(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
Về
Xã hội Chính trị.
M
4.1, SBN 205
NẾU
mỗi người đều đủ sáng suốt để nhận thức, mọi lúc, sự hữu ích mạnh mẽ, ràng buộc người này với việc tuân thủ công lý và bình đẳng,
và đủ sức mạnh tinh thần để kiên trì theo đuổi một lợi ích chung và lâu dài, chống lại những cám dỗ của lạc thú
và hữu ích hiện tại; trong trường hợp đó, tất chưa bao giờ có bất kỳ một gì như chính phủ hay xã hội chính trị,
nhưng mỗi người, theo đuổi quyền tự do tự nhiên của mình, đã sống trong hòa
bình và hòa hợp hoàn toàn với tất cả những người khác. Cần gì phải có luật
pháp thực định khi
công lý tự nhiên, tự thân nó, đã là một sự kiềm chế đủ mạnh? Tại sao lại đặt ra
những quan tòa, khi không
bao giờ phát sinh bất kỳ sự hỗn loạn hay bất công nào? Tại sao lại tước đoạt
quyền tự do vốn có của chúng ta, khi trong mọi trường hợp, việc dùng tối đa quyền
tự do đó đều được coi là vô hại và có lợi? Rõ ràng là, nếu chính phủ hoàn toàn
vô dụng, nó sẽ không bao giờ có chỗ dứng và nền tảng DUY NHẤT của nghĩa vụ
TRUNG THÀNH chính là hữu ích vốn nó mang lại cho xã hội, bằng cách duy
trì hòa bình và trật tự giữa loài người. [1]
M
4.2, SBN 205
Khi
một số của những xã
hội chính trị [2] được lập nên, và duy trì một quan hệ rộng rãi với nhau, một tập hợp mới của quy luật nhanh chóng được thấy là hữu ích
trong hoàn cảnh cụ thể đó; và do đó được đặt tên
là LUẬT của những QUỐC
GIA. [3] Thuộc loại
này là, quyền
bất khả xâm phạm của những đại sứ, lệnh cấm sử dụng vũ khí tẩm độc, thực hành
tha mạng (tha mạng cho kẻ thù đầu hàng) trong chiến tranh và những thực hành khác thuộc loại đó. Những điều
này rõ ràng được tính
toán vì hữu ích của những quốc gia và vương quốc trong quan hệ với nhau.
M
4.3, SBN 206
Những quy
luật của công lý, như những gì áp dụng
giữa những cá nhân,đều không bị
loại bỏ hoàn toàn giữa những xã
hội chính trị. Mọi nhà cai trị đều tuyên bố tôn trọng quyền của những nhà cai
trị khác; mặc dù thực tế, chỉ một số ít có thể nói là làm như vậy một cách chân
thành. Những liên
minh và hiệp ước được ký kết hàng ngày giữa những quốc gia độc lập, vốn sẽ chỉ là sự phí phạm giấy tờ nếu kinh nghiệm cho thấy
chúng không có ảnh hưởng và thẩm
quyền thực sự nào đó.
Nhưng đây là sự khác biệt giữa những vương quốc và những cá nhân. Bản chất con
người không thể hiện hữu nếu không có sự liên kết giữa những cá nhân; và sự
liên kết đó sẽ không bao giờ có thể hiện hữu nếu không có sự tôn trọng với luật
công bằng và công lý. Rối loạn,
hỗn độn, và một chiến tranh của tất cả chống lại tất cả sẽ là những hậu quả tất yếu của hành vi
buông thả như
vậy. Nhưng
những quốc gia có thể hiện hữu nhưng không
cần giao tiếp. Ngay cả, ở một mức độ nào đó, họ có thể hiện hữu trong một chiến
tranh toàn diện. Việc tuân thủ công lý, mặc dù hữu ích
giữa những quốc
gia, nhưng không được một nhu cầu mạnh mẽ bảo vệ như giữa những cá nhân; và nghĩa
vụ đạo đức tỷ lệ thuận với sự hữu ích. Tất cả những chính trị gia, và hầu hết
những triết gia, đều công nhận rằng LÝ DO của NHÀ NƯỚC, trong những trường hợp khẩn
cấp, có thể bỏ qua những quy luật của công lý và vô hiệu hóa bất kỳ hiệp ước
hay liên minh nào, nếu việc tuân thủ nghiêm ngặt sẽ gây bất lợi đáng kể cho bất
kỳ bên ký kết nào. Nhưng không gì ngoài sự cần thiết tột cùng, như đã được công
nhận, có thể biện minh cho việc cá nhân phá vỡ
lời hứa hay xâm phạm tài
sản của những người
khác.
M
4.4, SBN 206
Trong
một cộng đồng liên bang, chẳng hạn như nước cộng hòa Achæan thời xưa, hay những
tổng và
tỉnh liên hiệp của Thụy Sĩ trong thời
nay; vì liên minh có một hữu ích đặc biệt ở đây, những điều kiện của liên minh có một tính thiêng liêng và thẩm quyền đặc
biệt, và việc vi phạm chúng sẽ bị coi là không kém phần, hoặc ngay cả là tội phạm hơn, bất kỳ tổn hại hoặc
bất công gây cho cá
nhân nào..
M
4.5, SBN 206-7
Tuổi
thơ dài và yếu đuối của con người đòi hỏi sự kết hợp của cha mẹ để nuôi sống
con trẻ của họ
và sự kết hợp đó đòi hỏi đức hạnh TRINH TIẾT hay chung thủy trong
tình dục.
Nếu không có hữu ích đó, người ta sẽ dễ dàng công nhận rằng đức hạnh đó
sẽ không bao giờ được nghĩ đến[15].
M
4.6, SBN 207
Một sự không chung thủy kiểu này tai hại
hơn nhiều ở phụ nữ so với ở nam
giới. Do đó, luật về trinh tiết nghiêm
ngặt hơn nhiều với một giới so với giới kia. [4]
M
4.7, SBN 207-8
Những
quy luật này đều có liên
quan với sự sinh
sản; thế nhưng vốn
phụ nữ đã qua tuổi sinh nở, cũng
không được miễn trừ khỏi chúng, chẳng khác gì những người đang tuổi thanh xuân
và nhan sắc. Những quy luật tổng quát phổ
biến thường
được mở rộng ra ngoài nguyên lý, nơi chúng xuất hiện lần đầu; và điều này đúng
trong mọi vấn đề của thị
hiếu và tình cảm. Một câu chuyện phổ biến ở Paris trong cơn sốt Mississippi
minh họa điều này: một người đàn ông gù lưng hàng ngày đến phố Rue de
Quincempoix, nơi những người làm nghề chứng khoán tụ tập, và ông ta được trả
công hậu hĩnh khi cho họ dùng lưng gù của ông làm bàn viết ký hợp đồng. Liệu
tài sản ông tích lũy được nhờ phương pháp này có khiến ông thành một người đẹp
trai không; mặc dù phải thừa nhận rằng cái đẹp cá nhân phần lớn xuất phát từ những
ý tưởng về sự Hữu ích? Trí tưởng tượng bị ảnh hưởng bởi những liên tưởng; mặc
dù ban đầu chúng xuất phát từ sự phán đoán, nhưng không dễ dàng thay đổi bởi bất
kỳ ngoại lệ cụ thể nào xảy ra với chúng ta. Chúng ta có thể nói thêm, trong trường
hợp này về sự trong trắng, rằng tấm gương của người già sẽ gây hại cho người trẻ;
và rằng phụ nữ, luôn tiên đoán rằng một thời điểm nào đó sẽ mang lại cho họ sự
tự do buông thả, sẽ tự nhiên kéo dài thời gian đó và coi nhẹ toàn bộ bổn phận
này, vốn rất cần thiết cho xã hội. Trí
tưởng tượng bị những liên tưởng ảnh hưởng; mặc dù ban đầu chúng xuất hiện từ sự
phán đoán, nhưng không dễ dàng bị thay đổi bởi mọi ngoại lệ cụ thể vốn chúng ta
gặp phải. Chúng ta có thể nói thêm, về vấn đề trinh tiết, hành vi của những phụ
nữ lớn tuổi có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ trẻ; và vì phụ nữ nhận thấy
rằng cuối cùng họ sẽ được tự do thỏa mãn nhu cầu tình dục, họ có thể bắt đầu sớm
hơn và xem nhẹ bổn phận này, mặc dù nó rất quan trọng với sự
ổn định của xã hội. [5]
M
4.8, SBN 208
Những
người sống trong cùng một gia đình có quá nhiều cơ hội để làm những điều như vậy,
đến nỗi không gì có thể bảo vệ được sự trong sạch về phong tục, nếu hôn nhân được
cho phép, giữa những người thân thiết nhất, hay bất kỳ quan hệ tình cảm nào giữa
họ được pháp luật và phong tục công nhận. Do đó, loạn luân, vốn nguy hại
ở mức độ cao hơn, cũng đi kèm với sự đồi trụy và biến dạng đạo đức nghiêm trọng
hơn.
M
4.9, SBN 208
Tại
sao, theo luật pháp Athens, người ta có thể kết hôn với chị em cùng cha khác mẹ,
nhưng lại không được kết hôn với chị em cùng mẹ khác cha? Rõ ràng là: Phong tục của
người Athens rất nghiêm ngặt, đến nỗi đàn ông không bao giờ được phép đến gần
nhà phụ nữ, ngay cả trong cùng một gia đình, trừ khi người này đến thăm mẹ ruột
của mình. Mẹ kế và những con của bà cũng bị cách ly khỏi người này như những
người phụ nữ trong bất kỳ gia đình nào khác, và gần như không có nguy cơ xảy ra
bất kỳ quan hệ bất chính nào giữa họ. Vì lý do tương tự, chú bác và cháu gái (bất
kể về bên cha hay mẹ) có
thể kết hôn ở Athens; nhưng những người này, cũng như anh chị em cùng cha khác
mẹ, đều không thể kết hôn ở Rome, Không giống như ở Athens, những gia đình Rome cho phép
nam nữ giao tiếp tự do hơn, vì vậy những hôn nhân này bị cấm. Hữu ích công cộng là nguyên
nhân của tất cả những khác biệt này.
M
4.10, SBN 208
Lại nữa, việc dùng bất cứ gì một người đã nói trong trò
chuyện riêng tư để chống lại người
này, hay dùng thư từ riêng tư của người này theo cách đó, đều bị
lên án nặng nề. Nếu không có những quy luật về lòng tin và bảo mật như
vậy, việc trao đổi ý tưởng một cách tự do và cởi mở giữa mọi người sẽ bị hạn chế
nghiêm trọng.”
M
4.11, SBN 208-9
Ngay
cả khi kể lại những câu chuyện vốn ta không thể lường trước hậu quả xấu nào, việc
tiết lộ tên tác giả vẫn bị coi là một hành vi thiếu thận trọng, nếu không muốn
nói là vô đạo đức. Những câu chuyện này, khi được truyền tay nhau và nhận được
đủ mọi biến thể thông thường, thường xuyên đến tai những người liên quan, và
gây ra hiềm khích và tranh luận giữa những người có ý định ngây thơ
và vô hại nhất.
M
4.12, SBN 209
Tò
mò bí mật, mở hay ngay cả đọc thư của người khác, do thám lời nói, ánh mắt và
hành động của họ; còn tập quán nào bất tiện hơn trong xã hội? Còn tập quán nào,
tất nhiên, đáng chê trách hơn?
M
4.13, SBN 209
Nguyên
lý này cũng là nền tảng của hầu hết những quy luật về ứng xử tốt
lành;
một loại đạo đức thấp hơn, được tính toán để tạo sự thoải mái khi giao tiếp và
trò chuyện. Quá nhiều hay quá ít nghi lễ đều bị chỉ trích, và bất cứ điều gì
thúc đẩy sự thoải mái, vốn không có sự thân mật khiếm nhã, đều có lợi và đáng
khen ngợi.
M
4.14, SBN 209
Sự
kiên trì trong
tình thân thiện, những gắn
bó và những quan hệ thân thiết là đáng khen ngợi, và là điều kiện cần thiết để
duy trì lòng tin và sự giao tiếp tốt đẹp trong xã hội. Nhưng ở những nơi tụ họp
công cộng, dù là thường xuyên hay ngẫu nhiên, nơi việc theo đuổi sức khỏe và
thú vui đưa mọi người đến gần nhau một cách hỗn độn, thì hữu ích công cộng đã bỏ
qua nguyên lý này; và tập quán ở đó khuyến khích một trò chuyện cởi mở trong thời
gian ngắn, bằng cách cho phép quyền được bỏ qua mọi quen biết tầm thường sau đó
mà không vi phạm phép lịch sự hay ứng xử tốt.
M
4.15, SBN 209
Ngay
cả trong những xã hội được thiết lập dựa trên những nguyên lý vô đạo đức nhất
và hủy hoại nhất với lợi
ích chung, vẫn cần có những quy luật nhất định, vốn một loại danh dự giả tạo,
cũng như hữu ích cá nhân, buộc những thành viên phải tuân theo chúng. Người ta
thường thấy rằng
bọn cướp và cướp biển không thể duy trì liên minh nguy hại của họ, nếu họ không thiết lập một công lý phân phối
mới giữa họ và
về cơ bản, là khôi phục lại những quy luật công bằng vốn họ đã phá vỡ với phần loài người còn lại.
M
4.16, SBN 209
Tục
ngữ Greece có câu: “Tôi ghét người bạn rượu, người không bao giờ quên”. Những trò hề của
cuộc chè chén vừa qua nên được chôn vùi trong quên lãng vĩnh viễn, để nhường chỗ
cho những trò hề của lần sau.
M
4.17, SBN 210
Ở một số quốc gia, nơi mà phong tục phần nào dung túng
cho những chuyện tình bí mật hoặc hơi tai tiếng, một bộ quy luật nhanh chóng được
hình thành để giải quyết chúng một cách thuận tiện. Ví dụ, ở Provence, “tòa án
tình yêu” nổi tiếng đã từng từng
phán quyết tất cả những vụ án khó khăn thuộc loại này.
M
4.18, SBN 210
Trong
những xã hội vui chơi, những nhóm
được thành lập để giải trícần có luật lệ để điều chỉnh trò chơi; và những luật lệ này khác
nhau trong mỗi trò chơi. Tôi công nhận rằng nền tảng của những xã hội như vậy
là phù phiếm; và luật lệ, ở một mức độ lớn, mặc dù không hoàn toàn, là thất thường
và tùy tiện. Cho đến nay, có một sự khác biệt vật chất giữa chúng và những quy
luật về công lý, lòng trung thành và sự chung thủy. Những xã hội chung của con người là
tuyệt đối cần
thiết cho sự tồn tại của
chủng loại;
và hữu ích công cộng , vốn điều
chỉnh đạo đức, được thiết lập đã ăn sâu vào bản chất con người và thế giới
chúng ta đang sống. Do đó, sự so sánh, về những phương diện này, là rất không hoàn
toàn.
Chúng ta chỉ có thể học được từ nó sự cần thiết của những quy luật, bất cứ nơi
nào con người có bất kỳ giao tiếp nào với nhau.
M
4.19, SBN 210
Ngay cả trên đường, con người không thể di chuyển nếu không
có luật
lệ. Người đánh xe ngựa chở hàng,
người đánh xe ngựa chở khách, và
người điều khiển một đội ngựa kéo xe, đều có những nguyên tắc vốn họ dùng để nhường đường; và những
nguyên tắc này
chủ yếu dựa trên sự thoải mái và thuận tiện cho nhau. Đôi khi chúng cũng tùy tiện,
ít nhất là dựa trên một loại suy luận thất thường, giống như nhiều lý lẽ lập
luận của
những luật sư [16].
M
4.20, SBN 210-1
Để đi xa hơn, chúng ta có thể thấy rằng con người không
thể giết hại lẫn nhau nếu không có luật lệ [quy luật], châm ngôn [nguyên tắc chỉ
đạo], và một số khái niệm về công lý và danh dự. Chiến tranh cũng có luật lệ của
nó không kém gì hòa bình; và ngay cả loại chiến tranh thể thao đó, được tiến
hành giữa những lực sĩ đô vật, võ sĩ quyền Anh, đấu sĩ dùng gậy, và võ sĩ giác đấu,
cũng được những nguyên tắc cố định điều chỉnh. Một lợi ích chung – tức là hữu
ích tất cả những bên đều có trong việc duy trì xung đột được kiểm soát – cùng với
sự Hữu ích – hữu ích thực tế đến từ việc kiểm soát đó – tất yếu tạo ra một tiêu
chuẩn về đúng và sai giữa những bên liên quan.
-------------------------------------------------------
M 4.5n15
1. Xem GHI CHÚ [X].
M 4.5n15.1, SBN 207
Giải pháp duy nhất vốn Plato đưa ra cho tất cả những phản đối có thể nảy sinh chống lại cộng đồng phụ nữ, được thiết lập trong khối thịnh vượng chung tưởng tượng của ông, là, 'Vì chân lý đẹp nhất và bền vững nhất là những gì hữu ích là cao quý, và những gì có hại là đáng xấu hổ' (Republic, V, 457). Nguyên tắc này, khi hữu ích công cộng được đặt ra, không còn hoài nghi gì nữa – và đây là điều mà Plato muốn nói. Thực sự, những quan niệm của chúng ta về sự trinh tiết và tiết dục phục vụ cho mục đích nào khác? Như Phaedrus nói: 'Nếu những gì chúng ta làm không hữu ích, vinh quang sẽ vô ích.' Và Plutarch nhận xét: 'Không có gì có hại là đẹp.' Những người Stoics. cũng có cùng quan điểm: 'Cái tốt,' họ nói, 'không gì khác ngoài những gì hữu ích – khi nói hữu ích, họ muốn nói đến chính đức hạnh và những hành động xuất phát từ đức hạnh đó'. (Sextus Empiricus, III.20)..
M 4.19n16
2. Xem GHI CHÚ [Y].
M 4.19n16.1, SBN 210
Xe nhẹ hơn phải nhường đường cho xe nặng hơn, và khi những xe cùng loại, xe không chở hàng, phải nhường đường cho xe chở hàng; quy luật này dựa trên sự hữu ích. Những người đi vào kinh đô sẽ nhường chỗ cho những người từ kinh đô đi ra, điều này dường như dựa trên ý niệm về sự tôn nghiêm của một thành phố lớn, và về sự ưu tiên mà chúng ta dành cho tương lai hơn quá khứ. Cũng vì những lý do tương tự, trong số những người đi bộ, tay phải giúp người ta dựa vào tường, và ngăn ngừa sự chen lấn. “Quyền đi cạnh sát bên bức tường” này quan trọng trên những con phố hẹp, đông đúc, vì người bị đẩy ra khỏi bức tường sẽ bị đẩy gần hơn với xe cộ, bùn đất hoặc nguy hiểm. Những quy ước nhỏ như vậy, dựa trên sự thoải mái và tôn trọng lẫn nhau, làm cho đời sông bình thường dễ chịu hơn.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Đối với Hume, trong cả Enquiry và Treatise, allegiance
có nghĩa là sự tuân phục hoặc trung thành với chính phủ, người cai trị, hoặc
quyền lực dân sự – về cơ bản, đó là nghĩa vụ tuân theo các luật pháp và thể chế
bảo tồn hòa bình và trật tự trong xã hội. Điều này chưa phải về chủ nghĩa dân tộc
hay lòng trung thành yêu nước với một “quốc gia” theo nghĩa hiện đại (phát triển
sau này vào thế kỷ 18-19). Hume đang suy nghĩ theo những khái niệm rộng lớn
hơn, thực tiễn hơn: (a) Allegiance = nghĩa vụ của thần dân tuân phục các quan
tòa và chính phủ của họ. Nền tảng duy nhất của nó = tính hữu dụng của chính phủ
– rằng nó đảm bảo hòa bình, ổn định và lợi ích chung.Theo thuật ngữ hiện đại:
nghĩa vụ tuân phục quyền lực chính trị chỉ dựa trên những lợi ích mà nó mang lại
cho xã hội loài người, chứ không phải trên quyền thiêng liêng, thứ bậc tự
nhiên, hay hợp đồng thiêng liêng.
[2] những quốc gia hay dân tộc
[3] luật quốc tế
[4] Thời thơ
ấu dài và yếu đuối của con người đòi hỏi cha mẹ phải đoàn kết nuôi con; sự đoàn
kết này cũng đòi hỏi trinh tiết của phụ nữ, tức là sự trung
thành tình dục. Không có sự đảm bảo về dòng dõi, người cha có thể không chịu
trách nhiệm chu cấp. Không có tính hữu dụng xã hội này, cái gọi là phẩm hạnh trinh tiết sẽ không bao giờ ra đời. Hume cho
thấy trinh tiết là một phát minh
xã hội chứ không phải mệnh lệnh tự nhiên hay thiêng liêng, nhằm đảm bảo ổn định
gia đình. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh gánh nặng nó đặt lên phụ nữ – sự chung thủy
của họ bị đòi hỏi để bảo đảm trách nhiệm của người cha, đồng nghĩa với việc hạn
chế tự do cá nhân của họ. Ông quan
sát tinh tế: trật tự xã hội dựa trên việc hạn chế quyền tự chủ của phụ nữ – bổn
phận được áp đặt vì lợi ích của đàn ông và xã hội. Dù phân tích đạo đức bằng lý
trí lạnh lùng, Hume vẫn thể hiện sự cảm thông với cái giá tự do mà phụ nữ phải
trả cho tính hữu dụng xã hội.
[5] the rage of the Mississippi: Cơn sốt Mississippi ám chỉ đến “Bong bóng Mississippi” ở Pháp (1719–1720), một cơn sốt đầu cơ vào Công ty Mississippi của
John Law, công ty kiểm soát thương mại ở Louisiana thuộc Pháp (Bắc Mỹ). Giá cổ
phiếu tăng vọt rồi sụp đổ, tạo ra những lợi nhuận bất ngờ và sự phá sản tài
chính. Hume sử dụng một câu chuyện từ thời kỳ này để minh họa cách các thói
quen xã hội và quan niệm về hữu ích ảnh hưởng đến nhận thức của con người về
giá trị, cái đẹp và hành vi.