Tiếng chuông chùa trong Phong Kiều Dạ Bạc
楓橋夜泊
張継
月落烏啼霜満天
江楓漁火対愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘声到客船
Thơ:
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền [1]
Nghĩa:
Trăng khuất, quạ kêu, sương đầy trời
Cây phong bờ sông, đốm lửa thuyền chài, đối nhau trong giấc ngủ buồn
Lúc nửa đêm, tiếng chuông vọng đến thuyền khách.
Trăng lặn, quạ kêu, trời đầy sương
Lửa chài, phong bến, giấc buồn vương
“Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự”
Chuông vọng đến thuyền lúc nửa đêm.
Bản dịch phổ biến (Tản Đà):
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. [6]
1.
Thi thoại: Chuông chùa nào nửa đêm?
Thi thoại: Chuông chùa nào nửa đêm?
Chuyện kể rằng một tối kia, vị sư chùa Hàn San làm được hai câu thơ, tả mảnh trăng non:
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
(Mùng ba, mùng bốn, trăng non chưa rõ nét
Nửa như cái móc bạc, nửa như cái cung…)
Rồi chú tiểu làm tiếp hai câu:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
((Như) một phiến ngọc trắng, xẻ làm hai
Nửa chìm dưới nước, nửa nổi giữa trời không)
Sau đó, vị sư này vui mừng, dù lúc ấy đang nửa đêm[7], vẫn bảo chú tiểu thắp hương rồi thỉnh chuông để tạ ơn Phật vì cả hai vừa cùng làm được một bài thơ xứng ý. Chính tiếng chuông của hai thày trò yêu thơ này đã vọng đến thuyền Trương Kế, khi ấy đang đỗ bến Phong Kiều, khiến ông viết hai câu cuối của bài thơ trên.
Câu chuyện quanh thơ [8] (thi thoại) đẹp như một bài thơ xuôi, trước sau chỉ có thơ, lòng yêu thơ, sự làm thơ. Tiếng chuông từ kẻ yêu thơ rơi vào trang giấy của kẻ chờ thơ, thành hai câu cho trọn bài thơ đang đợi ý. Thơ nối thơ bằng tiếng chuông chùa ngân [9]
Bài thơ mở tất cả các cánh cửa cho người đọc đem mình vào:
2.
Tiếng chuông chùa buông trên tranh thủy mặc
Tiếng chuông chùa buông trên tranh thủy mặc
Xin đọc lại, từng câu:
- Câu đầu: Trăng khất, đêm tối, có tiếng quạ kêu, trời đầy sương. Đêm, nhưng khoảng nào? Quạ kêu, sương phủ,.. ở đâu? Đây là câu tả cảnh trong bài thất ngôn luật thi, nhưng không gian còn mơ hồ, thời gian chưa rõ rệt, tất cả còn ẩn sau lớp sương trời. Chưa rõ.
- Câu hai: Rõ hơn, có thêm các chi tiết: cây phong mọc bờ sông (giang phong), lửa đèn thuyền đánh cá (ngư hỏa). Cảnh hiện thành bến nước về khuya. Đây là câu tả tình, nên cây và đèn chài le lói chung giấc ngủ buồn, nhìn nhau. Hay cây bến, lửa đèn đối diện với giấc ngủ buồn của con người.
- Câu thứ ba, như một câu văn nói: Xa ngoài thành Cô Tô, ở chùa Hàn San.
- Câu cuối: có tiếng chuông chùa nửa đêm, âm thanh vọng đến tận thuyền khách.
Có cảnh nào trong tranh Tàu mà thiếu người, nên câu cuối, có khách trên sông, nửa đêm giữa bến nước, không ngủ. Khách là kẻ nhìn cảnh vật đã kể ở trên, và bởi tiếng chuông ngân nên giờ ra chính diện.
Tiếng chuông từ ngoài thành xa, trên chùa vắng đưa đến thuyền khách, và âm thanh cũng tỏa vọng về mọi vật đã kể trong bài. Về câu thứ hai, giờ có thể hiểu: đám cây phong, đám lửa chài đối diện với giấc chập chờn của khách. Về đến câu đầu: khách là kẻ vọng mảnh trăng khuất, nghe tiếng quạ kêu, và là người nhìn sương trời đang giăng phủ. Sự vật không “chết” nữa, đã có một cái nhìn…có một người trong cảnh.
Đến đây thơ thành một bức họa sơn thủy Tàu quen thuộc: có sông, có cây phong, có đám thuyền đánh cá, có nền xa là đồi núi chập chùng, ẩn hiện cổ thành, chắc có mái cong, tháp chuông của ngôi chùa lẫn trong đám lá dày. Trong đám thuyền trên sông, chiếc thuyền nào là của tác giả? Có phải đây không? trong một góc tranh, có kẻ áo văn nhân, bút mực trước mặt, đang nhìn trời… như nghe tiếng chuông ngân.
Mọi chốn trong tranh, tiếng chuông chùa đều vọng đến. Trăng hẳn vẫn còn mờ, nhưng tiếng quạ chắc đã tắt. Có chút đột nhiên (suspense) ở câu cuối. Câu thứ ba đưa cái bất ngờ lên bằng vào nhịp và vận thơ đổi, mạch thơ đến cuối câu ba phải ngừng lại, như chờ đợi, trước khi sang câu cuối có chuông đổ nửa đêm. Khi tiếng chuông buông, mọi vật sống dậy, như tỉnh giấc sầu miên.
Cả bài thơ có tiếng chuông điểm khắp cảnh vật. Tiếng chuông cũng soi cho thấy người trong cảnh.
Đêm trong Đường thi, thường có trăng mà thành thơ, như trong Lý Bạch hay Trương nhược Hư (Xuân giang hoa nguyệt dạ), trăng đi với hoa, rượu, gợi những hoài tình, dựng bao sầu mộng. Nhưng đêm ở đây, trên bến Cô Tô, chỉ có tiếng quạ kêu sương, lửa chài le lói, hàng phong bên cầu vắng gió. Nhưng tất cả đã nhờ một tiếng chuông buông nên sống động thành thơ.
3.
Tiếng chuông đến bất ngờ sau nhịp điệu chờ đợi
Tiếng chuông đến bất ngờ sau nhịp điệu chờ đợi
Hai câu đầu đang theo nhịp thơ:
2 - 2 - 3 TT - BB - BTB Nguyệt lạc / ô đề / sương mãn thiên
2 - 2 – 3 BB - TT - TBB Giang phong / ngư hỏa / đối sầu miên
đối vận tề chỉnh và đều hết câu ở vận bằng, êm ả (thiên, miên)
Đến câu thứ ba, ở đây, đột chuyển sang nhịp khác:
4 – 3 B B B T - B B T Cô Tô thành ngoại / Hàn San tự
lại dừng câu ở vận trắc “… Hàn San tự”, lững lờ chờ đợi…
… tiếng chuông ngân … đến trong câu câu cuối, đưa tất cả về êm ả nhịp cũ, kết như một cadence nhạc:
2 - 2 -3 TT - BB – TTB Dạ bán / chung thanh / đáo khách thuyền
Đọc lại một lần nữa để cảm nhận các âm tiếng của các nguyên âm “ô”, “a”, “an” trong:“Cô tô thành ngoại, Hàn San tự…”. Nhịp thơ buộc người đọc phải ngừng tại cuối câu ba, lơ lửng âm “ư”, rồi chờ đợi …
Câu cuối: Việc bất ngờ là giữa nửa đêm, có tiếng chuông ngân vọng đến thuyền. Tiếng chuông dẫn người đọc đến tác giả, bây giờ mới thực ra mặt, ở tận cùng câu cuối.
Tách ra, câu thứ ba giống như một câu nói, để vào trong bài 28 chữ, nó thành một câu thơ đầy sức gợi. Giá trị của nó nằm trong tổng thể của toàn bài với toàn thể cấu trúc trên âm vận và nhịp điêu. Giá trị của nó còn trong ý-gợi-dẫn.
Ở một cách nhìn nào đó, Đường thi gần với thơ tượng trưng, các điển cố làm nghĩa chữ thêm cô đọng. Các âm Hán Việt đọc lên có mang thi vị riêng, phép đối câu – khiến câu 1-2 ôm lấy nhau, rồi trong câu lại đối chữ có cùng vị trí ở mỗi câu: nguyệt lạc – ô đề, giang phong – ngư hỏa. Tất cả tạo tác dụng đặc biệt vào cảm thức người đọc. Một thế giới riêng với các chữ có ma lực gợi dẫn, những ý chưa thành, những dẫn-đến chưa trọn, cái mông lung ở một tầng gần cảm thức hơn nhận thức (chữ chưa rõ trọn nghĩa). Có hiệu năng tạo những xúc động khác lạ. Cho nên thơ Đường phải đọc lên, phải ngâm nga cho các âm thành nhạc, để cảm trước khi để hiểu, cho xao xuyến đến trước nhận thức. [10]
4.
Tiếng chuông màu cổ kính gợi lịch sử dẫn đến vô thường.
Tiếng chuông màu cổ kính gợi lịch sử dẫn đến vô thường.
Cô Tô thành: Tất cả huyền thoại về Ngô vương Phù Sai, Việt vương Câu Tiễn, mỹ nhân kế của Phạm Lãi dâng Tây Thi,… vang vọng về trong hai chữ Cô Tô. Chỉ hai âm này gợi một chuỗi những thiên cổ lụy trong đó có thành tan nước mất, có tiếng cười xé lụa của sắc đẹp. Bao biển dâu thế sự, thăng trầm lịch sử.
Hàn San tự: chùa Hàn San, nơi hai vị danh tăng Hán San và Thập Đắc vốn thường lui tới, Chữ “sơn” quen thuộc, nay đọc thành “san”. Cái lạnh của “hàn” phủ hết “núi”. Âm của chữ gợi cảnh cao sơn cô lạnh, chốn của quán tưởng về cuộc sống, thế giới của thoát tục. Nơi mọi thế sự chỉ còn trong quán niệm lạnh lẽo, từ đó tiếng chuông buông ngân, nhắc đạo giác ngộ cho đời.
Cô Tô thành ngoại đối với Hàn San tự: thế sự biển dâu đối với hành trình chứng nghiệm vô thường?
Một câu mới đọc tưởng như văn nói, “Chùa Hàn San ở ngoài thành Cô Tô”, nhưng ma lực của “Cô Tô”, huyền diệu của “Hàn San” đẫ đẩy tâm tưởng người đọc đi đến những bờ bến ngược thời gian! Chúng thành những ký hiệu [11], mang đầy hành lý [12] trên lưng. Khi đọc các câu thơ, mớ hành lý ấy chuyển sang người đọc. Hành lý nhiều đến đâu, chuyển vào xa tới đâu, lại cũng tùy mỗi người đọc, lần đọc. Chỉ là âm-đọc và nghĩa-gợi mà đánh thức dậy biết bao trong lòng người! Sự mầu nhiệm của thơ, biến cái nói-đây thành cái-khác-gợi-đến. “Thuyền” đã trôi từ giòng nước sang giòng đời. “Khách” đã từ kẻ cô lữ đêm ấy trên sông, thành muôn người trọ giữa trần gian. Nên chuông Hàn San ở chốn Cô Tô, đã thành âm của giác ngộ soi mặt biển dâu để phơi hiện thực vô thường.
Cả bài thơ là một tổng thể quanh tiếng chuông ngân.[13] Tiếng chuông có màu thiên cổ vang trên những lối đi về của nghìn năm, phơi mở những miếu đài, đình tạ, gợi những nghiệp chướng trần ai.
Tiếng chuông đêm ấy vang vọng đến mãi chiều nay. Ở đây không có bến Cô Tô, nhưng có lá phong rụng đầy trong nắng, vẽ những đỉnh đồi rực màu thu lộng lẫy, soi trên mặt sáng bừng ánh nước hồ lắng sóng. Xa lắm bến Phong Kiều, cách nửa vòng trái đất, không có đêm trên sông với hàng phong ngái ngủ, nhưng có chiều thu đang xuống, giữa chập chùng. Những vòm cao đang đổi sắc, im lắng, chỉ có tiếng lá, mỗi chiếc lá là một sự rạng rỡ quằn qụai trong gió tháng mười, là một bi tráng của cái đẹp kiêu hãnh biết mình sẽ tàn tạ nhưng vẫn mong mãi sống giữa lòng ngưỡng mộ. Cảnh thu nơi đây không có tiếng quạ kêu đêm, nhưng có tiếng nhạc của Hòa Tấu Khúc Dang Dở [14], hồ cầm, vĩ cầm tremolo rồi cả bộ huyền bi tráng, òa lên cao như tiếng khóc không giữ được khi phải đối diện với cái đẹp sắp mất. Những mảnh thu đang tự huỷ trong gió chớm lạnh. Chuông ngân đâu phải chỉ trên bến Cô Tô, đêm ấy giữa Đường Thi; chuông ngân khắp chốn, vọng đến mọi nơi của tâm cảnh sâu thẳm và ngoại cảnh bao la. Chuông ngân mãi trong tâm thức người đọc, nhắc nhở cuộc hiện sinh là những mảnh luân hồi ngắn ngủi trong bất tận cõi sống vô thường. Và còn gì đẹp hơn cái Đẹp phô sắc trên những cuống mong manh với sắc lá vẽ màu thời gian đi, trong các đang-trở-thành ở mỗi khoảnh khắc? [15]
5.
Tiếng chuông rơi mở ra một hành trình nhận thức
Tiếng chuông rơi mở ra một hành trình nhận thức
Bay lên thành một hành trình sáng tạo thơ
Hai câu đầu có thể tách thành một đoạn (stanza):
Câu đầu: cho biết các chủ và thuộc từ sau: Trăng - lặn, Quạ - kêu, Trời - đầy sương. Cảnh chưa có người, các thuộc từ khách quan.
Câu hai: Cây phong - ngủ buồn, Lửa thuyền đánh cá - ngủ buồn: các thuộc từ đã nhuốm chủ quan, có người đâu đó đang nhìn, gửi cảm quan của mình (sầu miên) vào cảnh vật vô tình khiến chúng thành hữu tình
Hai câu cuối có thể xem là một đoạn khác.
Trong hai câu thơ đầu …thiên nhiên tự tại, trong đó trăng, hoa, cây cỏ, chỉ là trăng hoa, cây cỏ. Vẫn có đó, trước khi có con người, và mai sau, khi không còn có con người…
Hai câu sau, khi tiếng chuông buông xuống vạn vật, một thế giới văn hóa mở ra, ở đó trăng thành nguyệt, phong thành thu mộng, hoa cỏ thành thơ…Tiếng chuông là biểu tượng của thế giới có văn hóa, đã nhân hóa, Từ tiếng chuông, con người đem cái nhìn của mình chiếu lên vạn vật, làm cho muôn vật sống dậy, mang một ý nghĩa, vạn vật thành vạn pháp. Tiếng chuông từ một hành trình đi tìm giải thoát, đêm nay đã vang đến một hành trình thơ, nâng cánh cho thơ bay lên, giúp người thơ lý giải được những khổ đau của cuộc sống, thấy được vị mặn của đời người. Thế giới của gỗ đá nay thành thế giới của cây và núi. Sông là giòng đời, trăng mờ là chân thực còn ẩn dấu, quạ kêu như nhắc vô minh. Sau tiếng chuông, một thế giới mở ra trong tri kiến giải thoát.
Ba câu thơ, ba bước trên một hành trình: Vật hóa, nhân hóa, văn hóa:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên (1) Vật
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên (2) Vật +Tình = Nhân hóa
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (4) Ẩn một tri kiến giải thoát = Văn hóa.
Tiếng chuông ngân cho biết có một lối giải thích vượt đời. Trăng tàn rồi lại tròn, sương đầy trời rồi mai lại nắng ấm, quạ kêu đêm nay, nhưng chim sẽ hót ngày mai… Sinh trụ, hoại, không, vạn pháp tương khởi, tương sinh, những chuỗi thành trụ hoại không bất tận …Phật giáo, thời Trương Kế, lúc ấy thấm nhuần khắp khắp đất Đường thi, thế tục đã được hiểu là tục lụy, cõi hồng trần đã mang nghĩa trần ai. Những thi nhân lỗi lạc cũng thường là các đạo sư, thiền sư [16]. Thơ thường đề ở chùa, khắc ở đền miếu. Thơ mở ra trên mọi cuộc đời, nếp sống, từ triều đình cho đến thiền viện, từ lầu rồng, gác phụng đến mái chợ bên sông. Thơ có bao giờ tạo được giữa hư không? Nên có tác giả viết “bài này đến tự bài kia” [17].Viết, đọc xây dựng trên nhiều ước định. Làm thơ, đọc thơ là sinh hoạt có tính xã hội. Đường là thời đại mà tư tưởng Phật phát triển, đem nhiều nghĩa mới cho chữ quen, những ẩn dụ, hình tượng thơ được thành hình. Các nghĩa ẩn sau mỗi chữ tin rằng sẽ được chia xẻ, trên những cái-được-viết, cái-nhắn-gửi mong có thể lập lại được. Cho nên Đường là thời hoàng kim của thi ca Tàu
6.
Cấu trúc của PKDB:
Cấu trúc của PKDB:
Ngoại Cảnh
|
Dấu Hiệu (Sign)
|
Ẩn Nghĩa
|
Sông
|
Trăng khuất,quạ kêu, sương đầy trời
bờ phong, lửa chài,
giấc ngủ buồn
|
Danh, Sắc
Vô Minh
|
thành Cô Tô, chùa Hàn San
|
tiếng chuông vọng đến nửa đêm,
|
Sáng Tỏ
|
Sông
|
thuyền.
|
Kiến, Ngộ
|
Cái đẹp,
sự sống |
khách
Nhắn, Gửi
|
Thơ
|
Tiếng chuông đến thuyền tác giả lúc “dạ bán”. Là khoảnh khắc đặc biệt của chu kỳ sinh diệt, ngày cũ vừa qua nhưng vẫn tưởng còn, ngày mới tuy chưa thấy, nhưng đã bắt đầu…Con chim chạm đất [18], chuông không phải chỉ đơn giản vang đến thuyền, vọng đến khách, nhưng “đáo khách thuyền”. Thanh âm giải thoát đến với người. Chữ “đáo” cho cả bài thơ một thiền vị. Lúc ấy, với người trầm tư, hay đang thiền quán, tiếng chuông cũng có thể có tác dụng của tiếng quát, tiếng gậy đập như trong các công án Thiền.
Sông nước mở ra dưới sương mờ, rồi tiếng chuông nửa đêm chiếu lên cảnh vật, sông nước như vẫn là sông nước [19] cũ (nên không nói đến nữa) nhưng trên sông nước ấy, có thơ theo tiếng chuông bay lên …
Từ tâm khách trên thuyền, đã đổi…
Tác giả đang có tâm trạng nào? ông chờ đợi gì? Làm nghề thu đo thuế muối sắt, ông lẫn giữa đám thương hồ. Đêm ấy thuyền buông ở bến Tô Châu, ông không ngủ, vì sao? Trương đang nghĩ gì lúc ấy? hay ông hành thiền quán?
Thi thoại cho biết ông kết bài thơ trên sau khi nghe tiếng chuông. Phải chăng ông đợi một cảm hứng để viết cho trọn bài thơ đã mở sẵn? Hay cảm hứng đến từ tiếng chuông, bài thơ được tạo từ hai câu cuối chính để ngược về hai câu đầu là phần mở, thêm vào cho trọn bài luật thi? Tiếng chuông bất ngờ nửa đêm đã đem thi hứng và đánh thức nguồn sáng tạo cuả thi sĩ. Cảnh có đó, nhưng chưa có tình trọn ý, còn chết, nên chưa có thơ. Chỉ khi tiếng chuông đổ vọng đến thuyền, đem cái kỳ diệu làm bừng tia sáng tạo, Trương vội hạ bút với lòng xúc cảm. Cái xúc cảm ấy ông không san xẻ với người đọc, để chúng ta ngẩn ngơ bâng khâng mãi mãi, tự hỏi đêm khuya trên bến Cô Tô, tiếng chuông Hàn San tự ấy đã đánh lên những sắc màu, âm hưởng gì trong lòng Trương Kế?
Có lẽ Trương cũng không thể biết rõ, ông chỉ “sống” cái giây phút đó, “chứng ngộ” giây phút đó, xong tiếng chuông ngân, trang giấy vội đầy. Tiếng chuông đó ra sao? Lòng Trương nghe thế nào? [21]
Không bao giờ biết được.
Nhưng Trương đã chọn gửi tiếng chuông đến chúng ta [22]
Buông tỏa giữa vô minh, tiếng chuông chuyển kiến ngộ đến thế giới danh sắc cho cả người viết xưa lẫn người đọc ngàn sau.
Đâu đó trong A lại gia thức, thêm những chủng tử sáng …
Hãy lắng nghe tiếng chuông chùa rơi…
… Vẫn vang đến từ chùa Hàn San ở đêm Cô Tô ấy
Lê Dọn Bàn – đọc và tạm dịch
Oct/2002
http://lethachthat.wordpress.com/
[1] Các chữ Hán trong bài: Bạc: bỏ neo, đỗ thuyền, dạ bạc: đỗ thuyền lúc về đêm. Lạc: rơi rụng, mất đi, nguyệt lạc: trăng khuất, bị mất đi, không thấy được (mây che, sương phủ), không nhất định phải có nghĩa là trăng lặn lúc về sáng. (Có lẽ vì hiểu như thế nên cũng có dư luận đặt câu hỏi, về thời gian, sao tác giả mở bài lúc trăng lặn, gần sáng, lại kết thúc bài lúc nửa đêm.) Ô: con quạ, Đề: Kêu, tiếng kêu, ô đề: quạ kêu thành tiếng. Mãn: đầy, (như nước lên đầy tới bờ.), trọn vẹn, toàn khắp (sung mãn) sương mã thiên: sương phủ đầy bầu trời. Giang phong: cây phong, hàng phong, mọc theo bờ sông, phong: (chiết tự: mộc + phong: cây uốn theo gió) cây phong Tàu, theo người sinh trưởng tại vùng này, cho biết tương tự như giống phong (maple) ở Ontario, Canada, nhưng nhỏ cây và nhỏ lá hơn. Ngư hỏa: đèn (hay ánh đèn) của thuyền đánh cá trên sông. Miên: giấc ngủ, sầu miên: giấc ngủ buồn. Dạ bán: nửa đêm, thời khắc đêm bị cắt làm đôi. Chung thanh: tiếng chuông. Đáo: đến, tới nơi, đến khắp (Phật học: đáo bỉ ngạn: sang bờ bên kia, giác ngộ)
[2] Trương Kế: Tự là Ý Tôn, người Tương Châu (tỉnh Hồ bắc). Năm 573, đỗ tiến sĩ đời Đường Huyền Tông, Từng giúp việc trong mạc phủ và làm quan thu đo thuế muối, sắt (diêm thiết phán quan). Cuối đời Đại Lich, Đường Đại Tông, vào triều làm tư bộ viên ngoại lang. Rồi ra coi việc tài phú tại Hồng Châu, mất tại đây. Theo Trần trọng San, Thơ Đường. Toronto: Bắc Đẩu, 1993. p.127.
Trương chỉ làm vài bài thơ, và như chỉ còn bài thơ này được truyền tụng (bài duy nhất của Trương trong tập Đường Thi Tam Bách Thủ - 300 bài thơ đời Đường), nhưng lưu danh thiên cổ vì giai thoại đi kèm.
[3] Phong Kiều: Tên đất ở phía tây huyện Ngô, tình Giang Tô, nay là Tô Châu, gần Hàng Châu, trong vùng đất cổ nhiều di tích lịch sử., châu thổ hạ lưu sông Dương Tử. Cũng là vùng đất Ngô Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc:
Tô châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang nam
(thơ Hồ Dzếnh)
[4] Cô Tô: ở Tô Châu, Đời Đông Chu, vua nước Ngô là Phù Sai, đắp đài cho Tây Thi tại đây. Vua Ngô Hạp Lư xây thành bao quanh Tô Châu, đặt tên là thành Cô Tô (484 B.C.) Con Hạp Lư là Phù Sai có tướng giỏi, đánh thắng rồi thu nước Việt của Câu Tiễn. Câu Tiễn chạy về Cối Kê, theo mưu của Phạm Lãi dùng mỹ nhân kế để phục quốc. Phạm Lãi đem trăm nén vàng đến thôn Trữ La đón hai người đẹp nước Việt là Tây Thi và Trinh Đán về dạy múa, hát. Rồi dâng hai nàng cho Ngô Phù Sai. Phù Sai mê Tây Thi, dựng Cô Tô đài cho nàng. Cô Tô “cao năm trăm trượng rộng bốn mươi tám trượng”. Lại cho xây Ngoạn Nguyệt Trì (hồ ngắm trăng), cất Cầm Đài, chỗ cho nàng đánh đàn, Sơ trang đài cho nàng trang điểm, giếng Nguyệt Tĩnh để làm chỗ nàng tắm. Mê đắm Tây Thi, miệt mài ở Cô Tô đài, Phù Sai bỏ bê chính sự, Tây thi âm thầm lấy tin triều Ngô gửi về cho vua Việt. Cuối cùng Phù Sai bị Câu Tiễn diệt.
Câu Tiễn lấy lại nước, lên ngôi, nhưng Pham Lãi, kẻ minh triết biết luật “hết thỏ, giết chó săn, hết chim, bẻ cung nỏ” nên từ quan, cùng Tây Thi rong chơi Ngũ Hồ rồi biệt tích …
[5] Chùa Hàn Sơn: ngôi chùa nhỏ ở Tô châu. Trong chùa có tranh tượng của hai vị sư Hàn Sơn (Han Shan) và Thập Đắc (Shi De). Chùa lập tự đời Lương (502-557) . Cổ tự đã bị hủy trong loạn Thái Bình Thiên Quốc, ngôi chùa ngày nay mở cửa cho khách du lịch, là chùa mới tân tạo cuối đời Thanh.
Tại địa phương, có truyền tích vẫn truyền tụng về chuông chùa: Kể rằng sau một trận mưa như thác đổ, dân chúng thấy một cái chuông nổi trên sông, trước cửa chùa, va đập vào bờ đá, vang tiếng ngân lạ kỳ. Mọi người ra xem, trong có có Hàn San và Thập Đắc. Tất cả đã cố sức thử mọi cách, nhưng không sao kéo chuông lên được. Thập Đắc bèn cầm gậy tre, nhảy vào chuông, chống mạnh, chuông vụt trôi đi, lạc đi đến một xứ lạ. Lên bờ, được dân xứ này chào đón. Thập Đắc truyền bá Phật pháp tại đây, thỉnh chuông mỗi ngày. Cây gậy chống thành bụi cây tốt tươi.
Ở lại, Hàn San nhớ sư huynh của mình vô cùng, chẳng bao lâu, ông nghe có tiêng chuông và đoán rằng âm thanh đó phát ra từ chiếc chuông Thập Đắc. Hàn San gọi thợ làm một chiếc chuông, là chuông Hàn San, có âm vang rất xa, mỗi khi thỉnh, chuông vọng âm đến chỗ Thập Đắc. Hai người giao cảm bằng cách này.
Cũng theo truyền thuyết, Chỗ Thập Đắc đến là Nhật bản ngày nay.
Nguyễn Tường Bách trong thiên du ký Mùi Hương Trầm, cho biết gốc tích chùa Hàn San:
“Hàn Sơn một cuồng sĩ sống ở khoảng thế kỷ VII, trong hang đá núi Thiên thai, nơi có hòa thượng Tế Điên ở. Trên núi Thiên Thai có chùa Quốc Thanh nổi tiếng, bấy giờ do thiền sư Phong Can trụ trì. Hàn Sơn hay lui tới chùa này, giao du với Thập Đắc. Thập Đắc (lượm được) cũng không khá gì hơn, vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi, được Phong Can lượm đem về chùa nuôi. Thập Đắc quí hàn Sơn, thường thu góp thức ăn, đựng trong một ống tre, cho Hàn Sơn mang đi. Thế nhưng Hàn Sơn không biết thân phận, đã không biết cám ơn chùa mà còn chửi đời. Sách Tống cao tăng truyện viết “Hàn Sơn đi trong hành lang chùa, chốc chốc lại kêu gào chửi bới lăng mạ mọi người, hoặc ngẩng mặt lên trời mà chửi đổng. Các vị sư trong chùa không chịu nổi vác gậy đuổi thì Hàn Sơn lăn lộn, vỗ tay cười hà hà rồi bỏ đi. Quần áo rách bươm, mặt mũi hốc hác, đầu đội mũ bằng vỏ cây hoa, chân kéo lê đôi guốc mộc” Hán Sơn, Thập Đắc thường bá cổ bá vai đi chơi với nhau và cũng thường lui tới chùa Hàn Sơn.
Ngày nọ có vị quan là Lưu Khâu Dẫn đến hỏi Phong Can, ở đây có ai là người hiền? Phong Can là một thiền sư đắc đạo, cảm hóa được cả cọp, đáp: “Có Hàn Sơn tức là Văn Thù, có Thập Đắc tức là Phổ Hiền, dáng dấp của một người nghèo, điệu bộ như người cuồng”. Lưu Khâu Dẫn đến chùa gặp hai vị đó liền cúi lạy vái chào. Các vị sư khác kinh ngạc hỏi “ngài là quan to sao lại cúi lạy kẻ cuồng phu?” Hàn Sơn Thập Đắc cười hà hà nói “Phong Can lắm chuyện!” rồi bỏ đi. Về sau Lư đến tìm thì Hàn Sơn chỉ la lớn “Các người hãy cố gắng” rồi biến mất trong hang để lại nhiều thơ ca. Còn Thập Đắc cũng bỏ đi đâu không ai biết.
Ngày nay hậu thế còn lại Hàn Sơn thi tập do Lưu Khâu Dẫn đề tựa và Đạo Kiều ghi chép, phụ thêm cả thơ Thập Đắc và Phong Can, còn hơn 300 bài gọi chung là Tam Ẩn Tập. Chùa ở Tô Châu nơi hai vị này lui tới, được gọi là Hàn San tự, để nhớ đến vị cuồng sĩ này. Trong chùa có tranh tượng của hai vị”.
(Nguyễn Tường Bách. Mùi Hương Trầm. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2000. p. 263-268.)
[6] Bài dịch này thường được cho là của Tản Đà, nhưng GS Nguyễn Quảng Tuân đính chính trong một bài viết của ông, cho biết tác giả là Nguyễn hàm Ninh. Tuy nhiên bài dẫn của GS, hai câu đầu có khác, xin ghi lại như sau:
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
GS cũng bác bỏ lối giải thích cho giang phong và sầu miên là các địa danh.
(Nguyễn Quảng Tuân. “Đến Hàn San tự để tìm hiểu bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương kế”. CA:nguyệt san Văn học, số 191, tháng 3, 2002)
Trong Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà Vận Văn, toàn tập. Arlington: Sống Mới tái bản tại USA, không ghi năm. Mục Tản Đà Thơ Dịch, không có bài PKDB.
Bài dịch này chuyển thất ngôn tứ tuỵệt thành 6/8 nhưng vẫn không bỏ thể bỏ hai chữ cổ kính Cô Tô và Hàn San. Như tôi phân tích câu thứ 3 của bài PKDB, khi tách ra câu này chỉ còn là một câu văn xuôi. Khi đứng trong bài, ý và vận làm thành tuyệt bút. Người dịch đã phá câu này, vì không thể giữ vận của thất ngôn trong lục bát. Nên hai câu 3-4 đã nhập ý thành hai câu tuyệt tác, có âm hưởng, thi vị riêng mà gần trọn ý. Duy chữ “nghe tiếng chuông” không cùng ý với “chung thanh đáo khách thuyền”. Chữ “đáo” trong nguyên bài là một động từ thể chủ động, trong bản dịch thành thụ động, tiếng chuông đến thuyền, sánh với người trên thuyền nghe tiếng chuông. Chữ “đáo” có thiền vị, đậm đà hơn, chữ nghe không bằng được.
Các bài dịch quen thuộc khác:
Quạ kêu trăng lặn sương rơi
Lửa chài cây bãi đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn
(Trần Trọng Kim)
Quạ kêu sương tỏa trăng lui
Đèn chài cây bến đối người nằm khô
Chùa đâu trên núi Cô Tô
Tiếng chuông đưa đến bên đò canh khuya
( Ngô-Tất-Tố)
Trăng lặn sương mờ nghe tiếng quạ
Lửa chài cây ánh giấc chưa yên
Cô Tô bên mái Hàn sơn tự
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền
(Bùi Khánh Đản)
Quạ kêu trăng lẩn sương trời
Buồn hiu giấc ngủ lửa chài Bến Phong
Đêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
Chùa Hàn Sơn đến thuyền sông Phong Kiều
(Trần Trọng San)
[7] Cũng theo GS Nguyễn Quảng Tuân, chuyện chuông chùa nửa đêm cũng bị các nhà phê bình Tàu ngờ là hư tạo, theo bài viết dẫn trên:
“Hai câu này cũng gây thắc mắc cho người đọc vì vào lúc nửa đêm làm gì có tiếng chuông chùa.Vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Ấu Dương Tu thì cho rằng: "Thi nhân tham cầu hảo cú nhi lý bất thông giả, diệc ngữ bệnh dã" (Nhà thơ vì muốn đặt câu cho hay nên lý không được thông, đó là một ngữ bệnh vậy).
Sô Nghiêu trong quyển Đường thi tam bách thủ độc bản thì cho rằng: "Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương cấu bệnh, vị miễn xuy mao cầu tì". (Người đời sau lấy cớ nửa đêm không có tiếng chuông và cho là một ngữ bệnh, như thế thì chưa tránh khỏi cái thói bới lông tìm vết.)
Diệp Thiếu Uẩn trong Thạch lâm thi thoại lại cho rằng: "Cái công vị thường chí Ngộ trung(3), kim Ngô trung tự thực bán dạ đả chung." (Vì ông không thường tới Ngô trung chứ hiện nay chùa ở đó vào lúc nửa đêm có đánh chuông thật.)
[8] Genette, Gerard. Paratexts: thresholds of intepretation: Có thể xem thi thoại là paratext – gồm tất cả các yếu tố nằm trên “ngưỡng cửa” của thi, văn bản. Lại còn phân ra peritext (lời dẫn, tự, giới thiệu, bạt, nhan đề các chương, chú giải, …) và epitext (phỏng vấn, tiểu sử, tóm lược văn nghiệp, các bài phê bình, nhận xét, phỏng vấn, tóm lược đăng kèm,…) Tất cả không thuộc vào văn bản, nhưng giúp và có ảnh hưởng đến cách đọc, cách tiếp nhận tác phẩm.
[9] Cũng theo Nguyễn Quảng Tuân, bài viết dẫn trên, về sau, nhiều thi sĩ Tàu đều nhắc đến bài thơ này:
“Nhà thơ Lục Du đời Tống trong bài Túc Phong Kiều đã viết:
Thất niên bất đáo Phong Kiều tự
Khách chẩm y nhiên bán dạ chung.
(Bảy năm không tới thăm lại chùa Phong Kiều,
Nằm gối đầu ngủ lại ở đất khách nghe tiếng chuông chùa đánh lúc nửa đêm thấy vẫn y như cũ).
Nhà thơ Tôn Địch cũng đời Tống trong bài Phong Kiều đã viết:
Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự,
Ỷ chẩm do văn bán dạ chung.
(Quạ kêu, trăng lặn, cầu ở bên chùa,
Nằm gối đầu ngủ còn nghe thấy tiếng chuông nửa đêm.)
Nhà thơ Cố Trọng Anh đời Nguyên trong bài Bạc Xương môn đã viết:
Tây phong chỉ tại Hàn San tự,
Trường tống chung thanh giảo khách miên.
(Chỉ tại chùa Hàn San mà gió tây
Đưa xa tiếng chuông tới quấy động giấc ngủ của khách.)
Nhà thơ Cao Khải đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:
Kỷ độ kinh qua ức Trương Kế,
Ô đề nguyệt lạc hựu chung thanh.
(Mấy lần qua Phong Kiều đều nhớ Trương Kế,
Quạ kêu, trăng lặn với tiếng chuông nửa đêm.)
Nhà thơ Văn Trưng Minh đời Minh trong bài Phong Kiều đã viết:
Thủy minh nhân tĩnh Giang thành cô,
Y nhiên lạc nguyệt đề sương ô.
(Nước trong, lòng tĩnh, Giang thành vắng,
Trăng lặn, quạ kêu trong sương vẫn y như cũ.)”
[10] Các âm Hán Việt trong các câu có cú pháp Hán, đẩy người Việt đọc thơ, trước hết, vào một tầng chưa có nhận thức toàn vẹn, nếu so với khi đọc các chữ Việt, hay Việt gốc Hán nhưng theo cú pháp thuần Việt. Thí dụ, khi đọc: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên”, câu này mở ra nhiều lối giải - vì là ngọai ngữ, (hay cổ ngữ) hơn là khi đọc “Trăng lặn, quạ kêu, trời đầy sương”, câu này đến thẳng với nhận thức bằng con đường nhanh, gần hơn – vì là tiếng mẹ. Trong tiến trình nhận thức: đọc - hiểu, câu thơ Hán có thêm một bước, bước chuyển dịch, đọc – lập nghĩa - hiểu. Câu thơ Việt không có bước lập/tìm nghĩa này, nên tiến trình ngắn hơn. Trong bóng tối của các chữ đang-trở-thành-vẹn-nghĩa, các âm Hán Việt có thêm sức-gợi.
Có lẽ vì thế, vẫn có tác giả Việt thích viết thơ Hán Việt, rồi cung cấp bản Việt ngữ của mình liền sau đó. Trong trường hợp này, bài chuyển dịch của tác giả sang Việt ngữ, đóng vai của một trong nhiều bản dịch có thể có. Một trong nhiều lối hiểu có thể xây trên bài thơ chữ Hán.
[11] Peirce, Charles Sanders (1894) What is a Sign? – theo ông, ký hiệu (sign) truyền thông gồm: dấu thay (icon), dấu chỉ (index) và dấu hiệu (symbol)
[12] Điển cố có tác dụng làm mỗi chữ, mỗi âm có thêm rất nhiều chiều dày, tựa trên cái-nhắc-đến để đẩy thêm sức gợi-lên, đem đến ý-tại-ngôn-ngoại. Điển cố là chữ mang theo hành lý ẩn tàng, là những hình thay (icons), hình ảnh thu nhỏ để thay thế cho cái nói về, nhắc đến.
[13] Cuiller, Jonathan. Structuralist poetics. NY: Cornell U Press, 1976. p. 170. Bốn thành tố (factors) trong thơ: Distance and deixis - Organic wholes – Theme and epiphany- Resistance and recuperation.
[15] Trong quyển sách bàn về Thơ, The Dyer's Hand, thi hào W. H. Auden (1907-1973) khuyên khi đọc thơ, bạn phải để cho bài thơ “đọc” bạn (when reading a poem, you must let the poem read you) Bởi mỗi chữ nghĩa trong mỗi chúng ta đều có một dĩ vãng riêng, bài thơ thành một đối thoại giữa nhà thơ và người đọc trong một vũ trụ của ngôn ngữ giữa hai người. Cùng một bài thơ, mỗi người đọc một khác và cùng một người, cũng có nhiều cách đọc, khác nhau theo từng chặng đời.
[16] Nhà Đường (618-906): Thời phát triển mạnh nhất của Phật giáo trên đất Tàu. Thời này, nhiều tông phái ra đời, (trong đó có hai phái Thiền nổi tiếng: Lâm Tế và Tào Động.), nhiều kinh sách được thỉnh (Huyền Trang) và chú dịch, nhiều chùa lớn được xây cất. Thơ Vương Duy trình bày tư tưởng Phật giáo, nên được gọi là Thi Phật, Đại thi hào Bạch cư Dị rất hâm mộ Phật giáo, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ.
[18] Chữ đáo 到: tạo bởi ghép chữ : chí 至 (nghĩa) + đao 刂(âm). Nghĩa nằm ở chữ “chí”: hình con chim chạm, đáp xuống đất…Đáo cho nghĩa của sự đến, đáp xuống đích, tới nơi, đạt được. Đến với chủ ý, không ngẫu nhiên.
[19] Có một vị thiền sư (Thanh Nguyên Duy Tín) khi ngộ đã tuyên bố: Lúc chưa tu ông thấy núi chỉ là núi, sông chỉ là sông. Sau ông nhập đạo tu hành, ông thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Nhưng đến khi giác ngộ, ông lại thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông.
Hay :
Lư sơn yên tỏa Triết giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu
Ðáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lư sơn yên tỏa Triết giang triều
(Lư Sơn - Tô Ðông Pha)
Mù tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến dó luống mơ màng
Ðến rồi, hóa chẳng không gì khác
Mù toả Lô Sơn sóng Chiết Giang.
(Trúc Thiên dịch )
Tô Thức muốn nói về chuyện đi tìm cái Tâm (Tự Tánh).Khi chưa gặp thì thấy thật xa vời, siêu việt, khi gặp rồi thì lại thấy không khác với điều đã biết, cũng chỉ là cái tâm bình thuờng (bình thuờng tâm thị đạo).
Nhưng có phải những gì giữa-các-chữ cũng diễn tả nhiều như chính các chữ? những gì không “nói”cũng bằng những gì “nói”.( “Mais si le langage exprime autant par ce qui est entre les mots que par les mots? Par ce qu’il ne “dit” pas que par ce qu’il “dit”) - Merleau-Ponty.
[21] Khác với phê bình cổ điển quen thuộc; trong đó có mọi cố gắng nhằm tìm cho được chủ đích, tư tưởng, đại ý,… của tác giả. (Lối phê bình chịu ảnh hưởng của truyền thống diễn dịch kinh thánh tây phương; tìm ý tác giả như tìm thánh ý sau lời kinh, phê bình là diễn dịch (intepretation) – lấy ra cái ý mà tác giả đã đưa vào - ). Khi tuyên bố cái chết của tác giả, quan niệm tác giả là kẻ tạo văn bản từ không, là gốc, là kẻ thai nghén, là cha đẻ, …đã bị thay thế bằng quan niệm “tác giả” chỉ cũng là một sản phẩm, một phần vụ trong quá trình viết (“deconstructing" the idea that the author is the origin of something original, and replacing it with the idea that the "author" is the product or function of writing, of the text.)
Thi sĩ, tác giả, như con tằm nhả tơ, nhưng không tạo ra tơ. Tơ đến từ mây trắng, dâu xanh, rồi tay ngà đưa hoa văn cổ truyền vào khung dệt,…
Nay, khi “tác giả đã chết“ (Foucault & Barthes), cái ý gửi (context) đã được tách riêng, và xem không hoàn toàn là của tác giả, thi sĩ được lui vào hậu trường. Còn văn bản và người đọc.
[22] Theo Jakobson, ngôn ngữ có 6 chức năng, trong đó chức năng thơ (poetic function) là một. Đọc thơ là nhận lời nhắn của người gửi thi sĩ.
Theo ông, tất cả các hình thái của ngôn ngữ truyền thông; từ người nói, gửi đến người nghe, nhận; đều thưc hiện ít nhất một trong các chức năng sau: nhắc-đến cái gì, với xúc-cảm, để giao tiếp, để nghe nhận, bằng hệ thống ký hiêu – ngôn ngữ chung, và trong thông điệp có chất-thơ (all instances of language fulfil at least one of the six functions: the referential, the emotive, the phatic, the conative, the metalingual, and the poetic). Jakobson cũng nhấn mạnh suy nghĩ về thơ là “the linguistic study of the poetic function in the context of verbal messages in general and in poetry in particular”.
Mỗi khi phát ngôn (in every speech act:
“The addresser sends a message to the addressee. To be operative the messgage requires a context referred to, seizable by the addressee, and either verbal or capable of being verbalized; A code fully or at least partially, common to the addresser and the addressee; and, finally, a contact, a physical chanel and psychological connection between the addresser and the addressee, enabling both of them to enter and stay in communication.’ (Jakobson, Roman. “Linguistics and Poetic”, in Style in language, ed. T. Sebeok, MIT Press, Cambrige, 1960, p. 353)
Trong bài thơ trên :
1) Tiếng chuông chùa Hàn San là context, cả bài thơ chỉ còn là một tiếng chuông buông giữa nửa đêm trên bến Cô Tô.
2) Cái ẩn dấu, code (để giải mã) trong = [ “Cô Tô” + ”Hàn San” + “dạ bán”+ “thanh chung” + “đáo”]
3) Cái nền giao cảm, contact hay gọi cho rõ hơn trong bài PKDB là the medium of contact, cái nền chung cho sự giao cảm là ở trong sự hiểu biết của người đọc về các dật sử do địa danh vùng Tô Châu mang lại; Cô Tô, Hàn San. Thiếu sự hiểu biết phải có này, là mất contact, bài thơ mất đi nhiều chất-gợi, cho nên bài thơ luôn đi với thi thoại của nó đã kể lại trên.
Trong một ngôn ngữ ở ngoài quĩ đạo văn hóa Tàu và thiếu chiều dày Phật giáo, bài thơ dễ trở nên nhạt nhẽo, khó gợi được những điều như chúng ta, người Việt (hay Hàn, Nhật) cảm nhận. Dịch sang Anh, Pháp ngữ, thường có bốn câu văn xuôi vô cảm. Cái contact đã bị mất, cái code đã bị lạc khi sang một văn hóa lạ. Đó cũng là hiện tượng chung khi dịch thơ.
(A Night-Mooring Near Maple Bridge
While I watch the moon go down, a crow caws through the frost;
Under the shadows of maple-trees a fisherman moves with his torch;
And I hear, from beyond Suzhou, from the temple on Cold Mountain,
Ringing for me, here in my boat, the midnight bell
Với thiên nhuệ thi hào, Tản Đà đã thu gọn tất cả [context + code+ contact] rồi chuyển lại tất cả trong:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Tôi không thể làm hơn, đành để nguyên các âm cổ kính!
“Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự”
Chuông vọng đến thuyền lúc nửa đêm.