Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức
(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
MỤC III.
Về Công Lý.
PHẦN I.
M 3.1, SBN 183
RẰNG Công Lý có ích
cho xã hội, và do đó, ít nhất một phần giá trị của nó phải xuất phát từ cân nhắc
đó, thì việc chứng minh điều này sẽ là một công việc thừa thãi. Nhưng rằng hữu
ích công cộng [1] là nguồn gốc duy nhất của công lý, và
rằng những suy ngẫm về những hậu quả có lợi của đức hạnh này là nền tảng duy
nhất cho giá trị của nó; luận điểm này, vì tế nhị và quan trọng hơn, sẽ xứng
đáng được chúng ta xem xét và nghiên cứu kỹ lưỡng.
M 3.2, SBN 183
Hãy giả định rằng
thiên nhiên đã ban cho loài người một một sự dồi dào quá mức tất
cả những tiện nghi và nhu cầu vật chất của đời sống, đến nỗi không có bất kỳ sự
bất trắc nào trong kết quả, và
không cần bất kỳ sự chăm sóc hay cố gắng nào từ phía chúng ta, mỗi cá nhân đều
thấy mình được cung cấp đầy đủ tất cả những gì tham lam nhất có thể mong muốn,
hay tưởng tượng xa hoa nhất có thể ước ao hay khao khát. Hơn nữa, hãy giả định
rằng cái
đẹp tự nhiên của con người, chúng ta có thể cho rằng, vượt xa mọi trang sức nhân tạo:
Sự ôn hòa
vĩnh cửu của thời tiết khiến
mọi quần áo, vật dụng che thân trở
nên không cần thiết: Cỏ tươi mang đến cho con người những món
ăn ngon nhất; suối nước trong
mát cung cấp thức uống bổ dưỡng nhất. Không cần lao động nặng nhọc:
Không cần cày cấy: Không cần giao
thương hàng
hải. Âm nhạc, thơ ca và suy
ngẫm thưởng ngoạn là công việc duy nhất của con người:
Trò chuyện, thích thú vui vẻ và tình thân thiện gần gũi [2]
là
thú vui duy nhất của con người.
M 3.3, SBN 183-4
Xem dường là
hiển nhiên rằng, trong một trạng thái hạnh phúc như vậy, mọi đức
hạnh xã hội khác sẽ nở rộ và được tăng lên gấp mười lần; tuy nhiên, đức hạnh thận trọng, cẩn mật của công lý, luôn quan tâm đến việc bảo vệ
tài sản và quyền lợi, giữ gìn sự công bằng, sẽ không bao giờ được nghĩ đến . Vì mục đích gì phải phân chia của cải, khi mọi người đã sẵn có mọi thứ
vượt quá nhu cầu? Tại sao phải tạo ra quyền sở hữu, khi không thể có bất kỳ sự tổn hại
nào có thể xảy ra? Tại sao gọi đối tượng này là
của tôi, khi nếu người khác chiếm lấy nó, tôi chỉ cần với tay ra là đã sở hữu
được thứ có giá trị ngang bằng? Công lý, trong một trường hợp như
vậy, hoàn
toàn VÔ DỤNG, sẽ chỉ là một nghi thức trống
rỗng, và không bao giờ có thể tìm thấy chỗ đứng trong danh sách những đức hạnh.
M 3.4, SBN 184
Chúng ta thấy rằng,
ngay cả trong tình trạng thiếu thốn hiện tại của loài người, bất cứ nơi nào có
bất kỳ hữu ích nào được thiên nhiên ban cho phong phú vô hạn, chúng ta luôn để
nó có chung cho toàn thể loài người và không phân chia nhỏ quyền lợi và sở hữu tài
sản. Nước và không khí, dù là những thiết yếu nhất chúng ta cần có hay dùng,
không được coi như tài sản cá nhân; và không ai có thể phạm vào bất công qua việc
đem dùng và nhận hưởng, dù phung phí cách nào những “của trời” ban này. Ở những
quốc gia rộng lớn và phì nhiêu với ít dân số, đất đai được nhìn theo cùng một
cơ sở. Và không có đề tài nào được những người bảo vệ quyền tự do trên biển, nhấn
mạnh nhiều như việc dùng không cạn kiệt của họ trong giao thương hàng hải. Nếu những hữu ích mà giao thương hàng hải. mang lại cũng vô tận như vậy, những người lý luận này sẽ
không bao giờ có bất kỳ đối thủ nào để bác bỏ; và không có bất kỳ yêu sách nào
về một sự thống trị riêng biệt, độc quyền trên đại dương từng được đưa ra.
M 3.5, SBN 184
Có thể đã xảy
ra, ở một số đất nước nào đó,
vào một thời kỳ nào đó,
rằng ở đó người ta đã thiết lập một quyền sở hữu
tài sản với nước, nhưng không với đất [10]; nếu
đất đai quá dồi dào đến mức dư thừa cho tất cả mọi người, và không ai cảm thấy
cần phải tuyên bố quyền sở hữu độc quyền với nó. Nhưng ngược lại, nước có thể hiếm, và chỉ có sẵn với số lượng nhỏ. Vì khan hiếm
và cần thiết, người ta bắt đầu coi nó như một gì có
thể sở hữu, kiểm soát hay phân phối – một gì cần
có sự cho phép hay quyền sử dụng. [3]
M 3.6, SBN 184-5
Lại nữa; giả định rằng, mặc dù những nhu cầu của loài người cũng vẫn tiếp tục như hiện tại, nhưng tinh thần lại được mở rộng, đầy thân thiện và hào hiệp, đến mức
mỗi người người đều dành cho
nhau sự quan tâm ân cần nhất, và không quan tâm đến hữu ích của bản thân hơn hữu
ích của người khác. Rõ ràng là, trong trường hợp này, việc thực hiện công lý sẽ bị đình chỉ bởi lòng từ
thiện bao la như vậy, cũng như những sự phân chia và rào cản về quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ sẽ
không bao giờ được nghĩ đến. Tại sao tôi phải ràng buộc người khác bằng một
hành động hay lời hứa để họ làm điều gì tốt cho tôi, khi tôi biết rằng người này đã được thúc đẩy bởi động cơ mạnh mẽ
nhất để tìm kiếm hạnh phúc cho tôi, và người này sẽ tự nguyện thực hiện dịch vụ tôi
mong muốn – trừ khi thiệt hại mà người này phải gánh chịu lớn hơn hữu ích tôi nhận được? Trong
trường hợp đó, người này biết
rằng, từ lòng nhân đạo và tình thân thiện bẩm sinh của tôi, tôi sẽ là người đầu
tiên chống lại sự hào hiệp quá độ,
không tính toán của
người này. Tại sao lại dựng
lên những mốc ranh giới giữa cánh đồng của hàng xóm và cánh đồng của tôi, khi
trái tim tôi không hề phân chia lợi ích
của tôi; nhưng chia sẻ mọi vui buồn của tôi với
cùng một sức mạnh và sự sống động như thể ban đầu là của chính tôi? Mỗi người,
dựa trên giả định này, là một “bản
ngã thứ hai” của người khác, sẽ giao phó mọi lợi ích của người này cho sự cân nhắc của mọi người; không ghen
tị, không chia rẽ, không phân biệt. Và toàn thể loài người sẽ hình thành chỉ một
gia đình; nơi tất cả sẽ là của chung, được dùng tự do, không bận tâm về sở hữu; nhưng cũng thận trọng, hoàn toàn
quan tâm đến nhu cầu của mỗi cá nhân, như thể hữu ích của chính chúng ta là quan
tâm sâu xa nhất. quan
tâm đến sở hữu tài sản; nhưng
cũng thận trọng, hoàn toàn quan tâm đến nhu cầu của mỗi cá nhân, như
thể lợi ích
của chính chúng ta là sự quan
tâm sâu xa nhất.
Và toàn thể nhân loại
sẽ chỉ hình thành một gia đình; nơi tất cả sẽ nằm chung, và được sử dụng một
cách tự do, không quan tâm đến tài sản; nhưng cũng thận trọng, hoàn toàn quan
tâm đến nhu cầu của mỗi cá nhân, như thể lợi ích của chính chúng ta là mối quan
tâm sâu sắc nhất.
M 3.7, SBN 185-6
Trong tình trạng hiện tại của bản chất con người, có lẽ
khó tìm thấy những thí dụ hoàn chỉnh về tình cảm rộng rãi như vậy; nhưng chúng ta vẫn có thể nhận
thấy rằng trường hợp của những gia đình đang tiến gần đến nó; và tình thương yêu nhau càng mạnh mẽ giữa những cá nhân, thì tình trạng đó càng gần hơn, cho đến khi mọi sự phân biệt về tài sản bị
mất và hòa lẫn trong một mức độ lớn giữa họ. Giữa những người đã kết hôn, sợi dây gắn kết
của tình thân được luật pháp cho là bền chặt đến mức xóa bỏ mọi sự phân chia về
sở hữu tài sản; và trên thực tế, nó thường có sức
mạnh như người ta vẫn gán cho nó. Và
có thể thấy rằng, trong cơn sốt của những nhiệt tinh mới – khi mọi nguyên
lý đều bị bị
thổi bùng lên thành cực đoan –
ý tưởng mọi tài sản đều được sở hữu chung trong cộng đồng đã thường được thí
nghiệm. Tuy nhiên, chỉ những bài học đắt giá rút ra từ những bất tiện của nó,
xuất phát từ sự xuất hiện trở lại hay sự tồn tại dai dẳng tiềm ẩn của lòng ích
kỷ con người, mới có thể khiến những người thiện chí cuồng tín này một lần nữa
chấp nhận những khái niệm về công lý và sở hữu tư nhân. Quả
thực, rằng đức hạnh này chỉ tồn tại vì
nó cần thiết cho sự sống và hợp tác xã hội của loài người. [4] 
M 3.8, SBN 186-7
Để làm rõ sự thật này hơn, chúng ta hãy đảo ngược những
giả định trước đây và đưa mọi sự việc
sang
thái cực đối lập; sau đó hãy xem xét những hậu quả của những tình cảnh mới này.
Giả định một xã hội rơi vào tình trạng thiếu thốn mọi nhu yếu phẩm thiết yếu, đến
mức sự tiết kiệm và cần cù tối đa cũng không thể cứu được đại đa số khỏi cái chết,
và toàn thể khỏi cảnh khốn cùng tột độ:
Tôi tin rằng, người ta sẽ dễ dàng nhìn nhận
rằng, trong một tình cảnh cấp bách như vậy, những luật lệ nghiêm ngặt của công
lý đều đình chỉ, và nhường chỗ cho những thôi thúc mạnh mẽ hơn của nhu cầu cấp thiết và bản năng tự
bảo vệ mạng sống .Sau một vụ đắm tàu, liệu việc vơ vét bất kỳ phương tiện an
toàn nào vốn người ta có thể nắm lấy được, nhưng không cần quan tâm đến chủ sở hữu của nó, có phải là một tội
ác không? Hay nếu một thành phố đang bị bao vây và đang chết đói, liệu
chúng ta có thể tưởng tượng rằng, người
dân sẽ để mình chết thay vì giành lấy thức ăn trước mặt, chỉ
vì quá tôn trọng những gì,
trong những tình cảnh khác, sẽ là những quy luật của công bằng và công lý? CÔNG DỤNG và KHUYNH HƯỚNG của đức hạnh đó
là mang lại hạnh phúc và an ninh, bằng duy trì trật tự trong xã hội: Nhưng khi
xã hội sắp diệt vong vì nhu cầu cấp thiết tột
cùng, thì không còn điều ác nào lớn hơn có thể đáng sợ từ bạo lực và bất công;
và giờ đây mọi người đều có thể tự lo liệu cho mình bằng mọi cách vốn sự thận
trọng có thể chỉ định, hay loài người cho phép. Ngay cả trong những nhu cầu ít
cấp bách hơn, công chúng vẫn mở kho thóc lúa, nhưng không
cần sự đồng ý của chủ sở hữu; như một giả định chính đáng, rằng thẩm quyền của
quan tòa có thể, phù hợp với công bằng, mở rộng đến mức đó: Nhưng nếu có bất kỳ
số lượng người nào tụ tập, vốn không có sự ràng buộc của luật pháp hay thẩm quyền
dân sự; liệu việc chia đều bánh mì trong một nạn
đói, mặc dù được thực hiện bằng quyền lực và ngay cả là bạo lực, có bị coi như tội phạm hay gây tác hại không?
M 3.9, SBN 187
Tương tự, giả định số phận của một người đức hạnh khi rơi vào xã hội của những côn đồ, xa rời sự bảo vệ của luật pháp và chính quyền;
người này phải cư xử thế nào trong hoàn cảnh u tối đó? Người này thấy một thấy một tham lam liều lĩnh lan tràn; một sự coi thường công bằng, sự khinh miệt trật tự, và sự thờ ơ mù quáng ngu
ngốc với những hậu quả tương lai, và chắc chắn phải dẫn đến kết cục bi thảm nhất, và chắc
chắn phải chấm dứt trong sự hủy diệt với phần lớn dân chúng, và trong một hoàn
toàn tan rã của xã hội với những người còn lại. Trong khi đó, người này không
thể có biện pháp nào khác ngoài việc tự vũ trang, cho
dù thanh kiếm hay cái khiên
người này vớ lấy được thuộc về ai: để chuẩn bị cho mọi phương tiện tự vệ và an ninh:
Và vì sự quan tâm đặc biệt của người này với công lý thôi không DÙNG được nữa cho
sự an toàn của bản thân hay cho những người khác, người này chỉ phải chỉ tuân theo những chỉ dẫn của bản
năng tự vệ, không cần quan tâm đến những kẻ không còn xứng đáng với sự quan tâm
và chú ý của người này nữa.
M 3.10, SBN 187
Khi bất kỳ một người
nào, ngay cả trong xã hội có tổ chức chính trị, trở nên đáng ghét với công
chúng vì tội lỗi của người này, pháp luật sẽ trừng phạt người này tước đoạt tài sản hay áp dụng những hình
phạt thân xác, như tù đày, đánh đập , hay tử hình. Trong những trường hợp như vậy,
những quy luật thông thường của công lý sẽ tạm thời đình chỉ với người
này, và việc áp đặt lên người
này – vì lợi ích của xã hội – những
hình phạt vốn trong hoàn cảnh khác người này không thể phải chịu mà không bị coi là bất
công, sẽ trở nên công bằng và hợp lý.
M 3.11, SBN 187-8
Sự cuồng nộ và bạo lực của chiến tranh công khai; nó
chẳng qua chỉ là sự đình chỉ công lý giữa những bên tham chiến, những người nhận
ra rằng đức hạnh này giờ đây không còn có lợi hay hữu ích gì cho họ nữa? Luật
chiến tranh, khi đó sẽ thay thế luật
của công bằng và công lý, là
những quy luật được tính toán vì thuận lợi và hữu
ích
của quốc gia cụ thể đó, trong đó con
người đang sống. Và nếu một quốc gia văn minh giao chiến với những dân man rợ, những người không tuân thủ bất kỳ quy
luật nào ngay cả trong chiến tranh; thì quốc gia văn minh cũng phải đình chỉ việc
tuân thủ chúng, khi chúng không còn phục vụ cho bất kỳ mục đích nào nữa; và phải
khiến mọi hành động hay chạm trán trở nên đẫm máu và tàn khốc nhất có thể với những
người khởi đầu xâm
lược.
M 3.12, SBN 188
Thế nên,
những quy luật về công
bằng hay công lý hoàn toàn tùy thuộc vào trạng thái và điều kiện cụ thể vốn con
người được đặt vào, và nguồn gốc cũng như sự hiện hữu của chúng bắt nguồn từ HỮU
ÍCH đó, vốn công chúng nhận
được từ việc tuân thủ nghiêm ngặt và đều đặn của họ. Ngược lại, trong bất kỳ hoàn cảnh đáng kể nào,
tình trạng của con người: Tạo ra sự sung túc tột độ hay sự cần thiết tột độ: Cấy
ghép vào lòng người sự điều độ và nhân đạo toàn hảo, hay sự tham lam và ác ý toàn
hảo: Bằng cách khiến công lý hoàn toàn vô dụng, chúng ta đã hoàn toàn
phá hủy yếu tính của
nó và đình chỉ nghĩa vụ của nó với loài người.
M 3.13, SBN 188
Hoàn cảnh thông
thường của xã hội là một môi trường nằm giữa tất cả những thái cực này.
Chúng ta vốn dĩ thiên vị bản thân và bạn bè; nhưng chúng ta có thể học cách nhìn nhận những hữu ích đem
đến từ một
hành vi ứng xử công
bằng hơn. Ít có vui sướng nào
được ban tặng cho chúng ta từ bàn tay rộng mở và bao dung của thiên nhiên;
nhưng bằng nghệ thuật, lao động và sự cần cù, chúng ta có thể khai thác chúng một
cách dồi dào. Do đó, ý tưởng về tài sản trở nên cần thiết trong mọi xã hội dân
sự: Do đó, công lý có được sự hữu ích của nó với công chúng: và chỉ từ đó mới nảy sinh giá trị và sức mạnh ràng buộc của
nó như một nghĩa vụ đạo đức.
M 3.14, SBN 188-9
Những kết luận này quá tự nhiên và hiển nhiên, đến nỗi
ngay cả những nhà thơ cũng không thể tránh khỏi, khi mô tả về sự thịnh vượng, đã gán cho thời hoàng kim hay triều
đại của Saturn [5].
Trong giai đoạn sơ khai đó của
tự nhiên, những mùa
đều ôn hòa, nếu như chúng ta tin vào những câu chuyện hư cấu thú vị này, đến nỗi con người không cần phải sắm
sửa quần áo và nhà cửa để chống chọi với cái nóng và cái lạnh khắc nghiệt: Những
dòng sông chảy đầy rượu và sữa: Những cây sồi cho mật
ong; và thiên nhiên tự nhiên sản sinh ra những cao lương mỹ vị tuyệt vời nhất. Nhưng đó
cũng không phải là những thuận lợi chính của thời hạnh phúc ấy. Không chỉ riêng bão tố bị loại bỏ khỏi tự
nhiên; nhưng cả những cơn bão dữ dội hơn trong lòng người, những cơn bão giờ
đây gây ra biết bao náo động và hoang mang, cũng hoàn toàn không nghe nói đến. Lòng
tham của cải và khát vọng quyền lực; sự tàn ác, ích kỷ, chưa bao giờ được nghe
nói đến: Tình cảm chân thành, lòng trắc ẩn, sự đồng cảm, là những cảm xúc duy
nhất vốn não thức từng quen thuộc. Ngay cả sự phân biệt rạch ròi giữa “của tôi”
và “của bạn” cũng đã bị xóa bỏ khỏi giống loài phàm trần hạnh phúc ấy, và mang
theo cả khái niệm về tài sản và nghĩa vụ, công lý và bất công.
M 3.15, SBN 189
Hư cấu
thi ca này của thời đại hoàng kim, trong một số phương diện, tương đồng với giả thuyết triết học về trạng
thái của thế giới tự
nhiên; chỉ có điều trạng thái trước được trình bày như là trạng thái quyến rũ nhất và
yên bình nhất, có thể tưởng tượng được; trong khi trạng thái sau được mô tả như
một trạng thái chiến tranh và bạo lực với lẫn
nhau, đi kèm với sự khốn cùng cùng cực. Chúng ta được biết rằng vào thời kỳ khởi
nguyên của loài người, sự ngu dốt và bản chất man rợ của họ rất phổ biến, đến nỗi
họ không thể tin tưởng lẫn nhau, vốn mỗi người phải dựa vào chính mình, và sức
mạnh hay sự xảo quyệt của riêng mình để tự vệ
và bảo đảm an toàn. Không có luật pháp nào được biết đến: Không có quy luật của
công lý nào được công nhận: Không có sự phân biệt nào về quyền sở hữu được tôn
trọng: Quyền lực là thước đo duy nhất của cái đúng; và kết quả là một chiến
tranh liên miên của tất cả chống lại tất cả, phát sinh từ sự ích kỷ và man rợ chưa
được chế ngự của con người[11].
M 3.16, SBN 190
Liệu một trạng thái như vậy của bản chất con người có
từng tồn tại hay không, hay nếu có, liệu nó có thể kéo dài đủ lâu để xứng đáng
được gọi là một “trạng thái” hay không, vẫn có thể bị đặt hoài nghi một cách chính đáng. Con người nhất thiết
được sinh ra trong một gia đình – một hình thức xã hội cơ bản, ít nhất – và được cha mẹ dạy dỗ
theo một số quy luật ứng xử và hành vi nhất định. Nhưng
phải nhìn nhận rằng, nếu một trạng thái chiến tranh và bạo lực với lẫn nhau như
vậy từng thực sự tồn tại, thì việc đình chỉ tất cả những luật lệ của công lý – do sự hoàn toàn vô dụng
của chúng – sẽ là một hệ quả tất yếu và không thể tránh khỏi.
M 3.17, SBN 190
Chúng ta càng thay đổi những cái nhìn của chúng ta về đời sống con người, và càng đặt nó dưới những cách nhìn mới chúng ta sẽ càng
thêm tin tưởng rằng nguồn gốc được gán cho đức hạnh công lý ở đây là chân thực
và hài lòng thuyết phục
M 3.18, SBN 190-1
Nếu có một loài sinh vật nào đó, sống lẫn lộn với loài
người, dù có lý trí, nhưng chúng lại
sở hữu sức lực quá yếu kém, thể chất lẫn tinh thần, khiến chúng chúng hoàn toàn không có khả năng kháng cự,
và không bao giờ, dù bị khiêu khích đến mức độ cao nhất, chúng cũng không khiến
chúng ta cảm nhận được những căm
phẫn của chúng; tôi nghĩ, hệ quả tất yếu là, theo
luật nhân đạo, chúng ta phải đối xử dịu nhẹ với những sinh vật này, nhưng nói một
cách chính xác, chúng ta không hề bị bất kỳ ràng buộc nào của công lý
với chúng, và chúng cũng không thể sở hữu bất kỳ quyền hay tài sản nào độc lập trước những chủ nhân độc đoán của chúng.
Quan hệ
giữa chúng ta và chúng không thể gọi là xã hội, vốn xã hội đòi hỏi một mức độ bình
đẳng nhất định, nhưng thay vào đó chỉ là sự
thống trị tuyệt đối ở một bên và sự phục tùng nô lệ ở bên kia. Bất cứ gì
chúng ta ham muốn, chúng phải nhường ngay lập tức: Sự cho phép của chúng ta là
cơ sở duy nhất để chúng được giữ những
gì chúng có; lòng trắc ẩn và sự tử tế của chúng ta là rào cản duy nhất kiềm chế
ý chí vô luật pháp của chúng ta. Và vì không có bất kỳ bất tiện nào từng phát sinh từ việc thực thi một
quyền lực đã được thiết lập vững chắc như vậy trong tự nhiên, những
ràng buộc của công lý và quyền sở hữu – là hoàn toàn vô dụng, sẽ không có chỗ trong một liên kết
bất bình đẳng như vậy.
M 3.19, SBN 191
Đây rõ ràng là tình
trạng của con người với loài vật; và việc loài vật có thể được coi là có lý trí
đến mức độ nào, tôi sẽ để người khác phán xét. Sự vượt trội lớn lao mà người
châu Âu văn minh tự cho họ có so với những người Indian bị coi là man rợ đã khiến
chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta đứng ở vị thế tương tự với họ, và điều đó đã
khiến chúng ta vứt bỏ mọi ràng buộc về công lý, và ngay cả nhân đạo, trong cách
chúng ta đối xử với họ. Ở nhiều quốc gia, phái nữ bị hạ xuống thành nô lệ, và bị
coi là không có khả năng sở hữu bất kỳ tài sản nào, chống lại những người chủ quyền
quý của họ. Nhưng mặc dù phái nam, khi đoàn kết, ở mọi quốc gia, đều có đủ sức
mạnh thể chất để duy trì sự chuyên chế tàn bạo này; nhưng nhờ sự thuyết phục,
khéo léo và quyến rũ của những người bạn đồng hành nữ, phụ nữ thường có khả
năng phá vỡ liên minh đó và chia sẻ với nam giới trong tất cả những quyền và đặc
quyền của xã hội. [6]
M 3.20, SBN 191-2
Nếu loài người được tự nhiên sắp đặt sao cho mỗi cá thể đều sở hữu trong mình
mọi khả năng cần thiết, vừa để tự bảo tồn bản thân vừa để duy trì nòi giống; Nếu
mọi quan hệ xã
hội và giao tiếp giữa người với người
đều bị cắt đứt ngay từ ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa tối cao:
Rõ ràng là một sinh vật cô độc như vậy sẽ không thể có khái niệm về công lý, cũng như không thể có trò chuyện hay
giao tiếp xã hội. Khi sự tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau không phục vụ
cho bất kỳ mục đích nào, chúng
sẽ không bao giờ chỉ đạo hành vi ứng xử của
bất kỳ con người biết điều hợp
lý nào. Sức mạnh bộc phát của những đam mê sẽ
không bị bất kỳ cân nhắc nào về hậu quả tương lai ngăn cản, vì mỗi người ở đây
được giả định là chỉ yêu thương bản thân mình, và chỉ dựa vào nỗ lực của chính
mình cho sự bảo đảm an toàn và hạnh phúc, người này sẽ, trong mọi hoàn cảnh, dùng hết sức mình để giành lấy
ưu thế hơn mọi sinh vật khác – với những sinh vật đó, người
này không hề bị ràng buộc bởi bất kỳ
liên hệ nào, dù là tự nhiên hay hữu ích.
M 3.21, SBN 192
Nhưng giả định rằng sự
kết hợp giữa hai giới tính đã được thiết lập trong tự nhiên, một gia đình sẽ
ngay lập tức hình thành; và những quy luật cụ thể được thấy là cần thiết cho sự
bền vững của nó, những quy luật này sẽ được chấp nhận ngay lập tức, mặc dù
không mở rộng chúng cho phần còn lại của loài người. Giả định tiếp theo rằng
nhiều gia đình hợp lại với nhau vào thành một xã hội, hoàn toàn tách biệt với tất
cả những xã hội khác, những quy luật vốn duy trì hòa bình và trật tự sẽ mở rộng
đến tối đa của xã hội đó; nhưng chúng trở nên hoàn toàn vô dụng và mất đi hiệu lực,
khi vượt ra ngoài phạm vi đó. Lại giả định rằng nhiều xã hội riêng biệt duy trì
một loại giao tiếp vì sự thuận tiện và lợi ích chung, những ranh giới của công
lý sẽ mở rộng hơn, tỷ lệ thuận với sự rộng lớn của quan điểm của con người và sức
mạnh của những liên kết giữa họ. Lịch sử, kinh nghiệm, lý
trí hướng dẫn chúng ta một cách đầy đủ về sự tiến triển tự nhiên này của tình cảm
con người, và trong việc mở rộng dần dần quan điểm của chúng ta về công lý, tỷ
lệ thuận với việc chúng ta làm quen với hữu ích rộng lớn của đức hạnh đó.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
 
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com 
[1] “public utility”: công ích, hữu ích chung cho cộng đồng
[2] In Hume –
friendship là những liên kết đặc biệt của tình cảm, sự thân mật và thiện chí với
nhau giữa mọi cá nhân
[3] khái niệm quyền sở hữu không phát sinh từ giá trị nội tại của một vật,
mà từ sự khan hiếm và tính hữu dụng của nó. Khi một thứ gì đó dồi dào và dễ tiếp
cận, chẳng hạn như đất trống trong trường hợp này, thì không có lý do gì để
chia cắt hay tranh giành nó. Nhưng khi một thứ gì đó có hạn và thiết yếu, như
nước ở vùng khô hạn, mọi người thường bắt đầu coi nó là tài sản – thứ gì đó thuộc
về ai đó và phải được quản lý thông qua những quy luật hoặc phong tục.
[4] Khi Hume nói về “community of goods”
ông đề cập đến những nỗ lực lịch sử nhằm xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân và thay
vào đó là nắm giữ tài sản và của cải chung – một khái niệm gần giống với những hình
thức sống cộng đồng sớm nhất, chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy, hoặc chủ nghĩa xã
hội không tưởng. Những thí nghiệm này nhằm mục đích xóa bỏ quyền sở hữu cá nhân
để thúc đẩy bình đẳng, sự gắn kết xã hội, và lợi ích chung của tài sản cộng đồng. Mặc dù thường xuất phát
từ sự nhiệt tình đạo đức hoặc tinh thần lý tưởng mãnh liệt, những nỗ lực như vậy
thường phải đối mặt với những khó khăn thực tiễn và thường sụp đổ dưới sức nặng
của sự tái xuất hiện của lợi ích cá nhân.
Những thí dụ
đáng chú ý gồm:
(a) Những
Cộng Đồng người Kitô Ban đầu (thế kỷ 1 CE, Địa Trung Hải): Như được mô tả trong Công Vụ
những Sứ Đồ (Acts 2:44; 4:32), những người Kitô đầu tiên chia sẻ tất cả tài sản
chung, phân phối tài nguyên theo nhu cầu. Điều này phản ánh một lý tưởng tinh
thần về sự tương trợ,
đoàn kết, và từ bỏ của cải cá nhân.
(b) Những
Dòng Tu (Châu Âu thời trung cổ): những cộng đồng tôn giáo như dòng Benedictines
sống theo một đời sống cộng đồng nghiêm ngặt, từ bỏ tài sản tư nhân như một
phần của lời thề sống nghèo
khổ. những tu sĩ sống cùng nhau, làm việc tập thể, và chia sẻ tất cả tài sản,
được hướng dẫn bởi kỷ luật tôn giáo hơn là ý thức hệ chính trị.
(c) Nhóm
The Diggers (Anh, 1649): Trong hậu quả của Nội Chiến Anh, nhóm The Diggers (còn
được gọi là True Levellers) tìm cách tái chiếm những vùng đất cho cộng đồng và canh tác cộng đồng. Họ bác bỏ quyền sở hữu đất tư nhân
như một nguồn gốc của bất bình đẳng và bất công, ủng hộ chủ nghĩa cộng sản nông
nghiệp dựa trên luật đạo Kitô
và luật tự nhiên.
(d) Lý
Tưởng Triết Học – Republic Của Plato (thế kỷ 4 TCN): Trong viễn tưởng về một xã hội công bằng, Plato đề
xuất rằng giai cấp giám hộ – những người được giao nhiệm vụ bảo vệ và quản lý thành phố
– không nên có tài sản tư nhân, sống cộng đồng, và nuôi dạy trẻ em tập thể.
Điều này nhằm ngăn chặn sự gắn bó ích kỷ và phe phái, cho phép họ cống hiến
hoàn toàn cho lợi ích chung. Mặc dù có tính giai cấp sâu xa và
lý thuyết, mô hình của Plato dự báo trước nhiều ý tưởng sau này về đời sống
cộng đồng và tài nguyên tập thể. Nó được hiểu gần nhất như một lý tưởng tiền-cộng sản hoặc tiền-xã hội chủ nghĩa giới hạn trong một
giai cấp thống trị ưu tú, hơn là một kêu gọi cho sự bình đẳng hoàn toàn trong xã hội.
(e) Những
Nhà Xã Hội Chủ Nghĩa Không Tưởng (Đầu thế kỷ 19, Châu Âu): những nhà tư tưởng
như Robert Owen, Charles Fourier, và Henri de Saint-Simon đã tạo ra những cộng
đồng có chủ đích dựa trên quyền sở hữu chung và lao động hợp tác. Mặc dù khác
nhau về chi tiết, những thí nghiệm này đặt nền móng cho những lý thuyết chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sau này, viễn tưởng một xã hội hòa hợp được giải phóng khỏi những bất bình đẳng kinh tế.
(f) Công
Xã Paris (Pháp, 1871): Mặc dù xảy ra gần một thế kỷ sau cái chết của Hume, Công
xã Paris đứng như một thí nghiệm hiện đại nổi bật trong quản trị cộng đồng. Một
phong trào cấp tiến, từ dưới lên trên, do công nhân lãnh đạo, nó thực hiện sự kiểm soát dân chủ, bãi bỏ chế độ
quân dịch, thúc đẩy kinh tế hợp tác, và nhấn mạnh phúc lợi xã hội. Mặc dù khác
với chủ nghĩa cộng đồng ưu tú của Plato, nó cũng bác bỏ quyền sở hữu tư nhân để
ủng hộ lợi ích tập thể. Từ một cái nhìn hồi tưởng, Công xã Paris là một thí dụ về loại cấu trúc cộng
đồng lý tưởng nhưng không ổn định mà Hume đã phân tích: một cấu trúc xuất hiện
trong thời kỳ nhiệt huyết mãnh liệt, nhưng cuối cùng phải đấu tranh với lực
lượng bền vững của những lợi
ích cá nhân.
Hume lưu ý
rằng những hệ thống cộng đồng như vậy thường xuất hiện trong những thời kỳ của nhiệt tình đạo đức hoặc tôn giáo, khi lý thuyết lý tưởng vượt qua những quan tâm thực tiễn. Tuy nhiên, kinh
nghiệm sớm tiết lộ những khiếm khuyết của chúng: sự tái xuất hiện của lợi ích
cá nhân, sự khó khăn trong việc duy trì bình đẳng, và sự đổ vỡ của những cam kết chung. Kết quả là, những hệ
thống này có khuynh hướng quay trở lại những thể chế của quyền sở hữu tư nhân
và công lý hình thức.
Đối với Hume, điều này xác nhận rằng công lý không phải là một lý tưởng tự
nhiên hoặc vĩnh cửu, nhưng là
một quy ước sinh ra từ sự cần thiết – được xây dựng trên thực tế của bản chất
con người và những yêu cầu của đời sống xã hội.
[5] Metamorphoses của Publius Ovidius Naso, viết vào khoảng năm
8 CN, là một bài thơ thần thoại dài kể lại lịch sử thế giới từ khi sáng thế đến
triều Augustus. Trong Sách I, Ovid mô tả Thời đại Hoàng kim dưới thời Saturn là
thời kỳ hòa bình, sung túc và trong trắng, khi thiên nhiên ban tặng tự do,
không có sở hữu tư nhân, và công lý thif không cần thiết, một viễn cảnh thơ mộng
được Hume nhắc tóm tắt ở đây.
[6] Hume lập luận rằng công lý đòi hỏi một sự cân bằng quyền lực nhất định.
Khi một bên hoàn toàn chiếm ưu thế (như con người đối với động vật, hay đàn ông
đối với phụ nữ (trong một số xã hội), công lý không có hiệu lực. Sự áp bức của
thực dân cũng minh họa cho logic tương tự: người châu Âu, vốn cho rằng người bản
địa là những kẻ thấp kém hơn hẳn, cảm thấy được thoát khỏi nghĩa vụ công lý. 

 
