Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức
(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Về Lòng Nhân ái.
PHẦN I.
M 2.1, SBN 176
Có lẽ,
việc chứng minh rằng những tình cảm dịu dàng và nhân ái hơn đều đáng quí trọng,
có thể được coi là một công việc thừa thãi – vì bất cứ nơi nào những tình cảm
như vậy xuất hiện, chúng đều tự nhiên giành được sự tán thành và thiện cảm tích
cực của mọi người. Những nhãn hiệu mô tả như hòa đồng, tốt bụng, nhân đạo, nhân
từ, biết ơn, thân thiện, hào phóng, nhân ái, và những từ khác tương tự, có
trong mọi ngôn ngữ và được dùng rộng rãi để biểu thị loại công đức cao quý nhất
vốn bản chất con người có thể đạt đến được. Khi những đặc điểm đáng ngưỡng mộ
này được tìm thấy kết hợp với dòng dõi cao quý, quyền lực đáng kể hoặc tài năng
đặc biệt – và khi chúng được thể hiện trong sự cai trị khôn ngoan hoặc trong việc
cung cấp những chỉ dẫn quý giá cho loài người – chúng dường như nâng những người
sở hữu chúng lên, vượt khỏi bản chất bình thường của con người, đưa họ, ở một mức
độ nào đó, đến gần hơn với thần thánh. Ngược lại, ngay cả khả năng to lớn, lòng
dũng cảm không sợ hãi, hay thành công vang dội cũng chẳng làm được gì hơn ngoài
việc khơi dậy sự ghen tị hoặc phẫn nộ của công chúng. Nhưng một khi một người
được ca ngợi không chỉ vì sự vĩ đại mà còn vì lòng nhân đạo và nhân ái– khi cuộc
sống của họ thể hiện rõ ràng những tấm gương về sự dịu dàng, lòng trắc ẩn hoặc
tình bạn – thì ngay cả sự đố kỵ cũng im bặt, hoặc thay vào đó hòa vào tiếng reo
hò của công chúng và những hoan nghênh nồng nhiệt.
M 2.2, SBN 176-7
Khi Pericles, chính khách và tướng lĩnh
lừng danh của Athens, nằm trên giường-chết, những người bạn tụ tập quanh ông, khi
nghĩ rằng ông đã mê thiếp, họ đã trút những tiếc thương với vị bảo hộ này của họ, bằng
kể lại vô số phẩm chất và thành công vĩ đại của ông: những chinh phạt và chiến
thắng, thời gian trị vì phi thường của ông, và chín chiến tích ông đã giành
được trước những thù địch của cộng hòa (Athens). những người đã quên mất rồi sao,
người anh hùng hấp hối kêu lên, những người đã được nghe tất cả, những người
đã quên lời ca ngợi cao quí nhất dành cho ta, trong khi những người
cứ nói mãi về những thắng lợi tầm thường đó, vốn vận
may đã góp phần lớn. những người
đã không nhận thấy rằng chưa từng có công dân nào phải mặc
áo tang vì ta [2].
M 2.3, SBN 177
Ở những
người có tài năng và năng lực trung bình, những đức tính xã hội trở nên cần thiết
hơn bao giờ hết, vì không có gì nổi bật có thể bù đắp cho sự
thiếu hụt của những
phẩm chất này, hoặc bảo vệ con người đó khỏi sự ghét bỏ và khinh miệt nghiệt ngã của chúng ta. Cicero nói, một tham vọng
lớn hay
can
đảm cao độ, trong những nhân vật kém hoàn toàn hơn, có khuynh hướng suy thoái thành một loại bạo lực với hung dữ không thể kiểm
soát. Những đức tính xã hội và mềm mỏng hơn
đều chủ
yếu được coi trọng. Chúng luôn tốt đẹp và dễ mến [3].
M
2.4, SBN 177
Lợi thế chính, vốn Juvenal [1], tìm thấy
trong khả năng lớn rộng
của
loài người,
là nó cũng làm cho lòng nhân ái của chúng ta mở rộng hơn, và
cho chúng ta những cơ hội lớn hơn để trải rộng ảnh hưởng thân ái của chúng ta hơn,
nhiều hơn những gì những loài động vật thấp kém được
ban cho [4].
Thật vậy, phải công nhận rằng, chỉ qua việc làm điều thiện, một người mới thực sự
có thể được hưởng
những tiện ích của tư thế có danh tiếng lừng lẫy. Địa
vị cao quý đó, tự nó, chỉ khiến của
người này càng
dễ gặp
nguy hiểm và bất ổn hơn. Đặc quyền duy nhất của người này
là cung cấp nơi trú ẩn cho những người thấp kém hơn, những người tìm đến sự che
chở và bảo vệ của người này.
M
2.5, SBN 177-8
Nhưng
tôi quên, rằng công việc hiện tại của tôi không phải là đề cao lòng hào phóng
và lòng nhân ái, hay tô vẽ, theo đúng màu sắc thực sự của chúng,
tất cả những nét quyến rũ đích thực của những đức tính xã hội.. Quả thực, những đức tính này đủ
sức thu hút mọi trái tim, ngay từ đầu tiên nhận hiểu ý nghĩa của chúng; và thật khó để không thốt ra những
lời tán dương, như chúng
thường xuyên xuất hiện trong trò chuyện hay
lý luận. Nhưng mục đích của chúng ta ở đây thiên
về mặt suy đoán hơn là mặt thực
tiễn của đạo đức, nên sẽ đủ để nhận xét (điều mà tôi
tin là sẽ dễ dàng được chấp nhận) rằng không có phẩm chất nào đáng được thiện
cảm tích cực và
sự chấp thuận chung của loài người hơn
lòng nhân ái và
lòng nhân đạo, tình bạn và lòng biết ơn, thiện cảm tự nhiên và tinh thần cộng đồng,
hoặc bất cứ gì xuất phát từ sự đồng cảm dịu dàng với người khác và sự quan tâm
rộng lượng đối với loài người. Những điều này, bất cứ nơi nào chúng xuất hiện,
dường như truyền vào mỗi người nhìn theo một cách nào đó, và gợi lên, vì tiện
ích của chính họ, cùng những tình cảm thuận lợi và trìu mến, vốn chúng tác động đến tất cả xung
quanh.
PHẦN II.
M
2.6, SBN 178
Chúng ta có thể quan sát
rằng, trong việc
ca ngợi bất kỳ người
nhân đạo, nhân ái nào,
luôn có một yếu tố được nhấn mạnh, không
bao giờ thiếu,
đó là hạnh phúc và sự hài lòng, mang lại cho xã hội từ sự giao tiếp và những việc
làm tốt của họ. Có thể nói, đối với cha mẹ, người này được yêu mến bởi sự gắn bó chân thành
và sự chăm sóc tận tụy, vượt xa mối hệ huyết thống đơn thuần. Con
cái người
này không bao giờ cảm thấy quyền lực của
người này,
trừ khi được dùng
vì tiện ích của chúng. Với người này,
những mối dây yêu
thương được lòng nhân ái và tình bạn được hợp nhất. Tình bạn, trong sự tận tâm tuân thủ
từng bổn phận, dần dần trở thành tình thương yêu và tình
thân gia đình. Những
gia nhân và
những người
được che chở của người này, có
trong người này một
nguồn lực chắc chắn; và không còn khiếp sợ
sức mạnh của số
phận, trừ khi bất hạnh bất ngờ ập đến với chính người này. Từ người
này,
người đói được ăn, người trần truồng được mặc, người dốt nát và lười biếng được
học kỹ năng và sự cần cù. Giống như mặt trời, một
tác nhân khiêm nhường của một tốt đẹp cao cả hơn, người này cổ vũ, tiếp thêm sinh lực và nuôi dưỡng
thế giới xung quanh.
M
2.7, SBN 178
Nếu
chỉ giới hạn trong
đời sống riêng tư, phạm vi hoạt động của người này thì hẹp hơn; nhưng ảnh hưởng của người này lại vô cùng nhân ái và dịu dàng. Nếu
được nâng lên một vị thế cao hơn, loài người và hậu thế sẽ được hưởng thành quả
lao động của người này.
M
2.8, SBN 179
Vì
những chủ đề ca ngợi này không bao giờ không được dùng, và thành công, nơi nào chúng ta muốn khơi dậy lòng kính trọng
với bất kỳ ai; từ đó có thể kết luận rằng,TIỆN ÍCH, hậu quả
từ những đức tính
xã hội, ít nhất cũng hình thành nên một phần giá trị của chúng, và là một
nguồn của sự chấp thuận và sự tôn trọng vốn được phổ
quât dành
cho chúng? [2]
M
2.9, SBN 179
Khi
chúng ta khen ngợi ngay cả một
động vật hay một
thực vật là có ích và có lợi, chúng ta dành cho
nó một tán thưởng,
và khen ngợi vừa vặn với
bản chất của nó. Mặt khác, việc suy ngẫm về ảnh hưởng tai hại của bất kỳ sinh vật
thấp kém nào trong số này luôn khơi dậy trong chúng ta tình
cảm ghê tởm.
Mắt ta thích thú với viễn cảnh những cánh đồng bắp và vườn nho trĩu quả; ngựa ăn cỏ, và
đàn cừu kiếm ăn trên đồng xanh.. Nhưng
theo bản năng, mắt sẽ tránh xa những cây gai và bụi rậm, nơi ẩn náu của những
sinh vật nguy hiểm như sói và rắn.
M
2.10, SBN 179
Một
cỗ máy, một bộ bàn ghế hay giường tủ, một bộ quần áo,
một ngôi nhà được
thiết kế khéo léo để dùng và tiện nghi, vẫn đẹp cho đến giờ, và được nhìn nhận với thích thú và
tán thưởng. Một con mắt tinh tường ở đây có thể cảm nhận được nhiều
phẩm chất và giá trị của những đồ vật này vốn một người kém hiểu biết hoặc ít học
không nhận ra.
M
2.11, SBN 179
Còn
lời nào ca ngợi một nghề nghiệp, chẳng hạn như buôn bán hay sản xuất, mạnh mẽ
hơn việc nhìn nhận những tiện ích vốn nó mang lại cho xã hội? Và một thày
chăn chiên và
một phán quan tôn giáo chẳng
phải sẽ rất tức giận khi chúng ta coi nghề nghiệp của người này
là vô dụng hoặc
gây hại cho loài người sao?
M
2.12, SBN 179
Nhà
sử học tự hào khi chứng minh giá trị tác phẩm của ông, trong khi tiểu thuyết
gia cố gắng hạ thấp hoặc thẳng thừng bác bỏ những hậu quả tiêu cực liên quan đến
thể cách
văn chương của ông.
M
2.13, SBN 179
Tổng quát, hãy nghĩ xem có bao nhiêu tán thưởng được
gói gọn trong từ "có lợi" đơn giản – và bao nhiêu chỉ trích được gói
gọn trong từ trái nghĩa của nó!
M
2.14, SBN 179-80
Cicero [5] phản bác
những người trường
phái Epicurus rằng những vị gót của quí vị không thể tự cho mình quyền được tôn
thờ hay sùng bái, dù quí vị có
tưởng tượng ra họ được
ban cho những hoàn hảo nào. Chúng hoàn toàn vô dụng và không hoạt động. Ngay cả
người Ai Cập, những người vốn quí vị chế
giễu, cũng cũng không bao giờ thánh hóa bất kỳ loài vật nào trừ khi nó tỏ ra tiện ích.[3]
M
2.15, SBN 180
Những
người thuyết hoài
nghi khẳng định [6],
mặc dù vô lý, rằng nguồn gốc của mọi sự thờ cúng tôn giáo đều bắt nguồn từ sự tiện ích của những vật thể vô tri, như mặt trời
và mặt trăng, với sự hỗ trợ và hạnh phúc của loài người. Đây cũng là lý do thường
được những nhà sử học đưa ra để thần thánh hóa những anh hùng và nhà lập pháp lỗi
lạc [7].
M
2.16, SBN 180
Trồng
một cây
xanh,
canh tác ruộng đồng,
sinh con cái;
những hành động công đức, được quí trọng theo
như đạo của
Zoroaster. [4]
M
2.17, SBN 180
Trong tất cả những quyết định về đạo đức, hoàn cảnh của
tiện ích công cộng này luôn là yếu tố chính được xem xét; và bất cứ khi nào có
tranh luận nảy sinh, dù trong triết học hay đời sống thường ngày, liên quan đến
giới hạn của bổn phận, câu hỏi không thể bằng bất kỳ cách nào được quyết định với
độ chắc chắn cao hơn, bằng cách xác định, ở bất kỳ phía nào, lợi ích thực sự của
loài người. Nếu có bất kỳ quan điểm sai lầm nào được chấp nhận từ những biểu hiện,
một khi kinh nghiệm sâu rộng hơn và lý luận chính xác hơn đã cho chúng ta những
khái niệm công bằng hơn về những vấn đề của con người; chúng ta rút lại cảm
nghĩ đầu tiên của mình và điều chỉnh lại ranh giới của thiện và ác về mặt đạo đức.
M
2.18, SBN 180
Việc
bố thí cho những người ăn xin bình thường thì được ca ngợi tự nhiên;
vì nó dường như mang lại cứu trợ cho những người đau khổ và túng thiếu: Nhưng
khi chúng ta quan sát thấy sự khuyến khích từ đó dẫn đến sự lười biếng và tật xấu, chúng ta coi loại từ thiện đó là một
điểm yếu hơn là một đức tính.
M 2.19, SBN 180-1
Giết bạo chúa, hay ám sát những người tiếm quyền và những
nhà cai trị độc tài, được ca ngợi rất nhiều vào những thời cổ; vì nó vừa giải thoát loài người
khỏi nhiều những quái
vật này, vừa dường như khiến những người khác phải khiếp sợ, những người vốn gươm
giáo hay dao nhọn không thể chạm
tới. Nhưng lịch sử và kinh nghiệm từ đó đã chứng minh rằng tập tục này làm gia
tăng sự đố kỵ và tàn ác của những nhà
cai trị độc tài. Một Timoleon và một Brutus, mặc dù
được đối xử khoan dung vì những định kiến của thời đại, giờ đây bị coi là những
mẫu hình rất không ổn để bắt chước. [5]
M 2.20, SBN 181
Sự
hào phóng của những vua chúa được coi là dấu hiệu của lòng nhân ái: Nhưng khi
việc xảy ra việc, rằng bánh mì giản dị của những người lương thiện và chăm chỉ
thường được biến thành những bữa ăn ngon lành cho những người lười biếng và
hoang phí, chúng ta sẽ sớm rút lại những lời khen ngợi thiếu suy nghĩ của mình.
Sự hối tiếc của một vua chúa, vì đã mất một ngày, thật thật cao quý và đáng ngưỡng
mộ: Nhưng nếu ông ta dự định dành ngày đó cho những hành động rộng lượng đối với
những triều thần tham lam của mình, thì tốt hơn là mất đi còn hơn là dùng sai
cách theo cách đó.
M 2.21, SBN 181
Sự xa hoa, hay sự tinh tế trong những thú vui và tiện
nghi của cuộc sống, đã từ lâu được cho là nguồn gốc của mọi sự tha hóa trong
chính quyền, và là nguyên nhân trực tiếp của phe phái, nổi loạn, nội chiến, và
mất hoàn toàn tự do. Do đó, nó thường được coi là một thói xấu, và là đối tượng
để chê bai của tất cả những nhà châm biếm và những nhà đạo đức nghiêm khắc. Những
người chứng minh, hoặc cố gắng chứng minh, rằng những sự tinh tế như vậy có xu
hướng tăng cường sự chăm chỉ, lịch sự, và nghệ thuật, điều chỉnh lại cảm xúc đạo
đức cũng như chính trị của chúng ta, và mô tả những gì trước đây được coi là có
hại và đáng trách như là đáng khen ngợi hoặc vô hại.
M 2.22, SBN 181-2
Xét cho cùng, không
thể phủ nhận rằng không có phẩm chất nào mang lại công đức lớn hơn cho con người
bằng một tình cảm nhân ái mạnh mẽ và chân thành. Và ít nhất một phần công đức
này xuất phát từ xu hướng tự nhiên của nó là thúc đẩy phúc lợi của người khác
và lan tỏa hạnh phúc trong toàn xã hội loài người. Chúng ta đương nhiên mở rộng
tầm nhìn đến những tác động có lợi của một tính cách và khuynh hướng như vậy;
và bất cứ điều gì tạo ra ảnh hưởng tốt đẹp như vậy và thúc đẩy một mục tiêu
đáng mong muốn như vậy đều được nhìn nhận với sự hài lòng thầm lặng và sự tán
thành chân thành. những đức tính xã hội không bao giờ được xem xét tách biệt với
những kết quả có lợi của chúng – cũng không bị coi là vô ích hay không hiệu quả.
Hạnh phúc của nhân loại, hòa bình của xã hội, sự hòa thuận của gia đình, sự hỗ
trợ lẫn nhau giữa bạn bè – những điều này luôn được xem là thành quả của ảnh hưởng
dịu dàng và ổn định của chúng đối với trái tim con người.
M 2.23, SBN 182
Phần nào công đức của
những đức tính xã hội nên được quy cho sự tiện ích của chúng sẽ trở nên rõ ràng
hơn khi chúng ta tiếp tục tìm hiểu trong tương lai[8]; cũng như lý do tại sao phẩm chất này – sự tiện
ích – lại có sức mạnh thu hút sự trân trọng và tán thành của chúng ta đến vậy.
[9].
M 2.2n2, SBN 177
1. Plut. in Pericle.
M 2.3n3, SBN 177
2. Cic. de Officiis, lib. I.
M 2.4n4, SBN 177
3. Sat. xv. 139 & seq.
M 2.14n5, SBN 179
4. De Nat. Deor. lib. i.
M 2.15n6, SBN 180
5. Sext. Emp. adversus Math. lib. viii.
M 2.15n7, SBN 180
6. Diod. Sic. passim.
M 2.23n8, SBN 182
7. Sect 3d and 4th.
M 2.23n9, SBN 182
8. Sect. 5th.
MỤC III.
Về Công Lý.
PHẦN I.
M 3.1, SBN 183
Rằng công lý có lợi
cho xã hội, do đó, và ít nhất một phần giá trị đạo đức của nó đến từ sự có lợi
này, sẽ
là một cố gắng thừa thãi. Nhưng
tuyên bố rằng lợi ích công cộng là nguồn gốc duy nhất của công lý, và rằng cảm
giác của chúng ta về giá trị đạo đức của nó hoàn toàn đến từ việc suy ngẫm về
những hiệu quả có lợi của nó – đây là một ý tưởng thú vị và quan trọng hơn, và
một ý tưởng xứng đáng được xem xét và điều tra cẩn thận.
M 3.2, SBN 183
Hãy giả định rằng
thiên nhiên đã ban tặng cho loài người một sự phong phú dồi dào đến mức tất cả
những tiện nghi và nhu cầu vật chất của đời sống, với kết quả được đảm bảo, và
không cần bất kỳ sự chăm sóc hay cố gắng nào từ phía chúng ta, mỗi cá nhân đều
thấy mình được cung cấp đầy đủ mọi thứ mà sự thèm muốn khát khao nhất có thể đòi hỏi, hoặc trí tưởng tượng xa hoa nhất có thể mong muốn hoặc ao ước. Hơn
nữa, hãy giả định rằng cái đẹp tự nhiên của con người, ta có thể
cho rằng, vượt qua mọi trang sức cầu kỳ: Sự bao la bất tận của bốn mùa khiến mọi
quần áo, vật dụng che thân trở
nên không cần thiết: Cỏ tươi mang đến cho con người những món
ăn ngon nhất; suối nước trong vắt cung cấp thức uống bổ dưỡng nhất. Không cần lao động
nặng nhọc: Không cần cày cấy: Không cần giao thương hàng hải. Âm nhạc, thơ ca và sự chiêm nghiệm
thưởng ngoạn là
công việc duy nhất của con người: Trò chuyện, thích thú vui vẻ và tình bạn là
thú vui duy nhất của con người.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
(Còn tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Juvenal (khoảng cuối thế kỷ 1 – đầu thế kỷ 2 SCN) là một nhà thơ Rôma
nổi tiếng với những tác phẩm Satires phê phán sự suy đồi, tệ nạn và những
vấn đề xã hội của Rôma. những tác phẩm của ông thường thăm dò bản chất con người và
những chủ đề đạo đức với sự dí dỏm sắc sảo và quan sát tinh tế.
[2] Hume, nhấn mạnh trên tiện ích như một nguồn chính của sự chấp thuận
đạo đức rõ ràng đã dự báo trước sự phát triển sau này của thuyết công lợi
utilitarianism, đặc biệt là trong những tác phẩm của Jeremy Bentham (1748-1832)
và John Stuart Mill (1806-1873). Bentham đã nhìn nhận rõ ràng ảnh hưởng của
Hume, đặc biệt là trong việc công nhận tiện ích như trung tâm của phán đoán đạo
đức. Sau đó, ông đã hệ thống hóa nguyên tắc này như là “hạnh phúc lớn nhất cho
số đông nhất”.Tuy nhiên, Hume không phải là một người theo thuyết công lợi
nghiêm ngặt: ông đặt nền tảng đạo đức không chỉ trên sự có lợi nhưng còn trong
tình cảm đạo đức, phong tục xã hội và sự cảm thông tự nhiên. Không giống như
Bentham, “calculus of pleasures” (Một hành động được coi là tốt nếu nó tạo ra
nhiều sung sướng hơn đau khổ nói chung – đặc biệt là cho số đông người) cứng nhắc
hơn, cách tiếp cận của Hume Hume vẫn còn nhiều sắc thái về mặt tâm lý và xã hội.
Do đó, ông được hiểu tốt nhất như một người đi trước của thuyết công lợi, đặt nền
móng cho những ý tưởng trung tâm của nó, nhưng không giảm thiểu đạo đức hoàn
toàn vào tính toán định lượng
[3] Trong De Natura Deorum II.72, Cicero trình bày Cotta, một
người phái Academic Skeptic (thuộc
truyền thống Plato), chỉ trích quan niệm của những người thuyết Epicurus về những vị gót là hoàn toàn
tách biệt và bất động – được ban cho những sự hoàn hảo tưởng tượng nhưng không gây ảnh hưởng
hay lợi ích gì cho con người.. Vì những hữu thể như vậy là vô dụng,
Cotta lập luận, nên họ không đáng được tôn thờ. Hume trích dẫn điều này để nhấn mạnh rằng
ngay cả giá trị thần thánh cũng được đo lường bằng tính hữu dụng.
[4] Những người theo thuyết hoài nghi, theo truyền thống triết học đặt câu hỏi
và thường nghi ngờ những tuyên bố tôn giáo, đã biện luận – mặc dù còn tranh luận – rằng sự thờ phượng
tôn giáo ban đầu bắt đầu bằng việc thừa nhận thực tế những đối tượng vô tri (như
mặt trời và mặt trăng) vì những lợi ích hữu hình của chúng đối với sự tồn tại
và thịnh vượng của con người. Mặc dù đôi khi bị coi là giản lược, quan điểm này
phù hợp với những nhà sử học như Herodotus và Plutarch, những người giải thích
việc thần thánh hóa những anh hùng và nhà lập pháp lỗi lạc bằng vai trò có lợi
của họ trong xã hội (xem Herodotus, Histories; Plutarch, Lives).
Phù hợp với những quan điểm này, Zoroaster (hay Zarathustra), nhà tiên tri Persia cổ đại và người
sáng lập ra đạo Zoroaster, đã nhấn mạnh những hành động thiết thực, khắng định sự sống – chẳng
hạn như trồng cây, canh tác trên đồng ruộng và sinh con – là những hành động có
giá trị về đạo đức. Tôn giáo của ông chủ trương sự tham gia tích cực vào việc
duy trì và cải thiện thế giới, phản ảnh một thế giới quan ytrong đó nỗ lực của con
người phù hợp với trật tự thiêng liêng (asha). Cùng nhau, những truyền
thống này nhấn mạnh một chủ đề rộng hơn: đức hạnh tôn giáo và sự thờ phượng gắn
liền mật thiết với tiện ích và phúc lợi của xã hội.
[5] Timoleon là một chính khách và tướng lĩnh Greece, thế kỷ thứ 4
TCN, người đã lật đổ người anh bạo chúa của ông, và sau đó giải phóng những
thành phố Greece trên đảo Sicily khỏi ách chuyên chế. Mặc dù được ca ngợi trong
thời cổ đại như một người giải phóng, nhưng quan điểm hiện đại lại nhìn nhận những
nguy hiểm của những vụ ám sát chính trị. Marcus Junius Brutus, một
trong những chủ mưu chính trong vụ ám sát Julius Caesar năm 44 TCN. Ông hành động
với tin tưởng để cứu Cộng hòa Rôma khỏi ách chuyên chế, nhưng vụ ám sát đã dẫn đến nội
chiến và sự trỗi dậy của chế độ đế quốc. Mặc dù những ghi chép cổ xưa thường ca
ngợi động cơ của ông, nhưng quan điểm hiện đại có xu hướng xem xét những hành động
như vậy một cách thận trọng hơn do hậu quả bất ổn của chúng.