Friday, August 29, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (07)

Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 David Hume

 

( ← ... tiếp theo )

 

 


 

MỤC V.

Tại Sao Hữu ích Làm Hài Lòng.

 

PHẦN I.

 

M 5.1, SBN 212-3

Thật là tự nhiên khi nghĩ rằng chúng ta ca ngợi những đức hạnh xã hội vì sự hữu ích của chúng. Điều này khiến người ta kỳ vọng sẽ thấy nguyên lý này xuất hiện ở khắp nơi trong những tác phẩm đạo đức, như nền tảng cơ bản cho mọi lý luận và nghiên cứu. Trong đời sống thường ngày, con người luôn viện dẫn đến tính hữu ích. Họ nghĩ rằng không có lời khen ngợi nào cao quý hơn việc gọi một người là hữu ích cho công chúng và kể lại những đóng góp mà người đó đã làm cho loài người và xã hội. Ngay cả khi nói về những vật vô tri, chúng ta cũng đánh giá chúng theo cùng quy luật này. Chúng ta có thể tìm thấy cái đẹp nào trong một hình dạng, nếu sự đều đặn và thanh lịch của nó phá hủy tính hữu dụng của nó? Và còn biện hộ nào thỏa đáng hơn sự mất cân đối hoặc dị dạng rõ ràng, hơn là chứng minh rằng chính cấu trúc này thì cần thiết cho mục đích dự định của nó? Một con tàu trông đẹp hơn, với mắt nhìn của một nghệ sĩ, hay với một người có kỹ năng hàng hải ở mức độ vừa phải, khi mũi tàu phình ra và rộng về phía đuôi tàu, hơn là khi nó được đóng khung với một sự đều đặn hình học chính xác, trái ngược với tất cả những định luật cơ học. Một tòa nhà, với cửa ra vào và cửa sổ vuông vức hoàn hảo, thực sự sẽ rất khó coi, gây khó chịu cho mắt nhìn, vì tỷ lệ cứng nhắc như vậy không phù hợp với nhu cầu hoặc hình dạng con người vốn tòa nhà đã thiết kế để phục vụ cho mục đích đó. Vậy thì có gì ngạc nhiên khi một người có thói quen và hành vi gây hại cho xã hội và mang lại nguy hiểm cho bất kỳ ai giao tiếp với người này, vì lý do đó, trở thành đối tượng bị chỉ trích, khơi dậy trong mỗi người chứng kiến ​​những cảm xúc ghê tởm và oán ghét mạnh mẽ nhất [17].

 

M 5.2, SBN 213

Nhưng có lẽ sự khó khăn của việc giải thích cho những tác động này của sự hữu ích, hay ngược lại của nó (mặt trái của nó, gây hại), đã giữ những triết gia không nhận chúng vào trong những hệ thống đạo đức học của họ, và đã thúc đẩy họ dùng bất kỳ nguyên lý nào khác, trong việc giải thích nguồn gốc của thiện và ác về đạo đức. Nhưng không là lý do chính đáng cho việc gạt bỏ bất kỳ nguyên lý nào vốn đã được kinh nghiệm xác nhận, rằng chúng ta không thể đem cho một giải thích thỏa đáng về nguồn gốc của nó, cũng như không thể qui nó về những nguyên lý khác tổng quát hơn. Nếu chúng ta suy ngẫm dù chỉ một chút, không khó để thấy tại sao tính hữu ích lại ảnh hưởng đến những phán đoán đạo đức của chúng ta – chúng ta có thể truy nguyên nó từ những nguyên lý quen thuộc và hiển nhiên nhất của bản chất con người.

 

M 5.3, SBN 214

Từ tính hữu ích hiển nhiên của những đức hạnh xã hội, những người hoài nghi, cả xưa lẫn nay, đã nhanh chóng suy luận rằng tất cả những khác biệt về đạo đức đều xuất phát từ giáo dục. Họ lập luận rằng đầu tiên những đức hạnh được nghĩ ra, và sau đó được tài nghệ của những chính trị gia khuyến khích, để làm cho con người trở nên dễ bảo hơn và kiềm chế bản năng hung dữ và ích kỷ tự nhiên của họ, những gì khiến họ không hòa nhập được với xã hội. Nguyên lý này, trên thực tế, về dạy dỗ và giáo dục, phải được công nhận là có ảnh hưởng mạnh mẽ, đến mức nó có thể thường xuyên làm tăng hay giảm, vượt quá mức độ tự nhiên của chúng, những tình cảm tán thành hay không tán thành của chúng ta; và ngay cả, trong những trường hợp cụ thể, có thể tạo ra, vốn không cần bất kỳ nguyên lý tự nhiên nào, một tình cảm mới thuộc loại này; như thể hiện rõ trong tất cả thực hành và nghi lễ mê tín: Nhưng việc cho rằng tất cả những tình cảm tán thành hay phản đối về đạo đức đều bắt nguồn từ nguồn gốc này sẽ không bao giờ được bất kỳ nhà nghiên cứu sáng suốt nào chấp nhận. Nếu tự nhiên không tạo ra khác biệt như vậy, dựa trên cấu trúc ban đầu của não thức, thì những từ ngữ đáng kính và đáng xấu hổ, đáng yêu và đáng ghét, cao quý và đáng khinh bỉ, sẽ không bao giờ có chỗ đứng trong bất kỳ ngôn ngữ nào; và ngay cả những chính trị gia, nếu họ đã sáng tạo ra những thuật ngữ này, họ cũng không bao giờ có thể giải thích chúng được cho dễ hiểu, hay khiến chúng truyền tải bất kỳ ý tưởng nào đến với người nghe. Vậy nên, không gì giả tạo hơn nghịch lý này của những người hoài nghi. Thật tốt nếu chúng ta có thể dễ dàng bác bỏ những phản bác của những người hoài nghi trong những lĩnh vực trừu tượng của logic và siêu hình học như cách chúng ta làm được trong những khoa học thực tiễn và dễ hiểu hơn như chính trị học và đạo đức học.

 

M 5.4, SBN 214-5

Do đó, những đức hạnh xã hội phải được nhìn nhận là có một cái đẹp và sự đáng yêu tự nhiên, vốn có trước tất cả dạy dỗ hay giáo dục nào, khiến chúng được những người chưa được giáo dục coi trọng và thu hút tình cảm của họ. Và vì lợi ích công cộng của những đức hạnh này là hoàn cảnh chính yếu, từ đó chúng có được giá trị của chúng. Điều này có nghĩa là mục tiêu những đức hạnh này hướng tới phải làm chúng ta hài lòng một cách nào đó và chiếm được một số tình cảm tự nhiên. [1] Nó làm hài lòng chúng ta vì nó phục vụ lợi ích của chính chúng ta hoặc vì nó khơi dậy quan tâm và lòng tốt tự nhiên của chúng ta với người khác.

 

M 5.5, SBN 215

Người ta thường khẳng định rằng, vì mỗi người đều có một gắn bó mật thiết với xã hội, và nhận thức được sự thực là không thể tồn tại một mình, nên tự nhiên họ ưa chuộng những thói quen và nguyên lý duy trì trật tự xã hội và đảm bảo cho họ sự tận hưởng bình yên của phước lành vô giá này. Chúng ta càng trân trọng hạnh phúc và phúc lợi của bản thân bao nhiêu, thì chúng ta càng phải hoan nghênh việc thực hành công lý và nhân đạo bấy nhiêu, nhờ đó vốn liên minh xã hội mới có thể được duy trì, và mỗi người đều gặt hái thành quả của sự bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau.

 

M 5.6, SBN 215

Việc suy diễn rằng đạo đức xuất phát từ Tình cảm vị kỷ [2], hay một quan tâm với hữu ích cá nhân, là một suy nghĩ hiển nhiên, và không hoàn toàn xuất phát từ những tấn công tinh quái hay trêu chọc khiêu khích của những người hoài nghi. Chưa kể đến những người khác, Polybius, một trong những nhà văn nghiêm trang và sáng suốt nhất, cũng như đạo đức nhất thời thời cổ, đã gán nguồn gốc ích kỷ này cho tất cả những tình cảm của của chúng ta về đức hạnh [18]. Nhưng mặc dù ý thức thực tế, vững chắc của tác giả đó, cùng với sự ghê tởm của ông với mọi sự tế nhị phù phiếm, khiến thẩm quyền của ông về vấn đề này trở nên rất đáng kể; nhưng vấn đề này không thể được giải quyết chỉ bằng thẩm quyền. Kinh nghiệm và bản năng tự nhiên của con người dường như rõ ràng mâu thuẫn với quan niệm cho rằng đức hạnh hoàn toàn là ích kỷ. [3]

 

M 5.7, SBN 215-6

Chúng ta thường khen ngợi những hành động đức hạnh, đã thực hiện trong những thời rất xa xưa và những đất nước xa xôi; nơi trí tưởng tượng tế nhị nhất cũng không tìm ra ra bất kỳ sự hiện diện của vị kỷ nào, hay tìm thấy bất kỳ liên hệ nào giữa hạnh phúc và sự an toàn hiện tại của chúng ta với những sự kiện quá xa cách với chúng ta như vậy.

 

M 5.8, SBN 216

Một hành động hào phóng, dũng cảm, cao quý, được một đối thủ thực hiện, vẫn đáng được chúng ta ngưỡng mộ; ngay cả khi nó nó có thể được nhìn nhận là có hại cho lợi ích của chúng ta.

 

M 5.9, SBN 216

Khi lợi ích cá nhân trùng khớp với tình cảm tổng quát dành cho đức hạnh, chúng ta dễ dàng nhận thấy và nhìn nhận sự pha trộn của những tình cảm riêng biệt này, mỗi chúng có một có một cảm giác và ảnh hưởng rất khác nhau đến tâm lý. Chúng ta khen ngợi, có lẽ, với sốt sắng hơn, khi hành động hào hiệp, nhân đạo góp phần vào lợi ích cụ thể của chúng ta: Nhưng chủ đề của khen ngợi, vốn chúng ta nhấn mạnh, lại rất rộng trong trường hợp này. Và chúng ta có thể cố gắng thuyết phục những người khác chia sẻ những cảm xúc của chúng ta, nhưng không cần cố gắng thuyết phục họ rằng họ sẽ được hưởng bất kỳ lợi ích nào từ những hành động vốn chúng ta khuyến khích họ tán thành và hoan nghênh.

 

M 5.10, SBN 216

Dựng lên khuôn mẫu của một nhân vật đáng ca ngợi, hội tụ tất cả những đức hạnh đạo đức đáng yêu nhất: Hãy đưa ra những ví dụ cho thấy những đức hạnh này thể hiện một cách đáng chú ý và phi thường: Bạn sẽ ngay lập tức nhận được sự kính trọng và tán thưởng của mọi người nghe, thậm chí họ còn không bao giờ hỏi người sở hữu những phẩm tính cao quý này sống ở thời đại hay quốc gia nào. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, quan trọng hơn cả với tình cảm vị kỷ hay một quan tâm với hạnh phúc cá nhân của chính chúng ta..

 

M 5.11, SBN 216-7

Thuở xưa, một lần, trong xung đột khốc liệt giữa những phe phái, một nhà chính trị lão luyện đã dùng tài hùng biện để đẩy một đối thủ tài năng vào cảnh lưu đày. Nhưng sau khi đạt được mục đích, ông lại âm thầm tìm đến kẻ địch, vừa đưa tiền giúp đỡ trong thời gian bị đày ải, vừa dùng những lời động viên an ủi để xoa dịu đối thủ trong trong những bất hạnh. Than ôi! nhà chính trị bị lưu đày kêu lên, tôi phải tiếc nuối biết bao khi phải rời xa bạn bè mình ở thành phố này, nơi vốn ngay cả kẻ thù cũng hào hiệp đến vậy! Đức hạnh, dù ở trong một địch thủ, ở đây vẫn khiến người này hài lòng: Và chúng ta cũng dành cho nó sự tôn vinh và tán thành xứng đáng; chúng ta cũng không rút lại những tình cảm này, khi chúng ta nghe nói rằng hành động đó đã diễn ra ở Athens, khoảng hai nghìn năm trước, và tên của những nhân vật đó là Eschines và Demosthenes. [4]

 

M 5.12, SBN 217

Điều đó có liên quan gì đến tôi? Hiếm khi nào câu hỏi ấy lại không thích đáng Và giả như nó thực sự có sức ảnh hưởng phổ quát, tuyệt đối như người ta tưởng, thì hầu như mọi trò chuyện, chứa đựng bất kỳ ca ngợi hay chỉ trích nào về con người và cách cư xử của họ, đều sẽ trở nên lố bịch cả. [5]

 

M 5.13, SBN 217

Đó chỉ là một biện hộ yếu ớt, khi bị những sự kiện và biện luận này thúc đẩy, để nói rằng, chúng ta tự đưa mình, bằng sức mạnh của trí tưởng tượng, vào trong những thời đại và đất nước xa xôi, và xem xét lợi ích vốn chúng ta có thể gặt hái từ những nhân vật này, nếu chúng ta sống cùng thời với họ và có bất kỳ giao dịch nào với những người đó. Thật khó có thể tưởng tượng được làm thế nào một tình cảm hay cảm xúc thực có thể nảy sinh từ một quan tâm tưởng tượng đã biết; đặc biệt là khi quan tâm thực của chúng ta vẫn được nhìn thấy, và thường được nhìn nhận là hoàn toàn khác biệt với quan tâm tưởng tượng, và đôi khi ngay cả trái ngược với nó.

 

M 5.14, SBN 217-8

Một người bị đẩy đến bờ một bờ vực thẳm, không thể nhìn xuống mà không run rẩy; và cảm giác của sự nguy hiểm tưởng tượng tác động người này, ngược với quan điểm và tin tưởng của sự an toàn thực sự. Nhưng trí tưởng tượng ở đây được sự hiện diện của một đối tượng nổi bật hỗ trợ; thế nhưng nó không thắng thế, trừ khi nó cũng được hỗ trợ bởi sự mới lạ và vẻ ngoài khác thường của đối tượng. Tập quán nhanh chóng giúp chúng ta làm quen với những đỉnh cao và vực thẳm, và xua tan những sợ hãi giả tạo và ảo tưởng này. Điều ngược lại có thể quan sát được trong những ước định chúng ta hình thành về tính cách và cách cư xử; và càng quen với việc kiểm tra kỹ lưỡng những chuẩn mực đạo đức, chúng ta càng nhạy cảm hơn với những khác biệt tinh tế nhất giữa tội lỗi và đức hạnh. Trong đời sống thường ngày, chúng ta thường xuyên phải đưa ra tất cả những loại quyết định đạo đức, đến mức không một đối tượng nào thuộc loại này có thể mới mẻ hay xa lạ với chúng ta; và bất kỳ quan điểm hay định kiến sai lầm nào cũng không thể đứng vững trước một kinh nghiệm phổ thông và quen thuộc như vậy. Kinh nghiệm, là những gì chủ yếu hình thành những liên tưởng của ý tưởng, nên không thể có bất kỳ liên tưởng nào có thể hình thành và duy trì nếu trực tiếp trái ngược với nguyên lý đó.

 

M 5.15, SBN 218

Sự hữu ích mang đến cảm giác dễ chịu và thu hút sự tán thành của chúng ta. Đây là một thực tế không thể chối cãi, được xác nhận qua những quan sát thường nhật. Nhưng hữu ích cho điều gì? Chắc chắn là cho lợi ích của một ai đó. Vậy lợi ích của ai? Không chỉ riêng chúng ta: Bởi sự tán thành của ta thường mở rộng hơn thế. Do đó, đó phải là lợi ích của những người được phục vụ bởi phẩm tính hoặc hành động vốn chúng ta tán thành; và dù họ có xa lạ đến đâu, họ cũng không hoàn toàn vô can với chúng ta. Bằng mở rộng nguyên lý này, chúng ta sẽ tìm ra ra một nguồn gốc lớn lao của những sự phân biệt đạo đức.

 

PHẦN II.

 

M 5.16, SBN 218-9

Tình cảm vị kỷ [6] là một nguyên lý trong bản tính con người với năng lượng lan tỏa mạnh mẽ, và lợi ích của mỗi cá nhân, nói tổng quát, liên kết chặt chẽ với lợi ích của cộng đồng, khiến những nhà triết học xưa kia đã có lý do để tưởng tượng rằng tất cả quan tâm của chúng ta với công chúng có thể được quy về quan tâm với hạnh phúc và sự bảo tồn của chính chúng ta. Họ nhận thấy mỗi khoảnh khắc những xảy ra của tán thành hay lên án, hài lòng hay bất bình hướng tới những nhân vật và những hành động; họ gọi những đối tượng của những tình cảm này là đức hạnh hay thói hư tật xấu; họ thấy rằng điều trước có một khuynh hướng làm tăng vui sướng, còn điều sau làm tăng khốn khổ của loài người; Họ hỏi liệu có phải chúng ta có thể có một quan tâm tổng quát với xã hội, hay một sự phẫn uất khách quan nào với phúc lợi hay tổn hại của những người khác. Họ tìm thấy là đơn giản hơn để coi tất cả những tình cảm này như những biến thể của tình cảm vị kỷ; và họ đã tìm ra một cơ sở biểu kiến, ít nhất, cho sự thống nhất này của nguyên lý, trong sự kết hợp chặt chẽ đó của lợi ích, vốn nó rất dễ nhận thấy giữa công chúng và mỗi cá nhân.

 

M 5.17, SBN 219

Nhưng bất chấp sự nhầm lẫn thường xuyên này về những lợi ích, việc đạt được những gì vốn những nhà triết học tự nhiên, sau Lord Bacon, đã chọn gọi là experimentum crucis, [7] hay loại thí nghiệm đó, vốn chỉ ra con đường đúng trong bất kỳ hoài nghi hay mơ hồ nào, là điều dễ dàng. Chúng ta đã tìm thấy những trường hợp, trong đó hữu ích cá nhân tách biệt với hữu ích công cộng ; ngay cả còn trái ngược nhau: Và tuy nhiên, chúng ta nhận thấy rằng tình cảm đạo đức tiếp tục tồn tại, bất chấp sự tách biệt của những lợi ích này. Và bất cứ nơi nào những lợi ích riêng biệt này hòa hợp một cách rõ ràng, chúng ta luôn thấy một sự gia tăng hợp lý của tình cảm, và một tình cảm ấm áp hơn với đức hạnh, và sự ghê tởm thói hư tật xấu, hay nhữngvốn chúng ta gọi đúng là lòng biết ơnsự trả thù. Bị thúc đẩy bởi những trường hợp này, chúng ta phải từ bỏ lý thuyết giải thích mọi tình cảm đạo đức bằng nguyên lý của tình cảm vị kỷ. Chúng ta phải chấp nhận một tình cảm công cộng rộng lớn hơn, và chấp nhận rằng những lợi ích của xã hội, ngay cả khi xét riêng bản thân chúng, cũng không hoàn toàn vô can với chúng ta. Sự hữu ích chỉ là một khuynh hướng dẫn đến một mục đích nhất định; và là một mâu thuẫn nếu nói rằng một gì đó làm chúng ta hài lòng như một phương tiện để đạt mục đích, trong khi chính mục đích ấy chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nếu sự hữu ích là nguồn gốc của tình cảm đạo đức, và nếu sự hữu ích ấy không phải lúc nào cũng được xem xét dưới góc độ lợi ích cá nhân, thì logic sẽ dẫn đến kết luận rằng: bất cứ gì góp phần vào hạnh phúc của xã hội đều tự thân khơi gợi sự tán thành và thiện chí của chúng ta. Đây là một nguyên lý, phần lớn giải thích nguồn gốc của đạo đức: Và chúng ta cần gì phải tìm kiếm những hệ thống mờ mịt khó hiểu và xa vời, khi đã xảy ra một hệ thống hiển nhiên và tự nhiên như vậy [19]?

 

M 5.18, SBN 220

Liệu chúng ta có khó khăn gì trong việc thấu hiểu sức mạnh của lòng nhân đạo và lòng từ thiện không? Hay trong việc hình dung rằng chính diện mạo của hạnh phúc, vui sướng, thịnh vượng mang lại vui sướng; còn nét mặt của đau đớn, khổ sở, buồn phiền lại truyền tải sự bất an? Horace [20] từng nói, gương mặt con người mượn nụ cười hay giọt lệ từ gương mặt của đồng loại. Đưa một con người vào cảnh cô độc, người này sẽ mất hết mọi vui thú, trừ loại vui thú giác quan hoặc suy tưởngởng thuần túy; và đó là bởi những cung bậc cảm xúc trong lòng người này không được cộng hưởng với những rung động tương ứng trong những đồng loại xung quanh. Những dấu hiệu của đau buồn và tang tóc, dù chỉ là ước lệ, cũng khiến ta u sầu; nhưng những biểu hiện tự nhiên, như nước mắt, tiếng khóc và rên rỉ, chẳng bao giờ thất bại trong việc khơi gợi lòng trắc ẩn và sự bất an. Và nếu những hậu quả của khốn khổ đã làm chúng ta cảm động một cách sống động như vậy, thì liệu chúng ta có thể hoàn toàn vô cảm hay thờ ơ trước nguyên nhân của nó –  khi một nhân cách hay hành vi độc ác, phản bội được bày ra trước mắt chúng ta không?

 

M 5.19, SBN 220-1

Giả sử chúng ta bước vào một căn phòng tiện nghi, ấm cúng, được bài trí khéo léo: Chúng ta chắc chắn cảm thấy dễ chịu ngay từ cái nhìn đầu tiên; vì nó mang đến cho chúng ta những ý tưởng của dễ chịu, thoải mái, hài lòng và thích thú. Người chủ nhà hiếu khách, vui tính và nhân hậu xuất hiện. Hoàn cảnh này chắc chắn sẽ tô điểm thêm cho toàn bộ; và chúng ta khó có thể kìm nén việc suy ngẫm với thích thú, về về sự hài lòng vốn mỗi người có được từ sự giao tiếp và những hành động tử tế của người này,

 

M 5.20, SBN 221

Cả gia đình người này,với sự tự do, thoải mái, tự tin và vui sướng bình thản lan tỏa trên khuôn mặt của họ, đã thể hiện đầy đủ vưi sướng của họ. Tôi có một sự đồng cảm dễ chịu trước viễn cảnh của vui thích lớn lao này, và không bao giờ có thể nghĩ đến nguồn gốc của nó mà không có những cảm xúc dễ chịu nhất.

 

M 5.21, SBN 221

Người này kể với tôi rằng một người hàng xóm độc ác và quyền lực đã định tước đoạt tài sản thừa kế của ông, và từ lâu đã quấy nhiễu mọi vui thú trong sáng và xã hội của ông. Tôi cảm thấy một sự phẫn nộ ngay lập tức dâng lên trong lòng trước bạo lực và tổn thương như vậy.

 

M 5.22, SBN 221

Nhưng người này nói thêm, chẳng có gì lạ khi một sai lầm cá nhân lại đến từ một người, vốn người đã nô dịch hóa những tỉnh thành, làm thành thị thưa thớt dân cư, và khiến đồng ruộng cùng giàn giáo ngập tràn máu người. Tôi kinh hoàng trước viễn cảnh đau thương đến vậy, và bị thôi thúc bởi ác cảm mạnh mẽ nhất với tác giả của nó.

 

M 5.23, SBN 221

Nhìn chung, chắc chắn rằng, dù chúng ta đi đâu, suy ngẫm hay trò chuyện về điều gì, mọi sự vật việc vẫn hiện ra trước mắt chúng ta với hình ảnh hạnh phúc hay đau khổ của con người, và khơi dậy trong chúng ta những rung động đồng cảm của vui sướng hay bất an. Trong những công việc bận rộn nghiêm trang, trong những giải trí không lo nghĩ, nguyên lý này vẫn phát huy năng lượng tích cực của nó.

 

M 5.24, SBN 221

Một người bước vào nhà hát sẽ ngay lập tức bị ấn tượng bởi quang cảnh của một đám đông lớn đang cùng tham dự vào một trò giải trí chung; và chỉ từ bề ngoài của họ, người này cảm nhận cảm thấy một sự nhạy cảm hoặc xu hướng mạnh mẽ hơn để chịu ảnh hưởng bởi mọi cảm xúc vốn người này chia sẻ với những đồng loại.

 

M 5.25, SBN 221

Người này quan sát những diễn viên trở nên phấn khích khi xuất hiện trước một khán giả đông đảo và lên đến một mức độ nhiệt tình vốn họ không thể tự khơi dậy trong bất kỳ khoảnh khắc cô độc hay bình tĩnh nào.

 

M 5.26, SBN 221-2

Mỗi chuyển động của sân khấu, do một nhà thơ soạn kịch tài ba thực hiện, đều được truyền tải, như một phép màu, đến khán giả; họ khóc lóc, run rẩy, phẫn uất, vui mừng và bùng cháy với đủ mọi cung bậc của những cảm xúc, vốn chính những nhân vật trong vở kịch trải qua.

 

M 5.27, SBN 222

Khi có bất kỳ biến cố nào đi ngược lại với mong ước của chúng ta và làm gián đoạn hạnh phúc của những nhân vật yêu thích, chúng ta cảm thấy có một băn khoăn lo lắng rõ ràng quan tâm thực sự. Nhưng khi đau khổ của họ xuất phát từ sự phản bội, tàn ác, hay bạo ngược của một kẻ thù, lồng ngực chúng ta sẽ tràn ngập sự phẫn uất sôi sục với kẻ gây ra những tai họa này.

 

M 5.28, SBN 222

Ở đây, việc thể hiện bất cứ điều gì lạnh lùng và thờ ơ đều bị coi là trái với quy luật nghệ thuật. Một người bạn thở ơ xa cách, hay một người dù tin cậy, nhưng không quan tâm trực tiếp đến thảm họa, nếu có thể, nên được nhà viết kịch loại bỏ, bởi vì những nhân vật như vậy sẽ truyền tải sự thờ ơ tương tự đến khán giả và làm chậm hay kìm hãm cảm xúc dâng trào của họ

 

M 5.29, SBN 222

Ít có thể loại thơ nào thú vị hơn thơ thôn [8]; và ai cũng nhận thức được rằng nguồn cảm hứng chủ yếu của thơ ca xuất phát từ những hình ảnh về sự bình yên dịu dàng, êm ái vốn thơ ca thể hiện qua những nhân vật, và cũng chính những hình ảnh đó truyền tải đến người đọc một cảm xúc tương tự. Sannazarius, người đã chuyển khung cảnh ra bờ biển, mặc dù ông đã khắc họa một cảnh tượng hùng vĩ nhất trong tự nhiên, được công nhận là đã sai lầm trong lựa chọn của mình. [9] Ý niệm về lao lực, vất vả và nguy hiểm vốn những người đánh cá phải chịu đựng thì đau thương; bởi một sự đồng cảm không thể tránh, vốn đi kèm với mọi quan niệm về hạnh phúc hay đau khổ của con người.

 

M 5.30, SBN 222-3

Một nhà thơ Pháp nói, khi tôi hai mươi tuổi, Ovid là người tôi yêu thích nhất; giờ tôi bốn mươi tuổi, tôi lại thích Horace hơn. Chắc chắn, chúng ta dễ dàng đi vào những tình cảm giống với những gì chúng ta cảm nhận hàng ngày hơn: Nhưng không tình cảm nào, khi được thể hiện tốt, lại có thể hoàn toàn thờ ơ với chúng ta; vì không có tình cảm nào vốn mỗi người không có, ít nhất là những mầm mống và nguyên lý đầu tiên. Công việc của thơ ca là đưa mọi cảm xúc đến gần chúng ta bằng hình ảnh và sự thể hiện sống động, và làm chúng giống như sự thực và thực tại: Một bằng chứng chắc chắn rằng, bất cứ nơi nào tìm thấy thực tại đó, tâmchúng ta đều dễ dàng bị nó tác động mạnh mẽ

 

M 5.31, SBN 223

Bất kỳ sự kiện hay tin tức gần đây nào ảnh hưởng đến số phận của những quốc gia, tỉnh thành, hoặc nhiều cá nhân đều vô cùng thu hút ngay cả với những người không bị ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Những thông tin như vậy được lan truyền nhanh chóng, được lắng nghe với háo hức, và được tìm hiểu với quan tâm và chú ý. Trong trường hợp này, lợi ích của xã hội dường như, ở một mức độ nào đó, cũng chính là hữu ích của mỗi cá nhân. Trí tưởng tượng chắc chắn sẽ bị tác động; dù những cảm xúc được khơi dậy không phải lúc nào cũng mạnh mẽ và bền vững đến mức ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi và cách cư xử.

 

M 5.32, SBN 223

Đọc lịch sử có vẻ là một thú vui giải trí thanh thản; nhưng sẽ chẳng phải là thú vui gì cả nếu trái tim chúng ta không đập theo những chuyển động tương ứng với những gì được nhà sử học mô tả.

 

M 5.33, SBN 223

Thucydides và Guicciardini khó giữ được sự chú ý của chúng ta khi người đầu tiên kể lại những cuộc đụng độ nhỏ của những thành phố nhỏ ở Greece, còn người thứ hai miêu tả những cuộc chiến gần như không đổ máu của Pisa. Số người tham gia quá ít, và lợi ích quá nhỏ, nên trí tưởng tượng và cảm xúc của chúng ta hầu như không bị cuốn hút. Nhưng tuyệt vọng sâu xa của đông đảo quân đội Athens tại Syracuse, hay nguy hiểm gần như bao trùm đe dọa Venice; đã khơi dậy lòng thương xót và khiến ta ngập tràn lo sợ và bồn chồn; những điều này khơi dậy lòng trắc ẩn; những điều này khơi dậy kinh hoàng và lo lắng.

 

M 5.34, SBN 223-4

Văn phong lãnh đạm, tẻ nhạt của Suetonius, cũng như ngòi bút điêu luyện của Tacitus, có thể khiến ta tin vào sự đồi trụy tàn bạo của Nero hay Tiberius: nhưng cảm xúc mang lại hoàn toàn khác biệt! Trong khi Suetonius lạnh lùng kể lại những sự kiện; thì Tacitus lại cho ta thấy hình ảnh đáng kính của một Soranus và một Thrasea, gan dạ trước số phận, và chỉ rung động trước đau buồn tan nát của bạn bè và những người thân. Vậy thì sự đồng cảm nào chạm đến trái tim mỗi người! Sự phẫn nộ nào với bạo chúa, kẻ vốn nỗi sợ hãi vô cớ hay ác độc không khiêu khích đã gây ra sự man rợ đáng ghê tởm như vậy!

 

M 5.35, SBN 224

Nếu chúng ta đưa những cảnh tượng này đến gần hơn (như đang diễn ra trước mắt) và loại bỏ mọi nghi ngờ về hư cấu hay gian dối, thì một quan tâm mãnh liệt sẽ được đánh thức  –   thường vượt xa những liên kết nhỏ hẹp của tình cảm vị kỷ và lợi ích cá nhân! Sự nổi loạn của quần chúng, lòng nhiệt thành với đảng phái, sự tuân thủ tuyệt đối đối với những nhà lãnh đạo bè phái; đây là một số tác động dễ thấy nhất, mặc dù ít đáng khen ngợi hơn, của sự đồng cảm xã hội này trong bản chất con người.

 

M 5.36, SBN 224

Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng, ngay cả khi chủ đề có vẻ tầm thường, ta vẫn bị cuốn hút bởi bất cứ điều gì khắc họa được một thoáng cảm xúc và tình người.

 

M 5.37, SBN 224

Khi một người nói lắp và phát âm khó khăn, chúng ta ngay cả còn thông cảm với sự khó chịu nhỏ nhặt này và đau khổ thay cho họ. Và có một quy luật trong phê bình, rằng mọi tổ hợp âm tiết hay chữ cái, gây khó chịu cho những cơ quan phát âm trong khi đọc, cũng xuất hiện, từ một loại cảm thông, khắc nghiệt và khó chịu với thính giác. Hơn nữa, khi chúng ta lướt mắt qua một quyển sách, chúng ta cảm nhận được cấu trúc không hài hòa như vậy; vì chúng ta vẫn tưởng tượng rằng một người đang đọc nó cho chúng ta nghe và đau khổ vì cách phát âm những âm thanh chói tai này. Sự đồng cảm của chúng ta thật tế nhị!

 

M 5.38, SBN 224-5

Những tư thế và cử động dễ dàng, tự nhiên luôn đẹp: Một vẻ khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực thì dễ chịu: Những áo choàng ấm áp nhưng không gây nặng nề cho cơ thể; che phủ những không bó chặt chân tay, được thiết kế khéo léo. Trong mọi ước định về cái đẹp, cảm xúc của người được tác động đều được xem xét và truyền tải đến người xem những nét tương đồng về đau đớn hay vui sướng [21]. Vậy thì, có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta không thể đưa ra bất kỳ ước định nào về tính cách và hành vi của con người vốn không xem xét đến khuynh hướng hành động của họ, và hạnh phúc hay đau khổ vốn từ đó nảy sinh cho xã hội? Sự liên kết nào của những ý tưởng có thể vận hành được nếu nguyên lý đó hoàn toàn không hoạt động ở đây? [22]

 

M 5.39, SBN 225-6

Nếu bất kỳ người nào từ sự vô cảm lạnh lùng, hay tính khí vị kỷ hẹp hòi, thản nhiên với những hình ảnh của hạnh phúc hay đau khổ con người, thì người đó cũng phải thờ ơ với những hình ảnh của thói hư tật xấu và đức hạnh: Mặt khác, như chúng ta luôn thấy, một quan tâm ấm áp đến lợi ích của loài người thường đi kèm với một cảm xúc tế nhị về mọi sự khác biệt về đạo đức; một sự phẫn nộ mạnh mẽ trước những tổn thương gây ra cho con người; một sự tán thành sống động với phúc lợi của họ. Trong trường hợp cụ thể này, mặc dù có thể thấy sự vượt trội lớn lao của một người so với của người khác; nhưng không ai hoàn toàn thờ ơ với hữu ích của đồng loại, đến mức không nhận thấy những khác biệt của thiện và ác về mặt đạo đức, do những khuynh hướng khác nhau của những hành động và nguyên lý. Thật vậy, làm sao chúng ta có thể giả định rằng, một người mang một trái tim nhân hậu, khi phải phê bình một nhân cách hoặc lối sống có lợi cho loài người hay cộng đồng và một nhân cách hoặc lối sống khác có hại cho loài người hay cộng đồng – người này ngay cả sẽ không dành cho điều trước một sự ưu tiên dù lạnh lùng, hoặc dành cho nó một chút công lao hay sự tôn trọng nhỏ nhất? Chúng ta hãy giả định có một người từng rất vị kỷ như vậy; để lợi ích cá nhân thu hút hết sự chú ý; tuy nhiên, trong những trường hợp lợi ích cá nhân không liên quan, người này phải không tránh khỏi cảm thấy một khuynh hướng tự nhiên nào đó tới lợi ích của loài người, và làm nó thành một đối tượng của lựa chọn, nếu mọi gì khác đều ngang bằng nhau. Liệu có ai, khi đang đi bộ, lại sẵn lòng giẫm lên những ngón chân đau nhức của người khác, người vốn người này không hề có xích mích, như giẫm lên đá lửa và vỉa hè cứng rắn? Ở đây chắc chắn có sự khác biệt trong trường hợp này. Chúng ta chắc chắn cân nhắc đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, khi cân nhắc những động cơ hành động khác nhau, và nghiêng về phía hạnh phúc của người khác, nơi không có sự quan tâm riêng tư nào thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự thăng tiến hay lợi ích cho bản thân bằng cách gây tổn hại cho đồng loại. Và nếu những nguyên lý của tình loài người có khả năng, trong nhiều trường hợp, ảnh hưởng đến hành động của chúng ta, thì chúng phải luôn có thẩm quyền nào đó đối với những tình cảm của chúng ta, và cho chúng ta một sự chấp thuận tổng quát về những gì là hữu ích cho xã hội, và lên án những gì là nguy hiểm hay tai hại. Mức độ của những tình cảm này có thể là đề tài tranh luận; nhưng thực tại của hiện hữu của chúng, người ta nên nghĩ, phải được nhìn nhận, trong mọi lý thuyết hay hệ thống.

 

M 5.40, SBN 226-7

Một sinh vật hoàn toàn ác độc và đầy thù hận, nếu có tồn tại trong tự nhiên, tất phải tồi tệ hơn cả thái độ thờ ơ trước những hình ảnh của tội lỗi và đức hạnh. Mọi tình cảm của người này phải là đảo ngược, và hoàn toàn đối lập với những tình cảm thịnh hành trong loài người. Bất cứ gì đóng góp vào lợi ích của loài người, khi nó đi ngược lại với khuynh hướng thường trực của những mong muốn và khát khao của người này, đều phải gây ra sự bất an và phản đối; và ngược lại, bất cứ điều gì là nguồn gốc của sự hỗn loạn và đau khổ trong xã hội, cũng vì lý do đó, phải được xem là điều khiến người này thích thú và thoả mãn. Timon, có lẽ vì ảnh hưởng của bệnh tật, hơn là do bất kỳ ác ý cố hữu nào, người được mệnh danh là kẻ ghét loài người, đã ôm lấy Alcibiades đầy tham vọng với trìu mến rõ rệt. Tiếp tục đi, chàng trai của ta! ông kêu lên, “ hãy chiếm lấy lòng tin của dân chúng; vì ta thấy trước một ngày nào đó ngươi sẽ là nguyên nhân gây ra những tai họa lớn cho họ [23]; [10] Nếu chúng ta công nhận hai nguyên lý của những tín đồ của Mani, [11] thì đó là một hậu quả không thể tránh khỏi, rằng tình cảm của họ về hành động của con người, cũng như mọi sự việc khác, phải hoàn toàn trái ngược nhau, và mọi trường hợp công lý và nhân đạo, theo khuynh hướng tất yếu của nó, phải làm hài lòng vị gót này và làm phật lòng vị gót kia. Cho đến nay, toàn thể loài người đều giống với nguyên lý tốt đẹp, rằng, khi hữu ích, sự trả thù hay lòng đố kỵ không làm sai lệch khuynh hướng của chúng ta, thì chúng ta luôn có khuynh hướng, từ lòng từ thiện tự nhiên, ưu tiên cho hạnh phúc của xã hội, và do đó là đức hạnh, hơn là điều đối lập với nó. Sự độc ác tuyệt đối, không nguyên do, và không vụ lợi , có lẽ chưa từng tồn tại trong lòng bất kỳ con người nào; hoặc nếu đã có, nó đã phải biến dạng tất cả những tình cảm đạo đức, cũng như tình cảm nhân đạo. Nếu sự tàn nhẫn của Nero được xem là hoàn toàn tự nguyện, nhưng không phải là tác động của sự sợ hãi và oán giận liên tục; thì điều đó hàm ý rằng Tigellinus –  chứ không phải Seneca hay Burrhus –  phải là người nhận được sự đồng tình kiên định và không thay đổi từ Nero. [12]

 

M 5.41, SBN 227-8

Một chính khách hay người yêu nước, phục vụ đất nước của chúng ta, trong thời đại của chúng ta, luôn nhận được sự tôn trọng nồng nhiệt hơn so với người có ảnh hưởng tốt đẹp đến những thời đại xa xôi hoặc những quốc gia xa xôi; nơi những gì tốt đẹp, xuất phát từ lòng nhân đạo hào hiệp của họ, ít liên quan đến chúng ta hơn, dường như mơ hồ hơn và tác động đến chúng ta với sự đồng cảm kém sống động hơn. Chúng ta có thể nhìn nhận công lao của họ là to lớn như nhau, dù những tình cảm của chúng ta không nâng lên cùng một tầm cao, trong cả hai trường hợp. Phán đoán ở đây sửa chữa những không bằng nhau trong những cảm xúc và nhận thức bên trong chúng ta; tương tự như vậy, nó bảo vệ chúng ta khỏi sai lầm trong vô số những biến thể hiện của hình ảnh hiện ra trước những giác quan bên ngoài của chúng ta. Cùng một đối tượng, ở khoảng cách gấp đôi, thực sự chỉ cho mắt thấy một hình ảnh bằng một nửa kích thước; tuy nhiên, chúng ta tưởng tượng rằng nó xuất hiện cùng kích thước trong cả hai trường hợp; vì chúng ta biết rằng, khi chúng ta đến gần nó, hình ảnh của nó sẽ mở rộng trong mắt, và sự khác biệt không nằm ở bản thân đối tượng, nhưng ở vị trí của chúng ta so với nó. Và thực sự, nếu không có sự điều chỉnh về những hiện ra bên ngài như vậy, cả về tình cảm bên trong lẫn bên ngoài, con người sẽ không bao giờ có thể suy nghĩ hay nói chuyện một cách ổn định về bất kỳ chủ đề nào; trong khi những tình cảnh thay đổi của họ tạo ra sự thay đổi liên tục về những đối tượng và đưa chúng vào những ánh sáng và vị trí khác nhau và trái ngược nhau như vậy [24].

 

M 5.42, SBN 228-9

Càng giao tiếp với loài người, càng duy trì nhiều quan hệ xã hội, chúng ta sẽ càng quen thuộc với những sở thích và những phân biệt phổ quát này, vốn nếu không có chúng, cả những trò chuyện thông thường lẫn những nói viết trang trọng của chúng ta đều thành khó có thể hiểu được rõ ràng. Mỗi người đều có sở thích riêng, và những ác cảm cũng như những thèm muốn phát sinh từ sở thích đó, không thể cho là ảnh hưởng đến những người khác ở cùng một mức độ như nhau. Do đó, ngôn ngữ chung, được hình thành để dùng chung, phải được đóng khuôn trên trên một số những quan điểm chung, và phải gắn những tên gọi khen ngợi hay chê trách, phù hợp với những tình cảm, vốn chúng xuất phát từ những lợi ích chung của cộng đồng. Và nếu những tình cảm này, ở hầu hết mọi người, không mạnh mẽ bằng những tình cảm liên quan đến lọi ích cá nhân; tuy vậy chúng vẫn phải tạo một vài phân biệt, ngay cả ở những người hư hỏng và vị kỷ nhất; và phải gắn khái niệm tốt với một hành vi từ thiện, và khái niệm xấu với sự ngược lại. Chúng ta phải nhìn nhận rằng, sự đồng cảm thì mờ nhạt hơn nhiều so với sự quan tâm của chúng ta dành cho chính mình, và sự đồng cảm với những người ở xa chúng ta mờ nhạt hơn nhiều so với sự đồng cảm với những người ở gần và liền kề; nhưng chính vì lý do này, trong những phán đoán và nói viết bình tĩnh về tính cách con người, chúng ta cần phải bỏ qua tất cả những khác biệt này, và làm cho tình cảm của chúng ta sao cho cởi mở hơn với tất cả mọi người và phù hợp với toàn xã hội. Bên cạnh đó, vì bản thân chúng ta thường thay đổi hoàn cảnh của chúng ta trong trường hợp cụ thể này, nên hàng ngày chúng ta gặp những người ở trong hoàn cảnh khác với chúng ta, và họ không bao giờ có thể trò chuyện với chúng ta nếu chúng ta cứ mãi ở vị trí và quan điểm đó, vốn là đặc biệt với chúng ta. Do đó, sự giao thoa cảm xúc trong xã hội và trong giao tiếp khiến chúng ta hình thành một chuẩn mực chung bất biến, qua đó chúng ta có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận những nhân cách và những cư xử. Và mặc dù trái tim không hoàn toàn đồng tình với những quan niệm chung đó, cũng không điều chỉnh tất cả thương yêu và hận thù của nó, bởi những khác biệt phổ quát, trừu tượng về thói hư tật xấu và đức hạnh, vốn không quan tâm đến bản thân, hay những người chúng ta có liên hệ mật thiết hơn; tuy nhiên những khác biệt về đạo đức này có một ảnh hưởng đáng kể, và ít nhất là đủ cho việc nói viết, phục vụ cho mọi mục đích của chúng ta trong công ty, trên bục giảng, trên sân khấu và trong trường học [25].

 

M 5.43, SBN 230

Vì vậy, dù chúng ta nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ nào, thì giá trị được gán cho những đức hạnh xã hội vẫn có vẻ đồng nhất, và chủ yếu xuất phát từ sự quan tâm vốn tình cảm tự nhiên của từ thiện thúc đẩy chúng ta dành cho lợi ích của loài người và xã hội. Nếu chúng ta xem xét những nguyên lý do con người tạo ra, như chúng xuất hiện trong kinh nghiệm và quan sát hàng ngày, thì chúng ta phải, tiên nghiệm , kết luận rằng một sinh vật như con người không thể hoàn toàn thờ ơ với hạnh phúc hay đau khổ của đồng loại, và không dễ dàng, về bản thân, để tuyên bố, ở chỗ không có gì đem cho cho người này bất kỳ sự thiên vị cụ thể nào, rằng điều gì thúc đẩy hạnh phúc của họ là tốt, điều gì hướng đến đau khổ của họ là xấu, vốn không cần bất kỳ sự quan tâm hay cân nhắc nào khác. Vậy thì đây là những nguyên lý cơ bản, ít nhất là, hay những phác thảo, của một sự phân biệt tổng quát giữa những hành động; và theo tỷ lệ vốn lòng nhân đạo của một người được cho là tăng lên, liên hệ của người này với những người chịu tổn thương hay được hưởng lợi, cùng với nhận thức sống động của người này về đau khổ hay hạnh phúc của họ; sự chỉ trích hay tán thành tiếp theo của người này có được sức mạnh tương ứng. Một hành động cao thượng, ít được nhắc đến trong sử sách hay công báo xa xôi, không nhất thiết phải truyền tải bất kỳ cảm xúc nồng nhiệt nào về sự tán thưởng và ngưỡng mộ. Đức hạnh, được đặt ở khoảng cách xa như vậy, giống như một vì sao cố định, mặc dù với con mắt lý trí, nó có thể xuất hiện sáng chói như mặt trời ở kinh tuyến của nó, nhưng lại ở rất xa đến nỗi không thể tác động đến những giác quan bằng ánh sáng hay nhiệt lượng. Hãy đưa đức hạnh này đến gần hơn, bằng cách làm quen hay kết nối với những người đó, hay ngay cả bằng một câu chuyện kể hùng hồn về trường hợp đó; trái tim chúng ta sẽ ngay lập tức rung động, sự đồng cảm của chúng ta sẽ được khơi dậy, và sự tán thành lạnh lùng của chúng ta sẽ chuyển thành những tình cảm nồng ấm nhất của tình thân thiện và sự tôn trọng. Đây dường như là những hệ quả tất yếu và không thể sai lầm của những nguyên lý tổng quát của bản chất con người, được tìm ra trong đời sống và thực hành thường ngày.

 

M 5.44, SBN 230-1

Lại nữa; hãy đảo ngược những quan điểm và lập luận này: Hãy xem xét vấn đề từ góc độ hậu nghiệm (à posteriori); khi cân nhắc những hệ quả, hãy tự hỏi liệu công đức của những đức tính xã hội có phải phần lớn xuất phát từ những cảm xúc nhân đạo mà chúng khơi gợi ở người chứng kiến hay không. Thực tế cho thấy rằng, trong mọi trường hợp, tính hữu ích của một hành động là nguồn gốc của lời khen ngợi và tán thành; rằng nó luôn được viện dẫn trong mọi phán đoán đạo đức về giá trị hay sai lầm của những hành động; rằng nó là nguồn gốc duy nhất của sự tôn trọng cao độ dành cho công lý, lòng trung thành, danh dự, lòng trung thành với quốc gia, và trinh tiết. Rằng nó không thể tách rời khỏi tất cả những đức hạnh xã hội khác, lòng nhân đạo, sự hào hiệp, lòng bác ái, sự hòa nhã, sự khoan dung, lòng thương xót và sự điều độ: Và, nói tóm lại, rằng nó là một nền tảng của phần chính yếu của đạo đức, có một liên quan đến loài người và những đồng loại của chúng ta.

 

M 5.45, SBN 231

Dường như, trong sự tán thành chung của chúng ta về những nhân cách và cách cư xử, khuynh hướng có lợi của những đức hạnh xã hội không thúc đẩy chúng ta vì bất kỳ hữu ích cá nhân nào, nhưng có ảnh hưởng phổ quát và rộng lớn hơn nhiều. Dường như, khuynh hướng hướng đến lợi ích chung và thúc đẩy hòa bình, hòa hợp và trật tự trong xã hội, bằng cách tác động đến những nguyên lý từ thiện trong khuôn khổ của chúng ta, luôn luôn thu hút chúng ta về phía những đức hạnh xã hội. Và dường như, như một sự xác nhận bổ sung, những nguyên lý nhân đạo và đồng cảm này thấm sâu vào mọi tình cảm của chúng ta và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức có thể khiến chúng khơi dậy sự chỉ trích và tán thưởng mạnh mẽ nhất. Lý thuyết hiện tại là kết quả đơn giản của tất cả những suy luận này, mỗi suy luận dường như đều dựa trên kinh nghiệm và quan sát thống nhất.

 

M 5.46, SBN 231-2

Nếu còn hoài nghi, liệu có bất kỳ nguyên lý nào như vậy trong bản chất của chúng ta như lòng nhân đạo hay một quan tâm đến những người khác hay không, dù vậy khi chúng ta thấy, trong vô vàn trường hợp, rằng bất cứ gì có một khuynh hướng để thúc đẩy những lợi ích của xã hội, thì đều được tán thành cao, thì từ đó chúng ta nên học được sức mạnh của nguyên lý từ thiện; vì không gì có thể làm hài lòng như một phương tiện để đạt được mục đích, nếu chính mục đích đó hoàn toàn thờ ơ với chúng ta. Mặt khác, nếu còn hoài nghi liệu đã cấy ghép trong bản chất của chúng ta, bất kỳ nguyên lý tổng quát nào của đạo đức về khiển trách và chấp thuận hay không, thế nhưng chúng ta thấy, trong vô số những trường hợp, ảnh hưởng của lòng nhân đạo, từ đó chúng ta nên kết luận rằng bất cứ gì thúc đẩy phúc lợi của xã hội đều tự nhiên mang lại vui sướng, và bất cứ gì gây hại đem cho lo lắng, không thoải mái,. Nhưng khi những suy ngẫm và những quan sát khác nhau này gặp nhau trong việc thiết lập cùng kết luận, thì chẳng phải chúng sẽ đưa ra một bằng chứng không thể chối cãi về nó sao?

 

M 5.47, SBN 232

Tuy nhiên, người ta hy vọng rằng sự tiến triển của lập luận này sẽ mang lại sự xác nhận sâu xa hơn cho lý thuyết hiện tại, bằng cách cho thấy sự gia tăng của những tình cảm về tôn trọng và quan tâm khác từ những nguyên lý giống nhau hay tương tự.

 

------------------------------------------------------------------

M 5.1n17

1.       Xem GHI CHÚ [Z].

 

M 5.1n17.1, SBN 213

Chúng ta không nên tưởng tượng rằng, vì một vật vô tri vô giác cũng có thể có ích như con người, nên theo hệ thống này, nó cũng xứng đáng được gọi là đức hạnh. Trong hai trường hợp, những cảm xúc được sự hữu ích khơi dậy thì rất khác nhau; và trường hợp này pha trộn với tình cảm, sự quý trọng, sự tán thành, v.v., còn trường hợp kia thì không. Tương tự như vậy, một vật vô tri vô giác có thể có màu sắc và tỷ lệ đẹp như một hình hài con người,. Nhưng liệu chúng ta có bao giờ yêu đương vật vô tri vô giác không? Có vô số những cảm xúc và tình cảm, vốn trong đó, những sinh vật lý trí biết suy nghĩ, theo cấu tạo nguyên thủy của tự nhiên, là những đối tượng thích hợp duy nhất: Và mặc dù những phẩm tính tương tự được truyền sang một sinh vật vô tri, vô giác, chúng sẽ không khơi dậy những cảm xúc tương tự. Thực tế, những phẩm tính có lợi của thảo mộc và khoáng chất đôi khi được gọi là những đức hạnh của chúng; nhưng đây là hệ quả của sự thất thường của ngôn ngữ, và không nên được xem trọng trong lý luận. Mặc dù có một dạng tán thành nào đó dành cho cả những vật vô tri khi chúng hữu ích, nhưng cảm xúc này lại quá yếu và quá khác biệt hoàn toàn so với cảm xúc dành cho những quan tòa hay chính khách từ thiện; khiến chúng không nên được xếp chung vào một loại hay gọi bằng cùng một danh xưng.

 

M 5.1n17.2, SBN 213

Chỉ một sự thay đổi rất nhỏ ở đối tượng, dù giữ nguyên những phẩm tính, cũng có thể phá hủy cảm xúc. Ví dụ, vẻ đẹp tương tự nhưng ở giới tính khác sẽ không khơi dậy tình yêu, trừ khi bản tính đã bị bóp méo đến cực độ.

 

M 5.6n18

2.       Xem GHI CHÚ [AA].

 

M 5.6n18.1, SBN 215

Sự bất hiếu với cha mẹ bị loài người lên án, vì mọi người nhìn trước tương lai và suy nghĩ rằng điều tương tự có thể xảy ra với chính mình. Sự vô ơn cũng vì lý do tương tự (mặc dù ông dường như còn đề cập đến một quan tâm cao thượng hơn) – chúng ta đồng cảm với nạn nhân, đồng thời liên hệ đến bản thân mình những tình cảnh tương tự, từ đó nảy sinh ý thức về nghĩa vụ với sức mạnh và sự thấu đáo nhất định (Lib. vi. cap. 4). Có lẽ nhà sử học chỉ muốn nói rằng lòng đồng cảm và nhân đạo của chúng ta trở nên mãnh liệt hơn khi chúng ta nhận ra hoàn cảnh của mình giống với người đang chịu khổ, và đó là một quan điểm chính xác."

 

M 5.17n19

3.       Xem GHI CHÚ [BB].

 

M 5.17n19.1, SBN 219-20

Không cần thiết phải đào sâu tìm hiểu lý do tại sao chúng ta có lòng nhân đạo hay khả năng đồng cảm với người khác. Chỉ cần biết rằng đây là một nguyên lý tồn tại trong bản tính con người là đủ. Chúng ta phải dừng lại ở một điểm nào đó trong việc tìm kiếm nguyên nhân; và trong mọi khoa học, đều có những nguyên lý chung mà ta không thể hy vọng tìm ra nguyên lý nào tổng quát hơn. Không ai hoàn toàn thờ ơ với hạnh phúc và nỗi khổ của người khác. Hạnh phúc của người khác tự nhiên mang lại niềm vui cho ta, còn nỗi khổ của họ gây ra đau buồn. Điều này ai cũng có thể tự nhận thấy trong chính mình. Khó có thể phân tích những nguyên lý này thành những nguyên lý đơn giản và phổ quát hơn, dù có những nỗ lực đã được thực hiện nhằm mục đích đó. Nhưng ngay cả nếu có thể, thì điều đó cũng không thuộc phạm vi chủ đề hiện tại; và ở đây, ta có thể yên tâm coi những nguyên lý này là bản nguyên. Thật sung sướng, nếu chúng ta có thể làm sáng tỏ và trình bày rõ ràng tất cả những hệ quả từ chúng!

 

M 5.18n20, SBN 220

4.       Như gương mặt con người cùng cười với kẻ cười,

Cũng rơi lệ với kẻ khóc."

(Horace)

 

M 5.38n21, SBN 224

5.       Ngựa đẹp hơn khi bụng thon gọn, nhưng cũng chính nhờ thế mà nó chạy nhanh hơn. Vận động viên trông đẹp đẽ hơn khi tập luyện làm nổi bắp thịt, và cũng chính nhờ thế mà anh ta sẵn sàng hơn cho cuộc thi. Vẻ đẹp không bao giờ tách rời khỏi tính hữu ích. Nhưng nhận ra điều này chỉ cần một phán đoán ở mức độ trung bình thôi.

(Quintilian, Giáo dục hùng biện, Sách VIII, Chương 3)

M 5.38n22

22.    Xem GHI CHÚ [CC].

 

M 5.38n22.1, SBN 225

Tỷ lệ thuận với địa vị và quan hệ một người đang nắm giữ, chúng ta luôn mong đợi mức độ phục vụ lớn hơn hoặc nhỏ hơn từ người đó; và khi thất vọng, chúng ta đổ lỗi cho sự vô dụng của người đó, và thậm chí còn hơn thế nữa nếu có bất kỳ tổn hại hay mất mát nào phát sinh từ hành vi của người đó. Khi lợi ích của một quốc gia xung đột với lợi ích của một quốc gia khác, chúng ta đánh giá công trạng của một chính khách bằng những điều tốt đẹp hay tồi tệ mà đất nước họ mang lại từ những biện pháp và hội nghị của họ, mà không quan tâm đến tổn hại gây ra cho kẻ thù hay đối thủ. Đồng bào của họ là đối tượng gần nhất mà chúng ta nhìn thấy khi đánh giá tính cách của họ. Và bởi vì thiên nhiên đã gieo vào mỗi người một tình cảm mạnh mẽ hơn đối với đất nước của họ, chúng ta không bao giờ mong đợi sự quan tâm đến những quốc gia xa xôi nơi có sự cạnh tranh.Hơn nữa, trong khi mỗi người tìm kiếm lợi ích cho cộng đồng của mình, chúng ta nhận thấy rằng lợi ích chung của nhân loại được phục vụ tốt hơn bất kỳ mối quan tâm lỏng lẻo, mơ hồ nào đối với toàn thể loài người, vốn không có mục tiêu rõ ràng, không thể tạo ra hành động hữu ích nào.

 

M 5.40n23

23.    Plutarch in vita Alc.

M 5.41n24

24.    Xem GHI CHÚ [DD].

 

M 5.41n24.1, SBN 228

Vì một lý do tương tự, khuynh hướng hành động và tính cách, chứ không phải hậu quả ngẫu nhiên thực sự của chúng, chỉ được xem xét trong những quyết định đạo đức hay phán đoán chung của chúng ta; mặc dù trong cảm xúc hay tình cảm thực sự của mình, chúng ta không thể không dành sự tôn trọng nhiều hơn cho người có địa vị, gắn liền với đức hạnh, khiến họ thực sự hữu ích cho xã hội, hơn là người chỉ thể hiện đức hạnh xã hội bằng thiện chí và những tình cảm từ thiện. Tách tính cách khỏi số phận, bằng một cố gắng suy nghĩ dễ dàng và cần thiết, chúng ta tuyên bố những người này giống nhau và dành cho họ cùng một lời khen ngợi chung. Phán đoán này sửa chữa hay cố gắng sửa chữa vẻ bề ngoài: Nhưng không thể hoàn toàn thắng thế tình cảm.

 

M 5.41n24.2, SBN 228

Tại sao cây đào này lại được cho là tốt hơn cây kia; vốn không phải vì nó cho nhiều quả hơn hay ngon hơn sao? Và chẳng phải lời khen ngợi đó cũng được dành cho nó sao, mặc dù ốc sên hay sâu bọ đã phá hoại những quả đào trước khi chúng chín hoàn toàn? Trong đạo đức cũng vậy, chẳng phải cây được nhận biết qua quả hay sao? Và chúng ta không thể dễ dàng phân biệt giữa tự nhiên và ngẫu nhiên, trong cả hai trường hợp sao?

 

M 5.42n25

25.    Xem GHI CHÚ [EE].

 

M 5.42n25.1, SBN 229

Tự nhiên đã định sẵn một cách khôn ngoan rằng những quan hệ riêng tư thường được đặt lên trên những quan điểm và cân nhắc chung; nếu không, tình cảm và hành động của chúng ta sẽ bị lãng phí và mất đi, vì thiếu một mục tiêu giới hạn thích hợp. Vì vậy, một hữu ích nhỏ bé dành cho bản thân, hay cho những người bạn thân thiết, sẽ khơi dậy những tình cảm yêu thương và tán thành sống động hơn một hữu ích lớn lao dành cho một cộng đồng xa xôi: Nhưng ở đây, cũng như trong mọi giác quan, chúng ta vẫn biết cách khắc phục những bất bình đẳng này bằng sự suy ngẫm, và duy trì một chuẩn mực chung về thói hư tật xấu và đức hạnh, chủ yếu dựa trên sự hữu ích chung.



 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 


[1] Trong lý thuyết đạo đức của Hume, “tình cảm tự nhiên” nghĩa là những cảm xúc bẩm sinh dẫn dắt phán đoán đạo đức của chúng ta – chẳng hạn như sự đồng cảm, lòng biết ơn, sự oán giận, lòng tốt và sự ác cảm với điều xấu. Đức hạnh được chấp nhận bởi vì chúng cộng hưởng với những tình cảm sẵn có này, chứ không phải thông qua lý luận trừu tượng hay mệnh lệnh thần thánh.

[2] self-love

[3] Polybius (khoảng 200–118 TCN) – Một chính khách và sử gia Greece, nổi tiếng nhất với The Histories, một bộ sử dài 40 cuốn kể về sự trỗi dậy của Rôma. Polybius nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn và chủ nghĩa hiện thực chính trị hơn là lý thuyết trừu tượng. Ông lập luận rằng xã hội thành công nhờ một thể chế cân bằng và hành vi đạo đức thường xuất phát từ lợi ích cá nhân – một quan điểm Hume trích dẫn khi bàn về nguồn gốc “vị kỷ” của đức hạnh.

[4] Aeschines (khoảng 389–314 TCN) và Demosthenes (384–322 TCN) là những chính khách và nhà hùng biện đối địch của Athens. Là những đối thủ chính trị quyết liệt, họ thường xuyên xung đột trong Quốc hội và tại tòa án. Bất chấp sự cạnh tranh của họ, những nguồn tư liệu cổ xưa vẫn ghi lại những khoảnh khắc hào phóng và tôn trọng lẫn nhau – như Demosthenes đề nghị giúp đỡ Aeschines trong thời gian lưu đày. Hume dùng câu chuyện này để minh họa cho quan điểm của ông rằng đức hạnh, ngay cả trong những kẻ thù, cũng tự nhiên khơi dậy sự ngưỡng mộ và chấp thuận về mặt đạo đức, bất kể lợi ích cá nhân hay hoàn cảnh.

[5] Hume lập luận rằng nếu ai cũng nghĩ, “Điều đó có liên quan gì đến tôi?” thì mọi thảo luận về đạo đức sẽ trở nên vô nghĩa. Ông khẳng định, tình cảm đạo đức là có thật và không thể bỏ qua. rằng những phán đoán đạo đức - khen ngợi và chê trách - phụ thuộc vào tình cảm tự nhiên và sự quan tâm của chúng ta dành cho người khác.

[6] self-love : tình cảm vị kỷ: nguyên lý tâm lý cho rằng mọi động lực của con người đều có thể quy về lợi ích cá nhân – luận đề của thuyết vị kỷ tâm lý (psychological egoism).

[7] “experimentum crucis” (từ “crucial” < Latin “crux” = “ngã tư”) > thí nghiệm ở ngã tư đường, then chốt, thí nghiệm chỉ cho con đường quyết định giữa những lý thuyết đối lập.

[8] Pastoral poetry: Thơ thôn dã: lý tưởng hóa đời sống nông thôn, khắc họa những khung cảnh đồng quê yên bình, giản dị và hồn nhiên, gợi lên sự bình yên và niềm vui nơi người đọc. Ví dụ như Eclogues của Virgil và The Shepheardes Calender của Spenser.

[9] Sannazarius (1458 –1530) – Một nhà thơ người Ý sáng tác thơ thôn dã và chủ đề biển cả; nổi tiếng với tác phẩm De partu Virginis và việc đặt bối cảnh đồng quê bên bờ biển, mặc dù những nhà phê bình nhận định rằng những khó khăn trong những tác phẩm của ông đã làm giảm đi vẻ đẹp bình dị của chúng.

[10] Timon người Athens là một nhân vật thực vào thế kỷ 5 TCN, sau này trở thành một kẻ ghét người huyền thoại. Trong giai thoại của Hume, ông nồng nhiệt chào đón Alcibiades – một chính khách và tướng lĩnh Athens đầy tham vọng, nổi tiếng với sự quyến rũ, dễ thay đổi trung thành, và đóng vai trò quan trọng trong những bất hạnh sau này của Athens – Timon đã khuyến khích Alcibiades giành lấy lòng tin của dân Athens, đồng thời dự đoán những thảm họa Alcibiades sẽ gây ra cho họ. Hume dùng câu chuyện mỉa mai này để cho thấy một thích thú độc ác trước những tổn hại của những người kháctrong tương lai, một tình cảm trái ngược với lợi ích chung.

[11] Mani, một nhà tiên tri Ba Tư vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, người đã dạy rằng vũ trụ được cai trị bởi hai thế lực đối lập vĩnh cửu: nguyên lý ánh sáng, Thiện và nguyên lý bóng tối, Ác.

[12] Hume nhận xét rằng nếu sự tàn ác của Nero hoàn toàn là tự nguyện, thì những người chia sẻ hoặc khuyến khích khuynh hướng độc ác của ông ta – như Tigellinus – sẽ tự nhiên nhận được sự chấp thuận vững chắc của ông ta, không giống như những cố vấn đức hạnh hơn như Seneca hay Burrhus.