Friday, August 22, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (05)

 Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 David Hume

( ← ... tiếp theo )

 








MỤC III.

 

Về Công Lý.

 

PHẦN II.

 

M 3.22, SBN 192

Nếu chúng ta xem xét những luật lệ cụ thể, vốn chúng hướng dẫn công lý và quyết định quyền sở hữu tài sản; chúng ta vẫn sẽ đi đến kết luận tương tự: phúc lợi của loài người là đối tượng duy nhất của tất cả những luật lệ và quy định này. Việc phân chia tài sản của con người thì không chỉ là cần thiết cho hòa bình và lợi ích của xã hội, nhưng những quy luật vốn chúng ta tuân theo khi phân chia tài sản cũng là những quy luật được trù tính, sắp xếp tốt nhất để phục vụ tốt hơn cho lợi ích của xã hội.

 

M 3.23, SBN 192-3

Chúng ta sẽ giả định rằng một sinh vật, được phú cho lý trí nhưng lại không quen thuộc với bản chất con người, tự cân nhắc xem QUY LUẬT nào về công lý hay sở hữu tài sản sẽ thúc đẩy tốt nhất hữu ích công cộng và thiết lập hòa bình và an ninh giữa loài người: Suy nghĩ rõ ràng nhất của người này sẽ là những tài sản lớn nhất cho đức hạnh cao quý nhất, và cung cấp cho mỗi người đủ phương tiện hay nguồn lực để làm điều thiện, tương xứng với khuynh hướng của họ. Trong một chế độ thần quyền toàn hảo, nơi một thực thể, vô cùng thông minh, cai trị bằng những ý chí cụ thể, quy luật này chắc chắn sẽ có chỗ đứng và có thể phục vụ cho những mục đích sáng suốt nhất: Nhưng nếu loài người thực thi một luật như vậy; sự không chắc chắn về công trạng quá lớn, cả từ sự mơ hồ tự nhiên của nó, và từ sự tự phụ của mỗi cá nhân, đến nỗi sẽ không bao giờ có quy luật ứng xử xác định nào xuất phát từ nó; và sự tan rã hoàn toàn của xã hội phải là hậu quả ngay lập tức. Những người cuồng tín tôn giáo có thể tuyên bố rằng quyền lực nằm ở ân huệ Gót ban cho, và chỉ có những người đức hạnh hay được Gót chọn mới có quyền cai trị thế gian; nhưng chính quyền dân sự lại đối xử đúng mực với những nhà lý thuyết cao siêu như vậy, (coi họ) chẳng khác với những trộm cướp tầm thường, bởi vì nếu được dung túng, tham vọng của họ sẽ đe dọa trật tự xã hội nghiêm trọng không kém gì cướp bóc thực sự. Với kỷ luật nghiêm khắc nhất, luật pháp dạy rằng một nguyên lý tưởng chừng như có lợi nhất trên lý thuyết, nhưng trên thực tế, lại có thể hoàn toàn độc hại và hủy diệt. [1]

 

M 3.24, SBN 193

Chúng ta biết từ lịch sử rằng trong thời kỳ nội chiến ở nước Anh, đã tồn tại những kẻ cuồng tín tôn giáo thuộc loại này; mặc dù có lẽ khuynh hướng rõ ràng của những nguyên lý này đã gây ra kinh hoàng đến mức buộc những phần tử cuồng tín nguy hiểm phải từ bỏ hay ít nhất là che giấu những tín điều của họ. Có lẽ, nhóm Bình Đẳng (Levellers) [2], những người đòi hỏi một sự phân phối tài sản bình đẳng, là một dạng cuồng tín chính trị, phát sinh từ loại cuồng tín tôn giáo, và công khai tuyên bố những yêu sách của họ rõ ràng hơn; bởi chúng mang vẻ ngoài khả thi hơn trong thực tế, cũng như có ích cho xã hội loài người.

 

M 3.25, SBN 193-4

Thật vậy, phải thú nhận rằng thiên nhiên rất rộng rãi với loài người, rằng nếu tất cả những gì thiên nhiên ban cho được chia đều cho tất cả loài người, và được cải thiện bằng tài năng và cần cù, mỗi cá nhân sẽ được hưởng không chỉ tất cả những nhu cầu thiết yếu, nhưng còn hầu hết những tiện nghi của đời sống; sẽ không ai phải chịu bất kỳ bất hạnh nào, ngoại trừ những bất hạnh xảy ra do bệnh tật hay thể chất yếu ớt. Cũng phải nhìn nhận rằng, bất cứ nơi nào sự bình đẳng bị phá vỡ, chúng ta cướp đi của người nghèo sự đáp ứng nhiều hơn là mang lại cho người giàu, và rằng sự thỏa mãn nhỏ nhoi của một thói kiêu ngạo vô nghĩa ở một cá nhân thường tốn kém hơn cả bánh mì nuôi sống nhiều gia đình, thậm chí là trọn cả nhiều tỉnh thành. Tuy nhiên, có vẻ như nguyên tắc bình đẳng (thực hành làm cho tài sản và hữu ích của mọi người càng bình đẳng càng tốt), mặc dù rất hữu ích, không phải là hoàn toàn không thể thực hiện được; thực tế, nó đã xảy ra, ít nhất là ở một hình thức hạn chế, ở một số nước cộng hòa – đặc biệt là ở Sparta – nơi mà người ta nói rằng, nó đã tạo ra những kết quả rất thuận lợi. Chưa kể, những luật lệ về ruộng đất (luật được thiết kế để phân phối lại đất đai bình đẳng hơn cho công dân), thường được tuyên bố ở Rome và được thực thi ở nhiều thành phố Greece, đều dựa trên một ý tưởng tổng quát về sự hữu ích của nguyên lý này. [3]

 

M 3.26, SBN 194

Nhưng những nhà sử học, và ngay cả kiến thức thực tiễn thông thường con người, có thể cho chúng ta biết rằng, dù những ý tưởng này về sự bình đẳng toàn hảo thoạt nhìn có vẻ hấp dẫn hay hơp lý đến đâu thì cuối cùng vẫn không thể đưa vào thực tiễn; và nếu như chúng đã không như thế, chúng tất đã gây cực kỳ tai hại cho xã hội loài người. Dù cho tài sản được phân chia bình đẳng đến đâu, sự khác biệt về tài năng, sự chăm chỉ và cần cù của con người sẽ ngay lập tức phá vỡ sự bình đẳng đó. Hay nếu những đức hạnh này bị ngăn cản, để thực thi bình đẳng, xã hội sẽ bị sẽ đẩy xuống mức nghèo đói cùng cực; và thay vì ngăn chặn sự thiếu thốn của một số ít người, sự thiếu thốn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng. Ngay cả tòa án khắt khe nhất cũng cần thiết để theo dõi mọi bất bình đẳng ngay từ khi nó xuất hiện; và một hệ thống pháp lý nghiêm ngặt nhất để trừng phạt và sửa chữa nó. Tuy nhiên, quyền lực tập trung như vậy sẽ nhanh chóng biến thành bạo ngược và được áp dụng một cách bất công. Ai có thể nắm giữ quyền lực như vậy? Sự bình đẳng hoàn hảo sẽ phá hủy hệ thống phân cấp, làm suy yếu đáng kể quyền lực của chính quyền dân sự và khiến quyền lực của mọi người gần như ngang nhau, gần như không khác gì quyền sở hữu của bất kỳ ai khác. [4]

 

M 3.27, SBN 194-5

Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng, để thiết lập luật lệ điều chỉnh về sở hữu tài sản, chúng ta phải hiểu rõ bản chất và hoàn cảnh thực tế của con người; không được để những ý tưởng hấp dẫn nhưng sai lầm đánh lừa; và thay vào đó, phải tìm kiếm những quy luật nhìn chung, hữu íchcó lợi nhất.. Lý trí thông thường và một chút kinh nghiệm thực tế là đủ cho mục đích này; miễn là con người không sa vào tham lam quá mức hay cuồng tín thái quá.

 

M 3.28, SBN 195

Chẳng hạn, ai không thấy rằng bất cứ gì được tạo ra hay cải thiện nhờ tài năng và công sức của một người đều phải được bảo đảm thuộc về người đó mãi mãi, nhằm khuyến khích tập quán và thành tựu hữu ích như vậy? Rằng tài sản cũng nên được truyền lại cho con cháu và họ hàng, vì cùng mục đích hữu ích đó? Rằng tài sản có thể được chuyển nhượng với sự đồng thuận, để thúc đẩy thương mại và giao lưu, vốn mang lại hữu ích to lớn cho xã hội loài người? Và rằng tất cả những hợp đồng và lời hứa đều phải được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, để bảo đảm sự tin tưởng và tín nhiệm lẫn nhau nhờ đó lợi ích chung của nhân loại được thúc đẩy mạnh mẽ?

 

M 3.29, SBN 195

Hãy xem xét những tác giả viết về luật pháp tự nhiên: và chúng ta sẽ luôn thấy rằng, cho dù họ bắt đầu với nguyên lý nào, cuối cùng họ chắc chắn sẽ dừng lại ở đây, và lấy sự hữu ích và những nhu cầu của loài người làm lý do tối hậu, gán cho mọi quy luật vốn họ thiết lập. Một sự nhượng bộ như thế được đưa ra, để chống lại chính hệ thống của nó, có sức nặng nhiều hơn so với việc nếu nó được đưa ra để bảo vệ hệ thống đó.

 

M 3.30, SBN 195

Thật vậy, những nhà tư tưởng có thể đưa ra lý do nào khác để giải thích tại sao cái này phải là của tôi và cái kia phải là của bạn; Bởi lẽ, trong trạng thái tự nhiên, chưa được giáo dục, bản chất không hề tạo ra sự phân biệt như vậy? Những đối tượng mà chúng ta gọi là “của tôi” hay “của bạn”, vốn dĩ tách biệt với chúng ta, không có bất kỳ quyền sở hữu hoặc liên hệ nào với bất kỳ cá nhân nào. Chỉ qua nhưng quy luật tổng quát, thỏa thuận với nhau và lợi ích của xã hội, những phân biệt này mới có ý nghĩa và được công nhận. Nói cách khác, quyền sở hữu không phải là sản phẩm của tự nhiên, nhưng là một phát minh xã hội được thiết kế để thúc đẩy trật tự, hợp tác và lợi ích chung.

 

M 3.31, SBN 195-6

Đôi khi, lợi ích của xã hội có thể đòi hỏi một quy luật của công lý trong một trường hợp cụ thể; nhưng có thể không xác định rõ được bất kỳ quy luật cụ thể nào, trong số nhiều quy luật, vốn tất cả chọn lựa đều có hữu ích ngang nhau. Trong những trường hợp đó, những sự tương đồng nhỏ nhặt nhất cũng được nắm giữ để định hướng quyết định, tránh lầm lẫn và do dự, vốn sẽ là nguồn gốc của sự tranh chấp liên miên. Thế nên, quyền sở hữu riêng, hay quyền sở hữu đầu tiên, chỉ cần sở hữu hay chiếm hữu một gì đó, là đủ để xác lập quyền sở hữu với nó, khi không ai khác có quyền ưu tiên hay yêu sách trước đó. Nhiều lập luận pháp lý dựa trên loại lý luận này, tùy thuộc vào những liên hệ hay so sánh rất nhỏ, thay vì những nguyên tắc nghiêm ngặt hay phổ quát.

 

M 3.32, SBN 196

Trong những trường hợp đặc biệt, liệu có ai ngần ngại vi phạm mọi sự tôn trọng với tài sản riêng của cá nhân và hy sinh vì hữu ích công cộng một sự phân biệt vốn được thiết lập vì chính hữu ích đó không? Sự an toàn của dân chúng là luật tối cao: Mọi luật lệ riêng biệt khác đều phải tuân theo và tùy thuộc vào nó: Và nếu, trong tiến trình tổng quát trình thông thường của sự việc, chúng được tuân theo và tôn trọng; đó chỉ là vì sự an toàn và hữu ích thông thường đòi hỏi một sự thi hành công bằng và vô tư như vậy.

 

M 3.33, SBN 196

Đôi khi cả Hữu ích lẫn loại suy tương tự đều thất bại, và để lại những luật công lý trong tình trạng hoàn toàn bất định. Do đó, việc sở hữu lâu dài hay thời hạn chuyển giao tài sản là hết sức cần thiết; nhưng số ngày, tháng hay năm nào là đủ cho mục đích đó thì lý trí một mình không thể xác định được. Luật dân sự ở đây thay thế cho bộ luật tự nhiên, và quy định những thời hạn khác nhau cho thời hiệu, tùy theo những sự Hữu ích khác nhau do nhà lập pháp đề ra. Hối phiếu và giấy cam kết, theo luật của hầu hết những quốc gia, có thời hiệu ngắn hơn trái phiếu, thế chấp, và những hợp đồng có tính chất trang trọng hơn.

 

M 3.34, SBN 196-7

Trong tổng quát, chúng ta có thể quan sát rằng, tất cả những vấn đề về quyền sở hữu tài sản đều tùy thuộc vào thẩm quyền của luật dân sự, vốn mở rộng, hạn chế, điều chỉnh và thay đổi những quy luật của công lý tự nhiên, tùy theo sự thuận tiện cụ thể của mỗi cộng đồng. Những luật pháp có, hay lẽ ra nên có, một sự tham chiếu thường xuyên đến hiến pháp của chính phủ, những tập quán, khí hậu, tôn giáo, thương mại, và hoàn cảnh của mỗi xã hội. Một tác giả vừa mới qua đời, thiên tài với học thức uyên bác, đã nghiên cứu vấn đề này toàn diện, và đã thiết lập, từ những nguyên tắc này một hệ thống tri thức chính trị, vốn phong phú với những tư tưởng tài tình và xuất sắc, và không thiếu nền tảng vững chắc [12]. [5]

 

M 3.35, SBN 197-8

Tài sản của một người là gì? Bất cứ gì vốn người đó, và chỉ mình người đó, được phép dùng một cách hợp pháp. Nhưng chúng ta có quy luật nào để phân biệt những đối tượng này? Ở đây, chúng ta phải viện đến những quy chế, tập quán, tiền lệ, phép so sánh và hàng trăm hoàn cảnh khác; một số trong đó là cố định và cứng nhắc, một số khác thì thay đổi và tùy tiện. Nhưng điểm cuối cùng, vốn tất cả đều công khai hướng tới, chính là hữu ích và hạnh phúc của xã hội loài người. Nếu điều này không đưa vào xem xét, không gì có thể xuất hiện kỳ quặc, phản tự nhiên,, và ngay cả là mê tín hơn tất cả hay hầu hết những luật lệ về công lý v và quyền sở hữu tài sản.

 

M 3.36, SBN 198

Những người chế giễu những mê tín thông tục, và vạch trần sự điên rồ trong việc đặc biệt chú trọng đến thịt, ngày tháng, địa điểm, tư thế, trang phục, thì có một nhiệm vụ dễ dàng; trong khi họ xem xét tất cả những phẩm tính và quan hệ của những đối tượng, và không tìm thấy lý do chính đáng nào cho sự yêu mến hay ác cảm, sự tôn kính hay sự kinh hoàng đó, vốn chúng có ảnh hưởng rất lớn đến một bộ phận đáng kể của loài người. Một người Syria thà chết đói chứ không nếm thịt bồ câu; một người Egypt sẽ không đến gần thịt lợn muối: Nhưng nếu những loại thức ăn này được những giác quan thị giác, khứu giác, hay vị giác xem xét , hay được những khoa học hóa học, y học, hay vật lý học nghiên cứu kỹ lưỡng; không bao giờ tìm thấy sự khác biệt nào giữa chúng và bất kỳ loại khác, cũng không thể cho thấy hoàn cảnh chính xác nào có thể cung cấp một nền tảng chính đáng cho cảm xúc tôn giáo đó. Một con gia cầm vào thứ Năm là thức ăn hợp pháp; vào thứ Sáu là thứ đáng ghê tởm: Trứng, trong ngôi nhà này, và trong giáo phận này, được phép trong Mùa Chay; xa hơn một trăm bước, ăn chúng là một tội lỗi đáng nguyền rủa. Mảnh đất hay tòa nhà này, ngày hôm qua là phàm tục; ngày nay, nhờ lẩm bẩm những thì thầm nào đó, nó đã trở nên thiêng liêng và thánh thiện. Những suy tưởng như vậy, khi được một triết gia phát biểu, người ta có thể nói một cách an toàn, là quá rõ ràng để có thể gây nhiều ảnh hưởng; vì chúng phải tự nhiên xuất hiện với mọi người ngay từ cái nhìn đầu tiên. Và bất cứ nơi nào chúng không thể tự thân chiếm ưu thế, thì trở ngại này phát sinh không phải từ sự thiếu hiểu biết hay lỗi lầm, mà từ sức mạnh của giáo dục, thành kiến và cảm xúc, không phải bởi thiếu hiểu biết hay sai lầm. [6]

 

M 3.37, SBN 198-9

Có thể với một cái nhìn thiếu cẩn trọng, hay đúng hơn là một sự suy nghĩ quá mơ hồ trừu tượng, rằng như có một sự mê tín tương tự thâm nhập vào tất cả những tình cảm của chúng ta về công lý; và rằng, nếu một người xem xét đối tượng của công lý, hay nhữngchúng ta gọi là tài sản, bằng sự soi xét tỉ mỉ nhất của lý trí và giác quan, người này cũng sẽ không tìm thấy bất kỳ cơ sở nào cho sự khác biệt do tình cảm đạo đức tạo ra. Tôi có tự nuôi sống hợp pháp từ cây này; nhưng quả của một cây khác cùng loài, cách đó mười bước, thì tôi sẽ phạm tội nếu chạm vào. Nếu tôi mặc bộ đồ này một giờ trước, tôi đã đáng bị trừng phạt nghiêm khắc nhất; nhưng một con người, bằng cách nói ra một vài âm ma thuật, giờ đã biến nó thành phù hợp để tôi dùng và phục vụ. Nếu ngôi nhà này nằm trên lãnh thổ láng giềng, tôi sẽ bị coi là vô đạo đức nếu sống trong đó; nhưng vì nó được xây dựng ở phía bên này sông, nó chịu sự chi phối của một luật lệ địa phương khác, và khi nó trở thành của tôi, tôi không hề bị chỉ trích hay lên án nào. Người ta có thể dễ dàng nghĩ rằng, lý luận rõ ràng phơi bày mê tín cũng có thể được áp dụng cho công lý; nhưng trong cả hai trường hợp, chúng ta đều không thể cho thấy bất kỳ phẩm tính cụ thể nào trong chính đối tượng đó để giải thích nguồn gốc của tình cảm này.

 

M 3.38, SBN 199

Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng giữa mê tíncông lý: mê tín thì phù phiếm, vô dụng và gây phiền toái, trong khi công lý lại hoàn toàn cần thiết cho phúc lợi của loài người và sự bảo tồn của xã hội. Khi chúng ta tách khỏi hoàn cảnh này (vì nó quá rõ ràng để có thể bỏ qua) thì phải thú nhận rằng, tất cả những khái niệm của chúng ta về quyền và tài sản, khi xem xét một cách độc lập, dường như cũng vô căn cứ như mê tín thô thiển và tầm thường nhất. Nếu lợi ích của xã hội không được quan tâm, thì thật khó có thể hiểu được, tại sao việc người khác phát âm một số âm thanh ngụ ý sự đồng ý, lại có thể thay đổi bản chất những hành động của tôi với một đối tượng cụ thể, cũng như tại sao việc một thày chăn chiên đọc một kinh phụng vụ, trong một trang phục và tư thế nhất định, lại có thể biến một đống gạch và gỗ thành một gì đó vĩnh viễn linh thiêng..[13].

 

M 3.39, SBN 200-1

Những suy ngẫm này hoàn toàn không làm suy yếu những nghĩa vụ của công lý, hay hạ thấp bất cứ gì từ sự tôn trọng thiêng liêng nhất với quyền sở hữu. Ngược lại, những tình cảm như vậy phải có được sức mạnh mới từ lập luận hiện tại. Vì còn nền tảng nào vững chắc hơn để mong muốn hay hình dung cho bất kỳ bổn phận nào, hơn là việc nhận thấy rằng xã hội loài người, hay ngay cả bản chất con người, không thể hiện hữu nếu nếu thiếu sự thiết lập nghĩa vụ đó? Và xã hội sẽ càng đạt được những mức độ hạnh phúc và hoàn thiện cao hơn, nếu sự tôn trọng với nghĩa vụ đó càng được coi trọng và bất khả xâm phạm?

 

M 3.40, SBN 201

Tình thế tiến thoái lưỡng nan này dường như hiển nhiên: Vì công lý rõ ràng có khuynh hướng thúc đẩy hữu ích công cộng và hỗ trợ xã hội dân sự, nên tình cảm về công lý, hoặc xuất phát từ suy ngẫm của chúng ta trên khuynh hướng đó, hoặc giống như đói, khát và những thèm muốn khác, oán giận, yêu đời, gắn bó với con cái và những tình cảm khác, phát sinh từ một bản năng đơn giản nguyên thủy trong lòng con người, vốn thiên nhiên đã gieo mầm để phục vụ những mục đích tốt lành như vậy. Nếu trường hợp sau là đúng, thì tài sản, vốn là đối tượng của công lý, cũng được phân biệt bởi một bản năng nguyên thủy đơn giản và không được bất kỳ lập luận hay suy ngẫm nào xác định. Nhưng có ai đã từng nghe nói về một bản năng như vậy không? Hay đây có phải là một đề tài vốn chúng ta ta có thể khám phá ra điều gì mới trong nó? Chúng ta cũng có thể hy vọng để tìm thấy, trong cơ thể con người, một giác quan hoàn toàn mới nào đó, vốn trước đến giờ, vẫn thát khỏi sự quan sát của tất cả loài người, thì mới hợp lý hơn.

 

M 3.41, SBN 201-2

Nhưng hơn nữa, dù nghe có vẻ đơn giản khi nói rằng thiên nhiên, qua một một tình cảm bản năng, phân biệt được quyền sở hữu tài sản, nhưng trên thực tế, chúng ta sẽ thấy rằng cần có hàng chục nghìn bản năng khác nhau cho mục đích đó, và những bản năng này được đem dùng trên những đối tượng cực kỳ phức tạp và tế nhị nhất. Vì khi cần một định nghĩa về quyền sở hữu tái sản, quan hệ này lại được chia nhỏ thành nhiều hình thức chiếm hữu khác nhau: chiếm hữu bằng sự chiếm đóng, bằng lao động, bằng quy ước thời hiệu, bằng thừa kế, bằng hợp đồng, v.v.. Liệu chúng ta có thể nghĩ rằng thiên nhiên, bằng một bản năng nguyên thủy, đã hướng dẫn chúng ta trong tất cả những phương thức chiếm hữu này?

 

M 3.42, SBN 202

Những từ ngữ này cũng vậy, thừa kếkhế ước, tượng trưng cho những ý tưởng vô cùng phức tạp; và để định nghĩa chúng cho chính xác, cả trăm bộ luật và cả ngàn tập bình luận, đều thấy không đủ. Có phải thiên nhiên, với những bản năng đều đơn giản trong con người, có chấp nhận những đối tượng phức tạp và giả tạo như vậy, và tạo ra một sinh vật có lý trí, nhưng không tin tưởng bất cứ gì vào hoạt động của lý trí?

 

M 3.43, SBN 202

Nhưng ngay cả khi tất cả sự việc này được nhìn nhận, nó vẫn không thỏa đáng. Luật pháp tích cực [những quy luật do con người đặt ra, khác với luật tự nhiên] chắc chắn có thể chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản. Nhưng liệu chúng ta có một bản năng nguyên thủy khác để công nhận quyền lực của vua chúa và Thượng viện, và xác định mọi ranh giới quyền tài phán của họ? Thậm chí những quan tòa, dù phán quyết của họ có sai lầm hay trái luật, vẫn phải được công nhận quyền quyết định cuối cùng về tài sản, vì hữu ích của hòa bình và trật tự xã hội. Liệu chúng ta có những ý niệm nguyên thủy, bẩm sinh về những prætor, những chưởng ấn và bồi thẩm đoàn? Ai vốn không thấy rằng tất cả những thể chế này đơn thuần xuất phát từ những nhu cầu tất yếu của xã hội loài người?

 

M 3.44, SBN 202

Tất cả những loài chim cùng giống, ở mọi thời và đất ước, đều xây tổ của chúng giống nhau: Ở đây, ta thấy sức mạnh của bản năng. Con người, ở những thời đại và địa điểm khác nhau, lại xây dựng nhà ở của họ, theo những cách khác nhau: Ở đây, ta thấy ảnh hưởng của lý trí và phong tục. Ta có thể nêu lên một suy luận tương tự khi so sánh bản năng sinh sản và thể chế của sở hữu tài sản.

 

M 3.45, SBN 202-3

Dù cho có sự đa dạng lớn đến đâu trong những bộ luật địa phương, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng những đường nét chủ yếu của chúng khá giống nhau; bởi vì mục đích mà chúng hướng tới ở mọi nơi đều hoàn toàn giống nhau. Tương tự như vậy, tất cả những ngôi nhà đều có mái và tường, cửa sổ và ống khói; mặc dù hình dạng, kiểu dáng và chất liệu có thể rất khác nhau. Mục đích của những ngôi nhà, hướng tới sự tiện nghi của đời sông con người, không rõ ràng hơn về nguồn gốc từ lý trí và sự suy ngẫm so với mục đích của những bộ luật, tất cả đều hướng tới một kết cục tương tự.

 

M 3.46, SBN 203

Tôi không cần phải đề cập đến những biến thể mà tất cả những quy luật về quyền sở hữu nhận được từ những chi tiết tinh tế và những mối liên kết của trí tưởng tượng, cũng như từ những phức tạp và trừu tượng của những chủ đề và lý luận pháp lý. Không có khả năng nào để hòa hợp quan sát này với khái niệm về những bản năng nguyên thủy.

 

M 3.47, SBN 203

Điều duy nhất có thể gây ra sự hoài nghi về lý thuyết vốn tôi nhấn mạnh, chính là ảnh hưởng của giáo dục và những tập quán đã hình thành, qua đó chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc lên án sự bất công đến mức không phải lúc nào chúng ta cũng ý thức được những hậu quả tai hại trực tiếp của nó. Chính vì lý do đó, những quan điểm quen thuộc nhất với chúng ta thường dễ dàng bị bỏ qua; và những gì chúng ta thường xuyên thực hiện vì những động cơ nhất định, thì chúng ta cũng dễ dàng tiếp tục một cách máy móc, vốn không hề nhớ lại, trong mọi trường hợp, những suy ngẫm đã quyết định chúng ta ban đầu. Sự hữu ích, hay đúng hơn là sự cần thiết, dẫn đến công lý, mang tính phổ quát, và ở khắp mọi nơi đều hướng đến cùng một quy luật, đến mức tập quán này hiện hữu trong mọi xã hội; và không thể thiếu sự xem xét kỹ lưỡng, chúng ta mới có thể xác định được nguồn gốc thực sự của nó. Tuy nhiên, vấn đề không đến nỗi mơ hồ, vốn ngay cả trong đời sống thường nhật, chúng ta luôn phải viện đến nguyên lý hữu ích công cộng và tự hỏi: Thế giới sẽ ra sao nếu những thực hành như vậy vẫn tiếp diễn? Làm sao xã hội có thể hiện hữu trong những rối loạn như vậy? Liệu sự phân biệt hay phân chia tài sản có hoàn toàn vô ích không, có ai có thể hình dung được rằng nó từng hiện hữu trong xã hội không?

 

M 3.48, SBN 203-4

Như vậy, nhìn chung, chúng ta dường như đã hiểu được sức mạnh của nguyên lý được nhấn mạnh ở đây, và có thể xác định mức độ tôn trọng hay chấp thuận về mặt đạo đức có thể đạt được từ những suy ngẫm về hữu ích và sự hữu ích của công chúng. Sự cần thiết của công lý để hỗ trợ xã hội là nền tảng DUY NHẤT của đức hạnh đó; và vì không có phẩm tính đạo đức nào được coi trọng hơn, chúng ta có thể kết luận rằng, nhìn chung, sự hữu ích này có năng lượng mạnh mẽ nhất và chi phối hoàn toàn nhất đến tình cảm của chúng ta. Do đó, nó phải là nguồn gốc của một phần đáng kể công lao được gán cho lòng nhân đạo, lòng từ thiện, tình thân thiện, tinh thần cộng đồng và những đức hạnh xã hội khác của dấu ấn đó; cũng như nó là nguồn gốc DUY NHẤT của sự chấp thuận về mặt đạo đức dành cho lòng trung thành, công lý, sự chân thật, sự chính trực, và những phẩm tính và nguyên lý đáng quý và có lợi khác. Hoàn toàn phù hợp với những quy luật của triết học, và ngay cả của lý trí thông thường; khi bất kỳ nguyên lý nào được tìm ra có sức mạnh và năng lượng lớn trong một trường hợp, thì việc gán cho nó một năng lượng tương tự trong tất cả những trường hợp tương tự là hoàn toàn phù hợp. Đây thực sự là quy luật chính của triết học Newton[14].

 

-----------------------------------------------------------------------

 

M 3.5n10, SBN 184

1.       Genesis, chap. xiii. and xxi.

M 3.15n11

2.       Xem GHI CHÚ [S].

 

M 3.15n11.1, SBN 189-90

HƯ CẤU này về một trạng thái của tự nhiên, như một trạng thái của chiến tranh, đã không phải do Hobbes đưa ra đầu tiên, như thường đã tưởng. Plato đã cố gắng bác bỏ một giả thuyết rất giống nó, trong Republic, quyển thứ 2, 3 và 4 . Ngược lại, Cicero giả định rằng nó thì chắc chắn và công nhận rộng rãi trong đoạn văn sau. 'Ai trong những ngài, thưa những quan tòa, không biết rằng bản chất của sự vật đã khiến cho vào một thời điểm nào đó, con người, khi chưa có luật pháp tự nhiên hay dân sự, bị phân tán khắp những cánh đồng và sống lang thang, chỉ sở hữu những gì họ có thể cướp hoặc giữ lại bằng tay và sức mạnh, qua giết chóc và gây thương tích? Vậy thì, những người đầu tiên với đức hạnh và trí tuệ xuất chúng đã nhìn thấy được bản chất dễ dạy và thông minh của loài người, tập hợp những người bị phân tán này vào một nơi, và đưa họ từ sự dã man đó đến công lý và sự hiền hòa. Rồi thì, những tài sản vì lợi ích chung, mà chúng ta gọi là công cộng, rồi thì những cuộc tập hợp của con người, mà sau này được gọi là những thành phố, rồi thì những nơi ở chung, mà chúng ta gọi là những thành phố, đã được phân biệt bằng luật pháp thần thánh và nhân loại được phát minh, và được bảo vệ bằng những bức tường thành. Và giữa đời sông này, được trau dồi bởi nhân loại, và đời sông man rợ kia, không có gì khác biệt nhau như LUẬT và BẠO LỰC. Trong hai thứ này, nếu chúng ta không muốn dùng cái này thì phải dùng cái kia. Chúng ta muốn dập tắt bạo lực? Thì luật pháp phải có hiệu lực, tức là những tòa án, nơi chứa đựng toàn bộ luật pháp. những tòa án không làm hài lòng, hoặc không có? Thì bạo lực phải thống trị, đó là điều tất yếu. Tất cả mọi người đều thấy điều này.' Trích từ 'Pro Sext. l. 42.'“

 

M3.34n12

3.       Xem GHI CHÚ [T].

 

M 3.34n12.1, SBN 197

Tác giả của L”Esprit des Loix. Tuy nhiên, nhà văn lỗi lạc này lại khởi xướng với một lý thuyết khác, cho rằng mọi quyền đều phải dựa trên những quan hệ hay những liên hệ nhất định; vố là một hệ thống vốn theo tôi, sẽ không bao giờ dung hòa được với triết học đúng thực. Theo như tôi được biết, nhà chăn chiên Malebranche là người đầu tiên khởi xướng lý thuyết trừu tượng về đạo đức này, sau đó được Cudworth, Clarke và những người khác tiếp thu; và vì nó loại trừ mọi tính cảm, và và tự nhận là dựa tất cả trên lý trí, nó đã không thiếu những người theo trong thời đại triết học này. Xem PHẦN I. Phụ lục I. Về công lý, đức hạnh được đề cập ở đây, suy luận phản bác lý thuyết này có vẻ ngắn gọn và thuyết phục. Tài sản được thừa nhận là phụ thuộc vào luật dân sự; luật dân sự được thừa nhận là không có mục đích nào khác, ngoài lợi ích của xã hội:: Do đó điều này phải được thừa nhận là nền tảng duy nhất của tài sản và công lý. Chưa kể đến việc chính nghĩa vụ của chúng ta tuân theo quan tòa và những luật của ô quan tòa và luật pháp của chúng ta chỉ được xây dựng trên lợi ích của xã hội.

 

M 3.34n12.2, SBN 197

Nếu đôi khi, những ý niệm về công lý không tuân theo những quy định của luật dân sự; chúng ta sẽ thấy rằng những trường hợp này, thay vì phản đối, lại là sự xác nhận cho lý thuyết đã nêu ở trên. Khi một luật dân sự quá sai lệch đến mức đụng chạm đến mọi lợi ích của xã hội, nó sẽ mất hết thẩm quyền, và con người sẽ phán xét dựa trên những ý niệm về công lý tự nhiên, vốn phù hợp với những hữu ích đó. Đôi khi, vì những mục đích có lợi, luật dân sự cũng yêu cầu một nghi lễ hay hình thức cho bất kỳ hành vi nào; và khi thiếu những điều kiện đó, những sắc lệnh của họ sẽ đi ngược lại với tinh thần thông thường của công lý; nhưng kẻ lợi dụng những mánh khóe như vậy thường không được coi là người lương thiện. Vì vậy, lợi ích của xã hội đòi hỏi những hợp đồng phải được thực hiện; và không có điều khoản nào quan trọng hơn về công lý tự nhiên hay công lý dân sự: Nhưng việc bỏ sót một tình tiết nhỏ nhặt thường sẽ, theo luật, làm mất hiệu lực của một hợp đồng, in foro humano, chứ không phải in foro conscientiæ, như những nhà thần học vẫn nói. Trong những trường hợp này, quan tòa được cho là chỉ rút lại quyền thực thi quyền của mình, chứ không phải thay đổi quyền. Khi ý định của người này mở rộng đến quyền lợi và phù hợp với lợi ích của xã hội; nó không bao giờ không làm thay đổi quyền lợi; một bằng chứng rõ ràng về nguồn gốc của công lý và tài sản, như đã nêu ở trên.

 

M3.38n13

4.       Xem GHI CHÚ[U].

 

M 3.38n13.1, SBN 199-200

Rõ ràng là, chỉ riêng di chúc hay sự đồng ý không bao giờ chuyển giao tài sản, cũng không tạo ra nghĩa vụ của một lời hứa (vì lý luận tương tự cũng áp dụng cho cả hai), vốn di chúc phải được thể hiện bằng lời nói hay dấu hiệu, để áp đặt một ràng buộc lên bất kỳ ai. Biểu hiện, một khi đã được đưa vào như một sự tùy thuộc vào di chúc, sẽ sớm trở thành phần chính của lời hứa; và một người sẽ không bị ràng buộc bởi lời nói của mình, mặc dù người này âm thầm đưa ra một hướng đi khác cho ý định của mình và không đồng ý với ý chí của mình. Nhưng mặc dù biểu hiện, trong hầu hết những trường hợp, tạo nên toàn bộ lời hứa, nhưng không phải lúc nào cũng vậy; và một người dùng bất kỳ biểu hiện nào vốn người này không biết nghĩa, và dùng vốn không có bất kỳ ý thức nào về hậu quả, chắc chắn sẽ không bị ràng buộc bởi nó. Hơn nữa, mặc dù người này biết nghĩa của nó, nhưng nếu người này chỉ dùng nó một cách đùa cợt, và với những dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng người này không có ý định nghiêm trang ràng buộc bản thân, thì người này sẽ không phải chịu bất kỳ nghĩa vụ thực hiện nào; nhưng điều cần thiết là, lời nói phải là một biểu hiện toàn hảo của di chúc, vốn không có bất kỳ dấu hiệu trái ngược nào. Không, ngay cả điều này, chúng ta cũng không nên đi quá xa đến mức tưởng tượng rằng, người mà, nhờ sự nhanh nhạy của mình, chúng ta suy diễn, dựa trên một số dấu hiệu, có ý định lừa dối chúng ta, thì không bị ràng buộc bởi lời nói hay lời hứa của người đó, nếu chúng ta chấp nhận; vốn phải giới hạn kết luận này trong những trường hợp vốn những dấu hiệu có bản chất khác với dấu hiệu của sự lừa dối. Tất cả những mâu thuẫn này đều dễ dàng được lý giải, nếu công lý hoàn toàn xuất phát từ sự hữu ích của nó với xã hội; nhưng sẽ không bao giờ được giải thích dựa trên bất kỳ giả thuyết nào khác.

 

M 3.38n13.2, SBN 200

Điều đáng chú ý là những quyết định đạo đức của những thày chăn chiên Jesuit và những người theo thuyết ngụy biện thoải mái khác thường được hình thành khi truy tố một số thủ đoạn lập luận tinh vi như đã cho thấy ở đây, và xuất phát từ tập quán tế nhị của học thuật cũng như từ bất kỳ sự tha hóa nào của trái tim, nếu chúng ta có thể theo thẩm quyền của Mons. Bayle. Xem Từ điển của ông, mục Loyola. Và tại sao sự phẫn nộ của loài người lại dâng cao đến vậy với những người theo thuyết ngụy biện này; nhưng vì mọi người đều nhận thấy rằng xã hội loài người không thể hiện hữu nếu những thực hành như vậy được cho phép, và rằng đạo đức phải luôn được xử lý theo hướng hữu ích công cộng, hơn là sự đều đặn về mặt triết học? Nếu hướng đi bí mật của ý định, như mọi người có lý trí đều nói, có thể làm mất hiệu lực của một hợp đồng; thì sự an toàn của chúng ta ở đâu? Tuy nhiên, một học giả siêu hình có thể nghĩ rằng, khi một ý định được cho là cần thiết, nếu ý định đó thực sự không có, thì không nên có hậu quả nào xảy ra và không nên áp đặt bất kỳ nghĩa vụ nào. Những thủ đoạn ngụy biện tinh vi có thể không lớn hơn những thủ đoạn của luật sư, được ám chỉ ở trên; nhưng vì cái trước có hại, còn cái sau vô hại và ngay cả cần thiết, nên đây là lý do tại sao chúng được thế giới đón nhận rất khác biệt.

 

M 3.38n13.3, SBN 200-1

Đó là một học thuyết của hội Nhà thờ Rôma, rằng thày chăn chiện, bằng một hướng dẫn bí mật của ý định của ông, có thể làm mất hiệu lực bất kỳ bí tích nào. Quan điểm này phát sinh từ một chú ý nghiêm ngặt và có hệ thống về sự thực hiển nhiên, rằng chỉ những lời nói suông, không có ý nghĩa hay chủ đích nào trong người nói, sẽ không bao giờ có thể mang lại bất kỳ hiệu quả nào. Nếu kết luận tương tự không được chấp nhận trong những lý luận liên quan đến hợp đồng dân sự, nơi sự việc được cho là kém quan trọng hơn nhiều so với sự cứu rỗi vĩnh cửu của hàng ngàn người, thì nó hoàn toàn xuất phát từ cảm giác của con người về sự nguy hiểm và bất tiện của học thuyết trong trường hợp trước: Và từ đó chúng ta có thể quan sát thấy, rằng dù bất kỳ mê tín nào có thể xuất hiện tích cực, kiêu ngạo, và giáo điều đến đâu, nó không bao giờ có thể truyền đạt bất kỳ sự thuyết phục triệt để nào về thực tại của những đối tượng của nó, hoặc đặt chúng, ở bất kỳ mức độ nào, lên bàn cân với những sự cố thông thường của đời sông, mà chúng ta học được từ quan sát hàng ngày và lập luận thực nghiệm.

 

M 3.48n14, SBN 204

5.       Principia, lib. iii.

 


 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Khi Hume viết rằng “fanatics may suppose, that dominion is founded on grace, and that saints alone inherit the earth”, ông ám chỉ đến những phong trào tôn giáo đặt nền tảng cho quyền lực không phải trên những thể chế dân sự, nhưng trên sự thánh thiện được cho là có. Ví dụ về đạo Phản Thệ: những giáo phái cấp tiến trong thế kỷ 16-17 thường tuyên bố rằng chỉ những người “sùng đạo” mới có quyền cai trị hoặc nắm giữ tài sản. Những người Anabaptist ở Münster (những năm 1530) đã thành lập một cộng đồng thần quyền, nơi họ tuyên bố những thánh sẽ thừa hưởng thành phố, bãi bỏ quyền sở hữu tư nhân và áp đặt luật lệ thần thánh. Tương tự như vậy, những người theo chủ nghĩa Quân chủ thứ năm ở Anh (những năm 1650) tin rằng những thánh của Chúa Kitô sẽ sớm thừa hưởng quyền thống trị chính trị, và họ đã cố gắng lật đổ quyền lực thế tục để chuẩn bị. Những phong trào như vậy coi “ân sủng” hoặc “sự thánh thiện” là danh nghĩa thực sự của quyền thống trị. Trong khi đạo Catô nói chung đặt nền tảng cho quyền lực trong hệ thống cấp bậc của hội Nhà thờ, một số phong trào thần bí hoặc tu viện cũng mang trong mình nguy hiểm tương tự. Một số nhà tiên tri thời trung cổ cho rằng sự soi sáng thần thánh đã ban cho họ quyền lực cao hơn vua chúa hay giám mục, trong khi những người khác lại cho rằng chỉ có sự thánh thiện mới có quyền cai trị hoặc bỏ qua luật dân sự. Ví dụ, những giáo phái khải huyền xoay quanh những nhân vật như Savonarola ở Florence (những năm 1490) hay những “nhà chăn chiên” cấp tiến của dòng Phanxicô đôi khi rao giảng rằng chỉ những người thực sự thánh thiện mới có thể nắm giữ quyền lực, dự đoán một xã hội thanh khiết gồm những vị thánh.

Trong cả hai truyền thống, nguy hiểm tiềm ẩn là như nhau: khi lòng nhiệt thành tôn giáo coi ân sủng tôn giáo là nền tảng của sự thống trị trần tục, nó sẽ làm suy yếu nền pháp quyền công bằng. Do đó, chính quyền dân sự của Hume đã “đặt những nhà lý thuyết cao siêu như vậy ngang hàng với những tên cướp tầm thường”, bởi vì những nguyên tắc của họ, dù cao cả đến đâu, cũng sẽ dẫn đến hỗn loạn và bạo lực.

[2] “Những người bình đẳng” chỉ một phong trào chính trị ở Anh vào thế kỷ 17 trong thời kỳ Nội chiến Anh (những năm 1640). Họ chủ trương phân phối tài sản công bằng hơn, mở rộng quyền chính trị và bình đẳng trước pháp luật.

[3] Sparta (thế kỷ 8-6 TCN) và luật nông nghiệp của Roma và Greece (Roma: thế kỷ 5-2 TCN; nhiều city-state Greece: thế kỷ 6-4 TCN) là những ví dụ về nỗ lực thực thi bình đẳng hơn. Ở Sparta, của cải được phân chia đồng đều hơn giữa những công dân, thúc đẩy ổn định xã hội. Luật nông nghiệp tìm cách phân phối lại đất đai và hạn chế sự chênh lệch quá mức, phản ánh nguyên tắc bình đẳng nâng cao phúc lợi xã hội.

[4] Phê bình của Hume về bình đẳng lý tưởng (một trạng thái lý thuyết trong đó mọi người đều có tài sản, quyền lợi và lợi thế giống hệt nhau, không có bất bình đẳng về vật chất hay xã hội) đã được chứng minh trong nhiều bối cảnh lịch sử khác nhau. Ngay cả khi tài sản được bình đẳng hóa theo luật pháp hoặc phong tục, bất bình đẳng vẫn sớm xuất hiện vì mọi người khác nhau về: kỹ năng (ví dụ: nông dân, kỹ sư hoặc nhà quản lý có năng lực hơn), nỗ lực (những người sẵn sàng làm việc chăm chỉ hơn hoặc đổi mới) và ảnh hưởng (quan hệ hoặc vị trí xã hội). Những nỗ lực đàn áp sáng kiến ​​cá nhân – qua nông nghiệp tập thể hóa và công nghiệp do nhà nước kiểm soát ở Liên Xô, Đại nhảy vọt ở nước Tàu thời Mao, hoặc phân bổ đất đai nghiêm ngặt ở Sparta – đã dẫn đến tình trạng khan hiếm, kém hiệu quả hoặc căng thẳng xã hội. Những thách thức tương tự cũng xuất hiện trong những cuộc cải cách ruộng đất của La Mã, nhằm mục đích phân phối lại đất đai cho người nghèo, và trong những khu định cư cộng đồng Thanh giáo ở New England, nơi sự bình đẳng ban đầu cuối cùng bị xói mòn do sự khác biệt về nỗ lực và khả năng. Ngay cả những kibbutz hiện đại của Israel cũng phải đối mặt với những áp lực khiến nhiều nơi phải tư nhân hóa một phần. Trong mỗi trường hợp, việc thực thi nghiêm ngặt đòi hỏi sự giám sát liên tục, quyền lực tập trung tạo ra những hệ thống phân cấp mới, và những nỗ lực áp đặt sự bình đẳng tuyệt đối thường dẫn đến bất ổn, khó khăn hoặc bất bình đẳng ngoài ý muốn. Những kinh nghiệm lịch sử này minh họa sống động bài học của Hume: sự bình đẳng lý tưởng, tuy hấp dẫn trên lý thuyết, nhưng lại cực kỳ khó duy trì trên thực tế.

[5] Montesquieu, người đã qua đời không lâu trước khi Hume viết tác phẩm De l'esprit des lois, xuất bản năm 1748; Montesquieu mất năm 1755;

[6] Hume dùng ví dụ về thức ăn và quy luật tôn giáo để cho thấy văn hóa và tôn giáo định hình hành vi con người như thế nào. Ở Syria, người ta không ăn chim bồ câu; ở Ai Cập, họ tránh thịt lợn. Trong châu Âu Kitô giáo, gà có thể được phép ăn vào thứ Năm nhưng bị cấm vào thứ Sáu, và trứng có thể được cho phép ăn ở một nơi trong mùa Chay nhưng lại bị coi là sai trái ở nơi khác chỉ gần đó. những thày chăn chiên thậm chí có thể làm cho đất đai hay tòa nhà trở nên thiêng liêng bằng cách đọc những lời khấn nguyện đặc biệt, thường bằng Latin từ Kinh thánh. Những quy luật này không tự nhiên – chúng đến từ truyền thống, tôn giáo và áp lực xã hội – và cho thấy thói quen, sự giáo dục và cảm xúc mạnh mẽ khiến con người tuân theo, ngay cả khi không có lý do hợp lý nào.