buộc. Những gì đã xảy ra thật xửng xốt
quá sức tưởng tượng đến nỗi, đến tận gần đây, người ta hài lòng chỉ nhìn và nói
một các huyền bí về thiên tài Hylạp. Tuy vậy, sự phát triển của Hylạp có thể hiểu
được qua ngôn từ khoa học và cũng đáng công làm như thế.
Thuật viết chữ đã được
sáng tạo ở Egypt khoảng năm 4000 TCN, và Babylon sau đó không lâu. Ở mỗi nước,
chữ viết bắt đầu bằng những hình vẽ của các đối tượng muốn tả. các hình vẽ này
nhanh chóng thành qui ước hoá, như thế các từ thay bằng những hình tượng, như
chúng vẫn còn dùng ở nước Tàu. Trải qua hàng nghìn năm, hệ thống cồng kềnh này
phát triển thành cách viết dùng chữ cái.
Do các sông Nile,
Tigris, và Euphrates, văn minh đã phát triển sớm tại Egypt và Mesopotamia, canh
nông rất dễ dàng và rất phì nhiêu nhờ những dòng sông này. Văn minh ấy có nhiều
dạng thức rất tương tự với những gì người Spaniard đã gặp ở Mexico và Peru. Có
một vị vua linh thiêng, với những uy quyền chuyên chế; Ở Egypt, vị này làm chủ
tất cả đất đai. Có một tôn giáo đa thần với một vị thầntối cao, vị này và nhà
vua có quan hệ thân tính đặc biệt. Có một giai cấp quí tộc quân đội, và cũng có
một gia cấp quí tộc tăng lữ. Giai cấp kể sau thường có khả năng lấn áp quyền
hoàng gia, nếu có nhà vua yếu hay nếu vị này bận tiến hành một cuộc chiến khó
khăn. Những người canh tác đất đai là các nông nô, thuộc về nhà vua, về giới
quí tộc, và giới tăng lữ.
Có một sự khác biệt
đáng kể giữa gót học Egypt và Babylon. Những người Egypt đã bận tâm với sự chết
và đã tin tưởng linh hồn những người chết đi xuống âm phủ, ở đấy, họ sẽ được
Osiris phán xử tùy theo tư cánh đời sống lúc ở trần gian. Họ có ý nghĩ linh hồn
cuối cùng sẽ trở lại với thân xác : điều này đưa đến sự bó giữ xác chết và sự
xây dựng những dinh mộ nguy nga. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV và đầu thế kỷ
III trước công nguyên, nhiều nhà vua khác nhau xây những Kim tự tháp. Sau giai
đoạn này, văn minh Egypt trở nên càng ngày càng khuôn sáo và sự bảo thủ tôn
giáo đã làm không thể có tiến bộ. Vào khoảng 1800 TCN, Egypt đã bị giống dân
Sernite là dân Hyksos xâm chiếm, và thống trị xứ này vào khoảng hai thế kỷ. Những
người xâm lăng không để lại dấu vết vĩnh viễn nào tại Egypt, nhưng sự hiện diện
của họ đã giúp cho văn minh Egypt lan tràn qua Syria và Palestine.
Babylon đã có một
phát triển nặng phần về chiến trận hơn Egypt. Đầu tiên, giai cấp thống lĩnh
không phải là giống dân Semites, nhưng là “Sumerian” có nguồn gốc không được biết.
Họ sáng chế ra cách viết chữ dùng các hình nêm [3]
mà sau đó dân Semites chiến thắng đã lấy của họ. Có một giai đoạn có nhiều
thành phố khác biêt và độc lập đánh lẫn nhau, nhưng cuối cùng Babylon trở nên
hùng mạnh nhất và thành lập một đế quốc. Những thần của các thành phố khác trở
nên chịu đóng vai dưới, và Marduk, thần của Babylon, chiếm lĩnh một địa vị giống
như sau này Zeus đã có trong đền thờ những thần của Hylạp. Những sự kiện cùng
loại như thế đã xảy ra ở Egypt, nhưng ở thời gian sớm hơn trước đó nhiều. Những
tôn giáo của Egypt và Babylonia, giống như những tôn giáo cổ thời khác, đã bắt
nguồn từ tín ngưỡng phồn thực [4].
Mặt đất là nữ, mặt trời là nam. Con bò đực thường được xem là hiện thân của
tính đực sung mãn, và các thần bò đã rất phổ thông. Ở Babylon, Ishtar, nữ thần
Đất, vị thần cao nhất trong các nữ thần [5].
Trong khắp vùng Tây Á, Mẹ Đất đã được sùng kính và thờ phụng với nhiều tên gọi
khác nhau. Khi những người Hylạp thực dân tại vùng Tiểu Á gặp được các đền thờ
vị nữ thần này, họ gọi bà là Artemis và gánh tiếp lấy tín ngưỡng sẵn có ấy. Đây
là nguồn gốc của “Diana của Ephesians” [6].
Kitô biến đổi bà vào thành Trinh nữ Mary [7],
và chính là công đồng Ephesus đã hợp thức hóa danh xưng “Mẹ Gót” [8]
cho vị phu nhân này của chúng ta. Nơi nào một tôn giáo ràng buộc với chính phủ
của một đế quốc, những động cơ chính trị tác động lớn vào sự chuyển đổi các đặc
trưng nguyên thuỷ của nó. Một nam thần hay một nữ thần trở nên kết hợp với Nhà
nước, và phải đem cho không chỉ thu hoạch mùa màng thặng dư, nhưng cả toàn thắng
trong chiến tranh. Một giai cấp tăng lữ giàu có đã soạn thảo chi li các nghi thức
cúng tế và lý thuyết về thần linh, và xếp đặt đâu đó những thánh thần của những
vùng lãnh thổ tạo thành của để quốc vào một chung một đền thờ bách thần [9].
Qua sự kết hợp với chính quyền, những thầncũng đã trở nên liên hợp với luân lý [10].
Các nhà làm luật đã nhận được các điều lệ từ một vị gót; như thế mỗi một vi phạm
luật pháp đã trở thành một phạm thánh. Bộ luật pháp cổ nhất vẫn còn được biết
là của Hammurabi, vua xứ Babylon, vào khảng năm 2100 TCN; bộ luật này đã được
nhà vua xác nhận là từ Marduk đã trao cho ông. Sự nối kết giữa tôn giáo và luân
lý đã tiếp tục thành gần gũi hơn xuốt trong cổ thời.
Tôn giáo của người
Babylon, không giống như của Egypt, đã quan tâm với phồn vinh trong thế giới
này hơn là hạnh phúc trong kế tiếp. Ma gích [11],
khoa bói toán, khoa đoán sao [12]
mặc dù không là nét đặc biệt của người Babylon, đã phát triển ở đây nhiều hơn
những nơi khác, và chủ yếu qua Babylon, các khoa này đã dành được chỗ đứng cho
cổ thời tiếp sau. Từ Babylon có ra được vài thứ thuộc về khoa học: sự phân chia
ngày thành hai mươi bốn giờ, chia vòng tròn thành 360 độ; và cũng cả sự khám
phá một chu trình những thiên thực, nó có thể tiên đoán nguyệt thực với chắc chắn,
và nhật thực với một vài xác xuất. Những kiến thức này của người Babylon, rồi
chúng ta sẽ thấy, đã được Thales thu tập. Những văn minh của Egypt và
Mesopotamia là nông nghiệp, và của những quốc gia láng giềng xung quanh là chăn
nuôi. Một yếu tố mới đã đến với sự phát triển của thương mại, vốn lúc đầu hầu
như hoàn toàn hàng hải. Cho đến khoảng 1000 TCN các vũ khí làm bằng đồng, và những
nước nào không có được các kim loại cần thiết trong lãnh thổ riêng mình đã bị
buộc phải có chúng bằng mua bán hay ăn cướp biển. Đi ăn cướp đã là một mưu chước
tạm thời, nhưng trong những điều kiện xã hội và chính trị tương đối ổn định,
thương mại được thấy là sinh lãi nhiều hơn. Về mặt thương mãi, đảo Crete xem ra
đã khởi đầu. Trong khoảng chừng mười một thế kỷ, từ 2500 TCN cho đến 1400 TCN một
nền văn hoá rất tiến bộ về mỹ thuật, được gọi là Minoan, có mặt ở Crete. Những
gì còn sống sót từ mỹ thuật của người Cretan cho ấn tượng một sự vui hoạt và gần
như một xa xỉ đồi truỵ, rất khác với sự ảm đạm đáng khiếp hãi của các đền
Egypt.
Hầu như không biết được
gì về nền văn minh quan trọng này, cho đến khi có những khai quật (khảo cổ) của
Sir Arthur Evans và những khai quật khác. Nó là một nền văn minh hàng hải, gần
gũi tiếp cận với Egypt (trừ khoảng thời kỳ dân Hyksos chiếm giữ). Theo những
tranh vẽ Egypt, hiển nhiên giữa Egypt và Crete đã có một thương mại đáng kể, do
các thuỷ thủ Crete thực hiện, nền thương mãi này đạt đến đỉnh tối cao của nó và
khoảng 1500 TCN Tôn giáo của dân Cretan xuất hiện như có nhiều tương đồng với
những tôn giáo của Syria và vùng Tiểu Á, nhưng trong mỹ thuật, nó lại giống với
của Egypt nhiều hơn, mặc dù mỹ thuật Cretan rất độc đáo, không bắt chước ai cả
và sửng xốt tràn đầy sự sống. Trung tâm của văn minh Cretan đã được gọi cho cái
tên là “cung điện của Minos” ở Knossos, mà những ký ức về nó sẽ vướng rơi rải
rác trong cổ điển Hylạp. Những cung điện của Crete đã rất tráng lệ, nhưng bị
phá huỷ hết vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười bốn TCN có lẽ bới những người xâm
lăng từ Greece. Niên đại lịch sử của Crete suy diễn ra được từ những đồ vật
Egypt tìm được ở Crete, và những đồ vật Crete tìm được ở Egypt, trước sau, kiến
thức của chúng ta có được (về đảo này) thì tuỳ thuộc trên các bằng chứng khai
quật khảo cổ.
Những người Crete thờ
một vị nữ thần, hay có lẽ rất nhiều nữ thần. Một vị nữ thần không thể nghi ngờ
được, rõ ràng nhất đã là “Cô chủ của các loài Thú” [13],
vị này là một thợ săn, và có lẽ là nguồn của nữ thần cổ điển Artemis [14].
Bà hay một bà khác, cũng là một người mẹ, vị nam thần duy nhất, kể ngoài “Chủ tể
các loài Thú”, là con trai của bà. Có vài bằng chứng của sự tin tưởng một kiếp
sau, cũng như tin tưởng của người Egypt, trong chốn ấy, những việc làm tốt xấu
trên trần sẽ nhận được thưởng hay phạt. Những toàn bộ Cretan hiện ra, từ trong
mỹ thuật của nó, là một giống dân vui vẻ, không bị những dị đoan mê tín u ám đè
nặng. Họ rất mê đấu bò, trong các cuộc đấu cả nữ lẫn nam toreador [15]
đã biểu diễn những động tác nhào lộn điêu luyện đến sửng sốt. Những cuộc đấu bò
là những lễ hội tôn giáo, và Sir Arthur Evans nghĩ rằng những người trình diễn
thi đấu thuộc về đẳng cấp quí phái cao quí nhất. Những tranh vẽ còn xót đến nay
đầy những động tác và rất hiện thực chủ nghĩa.
Người Cretan có một
chữ viết hàng ngang, nhưng vẫn chưa giải mã được để đọc. Ở đất nhà, họ hoà
bình, và các đô thị của họ không có tường thành; không ngờ gì nữa, sức mạnh hải
quân đã bảo vệ họ.
Trước khi văn hoá
Minoan bị huỷ diệt, nó lan sang phần Hy lap đất liền, khoảng năm 1600 TCN, văn
hoá này suy thoái dần dần thành nhiều chặng, đến tận 900 TCN. Văn minh ở vùng đất
liền này được gọi là Mycenaean, biết được qua những mộ các vì vua và cũng qua
các pháo đài xây trên những đỉnh đồi, cho thấy có lo sợ nhiều hơn về chiến
tranh so với lúc ở đảo Crete. Cả lăng mộ lẫn pháo đài còn tạo mãi những ấn tượng
không phai trong tưởng tượng của cố điển Hylạp. Những sản phẩm mỹ thuật cổ điển
hơn trong các cung điện đã hoặc thực là công trình của Cretan hay rất gần gũi với
mỹ thuật của Crete. Văn minh Mycenaean, đã được nhìn qua một màn mờ ảo huyền
thoại, là những gì vẽ trong Homer.
Bertrand Russell
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Nov/2009)
[1]
Số học và vài dạng hình học đã có mặt trong những dân tộc Egypt và Babylon,
nhưng chủ yếu còn ở dạng những nguyên tắc ngắn gọn trên kinh nghiệm thực tế
(rules of thumb). Lý luận diễn dịch từ tiền đề tổng quát là sang tạo của Hylạp.
[2]
Nguyên bản eclipse – không rõ nhật
hay nguyệt- thực.
[3]
cuneiform
[4]
fertility cult
[5]
god – nếu viết thường, chỉ một thần linh có năng lực siêu phàm (a supernatural
being) – có thể dịch là thần, thánh. Nếu viết hoa “God” – chỉ vị thần giả định
là có và đã sáng tạo vũ trụ, ý niệm cơ bản của các tôn giáo độc thần, như Kitô,
Islam, Dothái.
Tôi
giữ nguyên âm – “gót” cho trường hợp đấu, và “Gót” cho trường hợp sau
[6]
CTTG (Chú thích của tác giả) – Diana là từ Latin tương đương vủa Artemis. Chính
là Artemis đã được nhắc trong kinh thánh Greek, trong bản dịch chúng ta (Anh ngữ)
nói về Diana.
[7]
The Virgin Mary
[8]
Mother of God
[9]
Pantheon
[10]
Morality
[11]
Magic – đã thường dịch quen là ma thuật
[12]
Astrology – chiêm tinh
[13]
“Potnia Theron” (“Πότνια Θηρῶν”, “Mistress of the Animals”)
[14]
CTTG – Bà có một vị thần nam là song sinh hay chồng, “Chúa tể Loài thú”, nhưng
vị nam thần này không nổi tiếng lỗi lạc như vị nữ. Chính là về sau này, trong cổ
thời, Artemis đã được xem nhận là Người Mẹ Cả của vùng Tiểu Á (“The Great
Mother of Asia Minor”)
[15]
Người đấu bò