Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức
(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Về Công Lý.
PHẦN
I.
M
3.1, SBN 183
Rằng công lý có lợi cho xã hội, do đó, và ít nhất
một phần giá trị đạo đức của nó đến từ sự có lợi này, sẽ
là một cố gắng thừa thãi. Nhưng tuyên bố rằng lợi ích công cộng là
nguồn gốc duy nhất của công lý, và rằng cảm giác của chúng ta về giá trị đạo đức
của nó hoàn toàn đến từ việc suy ngẫm về những hiệu quả có lợi của nó – đây là
một ý tưởng thú vị và quan trọng hơn, và một ý tưởng xứng đáng được xem xét và
điều tra cẩn thận.
M
3.2, SBN 183
Hãy giả định rằng thiên nhiên đã ban tặng cho loài
người một sự phong phú dồi dào đến mức tất cả những tiện nghi và nhu
cầu vật chất của đời sống, với kết quả được đảm bảo, và không cần bất kỳ sự
chăm sóc hay cố gắng nào từ phía chúng ta, mỗi cá nhân đều thấy mình được cung
cấp đầy đủ mọi sự vật việc vốn sự thèm muốn khát khao nhất có thể đòi hỏi, hoặc
trí tưởng tượng xa hoa nhất có thể mong muốn hoặc ao ước. Hơn nữa, hãy giả định
rằng cái đẹp tự nhiên của con người, ta có thể cho rằng,
vượt qua mọi trang sức cầu kỳ: Sự ôn hòa vĩnh cửu của bốn mùa khiến mọi quần
áo, vật dụng che thân trở nên không cần thiết: Cỏ tươi mang đến cho con người những món ăn ngon nhất; suối nước
trong vắt cung cấp thức uống bổ dưỡng
nhất. Không cần lao động nặng nhọc: Không cần cày cấy: Không cần giao
thương hàng hải. Âm nhạc, thơ ca và sự chiêm nghiệm thưởng
ngoạn là công việc duy nhất của con người: Trò chuyện,
thích thú vui vẻ và tình thân thiện là thú vui duy nhất của con người.
M
3.3, SBN 183-4
Xem
dường là hiển nhiên rằng, trong
một trạng thái hạnh phúc như vậy, mọi đức hạnh xã hội khác sẽ phát triển mạnh mẽ và tăng gấp mười lần; tuy
nhiên, đức hạnh thận trọng, cẩn mật của công lý, luôn quan tâm đến việc bảo vệ
tài sản và quyền lợi, giữ gìn sự công bằng, thậm chí còn chẳng được ai nghĩ
đến. Vì lý do gì cần phải phân chia tài sản khi mọi người đã có nhiều hơn đủ? Tại sao cần thiết lập
quyền sở hữu khi không có tổn hại nào có thể xảy ra? Tại sao phải tuyên bố bất
cứ thứ gì là của tôi, khi nếu người khác lấy nó, tôi chỉ cần với tay để lấy một
thứ có giá trị tương đương? Công lý, trong một trường hợp như vậy, hoàn toàn VÔ DỤNG, sẽ chỉ là một nghi lễ trống rỗng, và không bao giờ có thể tìm thấy một
vị trí trong số những đức hạnh thực sự.
M
3.4, SBN 184
Chúng ta thấy rằng, ngay cả trong tình trạng thiếu
thốn hiện tại của loài người, bất cứ nơi nào có bất kỳ lợi ích nào được thiên
nhiên ban cho phong phú vô hạn, chúng ta luôn để nó có chung cho toàn thể loài
người và không phân chia nhỏ quyền lợi và sở hữu tài sản. Nước và không khí, dù
là những thiết yếu nhất chúng ta cần có hoặc dùng, không được coi như tài sản
cá nhân; và không ai có thể phạm vào bất công qua việc đem dùng và nhận hưởng,
dù phung phí cách nào những “của trời” ban này. Ở những quốc gia rộng lớn và
phì nhiêu với ít dân số, đất đai được coi theo cùng một cơ sở. Và không có đề
tài nào được những người bảo vệ quyền tự do trên biển, nhấn mạnh nhiều như việc
dùng không cạn kiệt của họ trong giao
thương hàng hải. Nếu những lợi ích mà giao thương hàng hải. mang
lại cũng vô tận như vậy, những người lý luận này sẽ không bao giờ có bất kỳ đối
thủ nào để bác bỏ; và không có bất kỳ yêu sách nào về một sự thống trị riêng biệt,
độc quyền trên đại dương từng được đưa ra.
M
3.5, SBN 184
Có
thể xảy ra, ở một số quốc gia, vào một thời kỳ
nào đó, người ta thiết lập quyền sở hữu tài sản với
nước, nhưng không với đất [10];
nếu đất đai quá dồi dào đến mức dư thừa cho tất cả mọi
người, và không ai cảm thấy cần phải tuyên bố quyền sở hữu độc quyền đối với
nó. Nhưng ngược lại, nước có thể hiếm, và chỉ có sẵn với số lượng nhỏ. Vì khan hiếm và cần thiết, người ta
bắt đầu coi nó như một gì có thể sở hữu,
kiểm soát hoặc phân phối – một gì cần có sự cho phép hoặc quyền sử dụng. [1]
M
3.6, SBN 184-5
Lại
nữa; giả định rằng, mặc dù nhu cầu của loài người vẫn tiếp tục như hiện tại,
nhưng tinh thần lại mở, rộng đầy thân thiện và hào phóng, đến mức mỗi người
đều vô cùng dịu dàng với nhau, và không quan tâm đến tiện ích của riêng mình
hơn là tiện ích của đồng loại: Rõ ràng là, trong trường hợp này, việc thực
hiện công lý sẽ bị đình chỉ bởi lòng từ thiện bao la
như vậy, cũng như những sự phân chia và rào cản về tài sản và nghĩa vụ sẽ không
bao giờ được nghĩ đến. Tại sao tôi lại ràng buộc người khác, bằng một hành động
hoặc lời hứa, để làm bất kỳ việc tốt nào cho tôi, khi tôi biết rằng người này
đã được thúc đẩy, bởi khuynh hướng mạnh mẽ nhất, để tìm kiếm hạnh phúc của tôi,
và tự mình, sẽ thực hiện dịch vụ mong muốn; ngoại trừ tổn thương vốn người này
nhận được lớn hơn tiện ích vốn tôi nhận được? Trong trường hợp đó, người này biết
rằng, từ lòng nhân đạo và tình thân thiện bẩm sinh của mình, tôi sẽ là người đầu
tiên chống lại sự hào phóng thiếu thận trọng của người này. Tại sao lại dựng
lên những mốc ranh giới giữa cánh đồng của hàng xóm và cánh đồng của tôi, khi
trái tim tôi không hề phân chia tiện ích của chúng ta; nhưng chia sẻ mọi vui buồn
của mình với cùng một sức mạnh và sự sống động như thể ban đầu là của chính
tôi? Mỗi người, dựa trên giả định này, là một bản thể thứ hai của người khác, sẽ
giao phó mọi tiện ích của mình cho sự cân nhắc của mọi người; không ghen tị,
không chia rẽ, không phân biệt. Và toàn thể loài người sẽ chỉ hình thành một
gia đình; nơi tất cả sẽ là của chung, được dùng tự do, không phân biệt tài sản;
nhưng cũng thận trọng, hoàn toàn quan tâm đến nhu cầu của mỗi cá nhân, như thể
tiện ích của chính chúng ta là mối quan tâm sâu xa nhất.
M
3.7, SBN 185-6
Trong
tình trạng hiện tại của bản chất con người, có lẽ khó tìm thấy những thí dụ
hoàn chỉnh về tình cảm rộng rãi như vậy; nhưng
chúng ta vẫn có thể nhận thấy rằng trường hợp của những gia đình đang tiến gần
đến nó; và tình thương lẫn nhau càng mạnh mẽ giữa những cá nhân, thì càng gần hơn,
cho đến khi mọi sự phân biệt về tài sản bị mất và hòa lẫn
trong một mức độ lớn giữa họ. Giữa những người
đã kết hôn, sợi dây gắn kết của tình thân được luật pháp cho là bền chặt đến mức
xóa bỏ mọi sự phân chia về sở hữu tài sản; và
trên thực tế, nó thường có sức mạnh như người ta vẫn gán cho nó. Và
có thể thấy rằng, trong cơn sốt của những nhiệt huyết mới – khi mọi nguyên lý đều bị thổi bùng đến
thái quá – ý tưởng sở hữu tất cả tài sản cộng đồng đã thường được thí nghiệm.
Tuy nhiên, chỉ những bài học đắt giá rút ra từ những bất tiện của nó, xuất phát
từ sự tái xuất hiện hoặc sự tồn tại dai dẳng tiềm ẩn của lòng ích kỷ con người,
mới có thể khiến những người cuồng tín thiện chí này một lần nữa chấp nhận những
khái niệm về công lý và sở hữu tư nhân. Quả thực, công
lý chỉ tồn tại vì nó cần thiết để con người chung sống và tương tác hòa bình
trong xã hội. [2]
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
(Còn tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] khái niệm quyền sở hữu không phát sinh từ giá trị nội tại của một vật,
mà từ sự khan hiếm và tính hữu dụng của nó. Khi một thứ gì đó dồi dào và dễ tiếp
cận, chẳng hạn như đất trống trong trường hợp này, thì không có lý do gì để
chia cắt hay tranh giành nó. Nhưng khi một thứ gì đó có hạn và thiết yếu, như
nước ở vùng khô hạn, mọi người thường bắt đầu coi nó là tài sản - thứ gì đó thuộc
về ai đó và phải được quản lý thông qua các quy tắc hoặc phong tục.
[2] Khi Hume nói về “community of
goods” ông đề cập đến những nỗ lực lịch sử nhằm xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân và
thay vào đó là nắm giữ tài sản và của cải chung—một khái niệm gần giống với
những hình thức sống cộng đồng sớm nhất, chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy, hoặc
chủ nghĩa xã hội không tưởng. Những thí nghiệm này nhằm mục đích xóa bỏ quyền
sở hữu cá nhân để thúc đẩy bình đẳng, sự gắn kết xã hội, và lợi ích chung của tài sản cộng đồng. Mặc dù thường xuất
phát từ sự nhiệt tình đạo đức hoặc tinh thần lý tưởng
mãnh liệt, những nỗ lực như vậy
thường phải đối mặt với những khó khăn thực tiễn và thường sụp đổ dưới sức nặng
của sự tái xuất hiện của lợi ích cá nhân.
Những thí dụ đáng chú ý gồm:
(a) Những Cộng Đồng
người Kitô Ban đầu (thế kỷ 1 CE, Địa Trung Hải): Như được mô tả trong
Công Vụ những Sứ Đồ (Acts 2:44; 4:32), những người Kitô đầu tiên chia sẻ tất cả
tài sản chung, phân phối tài nguyên theo nhu cầu. Điều này phản ánh một lý
tưởng tinh thần về sự tương trợ, đoàn kết, và từ bỏ của cải cá nhân.
(b) Những Dòng Tu
(Châu Âu thời trung cổ): những cộng đồng tôn giáo như dòng Benedictines sống
theo một đời sống cộng đồng nghiêm ngặt, từ bỏ tài sản tư nhân như một phần của
lời thề sống nghèo khổ.
những tu sĩ sống cùng nhau, làm việc tập thể, và chia sẻ tất cả tài sản, được
hướng dẫn bởi kỷ luật tôn giáo hơn là ý thức hệ chính trị.
(c) Nhóm The
Diggers (Anh, 1649): Trong hậu quả của Nội Chiến Anh, nhóm The Diggers (còn
được gọi là True Levellers) tìm cách tái chiếm những vùng đất cho cộng đồng và canh tác cộng đồng. Họ bác bỏ quyền sở hữu đất tư nhân như một nguồn gốc
của bất bình đẳng và bất công, ủng hộ chủ nghĩa cộng sản nông nghiệp dựa trên
luật đạo Kitô và luật tự
nhiên.
(d) Lý Tưởng Triết
Học – Republic Của Plato (thế kỷ 4 TCN): Trong viễn cảnh của ông về một xã hội công bằng, Plato đề xuất rằng giai cấp giám hộ —những người được giao nhiệm vụ
bảo vệ và quản lý thành phố—không nên có tài sản tư nhân, sống cộng đồng, và
nuôi dạy trẻ em tập thể. Điều này nhằm ngăn chặn sự gắn bó ích kỷ và phe phái,
cho phép họ cống hiến hoàn toàn cho lợi ích chung. Mặc dù có tính giai cấp sâu xa và lý thuyết, mô hình của Plato
dự báo trước nhiều ý tưởng sau này về đời sống cộng đồng và tài nguyên tập thể. Nó được hiểu gần nhất như một lý tưởng tiền-cộng sản hoặc tiền-xã hội chủ nghĩa giới hạn trong
một giai cấp thống trị ưu tú, hơn là một lời kêu gọi cho sự bình đẳng xã
hội toàn vẹn.
(e) Những Nhà Xã
Hội Chủ Nghĩa Không Tưởng (Đầu thế kỷ 19, Châu Âu): những nhà tư tưởng như
Robert Owen, Charles Fourier, và Henri de Saint-Simon đã tạo ra những cộng đồng
có chủ đích dựa trên quyền sở hữu chung và lao động hợp tác. Mặc dù khác nhau
về chi tiết, những thí nghiệm này đặt nền móng cho những lý thuyết chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản sau này, viễn tưởng một xã hội hòa hợp được giải phóng khỏi những bất bình đẳng kinh tế.
(f) Công Xã Paris
(Pháp, 1871): Mặc dù xảy ra gần một thế kỷ sau cái chết của Hume, Công xã Paris
đứng như một thí nghiệm hiện đại nổi bật trong quản trị cộng đồng. Một phong
trào cấp tiến, từ dưới lên trên, do công nhân lãnh đạo, nó thực hiện sự kiểm soát dân chủ, bãi bỏ chế độ quân
dịch, thúc đẩy kinh tế hợp tác, và nhấn mạnh phúc lợi xã hội. Mặc dù khác với
chủ nghĩa cộng đồng ưu tú của Plato, nó cũng bác bỏ quyền sở hữu tư nhân để ủng
hộ lợi ích tập thể. Từ một cái nhìn hồi tưởng, Công xã Paris là một thí dụ về loại cấu
trúc cộng đồng lý tưởng nhưng không ổn định mà Hume đã phân tích: một cấu trúc
xuất hiện trong thời kỳ nhiệt huyết mãnh liệt, nhưng cuối cùng phải đấu tranh
với lực lượng bền vững của những lợi ích cá nhân.
Hume lưu ý rằng những hệ thống cộng đồng như vậy thường xuất hiện trong những thời kỳ nhiệt tình đạo đức hoặc tôn giáo, khi chủ thuyết lý tưởng vượt qua những quan tâm thực tiễn. Tuy nhiên, kinh nghiệm sớm tiết lộ những khiếm khuyết của chúng: sự tái xuất hiện của lợi ích cá nhân, sự khó khăn trong việc duy trì bình đẳng, và sự đổ vỡ của những cam kết chung. Kết quả là, những hệ thống này có xu hướng quay trở lại những thể chế của quyền sở hữu tư nhân và công lý hình thức. Đối với Hume, điều này xác nhận rằng công lý không phải là một lý tưởng tự nhiên hoặc vĩnh cửu, nhưng là một quy ước sinh ra từ sự cần thiết—được xây dựng trên thực tế của bản chất con người và những yêu cầu của đời sống xã hội.