(An Enquiry Concerning the
Principles of Morals)
Tại Sao Hữu ích Làm Hài Lòng.
PHẦN I.
M 5.1, SBN 212-3
Thật
là tự nhiên khi nghĩ rằng chúng ta ca ngợi những đức hạnh xã hội vì sự hữu ích
của chúng. Điều này khiến người ta kỳ vọng sẽ thấy nguyên lý này xuất hiện ở khắp nơi trong
những tác phẩm đạo đức, như nền tảng cơ bản cho mọi lý luận và nghiên cứu.
Trong
đời sống thường ngày, con người luôn viện dẫn đến tính hữu ích. Họ nghĩ rằng
không có lời khen ngợi nào cao quý hơn việc gọi một người là hữu ích cho công
chúng và kể lại những đóng góp mà người đó đã làm cho loài
người và xã hội.
Ngay cả khi nói về những vật vô tri, chúng ta cũng đánh giá chúng theo cùng quy
luật này. Chúng ta có thể tìm thấy cái đẹp nào trong một hình dạng, nếu sự đều
đặn và thanh lịch của nó phá hủy tính hữu dụng của nó? Và còn biện hộ nào thỏa
đáng hơn sự mất cân đối hoặc dị dạng rõ ràng, hơn là chứng minh rằng chính cấu
trúc này thì cần thiết cho mục đích dự định của nó? Một
con tàu trông đẹp hơn, với
mắt
nhìn của một nghệ sĩ, hay với một người có kỹ năng hàng hải ở mức độ
vừa phải, khi mũi tàu phình ra và rộng về phía đuôi tàu, hơn là
khi nó được đóng khung với một sự đều đặn hình học chính xác, trái ngược với tất
cả những định luật cơ học. Một tòa nhà, với cửa ra vào và cửa sổ vuông vức hoàn hảo, thực sự sẽ rất
khó coi, gây
khó chịu cho mắt nhìn, vì
tỷ lệ cứng nhắc như vậy không phù hợp với nhu cầu hoặc hình dạng con người vốn
tòa nhà đã thiết kế để phục vụ cho mục đích đó. Vậy thì có gì ngạc nhiên khi một người có thói quen và
hành vi gây hại cho xã hội và mang lại nguy hiểm cho
bất kỳ ai giao tiếp với người này, vì lý do đó, trở thành đối tượng bị chỉ trích, khơi dậy trong mỗi
người chứng kiến những cảm xúc ghê tởm và oán ghét mạnh mẽ nhất [17].
M 5.2, SBN 213
Nhưng có lẽ sự khó khăn của việc giải thích cho những tác động này của sự hữu ích,
hay ngược lại của
nó (mặt trái của nó, gây hại), đã giữ những triết gia không nhận chúng vào trong những hệ thống đạo đức học của họ, và đã thúc đẩy họ dùng bất kỳ nguyên lý nào khác, trong việc giải thích nguồn gốc
của thiện và ác về đạo đức. Nhưng không là lý do chính đáng cho việc gạt bỏ bất kỳ nguyên lý nào vốn đã được kinh nghiệm xác nhận, rằng chúng
ta không thể đem cho
một giải thích thỏa đáng về nguồn gốc của
nó, cũng như không thể qui nó
về những nguyên lý khác tổng quát hơn. Nếu chúng ta suy ngẫm dù chỉ một chút, không khó để thấy
tại sao tính hữu ích lại ảnh hưởng đến những phán đoán đạo đức của chúng ta –
chúng ta có thể truy nguyên nó từ những nguyên lý quen thuộc và hiển nhiên nhất
của bản chất con người.
M 5.3, SBN 214
Từ tính hữu ích hiển nhiên của những
đức hạnh xã hội, những
người hoài nghi, cả xưa lẫn nay, đã nhanh chóng suy luận rằng tất cả những khác
biệt về đạo đức đều xuất phát từ giáo dục. Họ lập luận rằng đầu tiên những đức
hạnh được
nghĩ ra, và sau đó được tài nghệ của những chính trị gia khuyến khích, để làm
cho con người trở nên dễ bảo hơn và kiềm chế bản năng hung dữ và ích kỷ tự
nhiên của họ, những gì khiến họ không hòa nhập được với xã hội. Nguyên
lý này, trên thực tế, về dạy
dỗ và
giáo dục, phải được công nhận là có ảnh hưởng mạnh mẽ, đến mức nó có thể thường
xuyên làm tăng hay giảm, vượt quá mức độ tự nhiên của chúng, những tình cảm tán
thành hay không tán thành của
chúng ta; và
ngay cả, trong những trường hợp cụ thể, có thể tạo ra, vốn không cần bất kỳ
nguyên lý tự nhiên nào, một tình cảm mới thuộc loại này; như thể hiện rõ trong
tất cả thực hành và nghi lễ mê tín: Nhưng việc cho rằng tất cả những tình cảm tán thành hay phản đối về
đạo đức đều bắt nguồn từ nguồn gốc này sẽ không bao giờ được bất kỳ nhà nghiên
cứu sáng suốt nào chấp nhận. Nếu tự nhiên không tạo ra khác biệt như vậy, dựa trên cấu trúc ban đầu của não thức, thì những từ ngữ
đáng kính và đáng xấu hổ, đáng yêu và đáng ghét, cao quý và đáng khinh bỉ,
sẽ không bao giờ có chỗ đứng trong bất kỳ ngôn ngữ nào; và ngay cả những chính
trị gia, nếu họ đã
sáng tạo ra những thuật ngữ này, họ cũng không
bao giờ có thể giải thích chúng được cho dễ hiểu, hay khiến chúng truyền tải bất kỳ ý tưởng nào đến với người nghe. Vậy nên, không gì giả tạo hơn nghịch lý này của những người hoài
nghi. Thật tốt nếu chúng ta có thể dễ dàng bác bỏ những phản bác của những người
hoài nghi trong những lĩnh vực trừu tượng của logic và siêu hình học như cách
chúng ta làm được trong những khoa học thực tiễn và dễ hiểu hơn như chính trị học
và đạo đức học.
M 5.4, SBN 214-5
Do đó, những đức hạnh xã hội phải được
nhìn
nhận là có một cái đẹp và sự đáng yêu tự nhiên, vốn
có trước
tất cả dạy dỗ hay giáo dục nào, khiến chúng được những người chưa
được giáo dục coi trọng và thu hút tình cảm của họ. Và vì lợi ích công cộng của những đức hạnh này là
hoàn cảnh chính yếu, từ đó chúng có được giá trị của chúng. Điều này có nghĩa là mục tiêu những đức hạnh này hướng
tới phải làm chúng ta hài lòng một cách nào đó và
chiếm được một số tình
cảm tự nhiên. [1] Nó làm hài lòng chúng ta vì nó phục vụ lợi ích của chính
chúng ta hoặc vì nó khơi dậy quan tâm và lòng tốt tự nhiên của chúng ta với người
khác.
M 5.5, SBN 215
Người ta thường khẳng định rằng, vì mỗi
người đều có một gắn
bó mật thiết với xã hội, và nhận thức được sự thực là không thể tồn tại một mình, nên tự nhiên họ ưa chuộng
những thói quen và nguyên lý duy trì trật tự xã hội và đảm bảo cho họ sự tận hưởng
bình yên của phước lành vô giá này. Chúng ta càng
trân trọng hạnh phúc và phúc lợi của bản thân bao nhiêu, thì chúng ta càng phải
hoan nghênh việc thực hành công lý và nhân đạo bấy nhiêu, nhờ đó vốn liên minh
xã hội mới có thể được duy trì, và mỗi người đều gặt hái thành quả của sự bảo vệ
và giúp đỡ lẫn nhau.
M 5.6, SBN 215
Việc suy diễn rằng đạo đức xuất phát từ Tình
cảm vị kỷ [2],
hay một quan
tâm với hữu
ích cá nhân, là một suy nghĩ hiển nhiên, và không hoàn toàn xuất phát từ những
tấn công tinh quái hay trêu
chọc khiêu
khích của
những người hoài nghi. Chưa kể đến những người khác, Polybius, một trong những
nhà văn nghiêm trang và sáng suốt nhất, cũng như đạo đức nhất thời thời cổ, đã
gán nguồn gốc ích kỷ này cho tất cả những tình cảm của của chúng ta về đức hạnh [18]. Nhưng mặc dù ý thức thực
tế, vững chắc của tác giả đó, cùng với sự ghê tởm của ông với mọi sự tế nhị phù
phiếm, khiến thẩm quyền của ông về vấn đề này trở nên rất đáng kể; nhưng vấn đề này không thể được giải quyết chỉ bằng thẩm quyền.
Kinh nghiệm và bản năng tự nhiên của con người dường như rõ ràng mâu thuẫn với
quan niệm cho rằng đức hạnh hoàn toàn là ích kỷ. [3]
M 5.7, SBN 215-6
Chúng ta thường khen ngợi những hành
động đức hạnh, đã thực
hiện trong những
thời rất xa xưa và những đất nước xa xôi; nơi trí tưởng tượng tế nhị nhất cũng
không tìm ra ra bất kỳ sự hiện diện của vị kỷ nào, hay tìm
thấy bất kỳ liên hệ nào giữa hạnh phúc và sự an toàn hiện tại của chúng ta với
những sự kiện quá xa cách
với chúng
ta như vậy.
M 5.8, SBN 216
Một
hành động hào phóng, dũng cảm, cao quý, được một đối thủ thực hiện, vẫn
đáng được chúng ta ngưỡng mộ; ngay cả khi nó nó có thể được nhìn nhận là có hại cho lợi
ích của chúng ta.
M 5.9, SBN 216
Khi
lợi ích cá nhân trùng khớp với tình cảm tổng quát dành cho đức hạnh, chúng ta dễ
dàng nhận thấy và nhìn nhận sự pha trộn của những tình cảm riêng biệt này, mỗi
chúng có một có một cảm giác và ảnh hưởng rất khác nhau đến tâm lý. Chúng ta
khen ngợi, có
lẽ, với sốt sắng hơn, khi hành động hào hiệp, nhân đạo góp
phần vào lợi ích
cụ thể của chúng ta: Nhưng chủ đề của khen ngợi, vốn chúng ta nhấn mạnh, lại rất rộng trong trường hợp này. Và chúng ta có thể cố
gắng thuyết phục những người
khác chia
sẻ những cảm xúc của chúng ta, nhưng không cần cố gắng thuyết phục họ rằng
họ sẽ được hưởng bất
kỳ lợi
ích nào từ những hành động vốn chúng ta khuyến khích họ tán
thành và hoan nghênh.
M 5.10, SBN 216
Dựng lên khuôn mẫu của một nhân vật đáng ca ngợi, hội tụ tất cả những đức hạnh đạo
đức đáng yêu nhất: Hãy
đưa ra những ví dụ cho thấy những đức hạnh này thể hiện một cách đáng chú ý và
phi thường: Bạn sẽ ngay lập tức nhận được sự kính trọng và tán thưởng
của mọi người nghe, thậm chí họ còn không bao giờ hỏi người sở hữu những phẩm
tính cao quý này sống ở thời đại hay
quốc gia nào.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, quan trọng hơn cả với tình cảm vị kỷ hay
một quan tâm với hạnh phúc cá nhân của chính chúng ta..
M 5.11, SBN 216-7
Thuở
xưa, một lần, trong xung đột khốc liệt giữa những phe phái, một nhà chính trị
lão luyện đã dùng tài hùng biện để đẩy một đối thủ tài năng vào cảnh lưu đày.
Nhưng sau khi đạt được mục đích, ông lại âm thầm tìm đến kẻ địch, vừa đưa tiền
giúp đỡ trong thời gian bị đày ải, vừa dùng những lời động viên an ủi để xoa dịu
đối thủ trong trong những bất hạnh. Than
ôi! nhà
chính trị bị lưu đày kêu lên, tôi phải tiếc
nuối biết bao khi phải rời xa bạn bè mình ở thành phố này, nơi vốn ngay cả kẻ
thù cũng hào hiệp đến vậy! Đức hạnh, dù ở trong một địch thủ, ở đây vẫn khiến người này hài lòng: Và chúng ta cũng dành cho
nó sự tôn vinh và tán thành xứng đáng; chúng ta cũng không rút lại những tình cảm
này, khi chúng ta nghe nói rằng hành động đó đã diễn ra ở Athens, khoảng hai nghìn năm trước,
và tên của những nhân vật
đó là Eschines và Demosthenes. [4]
M 5.12, SBN 217
Điều
đó có liên quan gì đến tôi? Hiếm khi nào câu hỏi ấy lại không thích đáng
Và
giả như nó thực sự có sức ảnh hưởng phổ quát, tuyệt đối như người ta tưởng,
thì
hầu như mọi trò chuyện, chứa đựng bất kỳ
ca ngợi hay chỉ trích nào về con người và cách cư xử của họ, đều sẽ trở nên lố bịch cả. [5]
M 5.13, SBN 217
Đó
chỉ là một biện hộ yếu ớt, khi bị những sự kiện và biện luận này thúc đẩy, để
nói rằng, chúng ta tự đưa mình, bằng sức mạnh của trí tưởng tượng, vào trong những
thời đại và đất nước xa xôi, và xem xét lợi ích vốn chúng ta có thể gặt hái từ
những nhân vật này, nếu chúng ta sống cùng thời với họ và có bất kỳ giao dịch
nào với những người đó. Thật khó có thể tưởng tượng được
làm thế nào một tình cảm hay cảm xúc thực
có thể nảy sinh từ một quan tâm tưởng tượng đã biết; đặc biệt là khi quan
tâm thực của chúng ta vẫn được nhìn thấy, và thường được nhìn nhận là hoàn toàn khác biệt với quan
tâm tưởng tượng, và đôi khi ngay cả trái ngược với nó.
M 5.14, SBN 217-8
Một người bị đẩy đến bờ một bờ vực thẳm, không thể nhìn xuống mà không run rẩy; và cảm giác của sự nguy hiểm tưởng tượng tác động người này, ngược với
quan điểm và tin tưởng của sự
an toàn thực sự. Nhưng trí tưởng tượng ở đây được sự hiện diện của một đối
tượng nổi bật hỗ
trợ; thế nhưng
nó không thắng thế, trừ khi nó cũng được hỗ trợ bởi sự mới lạ và vẻ ngoài khác
thường của đối tượng. Tập quán nhanh chóng giúp chúng ta làm quen với những đỉnh
cao và vực thẳm, và xua tan những sợ hãi giả tạo và ảo tưởng này. Điều ngược lại có thể quan sát được trong những
ước định chúng
ta hình thành về tính cách và cách cư xử; và càng quen với việc kiểm tra kỹ lưỡng
những chuẩn mực đạo đức, chúng ta càng nhạy cảm hơn với những khác biệt tinh tế
nhất giữa tội lỗi và đức hạnh. Trong đời sống thường ngày, chúng ta thường
xuyên phải đưa ra tất cả những loại quyết định đạo đức, đến mức không
một đối tượng nào thuộc loại này có thể mới mẻ hay xa lạ với chúng ta; và bất kỳ quan điểm hay định kiến sai
lầm nào cũng không thể đứng vững trước một kinh nghiệm phổ thông và quen thuộc như vậy. Kinh nghiệm,
là những gì chủ yếu hình thành những liên tưởng của ý tưởng, nên không thể có bất
kỳ liên tưởng nào có thể hình thành và duy trì nếu trực tiếp trái ngược với nguyên
lý đó.
M 5.15, SBN 218
Sự hữu
ích mang đến cảm giác dễ chịu và thu hút sự tán thành của chúng ta. Đây là một
thực tế không thể chối cãi, được xác nhận qua những quan sát thường nhật. Nhưng
hữu ích cho điều gì? Chắc chắn là cho lợi ích của một ai đó. Vậy lợi
ích của ai? Không chỉ riêng chúng ta: Bởi sự tán thành của ta thường mở rộng
hơn thế. Do đó, đó phải là lợi ích của những người được phục vụ bởi phẩm tính
hoặc hành động vốn chúng ta tán thành; và dù họ có xa lạ đến đâu, họ cũng không
hoàn toàn vô can với chúng ta. Bằng mở rộng nguyên lý này,
chúng ta sẽ tìm ra ra một nguồn gốc lớn lao của những sự phân biệt đạo đức.
PHẦN II.
M 5.16, SBN 218-9
Tình
cảm vị kỷ [6] là một nguyên lý trong bản tính con người với năng lượng
lan tỏa mạnh mẽ, và lợi ích của mỗi cá nhân, nói tổng quát, liên kết chặt chẽ với
lợi ích của cộng đồng, khiến những nhà triết học xưa kia đã có lý do để tưởng
tượng rằng tất cả quan tâm của chúng ta với công chúng có thể được quy về quan
tâm với hạnh phúc và sự bảo tồn của chính chúng ta. Họ nhận thấy mỗi khoảnh khắc những
xảy ra của tán thành hay lên án, hài lòng hay bất bình hướng tới những nhân vật
và những hành động; họ gọi những đối tượng của những tình cảm này là đức
hạnh hay thói hư tật xấu; họ thấy rằng điều trước có một khuynh hướng làm tăng
vui sướng, còn điều sau làm tăng khốn khổ của loài người; Họ hỏi liệu có phải
chúng ta có thể có một quan tâm tổng quát với xã hội, hay một sự phẫn uất khách
quan nào với phúc lợi hay tổn hại của những người khác. Họ tìm thấy là đơn giản
hơn để coi tất cả những tình cảm này như những biến thể của tình cảm vị kỷ; và
họ đã tìm ra một cơ sở biểu kiến, ít nhất, cho sự thống nhất này của nguyên lý,
trong sự kết hợp chặt chẽ đó của lợi ích, vốn nó rất dễ nhận thấy giữa công
chúng và mỗi cá nhân.
M 5.17, SBN 219
Nhưng bất chấp sự nhầm lẫn thường
xuyên này về những lợi ích, việc đạt được những gì vốn
những nhà triết học tự nhiên, sau Lord Bacon, đã chọn gọi là experimentum
crucis, [7]
hay loại thí
nghiệm đó, vốn
chỉ ra con đường đúng trong bất kỳ
hoài nghi hay mơ hồ nào, là điều dễ dàng. Chúng ta đã tìm thấy những trường hợp,
trong đó hữu ích cá nhân tách biệt với hữu ích công cộng ; ngay cả còn trái ngược
nhau: Và tuy nhiên, chúng ta nhận thấy rằng tình cảm đạo đức tiếp tục tồn tại, bất chấp sự tách
biệt của
những lợi
ích này. Và bất cứ nơi nào những lợi ích riêng biệt này hòa hợp một cách rõ
ràng, chúng ta luôn thấy một sự gia tăng hợp lý của tình cảm, và một tình cảm ấm
áp hơn
với đức hạnh, và sự ghê tởm thói hư tật xấu, hay những gì vốn chúng ta gọi đúng là lòng biết
ơn và sự trả thù. Bị thúc đẩy bởi những trường hợp này, chúng ta phải
từ bỏ lý thuyết giải thích mọi tình cảm đạo đức bằng nguyên lý của tình cảm vị kỷ.
Chúng
ta phải chấp nhận một tình cảm công cộng rộng lớn hơn, và chấp nhận rằng những
lợi ích của xã hội, ngay cả khi xét riêng bản thân chúng, cũng không hoàn toàn
vô can với chúng ta. Sự hữu ích chỉ là một khuynh hướng dẫn đến một mục đích nhất định; và là một mâu thuẫn nếu
nói rằng một gì đó làm chúng ta hài lòng như một phương tiện để đạt mục đích,
trong khi chính mục đích ấy chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nếu sự hữu ích là
nguồn gốc của tình cảm đạo đức, và nếu sự hữu ích ấy không phải lúc nào cũng được
xem xét dưới góc độ lợi ích cá nhân, thì logic sẽ dẫn đến kết luận rằng: bất cứ
gì góp phần vào hạnh phúc của xã hội đều tự thân khơi gợi sự tán thành và thiện
chí của chúng ta. Đây là một nguyên lý, phần lớn giải
thích nguồn gốc của đạo đức: Và chúng ta cần gì phải tìm kiếm những hệ thống mờ mịt khó hiểu và
xa vời, khi đã xảy ra một
hệ thống hiển nhiên và tự nhiên như vậy [19]?
M
5.18, SBN 220
Liệu chúng ta có khó khăn gì trong việc thấu hiểu sức mạnh
của lòng nhân đạo
và lòng từ thiện không? Hay trong việc hình dung rằng chính
diện mạo của hạnh phúc, vui sướng, thịnh vượng mang lại vui sướng; còn
nét mặt của đau đớn, khổ sở, buồn phiền lại truyền tải sự bất an? Horace [20] từng
nói, gương mặt con người mượn nụ cười hay giọt lệ từ gương mặt của đồng loại.
Đưa một con người vào cảnh cô độc,
người này sẽ mất hết mọi vui thú, trừ loại vui thú giác quan hoặc suy tưởngởng
thuần túy; và đó là bởi những cung bậc cảm xúc trong lòng người này không được
cộng hưởng với những rung động tương ứng trong những đồng loại
xung quanh. Những dấu hiệu của đau buồn và tang tóc, dù chỉ là ước lệ, cũng khiến
ta u sầu; nhưng những biểu hiện tự nhiên, như nước mắt, tiếng khóc và rên rỉ,
chẳng bao giờ thất bại trong việc khơi gợi lòng trắc ẩn và sự bất an. Và nếu những
hậu quả của khốn khổ đã làm chúng ta cảm động một cách sống động như vậy, thì
liệu chúng ta có thể hoàn toàn vô cảm hay thờ ơ trước nguyên nhân của nó – khi một nhân cách hay hành vi độc ác, phản bội
được bày ra trước mắt chúng ta không?
M
5.19, SBN 220-1
Giả sử chúng ta bước vào một căn phòng tiện nghi, ấm
cúng, được bài trí khéo léo: Chúng
ta chắc chắn cảm thấy dễ chịu ngay từ cái nhìn đầu tiên; vì nó mang đến cho
chúng ta những ý tưởng của dễ
chịu, thoải
mái, hài lòng và thích thú. Người
chủ nhà hiếu khách, vui tính và nhân hậu xuất hiện. Hoàn cảnh này chắc chắn
sẽ tô điểm thêm cho toàn bộ; và chúng ta khó có thể kìm nén việc suy ngẫm với thích thú, về về sự hài lòng vốn mỗi người có được
từ sự giao tiếp và những hành động tử tế của người này,
M
5.20, SBN 221
Cả gia đình người này,với sự tự do, thoải mái, tự tin và
vui sướng bình thản lan tỏa trên khuôn mặt của họ, đã thể hiện đầy đủ vưi sướng
của họ. Tôi có một sự đồng cảm dễ chịu trước viễn cảnh của vui thích lớn lao
này, và không bao giờ có thể nghĩ đến nguồn gốc của nó mà không có những cảm
xúc dễ chịu nhất.
M
5.21, SBN 221
Người này kể với tôi rằng một người hàng xóm độc
ác và quyền lực đã định tước
đoạt tài sản thừa kế của ông, và từ lâu đã quấy nhiễu mọi vui thú trong sáng và
xã hội của ông. Tôi cảm thấy một sự phẫn nộ ngay lập tức dâng lên trong
lòng trước bạo lực và tổn thương như vậy.
M
5.22, SBN 221
Nhưng
người này
nói thêm, chẳng có gì lạ khi một sai lầm cá nhân lại đến từ một người, vốn
người đã
nô dịch hóa những tỉnh thành, làm thành thị thưa thớt dân cư, và khiến đồng ruộng
cùng giàn giáo ngập tràn máu người. Tôi kinh hoàng trước viễn cảnh đau thương đến vậy, và bị thôi thúc bởi ác cảm mạnh
mẽ nhất với tác giả của nó.
M
5.23, SBN 221
Nhìn
chung, chắc chắn rằng, dù chúng ta
đi đâu, suy ngẫm hay trò chuyện về điều gì, mọi sự vật
việc vẫn
hiện ra trước mắt chúng ta
với hình ảnh hạnh phúc hay đau khổ của con người, và khơi dậy trong chúng ta những
rung động đồng cảm của
vui sướng hay bất an.
Trong những công việc bận rộn
nghiêm trang,
trong những giải trí không lo
nghĩ,
nguyên lý này vẫn phát huy năng lượng tích cực của nó.
M
5.24, SBN 221
Một
người bước vào nhà hát sẽ ngay lập tức bị ấn tượng bởi quang cảnh của một đám
đông lớn đang cùng tham dự vào một trò giải trí chung; và
chỉ từ bề ngoài của họ, người
này cảm nhận cảm thấy một sự nhạy cảm hoặc xu hướng mạnh mẽ hơn để chịu
ảnh hưởng bởi
mọi cảm xúc vốn người này chia sẻ với những đồng loại.
M
5.25, SBN 221
Người
này quan sát những diễn viên trở nên phấn khích khi xuất hiện trước một khán giả đông đảo và lên đến một mức độ nhiệt tình vốn họ không thể tự
khơi dậy trong
bất kỳ khoảnh khắc cô độc hay bình tĩnh nào.
M
5.26, SBN 221-2
Mỗi
chuyển động của sân khấu, do một nhà thơ soạn kịch
tài ba thực hiện,
đều được truyền tải, như một phép màu, đến khán giả; họ khóc lóc, run rẩy, phẫn
uất, vui mừng và bùng cháy với đủ mọi cung bậc của những
cảm xúc, vốn
chính những nhân vật trong vở kịch trải
qua.
M
5.27, SBN 222
Khi
có bất
kỳ biến cố nào
đi ngược lại với mong
ước của
chúng ta và làm gián đoạn hạnh phúc của những nhân vật yêu thích, chúng ta cảm
thấy có một băn
khoăn lo lắng rõ ràng và quan tâm thực sự. Nhưng khi đau khổ của họ xuất phát từ
sự phản bội, tàn ác, hay bạo ngược của một kẻ
thù, lồng ngực chúng ta sẽ tràn ngập sự phẫn uất sôi sục với kẻ gây ra những
tai họa này.
M
5.28, SBN 222
Ở
đây, việc thể hiện bất cứ điều gì lạnh lùng và thờ ơ đều bị coi là trái với quy
luật nghệ thuật. Một người bạn thở ơ xa cách,
hay một người dù tin
cậy, nhưng không
quan tâm trực tiếp đến thảm họa, nếu có thể, nên
được nhà viết kịch loại bỏ, bởi vì những nhân vật như vậy sẽ truyền tải sự thờ ơ tương tự đến khán giả và làm
chậm hay kìm
hãm cảm xúc dâng trào của họ
M
5.29, SBN 222
Ít
có thể loại thơ nào thú vị hơn thơ thôn dã [8]; và ai cũng nhận thức được rằng nguồn
cảm hứng chủ yếu của thơ ca xuất phát từ những hình ảnh về sự bình yên dịu
dàng, êm ái vốn thơ ca thể hiện qua những nhân vật, và cũng chính những hình ảnh
đó truyền tải đến người đọc một cảm xúc tương tự. Sannazarius, người đã chuyển
khung cảnh ra bờ biển, mặc dù ông đã khắc họa một cảnh tượng hùng vĩ nhất trong
tự nhiên, được công nhận là đã sai lầm trong lựa chọn của mình. [9] Ý niệm về lao lực, vất vả và nguy hiểm
vốn những người đánh cá phải chịu đựng thì đau
thương; bởi một sự đồng cảm không thể tránh, vốn đi kèm với mọi quan niệm về hạnh
phúc hay đau khổ của con người.
M
5.30, SBN 222-3
Một
nhà thơ Pháp nói, khi tôi hai mươi tuổi, Ovid là người tôi yêu thích nhất; giờ
tôi bốn mươi tuổi, tôi lại thích Horace hơn. Chắc chắn, chúng ta dễ dàng đi vào
những tình cảm
giống với những gì chúng ta cảm nhận hàng ngày hơn: Nhưng không tình cảm nào, khi được thể hiện tốt, lại
có thể hoàn toàn thờ ơ với chúng ta; vì không có tình cảm nào vốn mỗi người
không có, ít nhất là những mầm mống và nguyên lý đầu tiên. Công việc
của thơ ca là đưa
mọi cảm xúc đến gần chúng ta bằng hình ảnh và sự thể hiện sống động, và làm chúng giống như sự
thực và thực tại:
Một bằng chứng chắc chắn rằng, bất cứ nơi nào tìm thấy
thực tại đó, tâm lý chúng ta đều dễ dàng bị nó tác động
mạnh mẽ
M
5.31, SBN 223
Bất
kỳ sự kiện hay tin tức gần đây nào ảnh hưởng đến số phận của những quốc gia, tỉnh
thành, hoặc nhiều cá nhân đều vô cùng thu hút ngay cả với những người không bị ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Những thông tin như vậy được lan truyền
nhanh chóng, được lắng nghe với háo hức, và được tìm hiểu với quan tâm và chú
ý. Trong trường hợp này, lợi ích của xã hội dường như, ở một mức độ nào đó,
cũng chính là hữu ích của mỗi cá nhân. Trí tưởng tượng chắc chắn sẽ bị tác động;
dù những cảm xúc được khơi dậy không phải lúc nào cũng mạnh mẽ và bền vững đến
mức ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi và cách cư xử.
M
5.32, SBN 223
Đọc
lịch sử có vẻ là một thú vui giải trí thanh thản; nhưng sẽ chẳng phải là thú vui gì cả
nếu trái tim chúng ta không đập theo những chuyển động tương ứng với những gì
được nhà sử học mô tả.
M
5.33, SBN 223
Thucydides
và Guicciardini khó giữ được sự chú ý của chúng ta khi người đầu tiên kể lại những
cuộc đụng độ nhỏ của những thành phố nhỏ ở Greece, còn người thứ hai miêu tả những
cuộc chiến gần như không đổ máu của Pisa. Số người tham gia quá ít, và lợi ích
quá nhỏ, nên trí tưởng tượng và cảm xúc của chúng ta hầu như không bị cuốn hút.
Nhưng tuyệt vọng sâu xa của
đông đảo quân đội Athens tại Syracuse, hay nguy hiểm gần như bao
trùm đe
dọa Venice; đã khơi dậy lòng thương xót và khiến ta ngập tràn lo sợ và bồn chồn;
những điều này khơi dậy lòng trắc ẩn; những điều này khơi dậy kinh hoàng và lo
lắng.
M
5.34, SBN 223-4
Văn
phong lãnh
đạm, tẻ nhạt của
Suetonius, cũng như ngòi bút điêu luyện của Tacitus, có thể khiến ta tin vào sự
đồi trụy tàn bạo của Nero hay Tiberius: nhưng cảm xúc mang lại hoàn toàn khác
biệt! Trong khi Suetonius lạnh lùng kể lại những sự
kiện;
thì Tacitus lại cho ta thấy hình ảnh đáng kính của một Soranus và một Thrasea,
gan dạ trước số phận, và chỉ rung động trước đau buồn tan nát của bạn bè và những người thân. Vậy thì sự đồng cảm nào
chạm đến trái tim mỗi người! Sự phẫn nộ nào với bạo chúa, kẻ vốn nỗi sợ hãi vô
cớ hay ác độc không khiêu khích đã gây ra sự man rợ đáng ghê tởm như vậy!
M
5.35, SBN 224
Nếu
chúng ta
đưa những cảnh tượng này đến gần hơn (như đang diễn ra trước
mắt) và
loại bỏ mọi nghi ngờ về hư cấu hay gian dối, thì một quan tâm mãnh liệt sẽ được
đánh thức – thường vượt xa những liên kết nhỏ hẹp của tình
cảm vị kỷ
và lợi ích cá nhân! Sự nổi loạn của quần chúng, lòng nhiệt thành với đảng phái,
sự tuân thủ tuyệt đối đối với những nhà lãnh đạo bè phái; đây là một số tác động
dễ thấy nhất, mặc dù ít đáng khen ngợi hơn, của sự đồng cảm xã hội này trong bản
chất con người.
M
5.36, SBN 224
Chúng
ta cũng có thể nhận thấy rằng, ngay cả khi chủ đề có vẻ tầm thường, ta vẫn bị
cuốn hút bởi bất cứ điều gì khắc họa được một thoáng cảm xúc và tình người.
M
5.37, SBN 224
Khi
một người nói lắp và phát âm khó khăn, chúng ta ngay cả còn thông cảm với sự
khó chịu nhỏ nhặt này và đau khổ thay cho họ. Và có một quy luật trong phê
bình, rằng mọi tổ hợp âm tiết hay chữ cái, gây khó chịu cho những cơ quan phát
âm trong khi đọc, cũng xuất hiện, từ một loại cảm thông, khắc nghiệt và khó chịu
với thính giác. Hơn nữa, khi chúng ta lướt mắt qua một quyển sách, chúng ta cảm
nhận được cấu trúc không hài hòa như vậy; vì chúng ta vẫn tưởng tượng rằng một
người đang đọc nó cho chúng ta nghe và đau khổ vì cách phát âm những âm thanh
chói tai này. Sự đồng cảm của chúng ta thật tế nhị!
M
5.38, SBN 224-5
Những
tư thế và cử động dễ dàng, tự nhiên luôn đẹp: Một vẻ khỏe mạnh và tràn đầy sinh
lực thì dễ chịu: Những áo choàng ấm
áp nhưng không
gây nặng nề cho cơ thể; che phủ những không
bó chặt chân tay, được thiết kế khéo léo. Trong mọi ước định về cái đẹp, cảm
xúc của người được tác động đều được xem xét và truyền tải đến người xem những
nét tương đồng về đau đớn hay vui sướng [21]. Vậy thì, có gì đáng ngạc nhiên nếu
chúng ta không thể đưa ra bất kỳ ước định nào về tính cách và hành vi của con
người vốn không xem xét đến khuynh hướng hành động của họ, và hạnh phúc hay đau
khổ vốn từ đó nảy sinh cho xã
hội? Sự liên kết nào của những
ý tưởng có
thể vận hành được nếu nguyên lý đó hoàn toàn không hoạt động ở đây? [22]
M
5.39, SBN 225-6
Nếu
bất kỳ người nào từ sự vô cảm lạnh lùng, hay tính khí vị kỷ hẹp hòi, thản
nhiên với những hình ảnh của hạnh phúc hay đau khổ con người, thì người đó cũng phải thờ ơ với những hình ảnh của thói hư tật xấu và đức hạnh:
Mặt khác, như chúng ta
luôn thấy, một
quan tâm ấm áp đến
lợi ích của loài người thường đi
kèm với một cảm xúc tế
nhị về mọi sự khác biệt về đạo đức; một sự phẫn nộ mạnh mẽ trước những tổn
thương gây ra cho con người; một sự tán thành sống động với phúc lợi của họ.
Trong trường hợp cụ thể này, mặc dù có thể thấy sự vượt trội lớn lao của một
người so với của người
khác; nhưng không ai hoàn toàn thờ ơ với hữu ích của đồng loại, đến mức không
nhận thấy những khác
biệt của thiện
và ác về mặt đạo đức, do những khuynh hướng khác nhau của
những hành
động và nguyên lý. Thật
vậy, làm sao chúng ta có thể giả định rằng, một
người mang một trái
tim nhân hậu, khi phải phê bình một
nhân cách hoặc
lối sống có lợi cho loài người hay cộng đồng và một nhân cách hoặc lối sống khác có hại cho
loài người hay cộng đồng – người này ngay cả sẽ không dành cho điều trước một sự
ưu tiên dù lạnh lùng, hoặc dành cho nó một chút công lao hay sự tôn trọng nhỏ
nhất? Chúng ta hãy giả định có một người từng rất vị kỷ như vậy; để
lợi ích cá nhân thu hút hết sự chú ý; tuy nhiên, trong những trường hợp lợi ích
cá nhân không liên quan, người
này phải không tránh khỏi cảm thấy một khuynh hướng tự
nhiên nào đó tới lợi ích của loài người, và làm nó thành một đối tượng của lựa chọn, nếu mọi gì khác đều ngang bằng
nhau. Liệu
có ai, khi đang đi bộ, lại sẵn lòng giẫm lên những ngón chân đau nhức của người
khác, người vốn người này không hề có xích mích, như giẫm lên đá lửa và vỉa hè
cứng rắn? Ở đây chắc chắn có sự khác biệt trong trường hợp này.
Chúng ta chắc chắn cân nhắc đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, khi cân nhắc
những động cơ hành động khác nhau, và nghiêng về phía hạnh phúc của người khác,
nơi không có sự quan tâm riêng tư nào thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự thăng tiến
hay lợi ích cho bản thân bằng cách gây tổn hại cho đồng loại. Và nếu những
nguyên lý của tình loài người có khả năng, trong nhiều trường hợp, ảnh hưởng đến
hành động của chúng ta, thì chúng phải luôn có thẩm quyền nào đó đối với
những tình cảm của chúng ta, và cho chúng ta một sự chấp thuận tổng quát về những
gì là hữu ích cho xã hội, và lên án những gì là nguy hiểm hay tai hại. Mức độ của
những tình cảm này có thể là đề tài tranh luận; nhưng thực tại của hiện hữu của
chúng, người ta nên nghĩ, phải được nhìn nhận, trong mọi lý thuyết hay hệ thống.
M
5.40, SBN 226-7
Một sinh vật hoàn toàn ác độc và đầy thù hận, nếu có tồn
tại trong tự nhiên, tất phải tồi tệ hơn cả thái độ thờ ơ trước những hình ảnh của
tội lỗi và đức hạnh.
Mọi tình cảm của người này phải
là đảo
ngược, và hoàn toàn đối lập với
những tình cảm thịnh hành trong loài người. Bất cứ gì đóng góp vào lợi ích
của loài người,
khi nó đi ngược lại với khuynh hướng thường trực của những mong muốn và khát
khao của người này,
đều phải gây ra sự bất an và phản đối; và ngược lại, bất cứ điều gì là nguồn gốc
của sự hỗn loạn và đau khổ trong xã hội, cũng vì lý do đó, phải được xem là điều
khiến người này
thích thú và
thoả mãn. Timon,
có lẽ vì ảnh hưởng của bệnh
tật, hơn là do bất kỳ ác ý cố hữu nào, người được mệnh danh là kẻ
ghét loài người, đã
ôm lấy Alcibiades đầy tham vọng với trìu mến rõ rệt. Tiếp tục đi, chàng trai của ta! ông kêu lên, “ hãy chiếm lấy
lòng
tin của dân chúng; vì
ta thấy trước một ngày nào đó ngươi sẽ là nguyên nhân gây ra những tai họa
lớn cho họ [23]; [10] Nếu chúng ta công nhận hai nguyên lý
của những tín đồ của Mani, [11] thì đó là một hậu quả không thể
tránh khỏi, rằng tình cảm của họ về hành động của con người, cũng như mọi sự việc
khác, phải hoàn
toàn trái ngược nhau, và mọi trường hợp công lý và nhân đạo, theo khuynh hướng
tất yếu của nó, phải làm hài lòng vị gót này và làm phật lòng vị gót kia. Cho đến
nay, toàn thể loài người đều giống với nguyên lý tốt đẹp, rằng, khi hữu ích, sự trả thù hay lòng đố kỵ không làm
sai lệch khuynh hướng của chúng ta, thì chúng ta luôn có khuynh hướng, từ lòng
từ thiện tự nhiên, ưu tiên cho hạnh phúc của xã hội, và do đó là đức hạnh, hơn
là điều đối lập với nó. Sự độc ác tuyệt đối, không nguyên do, và không vụ lợi , có lẽ chưa từng tồn tại trong
lòng bất kỳ con người nào; hoặc
nếu đã có,
nó đã phải biến
dạng tất cả những tình cảm đạo đức, cũng như tình cảm nhân đạo. Nếu sự tàn nhẫn của Nero được xem
là hoàn toàn tự nguyện, nhưng không
phải là tác động của
sự sợ hãi và oán giận liên tục; thì điều đó hàm ý rằng Tigellinus – chứ không phải Seneca hay Burrhus – phải là người nhận được sự đồng tình kiên định
và không thay đổi từ Nero. [12]
M
5.41, SBN 227-8
Một chính khách hay người yêu nước, phục vụ đất nước của
chúng ta, trong thời đại của chúng ta, luôn nhận được sự tôn trọng nồng nhiệt
hơn so với người có ảnh hưởng tốt đẹp đến những thời đại xa xôi hoặc những quốc
gia xa xôi; nơi những gì tốt đẹp, xuất phát từ lòng nhân đạo hào hiệp của họ, ít liên quan đến chúng ta hơn, dường
như mơ hồ hơn và tác động đến chúng ta với sự đồng cảm kém sống động hơn. Chúng
ta có thể nhìn nhận
công lao của họ là to lớn như nhau, dù những tình cảm của chúng ta không nâng lên cùng
một tầm
cao,
trong cả hai trường hợp. Phán đoán ở đây sửa chữa những không bằng
nhau trong những
cảm xúc và nhận thức
bên trong chúng ta; tương tự như vậy, nó bảo vệ chúng ta khỏi sai lầm
trong vô số những biến thể hiện của hình ảnh hiện ra trước những giác quan bên ngoài của chúng
ta. Cùng một đối tượng, ở khoảng cách gấp đôi, thực sự chỉ cho mắt thấy một
hình ảnh bằng một nửa kích thước; tuy nhiên, chúng ta tưởng tượng rằng nó xuất
hiện cùng kích thước trong cả hai trường hợp; vì chúng ta biết rằng, khi chúng
ta đến gần nó, hình ảnh của nó sẽ mở rộng trong mắt, và sự khác biệt không nằm ở
bản thân đối tượng, nhưng ở
vị trí của chúng ta so với nó. Và thực sự, nếu không có sự điều chỉnh về những hiện
ra bên ngài như
vậy, cả về tình cảm bên trong lẫn bên ngoài, con người sẽ không bao giờ có thể
suy nghĩ hay nói chuyện một cách ổn định về bất kỳ chủ đề nào; trong khi những
tình cảnh thay đổi của họ tạo ra sự thay đổi liên tục về những đối tượng và đưa
chúng vào những ánh sáng và vị trí khác nhau và trái ngược nhau như vậy [24].
M
5.42, SBN 228-9
Càng
giao tiếp với loài người, càng duy trì nhiều quan hệ xã hội, chúng ta sẽ càng quen thuộc với những sở thích và
những phân biệt phổ quát này,
vốn nếu không có chúng, cả những trò chuyện thông thường lẫn những nói viết
trang trọng
của chúng ta đều
thành khó có thể hiểu được rõ ràng. Mỗi người đều có sở thích riêng, và
những ác cảm cũng như những thèm muốn phát
sinh từ sở thích đó,
không thể cho là ảnh hưởng đến những người
khác ở cùng một mức độ như
nhau.
Do đó, ngôn ngữ chung, được hình thành để dùng chung, phải được đóng
khuôn trên trên một số những quan điểm chung, và phải gắn những
tên gọi khen
ngợi hay chê trách, phù hợp với những tình cảm, vốn
chúng
xuất phát từ những lợi
ích chung của cộng đồng. Và nếu những tình cảm này, ở hầu hết mọi người, không
mạnh mẽ bằng những tình cảm liên quan đến lọi ích cá nhân; tuy vậy chúng vẫn phải tạo một vài
phân biệt, ngay cả
ở những người hư hỏng và
vị kỷ nhất; và phải gắn khái niệm tốt với một hành vi từ thiện, và khái niệm xấu
với sự ngược
lại. Chúng ta phải nhìn nhận
rằng, sự đồng cảm thì mờ
nhạt hơn nhiều so với sự quan tâm của chúng ta dành cho chính mình, và sự đồng
cảm với những người ở xa chúng ta mờ nhạt hơn nhiều so với sự đồng cảm với những
người ở gần và liền kề;
nhưng chính vì lý do này, trong những phán đoán và nói viết bình tĩnh về tính
cách con người, chúng ta cần phải bỏ qua tất cả những khác biệt này, và làm cho
tình cảm của chúng ta sao
cho cởi mở hơn với tất cả mọi người và phù hợp với toàn xã hội. Bên cạnh đó, vì
bản thân chúng ta thường thay đổi hoàn cảnh của chúng ta trong trường hợp cụ thể này, nên hàng
ngày chúng ta gặp những người ở trong hoàn cảnh khác với chúng ta, và họ không
bao giờ có thể trò chuyện với chúng ta nếu chúng ta cứ mãi ở vị trí và quan điểm
đó, vốn là đặc biệt với chúng ta. Do
đó, sự giao thoa cảm xúc trong xã hội và trong giao tiếp khiến chúng ta hình
thành một chuẩn mực chung bất biến, qua đó chúng ta có thể chấp nhận hoặc không
chấp nhận những nhân cách và những cư xử. Và mặc dù trái tim không hoàn toàn đồng
tình với những quan niệm chung đó, cũng không điều chỉnh tất cả thương yêu và hận
thù của nó, bởi
những khác biệt phổ quát, trừu tượng về thói hư tật xấu và đức hạnh, vốn không quan tâm đến bản thân, hay
những người chúng ta có liên hệ mật thiết hơn; tuy
nhiên những
khác biệt về đạo đức này có một ảnh
hưởng đáng kể, và ít nhất là đủ cho việc nói
viết, phục vụ cho mọi mục đích của chúng ta trong công ty, trên bục giảng, trên
sân khấu và trong trường học [25].
M
5.43, SBN 230
Vì
vậy, dù chúng ta nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ nào, thì giá trị được gán cho
những đức hạnh xã hội vẫn có vẻ đồng nhất, và chủ yếu xuất phát từ sự quan tâm
vốn tình cảm tự nhiên của từ
thiện thúc đẩy chúng ta dành cho lợi ích của loài người và xã hội. Nếu chúng ta
xem xét những nguyên lý do con người tạo ra, như chúng xuất hiện trong kinh
nghiệm và quan sát hàng ngày, thì chúng ta phải, tiên
nghiệm ,
kết luận rằng một sinh vật như con người không thể hoàn toàn thờ ơ với hạnh
phúc hay đau khổ của đồng loại, và không dễ dàng, về bản thân, để tuyên bố, ở chỗ
không có gì đem cho
cho người này bất
kỳ sự thiên vị
cụ thể nào, rằng điều gì thúc đẩy hạnh phúc của họ là tốt, điều gì hướng đến
đau khổ của họ là xấu, vốn không cần bất kỳ sự quan tâm hay cân nhắc nào khác.
Vậy thì đây là những nguyên lý cơ bản, ít nhất là, hay những phác thảo, của một
sự phân biệt tổng quát giữa
những hành động; và theo tỷ lệ vốn lòng
nhân đạo của
một người được cho là tăng lên, liên hệ của người này với những người chịu tổn thương hay được hưởng lợi,
cùng với nhận thức sống động của
người này về đau khổ hay hạnh phúc của họ; sự chỉ trích hay tán thành tiếp theo
của người này có được sức mạnh tương ứng. Một hành động cao thượng, ít được nhắc
đến trong sử sách hay công báo xa xôi, không nhất thiết phải truyền tải bất kỳ
cảm xúc nồng nhiệt nào về sự tán thưởng và ngưỡng mộ. Đức hạnh, được đặt ở khoảng
cách xa như vậy, giống như một vì sao cố định, mặc dù với con mắt lý trí, nó có
thể xuất hiện sáng chói như mặt trời ở kinh tuyến của nó, nhưng lại ở rất xa đến
nỗi không thể tác động đến những giác quan bằng ánh sáng hay nhiệt lượng. Hãy
đưa đức hạnh này đến gần hơn, bằng cách làm quen hay kết nối với những người
đó, hay ngay cả bằng một câu chuyện kể hùng hồn về trường hợp đó; trái tim
chúng ta sẽ ngay lập tức rung động, sự đồng cảm của chúng ta sẽ được khơi dậy,
và sự tán thành lạnh lùng của chúng ta sẽ chuyển thành những tình cảm nồng ấm
nhất của tình thân thiện và sự tôn trọng. Đây dường như là những hệ quả tất yếu
và không thể sai lầm của những nguyên lý tổng quát của bản chất con người, được
tìm ra trong đời sống và thực hành thường ngày.
M
5.44, SBN 230-1
Lại
nữa; hãy đảo ngược những quan điểm và lập luận này: Hãy xem xét vấn đề từ
góc độ hậu nghiệm (à posteriori); khi cân nhắc những hệ quả, hãy tự hỏi
liệu công đức của những đức tính xã hội có phải phần lớn xuất phát từ những cảm
xúc nhân đạo mà chúng khơi gợi ở người chứng kiến hay không. Thực tế cho thấy rằng,
trong mọi trường hợp, tính hữu ích của một hành động là nguồn gốc của lời
khen ngợi và tán thành; rằng nó luôn được viện dẫn trong mọi phán đoán đạo đức
về giá trị hay sai lầm của những hành động; rằng nó là nguồn gốc duy nhất của sự
tôn trọng cao độ dành cho công lý, lòng trung thành, danh dự, lòng trung thành
với quốc gia, và trinh tiết. Rằng
nó không thể tách rời khỏi tất cả những đức hạnh xã hội khác, lòng nhân đạo, sự
hào hiệp, lòng bác ái, sự hòa nhã, sự khoan dung, lòng thương xót và sự điều độ:
Và, nói tóm lại, rằng nó là một nền
tảng của phần chính yếu của
đạo đức, có một liên
quan đến loài người và những đồng
loại của chúng ta.
M
5.45, SBN 231
Dường
như, trong sự tán thành chung của chúng ta về những
nhân cách và
cách cư
xử, khuynh hướng có lợi của những đức hạnh xã hội không thúc đẩy chúng ta vì bất
kỳ hữu ích cá nhân nào, nhưng có
ảnh hưởng phổ quát và rộng lớn hơn nhiều. Dường như, khuynh hướng hướng đến lợi
ích chung và thúc đẩy hòa bình, hòa hợp và trật tự trong xã hội, bằng cách tác
động đến những nguyên lý từ thiện
trong khuôn khổ của chúng ta, luôn luôn thu hút chúng ta về phía những đức hạnh
xã hội. Và dường như, như một sự xác nhận bổ sung, những nguyên lý nhân đạo và
đồng cảm này thấm sâu vào mọi tình cảm của chúng ta và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
mức có thể khiến chúng khơi dậy sự chỉ trích và tán thưởng mạnh mẽ nhất. Lý
thuyết hiện tại là kết quả đơn giản của tất cả những suy luận này, mỗi suy luận
dường như đều dựa trên kinh nghiệm và quan sát thống nhất.
M
5.46, SBN 231-2
Nếu
còn hoài nghi, liệu có bất kỳ nguyên lý nào như vậy trong bản chất của chúng ta
như lòng nhân đạo hay một quan
tâm đến những người khác hay
không, dù vậy khi
chúng ta thấy, trong vô vàn trường hợp, rằng bất cứ gì có một khuynh hướng để thúc đẩy những lợi ích của xã hội,
thì
đều được tán thành cao, thì từ đó chúng ta nên học được sức mạnh của nguyên lý từ
thiện;
vì không gì có thể làm hài lòng như một phương tiện để đạt được mục đích, nếu
chính mục đích đó hoàn toàn thờ ơ với chúng ta. Mặt khác, nếu còn hoài nghi liệu
đã cấy ghép trong bản chất của chúng ta, bất kỳ nguyên lý tổng quát nào của đạo đức về khiển trách và chấp thuận hay không, thế
nhưng chúng
ta thấy, trong vô số những trường
hợp, ảnh hưởng của lòng nhân đạo, từ đó chúng ta nên kết luận rằng bất cứ gì
thúc đẩy phúc lợi của xã hội đều tự nhiên mang lại vui sướng, và bất cứ gì gây hại đem cho
lo lắng, không thoải mái,. Nhưng khi những suy ngẫm và những
quan sát khác nhau này gặp nhau trong việc thiết lập cùng kết luận, thì chẳng phải chúng sẽ đưa
ra một bằng chứng không thể chối cãi về nó sao?
M
5.47, SBN 232
Tuy
nhiên, người ta hy vọng rằng sự tiến triển của lập luận này sẽ mang lại sự xác
nhận sâu xa hơn cho lý thuyết hiện tại, bằng cách cho thấy sự gia tăng của những
tình cảm về tôn
trọng và quan tâm khác từ những nguyên lý giống nhau hay tương tự.
------------------------------------------------------------------
M
5.1n17
1. Xem GHI CHÚ [Z].
M
5.1n17.1, SBN 213
Chúng
ta không nên tưởng tượng rằng, vì một vật vô tri vô giác cũng có thể có ích như con người, nên theo hệ thống
này, nó cũng xứng đáng được gọi là đức hạnh. Trong hai trường hợp, những
cảm xúc được sự hữu ích khơi dậy thì rất
khác nhau; và trường hợp này pha trộn với tình cảm, sự quý trọng, sự tán thành,
v.v., còn trường hợp kia thì không. Tương tự như vậy, một vật vô tri vô giác có
thể có màu sắc và tỷ lệ đẹp như một hình
hài con người,. Nhưng liệu chúng ta có bao giờ yêu đương vật vô tri vô giác không? Có vô số những cảm xúc
và tình cảm, vốn
trong đó, những sinh vật lý trí biết suy nghĩ, theo cấu tạo nguyên thủy
của tự nhiên, là
những đối tượng thích hợp duy nhất: Và mặc dù những phẩm tính tương tự được
truyền sang một sinh vật vô tri, vô giác, chúng sẽ không khơi dậy những cảm xúc
tương tự. Thực tế, những phẩm tính có lợi của thảo mộc và khoáng chất đôi khi
được gọi là những đức
hạnh
của chúng; nhưng đây là hệ quả của sự thất thường của ngôn ngữ, và không nên được xem trọng trong lý luận.
Mặc dù có một dạng tán thành nào đó dành cho cả những vật vô tri khi chúng hữu
ích, nhưng cảm xúc này lại quá yếu và quá khác biệt hoàn toàn so với cảm xúc
dành cho những quan tòa hay chính khách từ thiện; khiến chúng không nên được xếp chung vào một
loại hay gọi bằng cùng một danh xưng.
M
5.1n17.2, SBN 213
Chỉ một sự thay đổi rất nhỏ ở đối tượng, dù giữ nguyên những
phẩm tính, cũng có thể phá hủy cảm xúc. Ví dụ, vẻ đẹp tương tự nhưng ở giới
tính khác sẽ không khơi dậy tình yêu, trừ khi bản tính đã bị bóp méo đến cực độ.
M
5.6n18
2. Xem GHI CHÚ [AA].
M
5.6n18.1, SBN 215
Sự bất hiếu với cha mẹ bị loài người lên án, vì mọi người
nhìn trước tương lai và suy nghĩ rằng điều tương tự có thể xảy ra với chính
mình. Sự vô ơn cũng vì lý do tương tự (mặc dù ông dường như còn đề cập đến một
quan tâm cao thượng hơn) – chúng ta đồng cảm với nạn nhân, đồng thời liên hệ đến
bản thân mình những tình cảnh tương tự, từ đó nảy sinh ý thức về nghĩa vụ với sức
mạnh và sự thấu đáo nhất định (Lib. vi. cap. 4). Có lẽ nhà sử học chỉ muốn nói
rằng lòng đồng cảm và nhân đạo của chúng ta trở nên mãnh liệt hơn khi chúng ta
nhận ra hoàn cảnh của mình giống với người đang chịu khổ, và đó là một quan điểm
chính xác."
M
5.17n19
3. Xem GHI CHÚ [BB].
M
5.17n19.1, SBN 219-20
Không cần thiết phải đào sâu tìm hiểu lý do tại sao chúng
ta có lòng nhân đạo hay khả năng đồng cảm với người khác. Chỉ cần biết rằng đây
là một nguyên lý tồn tại trong bản tính con người là đủ. Chúng ta phải dừng lại
ở một điểm nào đó trong việc tìm kiếm nguyên nhân; và trong mọi khoa học, đều
có những nguyên lý chung mà ta không thể hy vọng tìm ra nguyên lý nào tổng quát
hơn. Không ai hoàn toàn thờ ơ với hạnh phúc và nỗi khổ của người khác. Hạnh
phúc của người khác tự nhiên mang lại niềm vui cho ta, còn nỗi khổ của họ gây
ra đau buồn. Điều này ai cũng có thể tự nhận thấy trong chính mình. Khó có thể
phân tích những nguyên lý này thành những nguyên lý đơn giản và phổ quát hơn,
dù có những nỗ lực đã được thực hiện nhằm mục đích đó. Nhưng ngay cả nếu có thể,
thì điều đó cũng không thuộc phạm vi chủ đề hiện tại; và ở đây, ta có thể yên
tâm coi những nguyên lý này là bản nguyên. Thật sung sướng, nếu chúng ta có thể
làm sáng tỏ và trình bày rõ ràng tất cả những hệ quả từ chúng!
M
5.18n20, SBN 220
4. Như gương mặt con người cùng cười với kẻ cười,
Cũng rơi lệ với kẻ khóc."
(Horace)
M
5.38n21, SBN 224
5. Ngựa đẹp hơn khi bụng thon gọn, nhưng cũng chính nhờ thế mà nó chạy nhanh hơn. Vận động viên trông đẹp đẽ hơn khi tập luyện làm nổi bắp thịt, và cũng chính nhờ thế mà anh ta sẵn sàng hơn cho cuộc thi. Vẻ đẹp không bao giờ tách rời khỏi tính hữu ích. Nhưng nhận ra điều này chỉ cần một phán đoán ở mức độ trung bình thôi.
(Quintilian, Giáo dục hùng biện, Sách VIII, Chương 3)
M
5.38n22
22. Xem GHI CHÚ [CC].
M
5.38n22.1, SBN 225
Tỷ lệ thuận với địa vị và quan hệ một người đang nắm giữ,
chúng ta luôn mong đợi mức độ phục vụ lớn hơn hoặc nhỏ hơn từ người đó; và khi
thất vọng, chúng ta đổ lỗi cho sự vô dụng của người đó, và thậm chí còn hơn thế
nữa nếu có bất kỳ tổn hại hay mất mát nào phát sinh từ hành vi của người đó.
Khi lợi ích của một quốc gia xung đột với lợi ích của một quốc gia khác, chúng
ta đánh giá công trạng của một chính khách bằng những điều tốt đẹp hay tồi tệ
mà đất nước họ mang lại từ những biện pháp và hội nghị của họ, mà không quan
tâm đến tổn hại gây ra cho kẻ thù hay đối thủ. Đồng bào của họ là đối tượng gần
nhất mà chúng ta nhìn thấy khi đánh giá tính cách của họ. Và bởi vì thiên nhiên
đã gieo vào mỗi người một tình cảm mạnh mẽ hơn đối với đất nước của họ, chúng
ta không bao giờ mong đợi sự quan tâm đến những quốc gia xa xôi nơi có sự cạnh
tranh.Hơn nữa, trong khi mỗi người tìm kiếm lợi ích cho cộng đồng của mình,
chúng ta nhận thấy rằng lợi ích chung của nhân loại được phục vụ tốt hơn bất kỳ
mối quan tâm lỏng lẻo, mơ hồ nào đối với toàn thể loài người, vốn không có mục
tiêu rõ ràng, không thể tạo ra hành động hữu ích nào.
M
5.40n23
23. Plutarch in vita Alc.
M
5.41n24
24. Xem GHI CHÚ [DD].
M
5.41n24.1, SBN 228
Vì
một lý do tương tự, khuynh hướng hành động và tính cách, chứ không phải hậu quả
ngẫu nhiên thực sự của chúng, chỉ được xem xét trong những quyết định đạo đức
hay phán đoán chung của chúng ta; mặc dù trong cảm xúc hay tình cảm thực sự của
mình, chúng ta không thể không dành sự tôn trọng nhiều hơn cho người có địa vị,
gắn liền với đức hạnh, khiến họ thực sự hữu ích cho xã hội, hơn là người chỉ thể
hiện đức hạnh xã hội bằng thiện chí và những tình cảm từ thiện. Tách tính cách khỏi
số phận, bằng một cố gắng suy nghĩ dễ dàng và cần thiết, chúng ta tuyên bố những
người này giống nhau và dành cho họ cùng một lời khen ngợi chung. Phán đoán này
sửa chữa hay cố gắng sửa chữa vẻ bề ngoài: Nhưng không thể hoàn toàn thắng thế
tình cảm.
M
5.41n24.2, SBN 228
Tại
sao cây đào này lại được cho là tốt hơn cây kia; vốn không phải vì nó cho nhiều
quả hơn hay ngon hơn sao? Và chẳng phải lời khen ngợi đó cũng được dành cho nó
sao, mặc dù ốc sên hay sâu bọ đã phá hoại những quả đào trước khi chúng chín
hoàn toàn? Trong đạo đức cũng vậy, chẳng phải cây được nhận biết qua quả hay
sao? Và chúng ta không thể dễ dàng phân biệt giữa tự nhiên và ngẫu nhiên,
trong cả hai trường hợp sao?
M
5.42n25
25. Xem GHI CHÚ [EE].
M
5.42n25.1, SBN 229
Tự
nhiên đã định sẵn một cách khôn ngoan rằng những quan hệ riêng tư thường được đặt
lên trên những quan điểm và cân nhắc chung; nếu không, tình cảm và hành động của
chúng ta sẽ bị lãng phí và mất đi, vì thiếu một mục tiêu giới hạn thích hợp. Vì
vậy, một hữu ích nhỏ bé dành cho bản thân, hay cho những người bạn thân thiết,
sẽ khơi dậy những tình cảm yêu thương và tán thành sống động hơn một hữu ích lớn
lao dành cho một cộng đồng xa xôi: Nhưng ở đây, cũng như trong mọi giác quan,
chúng ta vẫn biết cách khắc phục những bất bình đẳng này bằng sự suy ngẫm, và
duy trì một chuẩn mực chung về thói hư tật xấu và đức hạnh, chủ yếu dựa trên sự
hữu ích chung.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Trong lý thuyết đạo đức của Hume, “tình cảm tự nhiên” nghĩa là những
cảm xúc bẩm sinh dẫn dắt phán đoán đạo đức của chúng ta – chẳng hạn như sự đồng
cảm, lòng biết ơn, sự oán giận, lòng tốt và sự ác cảm với điều xấu. Đức hạnh được
chấp nhận bởi vì chúng cộng hưởng với những tình cảm sẵn có này, chứ không phải
thông qua lý luận trừu tượng hay mệnh lệnh thần thánh.
[2] self-love
[3] Polybius (khoảng 200–118 TCN) – Một chính khách và sử gia Greece, nổi
tiếng nhất với The Histories, một bộ sử dài 40 cuốn kể về sự trỗi dậy của
Rôma. Polybius nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn và chủ nghĩa hiện thực chính trị
hơn là lý thuyết trừu tượng. Ông lập luận rằng xã hội thành công nhờ một thể chế
cân bằng và hành vi đạo đức thường xuất phát từ lợi ích cá nhân – một quan điểm
Hume trích dẫn khi bàn về nguồn gốc “vị kỷ” của đức hạnh.
[4] Aeschines (khoảng 389–314 TCN) và Demosthenes (384–322 TCN) là những
chính khách và nhà hùng biện đối địch của Athens. Là những đối thủ chính trị
quyết liệt, họ thường xuyên xung đột trong Quốc hội và tại tòa án. Bất chấp sự
cạnh tranh của họ, những nguồn tư liệu cổ xưa vẫn ghi lại những khoảnh khắc hào
phóng và tôn trọng lẫn nhau – như Demosthenes đề nghị giúp đỡ Aeschines trong
thời gian lưu đày. Hume dùng câu chuyện này để minh họa cho quan điểm của ông rằng
đức hạnh, ngay cả trong những kẻ thù, cũng tự nhiên khơi dậy sự ngưỡng mộ và chấp
thuận về mặt đạo đức, bất kể lợi ích cá nhân hay hoàn cảnh.
[5] Hume lập luận rằng nếu ai cũng nghĩ, “Điều
đó có liên quan gì đến tôi?” thì mọi thảo luận về đạo đức sẽ trở nên vô
nghĩa. Ông khẳng định, tình cảm đạo đức là có thật và không thể bỏ qua. rằng những
phán đoán đạo đức - khen ngợi và chê trách - phụ thuộc vào tình cảm tự nhiên và
sự quan tâm của chúng ta dành cho người khác.
[6] self-love : tình
cảm vị kỷ: nguyên lý tâm lý cho rằng mọi động lực của con người đều có thể quy
về lợi ích cá nhân – luận đề của thuyết vị kỷ tâm lý (psychological egoism).
[7] “experimentum crucis” (từ “crucial” < Latin “crux” = “ngã tư”) > thí
nghiệm ở ngã tư đường, then
chốt, thí nghiệm chỉ cho con đường quyết định giữa những lý thuyết đối lập.
[8] Pastoral poetry: Thơ thôn dã: lý tưởng hóa đời sống nông
thôn, khắc họa những khung cảnh đồng quê yên bình, giản dị và hồn nhiên, gợi
lên sự bình yên và niềm vui nơi người đọc. Ví dụ như Eclogues của Virgil
và The Shepheardes Calender của Spenser.
[9] Sannazarius (1458 –1530) – Một nhà thơ người Ý sáng tác thơ thôn dã và chủ đề
biển cả; nổi tiếng với tác phẩm De partu Virginis và việc đặt bối cảnh đồng
quê bên bờ biển, mặc dù những nhà phê bình nhận định rằng những khó khăn trong những
tác phẩm của ông đã làm giảm đi vẻ đẹp bình dị của chúng.
[10] Timon người Athens là một nhân vật thực vào thế kỷ 5
TCN, sau này trở thành một kẻ ghét người huyền thoại. Trong giai thoại của
Hume, ông nồng nhiệt chào đón Alcibiades – một chính khách và tướng lĩnh Athens
đầy tham vọng, nổi tiếng với sự quyến rũ, dễ thay đổi trung thành, và đóng vai trò quan trọng trong những
bất hạnh sau này của Athens – Timon đã khuyến khích Alcibiades giành lấy lòng tin của dân Athens, đồng
thời dự đoán những thảm họa Alcibiades sẽ gây ra cho họ. Hume dùng câu chuyện mỉa
mai này để cho thấy một thích thú độc ác trước những tổn hại của những người khác dù trong tương
lai, một tình cảm trái ngược với lợi ích chung.
[11] Mani, một nhà tiên tri Ba Tư vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, người
đã dạy rằng vũ trụ được cai trị bởi hai thế lực đối lập vĩnh cửu: nguyên lý ánh
sáng, Thiện và nguyên lý bóng tối, Ác.
[12] Hume nhận xét rằng nếu sự tàn ác của Nero hoàn toàn là tự nguyện, thì những người chia sẻ hoặc khuyến khích khuynh hướng độc ác của ông ta – như Tigellinus – sẽ tự nhiên nhận được sự chấp thuận vững chắc của ông ta, không giống như những cố vấn đức hạnh hơn như Seneca hay Burrhus.