Friday, August 1, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (04)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 David Hume

 

( ← ... tiếp theo )

 

 



MỤC III.

Về Công Lý.

 

PHẦN I.

M 3.1, SBN 183

Rằng công lý có lợi cho xã hội, do đó, và ít nhất một phần giá trị đạo đức của nó đến từ sự có lợi này, sẽ là một cố gắng thừa thãi. Nhưng tuyên bố rằng lợi ích công cộng là nguồn gốc duy nhất của công lý, và rằng cảm giác của chúng ta về giá trị đạo đức của nó hoàn toàn đến từ việc suy ngẫm về những hiệu quả có lợi của nó – đây là một ý tưởng thú vị và quan trọng hơn, và một ý tưởng xứng đáng được xem xét và điều tra cẩn thận.

 

M 3.2, SBN 183

Hãy giả định rằng thiên nhiên đã ban tặng cho loài người một sự phong phú dồi dào đến mức tất cả những tiện nghi và nhu cầu vật chất của đời sống, với kết quả được đảm bảo, và không cần bất kỳ sự chăm sóc hay cố gắng nào từ phía chúng ta, mỗi cá nhân đều thấy mình được cung cấp đầy đủ mọi sự vật việc vốn sự thèm muốn khát khao nhất có thể đòi hỏi, hoặc trí tưởng tượng xa hoa nhất có thể mong muốn hoặc ao ước. Hơn nữa, hãy giả định rằng cái đẹp tự nhiên của con người, ta có thể cho rằng, vượt qua mọi trang sức cầu kỳ: Sự ôn hòa vĩnh cửu của bốn mùa khiến mọi quần áo, vật dụng che thân trở nên không cần thiết: Cỏ tươi mang đến cho con người những món ăn ngon nhất; suối nước trong vắt cung cấp thức uống bổ dưỡng nhất. Không cần lao động nặng nhọc: Không cần cày cấy: Không cần giao thương hàng hải. Âm nhạc, thơ ca và sự chiêm nghiệm thưởng ngoạn là công việc duy nhất của con người: Trò chuyện, thích thú vui vẻ và tình thân thiện là thú vui duy nhất của con người.

 

M 3.3, SBN 183-4

Xem dường là hiển nhiên rằng, trong một trạng thái hạnh phúc như vậy, mọi đức hạnh xã hội khác sẽ phát triển mạnh mẽ và tăng gấp mười lần; tuy nhiên, đức hạnh thận trọng, cẩn mật của công lý, luôn quan tâm đến việc bảo vệ tài sản và quyền lợi, giữ gìn sự công bằng, thậm chí còn chẳng được ai nghĩ đến. Vì lý do gì cần phải phân chia tài sản khi mọi người đã có nhiều hơn đủ? Tại sao cần thiết lập quyền sở hữu khi không có tổn hại nào có thể xảy ra? Tại sao phải tuyên bố bất cứ thứ gì là của tôi, khi nếu người khác lấy nó, tôi chỉ cần với tay để lấy một thứ có giá trị tương đương? Công lý, trong một trường hợp như vậy, hoàn toàn VÔ DỤNG, sẽ chỉ là một nghi lễ trống rỗng, và không bao giờ có thể tìm thấy một vị trí trong số những đức hạnh thực sự.

 

M 3.4, SBN 184

Chúng ta thấy rằng, ngay cả trong tình trạng thiếu thốn hiện tại của loài người, bất cứ nơi nào có bất kỳ lợi ích nào được thiên nhiên ban cho phong phú vô hạn, chúng ta luôn để nó có chung cho toàn thể loài người và không phân chia nhỏ quyền lợi và sở hữu tài sản. Nước và không khí, dù là những thiết yếu nhất chúng ta cần có hoặc dùng, không được coi như tài sản cá nhân; và không ai có thể phạm vào bất công qua việc đem dùng và nhận hưởng, dù phung phí cách nào những “của trời” ban này. Ở những quốc gia rộng lớn và phì nhiêu với ít dân số, đất đai được coi theo cùng một cơ sở. Và không có đề tài nào được những người bảo vệ quyền tự do trên biển, nhấn mạnh nhiều như việc dùng không cạn kiệt của họ trong giao thương hàng hải. Nếu những lợi ích mà giao thương hàng hải. mang lại cũng vô tận như vậy, những người lý luận này sẽ không bao giờ có bất kỳ đối thủ nào để bác bỏ; và không có bất kỳ yêu sách nào về một sự thống trị riêng biệt, độc quyền trên đại dương từng được đưa ra.

 

M 3.5, SBN 184

Có thể xảy ra, ở một số quốc gia, vào một thời kỳ nào đó, người ta thiết lập quyền sở hữu tài sản với nước, nhưng không với đất [10]; nếu đất đai quá dồi dào đến mức dư thừa cho tất cả mọi người, và không ai cảm thấy cần phải tuyên bố quyền sở hữu độc quyền đối với nó. Nhưng ngược lại, nước có thể hiếm, và chỉ có sẵn với số lượng nhỏ. Vì khan hiếm và cần thiết, người ta bắt đầu coi nó như một gì có thể sở hữu, kiểm soát hoặc phân phối  – một gì cần có sự cho phép hoặc quyền sử dụng. [1]

 

M 3.6, SBN 184-5

Lại nữa; giả định rằng, mặc dù nhu cầu của loài người vẫn tiếp tục như hiện tại, nhưng tinh thần lại mở, rộng đầy thân thiện và hào phóng, đến mức mỗi người đều vô cùng dịu dàng với nhau, và không quan tâm đến tiện ích của riêng mình hơn là tiện ích của đồng loại: Rõ ràng là, trong trường hợp này, việc thực hiện công lý sẽ bị đình chỉ bởi lòng từ thiện bao la như vậy, cũng như những sự phân chia và rào cản về tài sản và nghĩa vụ sẽ không bao giờ được nghĩ đến. Tại sao tôi lại ràng buộc người khác, bằng một hành động hoặc lời hứa, để làm bất kỳ việc tốt nào cho tôi, khi tôi biết rằng người này đã được thúc đẩy, bởi khuynh hướng mạnh mẽ nhất, để tìm kiếm hạnh phúc của tôi, và tự mình, sẽ thực hiện dịch vụ mong muốn; ngoại trừ tổn thương vốn người này nhận được lớn hơn tiện ích vốn tôi nhận được? Trong trường hợp đó, người này biết rằng, từ lòng nhân đạo và tình thân thiện bẩm sinh của mình, tôi sẽ là người đầu tiên chống lại sự hào phóng thiếu thận trọng của người này. Tại sao lại dựng lên những mốc ranh giới giữa cánh đồng của hàng xóm và cánh đồng của tôi, khi trái tim tôi không hề phân chia tiện ích của chúng ta; nhưng chia sẻ mọi vui buồn của mình với cùng một sức mạnh và sự sống động như thể ban đầu là của chính tôi? Mỗi người, dựa trên giả định này, là một bản thể thứ hai của người khác, sẽ giao phó mọi tiện ích của mình cho sự cân nhắc của mọi người; không ghen tị, không chia rẽ, không phân biệt. Và toàn thể loài người sẽ chỉ hình thành một gia đình; nơi tất cả sẽ là của chung, được dùng tự do, không phân biệt tài sản; nhưng cũng thận trọng, hoàn toàn quan tâm đến nhu cầu của mỗi cá nhân, như thể tiện ích của chính chúng ta là mối quan tâm sâu xa nhất.

 

M 3.7, SBN 185-6

Trong tình trạng hiện tại của bản chất con người, có lẽ khó tìm thấy những thí dụ hoàn chỉnh về tình cảm rộng rãi như vậy; nhưng chúng ta vẫn có thể nhận thấy rằng trường hợp của những gia đình đang tiến gần đến nó; và tình thương lẫn nhau càng mạnh mẽ giữa những cá nhân, thì càng gần hơn, cho đến khi mọi sự phân biệt về tài sản bị mất và hòa lẫn trong một mức độ lớn giữa họ. Giữa những người đã kết hôn, sợi dây gắn kết của tình thân được luật pháp cho là bền chặt đến mức xóa bỏ mọi sự phân chia về sở hữu tài sản; và trên thực tế, nó thường có sức mạnh như người ta vẫn gán cho nó. Và có thể thấy rằng, trong cơn sốt của những nhiệt huyết mới – khi mọi nguyên lý đều bị thổi bùng đến thái quá – ý tưởng sở hữu tất cả tài sản cộng đồng đã thường được thí nghiệm. Tuy nhiên, chỉ những bài học đắt giá rút ra từ những bất tiện của nó, xuất phát từ sự tái xuất hiện hoặc sự tồn tại dai dẳng tiềm ẩn của lòng ích kỷ con người, mới có thể khiến những người cuồng tín thiện chí này một lần nữa chấp nhận những khái niệm về công lý và sở hữu tư nhân. Quả thực, công lý chỉ tồn tại vì nó cần thiết để con người chung sống và tương tác hòa bình trong xã hội. [2]    



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com




[1] khái niệm quyền sở hữu không phát sinh từ giá trị nội tại của một vật, mà từ sự khan hiếm và tính hữu dụng của nó. Khi một thứ gì đó dồi dào và dễ tiếp cận, chẳng hạn như đất trống trong trường hợp này, thì không có lý do gì để chia cắt hay tranh giành nó. Nhưng khi một thứ gì đó có hạn và thiết yếu, như nước ở vùng khô hạn, mọi người thường bắt đầu coi nó là tài sản - thứ gì đó thuộc về ai đó và phải được quản lý thông qua các quy tắc hoặc phong tục.

[2] Khi Hume nói về “community of goods” ông đề cập đến những nỗ lực lịch sử nhằm xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân và thay vào đó là nắm giữ tài sản và của cải chung—một khái niệm gần giống với những hình thức sống cộng đồng sớm nhất, chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy, hoặc chủ nghĩa xã hội không tưởng. Những thí nghiệm này nhằm mục đích xóa bỏ quyền sở hữu cá nhân để thúc đẩy bình đẳng, sự gắn kết xã hội, và lợi ích chung của tài sản cộng đồng. Mặc dù thường xuất phát từ sự nhiệt tình đạo đức hoặc tinh thần lý tưởng mãnh liệt, những nỗ lực như vậy thường phải đối mặt với những khó khăn thực tiễn và thường sụp đổ dưới sức nặng của sự tái xuất hiện của lợi ích cá nhân.

Những thí dụ đáng chú ý gồm:

(a) Những Cộng Đồng người Kitô Ban đầu (thế kỷ 1 CE, Địa Trung Hải): Như được mô tả trong Công Vụ những Sứ Đồ (Acts 2:44; 4:32), những người Kitô đầu tiên chia sẻ tất cả tài sản chung, phân phối tài nguyên theo nhu cầu. Điều này phản ánh một lý tưởng tinh thần về sự tương trợ, đoàn kết, và từ bỏ của cải cá nhân.

(b) Những Dòng Tu (Châu Âu thời trung cổ): những cộng đồng tôn giáo như dòng Benedictines sống theo một đời sống cộng đồng nghiêm ngặt, từ bỏ tài sản tư nhân như một phần của lời thề sống nghèo khổ. những tu sĩ sống cùng nhau, làm việc tập thể, và chia sẻ tất cả tài sản, được hướng dẫn bởi kỷ luật tôn giáo hơn là ý thức hệ chính trị.

(c) Nhóm The Diggers (Anh, 1649): Trong hậu quả của Nội Chiến Anh, nhóm The Diggers (còn được gọi là True Levellers) tìm cách tái chiếm những vùng đất cho cộng đồng và canh tác cộng đồng. Họ bác bỏ quyền sở hữu đất tư nhân như một nguồn gốc của bất bình đẳng và bất công, ủng hộ chủ nghĩa cộng sản nông nghiệp dựa trên luật đạo Kitô và luật tự nhiên.

(d) Lý Tưởng Triết Học – Republic Của Plato (thế kỷ 4 TCN): Trong viễn cảnh của ông về một xã hội công bằng, Plato đề xuất rằng giai cấp giám hộ —những người được giao nhiệm vụ bảo vệ và quản lý thành phố—không nên có tài sản tư nhân, sống cộng đồng, và nuôi dạy trẻ em tập thể. Điều này nhằm ngăn chặn sự gắn bó ích kỷ và phe phái, cho phép họ cống hiến hoàn toàn cho lợi ích chung. Mặc dù có tính giai cấp sâu xa và lý thuyết, mô hình của Plato dự báo trước nhiều ý tưởng sau này về đời sống cộng đồng và tài nguyên tập thể. Nó được hiểu gần nhất như một lý tưởng tiền-cộng sản hoặc tiền-xã hội chủ nghĩa giới hạn trong một giai cấp thống trị ưu tú, hơn là một lời kêu gọi cho sự bình đẳng xã hội toàn vẹn.

(e) Những Nhà Xã Hội Chủ Nghĩa Không Tưởng (Đầu thế kỷ 19, Châu Âu): những nhà tư tưởng như Robert Owen, Charles Fourier, và Henri de Saint-Simon đã tạo ra những cộng đồng có chủ đích dựa trên quyền sở hữu chung và lao động hợp tác. Mặc dù khác nhau về chi tiết, những thí nghiệm này đặt nền móng cho những lý thuyết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sau này, viễn tưởng một xã hội hòa hợp được giải phóng khỏi những bất bình đẳng kinh tế.

(f) Công Xã Paris (Pháp, 1871): Mặc dù xảy ra gần một thế kỷ sau cái chết của Hume, Công xã Paris đứng như một thí nghiệm hiện đại nổi bật trong quản trị cộng đồng. Một phong trào cấp tiến, từ dưới lên trên, do công nhân lãnh đạo, nó thực hiện sự kiểm soát dân chủ, bãi bỏ chế độ quân dịch, thúc đẩy kinh tế hợp tác, và nhấn mạnh phúc lợi xã hội. Mặc dù khác với chủ nghĩa cộng đồng ưu tú của Plato, nó cũng bác bỏ quyền sở hữu tư nhân để ủng hộ lợi ích tập thể. Từ một cái nhìn hồi tưởng, Công xã Paris là một thí dụ về loại cấu trúc cộng đồng lý tưởng nhưng không ổn định mà Hume đã phân tích: một cấu trúc xuất hiện trong thời kỳ nhiệt huyết mãnh liệt, nhưng cuối cùng phải đấu tranh với lực lượng bền vững của những lợi ích cá nhân.

Hume lưu ý rằng những hệ thống cộng đồng như vậy thường xuất hiện trong những thời kỳ nhiệt tình đạo đức hoặc tôn giáo, khi chủ thuyết lý tưởng vượt qua những quan tâm thực tiễn. Tuy nhiên, kinh nghiệm sớm tiết lộ những khiếm khuyết của chúng: sự tái xuất hiện của lợi ích cá nhân, sự khó khăn trong việc duy trì bình đẳng, và sự đổ vỡ của những cam kết chung. Kết quả là, những hệ thống này có xu hướng quay trở lại những thể chế của quyền sở hữu tư nhân và công lý hình thức. Đối với Hume, điều này xác nhận rằng công lý không phải là một lý tưởng tự nhiên hoặc vĩnh cửu, nhưng là một quy ước sinh ra từ sự cần thiết—được xây dựng trên thực tế của bản chất con người và những yêu cầu của đời sống xã hội.