Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức
(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Về Lòng Từ thiện.
PHẦN I.
M 2.1, SBN 176
Có lẽ, việc chứng minh rằng những tình cảm
dịu dàng và từ thiện hơn đều đáng quí trọng, có thể được coi là một công việc
thừa thãi – vì bất cứ nơi nào những tình cảm như vậy xuất hiện, chúng đều tự
nhiên giành được sự tán thành và thiện cảm tích cực của mọi người. Những nhãn hiệu mô tả như hòa đồng, tốt bụng,
nhân đạo, nhân từ, biết ơn, thân thiện, hào hiệp, từ thiện, và những từ
khác tương tự, có trong mọi ngôn ngữ và được dùng rộng rãi để biểu thị loại
công đức cao quý nhất vốn bản chất con người có thể đạt đến được. Khi những đặc
điểm đáng ngưỡng mộ này được tìm thấy kết hợp với dòng dõi cao quý, quyền lực
đáng kể hay tài năng đặc biệt – và khi chúng được thể hiện trong sự cai trị
khôn ngoan hay trong việc cung cấp những chỉ dẫn có ích cho loài người – chúng
dường như nâng những người sở hữu chúng lên, vượt khỏi bản chất bình thường của
con người, đưa họ, ở một mức độ nào đó, đến gần hơn với thần thánh. Ngược lại,
ngay cả khả năng to lớn, lòng dũng cảm không sợ hãi, hay thành công vang dội
cũng chẳng làm được gì hơn ngoài việc khơi dậy sự ghen tị hay phẫn nộ của công
chúng. Nhưng một khi một người được ca ngợi không chỉ vì sự vĩ đại mà còn vì
lòng nhân đạo và từ thiện –
khi đời sống của họ thể hiện rõ ràng những tấm gương về sự dịu dàng, lòng trắc ẩn
hay tình thân thiện – thì ngay cả sự đố kỵ cũng im bặt, hay thay vào đó hòa vào
tiếng reo hò của công chúng và những hoan nghênh
nồng nhiệt.
M 2.2, SBN 176-7
Khi
Pericles, chính khách và tướng lĩnh nổi tiếng của Athens, nằm trên giường sắp
chết, những người bạn tụ tập quanh ông, khi nghĩ rằng ông đã mê thiếp, họ đã
trút những tiếc thương với vị bảo hộ này của
họ, bằng
kể lại vô số phẩm chất và thành công vĩ đại của ông: những chinh phạt và chiến
thắng, thời gian trị vì phi thường của ông, và chín chiến tích ông đã giành
được trước những thù địch của cộng hòa (Athens). những người đã quên mất rồi sao, người anh hùng hấp hối kêu lên,
những người đã được nghe tất cả, những người đã quên lời ca ngợi cao quí nhất dành cho ta, trong khi những người cứ nói mãi về những thắng lợi tầm thường đó, vốn vận may đã góp phần lớn. những người đã không nhận thấy rằng chưa từng
có công dân nào phải mặc
áo tang vì ta [2].
M 2.3, SBN 177
Ở những người có tài năng và năng lực
trung bình, những đức hạnh xã hội trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, vì không
có gì nổi bật có thể bù đắp cho sự thiếu hụt của những phẩm chất này, hay bảo vệ con người đó khỏi sự ghét bỏ và khinh miệt nghiệt
ngã của chúng ta. Cicero nói, một tham vọng lớn hay can
đảm cao độ, trong những nhân
vật kém hoàn toàn hơn, có khuynh hướng suy
thoái thành một loại bạo lực với hung dữ không thể kiểm soát. Những đức hạnh xã hội và mềm mỏng hơn đều chủ yếu được coi trọng. Chúng luôn tốt đẹp và đáng
yêu [3].
M 2.4, SBN 177
Thuận
lợi chính, vốn Juvenal [1], tìm thấy trong khả
năng lớn
rộng của loài người, là nó cũng làm cho lòng từ thiện của chúng ta
mở rộng hơn, và cho chúng ta những cơ hội lớn hơn để trải rộng ảnh hưởng tử tế của chúng
ta hơn, so với những gì được ban cho những loài động vật thấp kém [4]. Thật vậy, phải công nhận rằng, chỉ qua việc làm điều thiện,
một người mới thực sự có thể được hưởng những những thuận lợi từ địa vị cao quí của
người này. Địa vị cao quý đó, tự nó, chỉ khiến của người này càng dễ gặp nguy hiểm
và bất ổn
hơn. Đặc quyền duy nhất của người này là cung cấp trú ẩn
cho những người thấp kém hơn, những người tìm đến sự che chở và bảo vệ của người
này.
M 2.5, SBN 177-8
Nhưng tôi quên, rằng công
việc hiện tại của tôi không phải là đề cao lòng hào hiệp và lòng từ thiện, hay
tô vẽ, theo đúng màu sắc thực sự của chúng, tất cả những nét quyến
rũ đích thực của những đức hạnh xã hội.. Quả thực, những
đức hạnh này đủ sức thu hút mọi trái tim, ngay từ đầu tiên nhận hiểu ý nghĩa của chúng; và thật khó để không thốt ra những lời tán dương, như chúng thường
xuyên xuất hiện trong trò
chuyện hay lý luận. Nhưng mục đích của
chúng ta ở đây thiên về mặt suy diễn hơn là mặt thực
tiễn của đạo đức, nên sẽ đủ để nhận xét (điều mà tôi tin là sẽ dễ dàng được
chấp nhận) rằng không có phẩm chất nào đáng được thiện cảm tích cực và sự chấp thuận
chung của loài người hơn lòng từ thiện và lòng nhân đạo, tình thân thiện và lòng biết ơn, thiện cảm tự nhiên và tinh thần cộng đồng, hay bất cứ gì xuất phát
từ sự đồng cảm dịu dàng với người khác và sự quan tâm rộng lượng với loài
người. Những điều này, bất cứ nơi nào chúng xuất hiện, dường như truyền vào mỗi
người nhìn theo một cách nào đó, và gợi lên, vì hữu ích của chính chúng, cùng
những tình cảm thuận lợi và trìu mến, vốn chúng tác động đến tất cả xung quanh.
PHẦN II.
M 2.6, SBN 178
Chúng ta có thể quan sát rằng, trong việc ca ngợi bất
kỳ người nhân đạo, từ thiện nào, luôn có một yếu tố được nhấn mạnh, không bao giờ
thiếu, đó là hạnh phúc và sự hài lòng, mang lại cho xã hội từ sự giao tiếp
và những việc làm tốt của họ. Có thể nói, với cha mẹ, người này được yêu mến bởi
sự gắn bó chân thành và sự chăm sóc tận tụy, vượt xa mối hệ huyết thống đơn thuần.
Con cái người này không bao giờ cảm
thấy quyền lực của người này, trừ khi được dùng vì hữu
ích của chúng. Với người
này, những mối dây yêu thương được
lòng từ thiện và tình thân thiện được hợp nhất. Tình
thân thiện, trong sự tận tâm tuân thủ từng bổn phận, dần dần trở thành tình
thương yêu và tình
thân gia đình. Những gia nhân và những người được che
chở của người
này, có trong người này một nguồn lực
chắc chắn; và không còn khiếp sợ sức mạnh của số phận,
trừ
khi bất hạnh bất ngờ ập đến với chính người này. Từ người này, người
đói được ăn, người trần truồng được mặc, người dốt nát và lười biếng được học kỹ
năng và sự cần cù. Giống như mặt trời, một tác nhân khiêm nhường của một tốt đẹp
cao cả hơn, người này cổ vũ, tiếp thêm sinh lực và nuôi
dưỡng thế giới xung quanh.
M 2.7, SBN 178
Nếu chỉ giới hạn trong đời sống
riêng tư, phạm vi hoạt động của người này thì hẹp hơn; nhưng
ảnh hưởng của người này lại vô cùng từ thiện và dịu dàng. Nếu được nâng
lên một vị thế cao hơn, loài người và hậu thế sẽ được hưởng thành quả lao động
của người này.
M 2.8, SBN 179
Vì những chủ đề ca ngợi này
không bao giờ không được dùng, và thành công, nơi nào chúng ta muốn
khơi dậy lòng kính trọng với bất kỳ ai; từ đó có thể kết luận rằng,HỮU ÍCH, hậu quả từ những đức
hạnh xã hội, ít nhất cũng hình thành nên một phần giá trị của chúng, và
là một nguồn của sự chấp thuận và sự tôn trọng vốn được phổ quât dành cho
chúng? [2]
M 2.9, SBN 179
Khi chúng ta khen ngợi ngay cả một động vật
hay một thực vật là có ích và có lợi, chúng ta dành cho nó một tán thưởng, và khen
ngợi vừa
vặn với bản chất của nó. Mặt khác, việc suy ngẫm về ảnh
hưởng tai hại của bất kỳ sinh vật thấp kém nào trong số này luôn khơi dậy trong
chúng ta tình
cảm ghê tởm. Mắt chúng ta thích thú với viễn cảnh những
cánh đồng bắp và vườn nho trĩu quả; ngựa ăn cỏ, và đàn cừu kiếm
ăn trên đồng
xanh.. Nhưng theo bản năng, mắt sẽ tránh xa những cây
gai và bụi rậm, nơi ẩn náu của những sinh vật nguy hiểm như chó sói và rắn độc.
M 2.10, SBN 179
Một cỗ máy, một bộ bàn ghế hay giường tủ, một bộ quần
áo, một ngôi nhà được thiết kế khéo léo để dùng và tiện
nghi, vẫn đẹp cho đến giờ, và được nhìn
nhận với thích thú và tán thưởng. Một con mắt tinh tường ở đây có thể cảm nhận
được
nhiều phẩm chất và giá trị của những đồ vật này vốn một người kém hiểu biết hay
ít học không nhận ra.
M 2.11, SBN 179
Còn lời nào ca ngợi một nghề
nghiệp, chẳng hạn như buôn bán hay sản xuất, mạnh mẽ hơn việc nhìn nhận những hữu
ích vốn nó mang lại cho xã hội? Và một thày chăn chiên và một
phán
quan tôn giáo chẳng phải sẽ rất tức giận khi chúng ta
coi nghề nghiệp của người
này là vô dụng hay gây hại cho loài người sao?
M 2.12, SBN 179
Nhà sử học tự hào khi chứng
minh giá trị tác phẩm của ông, trong khi tiểu thuyết gia cố gắng hạ thấp hay thẳng
thừng bác bỏ những hậu quả tiêu cực liên quan đến thể cách văn
chương của ông.
M 2.13, SBN 179
Tổng
quát, hãy nghĩ xem có bao nhiêu tán thưởng được gói gọn trong từ “có lợi” đơn giản –
và bao nhiêu chỉ trích được gói gọn trong từ trái nghĩa của nó!
M 2.14, SBN 179-80
Cicero [5] phản bác những người
trường phái Epicurus rằng những vị gót của quí vị không thể tự
cho mình quyền được tôn thờ hay sùng bái, dù quí vị có tưởng tượng
ra họ được ban cho những toàn hảo nào. Chúng hoàn toàn
vô dụng và không hoạt động. Ngay cả người Egypt, những người vốn quí vị chế giễu, cũng
cũng không bao giờ thánh hóa bất kỳ loài vật nào trừ khi nó tỏ ra hữu ích.[3]
M 2.15, SBN 180
Những người thuyết hoài nghi khẳng
định [6], mặc dù vô lý, rằng nguồn gốc của mọi sự thờ
cúng tôn giáo đều bắt nguồn từ sự hữu ích của những vật thể vô tri, như mặt trời
và mặt trăng, với sự hỗ trợ và hạnh phúc của loài người. Đây cũng là lý do thường
được những nhà sử học đưa ra để thần thánh hóa những anh hùng và nhà lập pháp lỗi
lạc [7].
M 2.16, SBN 180
Trồng một cây xanh, canh tác ruộng đồng, sinh con cái; những hành động
công đức, được
quí trọng theo như đạo của
Zoroaster. [4]
M 2.17, SBN 180
Trong
tất cả những quyết định về đạo đức, hoàn cảnh của hữu ích công cộng này luôn là
yếu tố chính được xem xét; và bất cứ khi nào có tranh luận nảy sinh, dù trong
triết học hay đời sống thường ngày, liên quan đến giới hạn của bổn phận, câu hỏi
không thể bằng bất kỳ cách nào được quyết định với độ chắc chắn cao hơn, bằng
cách xác định, ở bất kỳ phía nào, lợi ích thực sự của loài người. Nếu có bất kỳ
quan điểm sai lầm nào được chấp nhận từ những biểu hiện, một khi kinh nghiệm
sâu rộng hơn và lý luận chính xác hơn đã cho chúng ta những khái niệm công bằng
hơn về những vấn đề của con người; chúng ta rút lại cảm nghĩ đầu tiên của mình
và điều chỉnh lại ranh giới của thiện và ác về mặt đạo đức.
M 2.18, SBN 180
Việc bố thí cho những người
ăn xin thông thường thì được ca ngợi tự nhiên; vì nó dường như mang lại cứu trợ cho những người đau khổ và túng
thiếu: Nhưng khi chúng ta quan sát thấy sự khuyến khích sau đó dẫn đến sự
lười biếng và tật
xấu, chúng ta coi loại từ thiện đó là một điểm yếu hơn
là một đức hạnh.
M
2.19, SBN 180-1
Giết
bạo chúa, hay ám sát những người tiếm quyền và những nhà
cai trị độc tài, được ca ngợi rất nhiều vào những thời cổ; vì nó vừa giải thoát loài người khỏi nhiều
quái vật này, vừa dường như khiến những kẻ khác phải khiếp sợ, những kẻ vốn gươm giáo hay dao nhọn không thể
chạm tới được. Nhưng lịch sử và
kinh nghiệm sau đó đã chứng
minh rằng tập tục này làm gia tăng sự đố kỵ và tàn ác của những nhà
cai trị độc tài. Một Timoleon và một Brutus, mặc dù được những định kiến của thời đại
đối xử khoan dung, giờ đây bị coi là những mẫu hình rất không ổn
để bắt chước. [5]
M
2.20, SBN 181
Sự hào hiệp của những vua chúa được coi là dấu hiệu của lòng từ thiện:
Nhưng khi việc xảy ra việc, rằng bánh mì giản dị của những người lương thiện và
chăm chỉ thường được biến thành những bữa ăn ngon lành cho những người lười biếng
và hoang phí, chúng ta sẽ sớm rút lại những lời khen ngợi thiếu suy nghĩ của
mình. Sự hối tiếc của một vua chúa, vì đã mất một ngày, thật thật cao quý và
đáng ngưỡng mộ: Nhưng nếu ông ta dự định dành ngày đó cho những hành động rộng
lượng với những triều thần tham lam của mình, thì tốt hơn là mất đi còn hơn là
dùng sai cách theo cách đó.
M
2.21, SBN 181
Sự
xa hoa, hay sự tế nhị trong những thú vui và tiện nghi của đời sống, đã từ lâu
được cho là nguồn gốc của mọi sự tha hóa trong chính quyền, và là nguyên nhân
trực tiếp của phe phái, nổi loạn, nội chiến, và mất hoàn toàn tự do. Do đó, nó
thường được coi là một thói hư tật xấu, và là đối tượng để chê bai của tất cả
những nhà châm biếm và những nhà đạo đức nghiêm khắc. Những người chứng minh, hay
cố gắng chứng minh, rằng những sự tế nhị như vậy có xu hướng tăng cường sự chăm
chỉ, lịch sự, và nghệ thuật, điều chỉnh lại cảm xúc đạo đức cũng như chính trị
của chúng ta, và mô tả những gì trước đây được coi là có hại và đáng trách như
là đáng khen ngợi hay vô hại.
M
2.22, SBN 181-2
Xét cho cùng, không thể phủ nhận rằng không
có phẩm chất nào mang lại công đức lớn hơn cho con người bằng một tình cảm từ
thiện mạnh mẽ và chân thành. Và ít nhất một phần công đức này xuất phát từ xu
hướng tự nhiên của nó là thúc đẩy phúc lợi của người khác và lan tỏa hạnh phúc
trong toàn xã hội loài người. Chúng ta đương nhiên mở rộng tầm nhìn đến những
tác động có lợi của một tính cách và khuynh hướng như vậy; và bất cứ điều gì tạo
ra ảnh hưởng tốt đẹp như vậy và thúc đẩy một mục tiêu đáng mong muốn như vậy đều
được nhìn nhận với sự hài lòng thầm lặng và sự tán thành chân thành. những đức
hạnh xã hội không bao giờ được xem xét tách biệt với những kết quả có lợi của
chúng – cũng không bị coi là vô ích hay không hiệu quả. Hạnh phúc của nhân loại,
hòa bình của xã hội, sự hòa thuận của gia đình, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa bạn bè
– những điều này luôn được xem là thành quả của ảnh hưởng dịu dàng và ổn định của
chúng với trái tim con người.
M
2.23, SBN 182
Phần nào công đức của những đức hạnh xã hội nên được
quy cho sự hữu ích của chúng sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta tiếp tục tìm
hiểu trong tương lai[8];
cũng như lý do tại sao phẩm chất này – sự hữu ích – lại có sức mạnh thu hút sự
trân trọng và tán thành của chúng ta đến vậy. [9].
-------------------------------------------------------------------------------------------------
M 2.3n3, SBN 1771. Plut. in Pericle.
M 2.4n4, SBN 1772. Cic. de Officiis, lib. I.
M 2.14n5, SBN 1793. Sat. xv. 139 & seq.
M 2.15n6, SBN 1804. De Nat. Deor. lib. i.
M 2.15n7, SBN 1805. Sext. Emp. adversus Math. lib. viii.
M 2.23n8, SBN 1826. Diod. Sic. passim.
M 2.23n9, SBN 1827. Sect 3d and 4th.
8. Sect. 5th.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Juvenal (khoảng cuối thế kỷ 1 – đầu thế kỷ 2 SCN) là một nhà thơ
Rôma nổi tiếng với những tác phẩm Satires Phê bình sự suy đồi, tệ nạn và những
vấn đề xã hội của Rôma. những tác phẩm của ông thường thăm dò bản chất con người và
những chủ đề đạo đức với sự dí dỏm sắc sảo và quan sát tinh tế.
[2] Hume, nhấn mạnh trên hữu ích như một nguồn chính của sự chấp thuận
đạo đức rõ ràng đã dự báo trước sự phát triển sau này của thuyết công lợi
utilitarianism, đặc biệt là trong những tác phẩm của Jeremy Bentham (1748-1832)
và John Stuart Mill (1806-1873). Bentham đã nhìn nhận rõ ràng ảnh hưởng của
Hume, đặc biệt là trong việc công nhận hữu ích như trung tâm của phán đoán đạo
đức. Sau đó, ông đã hệ thống hóa nguyên tắc này như là “hạnh phúc lớn nhất cho
số đông nhất”. Tuy nhiên, Hume không phải là một người theo thuyết công lợi nghiêm
ngặt: ông đặt nền tảng đạo đức không chỉ trên sự hữu ích nhưng còn trong tình cảm
đạo đức, phong tục xã hội và sự cảm thông tự nhiên. Không giống như Bentham, “calculus
of pleasures” (Một hành động được coi là tốt nếu nó tạo ra nhiều sung sướng hơn
đau khổ nói chung – đặc biệt là cho số đông người) cứng nhắc hơn, cách tiếp cận
của Hume Hume vẫn còn nhiều sắc thái về mặt tâm lý và xã hội. Do đó, ông được
hiểu tốt nhất như một người đi trước của thuyết công lợi, đặt nền móng cho những
ý tưởng trung tâm của nó, nhưng không giảm thiểu đạo đức hoàn toàn vào tính
toán định lượng
[3] Trong De Natura Deorum II.72, Cicero trình bày Cotta, một
người phái Academic Skeptic (thuộc
truyền thống Plato), chỉ trích quan niệm của những người thuyết Epicurus về những vị gót là hoàn toàn
tách biệt và bất động – được ban cho những sự toàn hảo tưởng tượng nhưng không gây ảnh hưởng
hay lợi ích gì cho con người.. Vì những hữu thể như vậy là vô dụng,
Cotta lập luận, nên họ không đáng được tôn thờ. Hume trích dẫn điều này để nhấn mạnh rằng
ngay cả giá trị thần thánh cũng được đo lường bằng tính hữu dụng.
[4] Những người theo thuyết hoài nghi, theo truyền thống triết học đặt câu hỏi
và thường nghi ngờ những tuyên bố tôn giáo, đã biện luận – mặc dù còn tranh luận – rằng sự thờ phượng
tôn giáo ban đầu bắt đầu bằng việc thừa nhận thực tế những đối tượng vô tri (như
mặt trời và mặt trăng) vì những lợi ích hữu hình của chúng đối với sự tồn tại
và thịnh vượng của con người. Mặc dù đôi khi bị coi là giản lược, quan điểm này
phù hợp với những nhà sử học như Herodotus và Plutarch, những người giải thích
việc thần thánh hóa những anh hùng và nhà lập pháp lỗi lạc bằng vai trò có lợi
của họ trong xã hội (xem Herodotus, Histories; Plutarch, Lives).
Phù hợp với những quan điểm này, Zoroaster (hay Zarathustra), nhà tiên tri Persia cổ đại và người
sáng lập ra đạo Zoroaster, đã nhấn mạnh những hành động thiết thực, khắng định sự sống – chẳng
hạn như trồng cây, canh tác trên đồng ruộng và sinh con – là những hành động có
giá trị về đạo đức. Tôn giáo của ông chủ trương sự tham gia tích cực vào việc
duy trì và cải thiện thế giới, phản ảnh một thế giới quan ytrong đó nỗ lực của con
người phù hợp với trật tự thiêng liêng (asha). Cùng nhau, những truyền
thống này nhấn mạnh một chủ đề rộng hơn: đức hạnh tôn giáo và sự thờ phượng gắn
liền mật thiết với hữu ích và phúc lợi của xã hội.
[5] Timoleon là một chính khách và tướng lĩnh Greece, thế kỷ thứ 4
TCN, người đã lật đổ người anh bạo chúa của ông, và sau đó giải phóng những
thành phố Greece trên đảo Sicily khỏi ách chuyên chế. Mặc dù được ca ngợi trong
thời cổ đại như một người giải phóng, nhưng quan điểm hiện đại lại nhìn nhận những
nguy hiểm của những vụ ám sát chính trị. Marcus Junius Brutus, một
trong những chủ mưu chính trong vụ ám sát Julius Caesar năm 44 TCN. Ông hành động
với tin tưởng để cứu Cộng hòa Rôma khỏi ách chuyên chế, nhưng vụ ám sát đã dẫn đến nội
chiến và sự trỗi dậy của chế độ đế quốc. Mặc dù những ghi chép cổ xưa thường ca
ngợi động cơ của ông, nhưng quan điểm hiện đại có khuynh hướng xem xét những
hành động như vậy một cách thận trọng hơn do hậu quả bất ổn của chúng.