Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức
(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý Của Đạo
Đức. [1]
Mục Lục
Mục 1. Về Những Nguyên Lý Tổng Quát Của Đạo Đức (1751, 1777)
Mục 2. Về lòng Từ thiện (1751, 1777)
Mục 3. Về Công lý (1751, 1777)
Mục 4. Về Xã hội Chính trị (1751, 1777)
Mục 5. Tại Sao Hữu ích Làm Hài Lòng (1751, 1777)
Mục 6. Về những phẩm chất có ích cho bản thân (1751, 1777)
Mục 7. Về những phẩm chất trực tiếp làm chúng ta dễ chịu (1751, 1777)
Mục 8. Về những phẩm chất trực tiếp làm người khác dễ chịu (1751, 1777)
Mục 9. Kết luận (1751, 1777)
Phụ lục 1. Về Tình Cảm Đạo Đức (1751, 1777)
Phụ lục 2. Về lòng Vị kỷ (1751, 1777)
Phụ lục 3. Một số cân nhắc thêm về Công lý (1751, 1777)
Phụ lục 4. Về Một Số Tranh Luận về Từ Ngữ (1764, 1777)
Một Đối thoại (1751, 1777)
MỘT ĐIỀU TRA VỀ NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA ĐẠO
ĐỨC
MỤC I.
Về Những Nguyên Lý Tổng Quát Của Đạo Đức.
M 1.1, SBN 169
Những tranh luận với những người cố chấp, bám chặt vào
nguyên lý của họ, là những tranh luận khó chịu nhất trong tất cả – có lẽ chỉ trừ
những tranh luận với những cá nhân hoàn toàn không chân thành, những người thực
sự không tin vào những quan điểm họ bảo vệ, nhưng lại tham gia tranh luận chỉ
vì sự màu mè giả tạo, vì tinh thần đối kháng, hay vì muốn thể hiện sự thông minh và
tài trí vượt trội hơn phần loài người còn lại. Cả hai loại người này đều thể hiện sự
bám víu mù quáng vào lập luận của họ; cùng thái độ khinh miệt những người đối
thoại,và cùng sự cuồng nhiệt đầy cảm xúc trong việc bảo vệ những lý lẽ ngụy biện
và sai lầm. Và vì lý trí không phải là nguồn gốc hình thành nên quan điểm của bất
kỳ bên tranh luận nào, nên việc mong đợi rằng bất kỳ logic nào – nếu không tác
động đến tình cảm – sẽ thuyết phục họ chấp nhận những nguyên lý chắc chắn hợp
lý hơn là điều vô ích.
M 1.2, SBN 169-70
Những người phủ nhận
thực tế của những
sự phân biệt về đạo đức có thể được xếp vào hàng
ngũ những người tranh luận không chân thành; và cũng không thể tưởng tượng được rằng
bất kỳ con người nào có thể nghiêm trang tin rằng những nhân cách và những hành động đều giống nhau và đều xứng
đáng với sự yêu thích và tôn trọng của mọi
người. Sự khác biệt vốn tự nhiên đã đặt giữa người
này và người khác thì quá lớn, và sự khác biệt này còn được mở rộng hơn nữa, qua giáo dục,
gương mẫu và tập quán, khiến
nơi nào cả hai thái cực đều hiện diện sống động trong não thức chúng ta cùng một
lúc, thì không có sự hoài nghi nào tỉ mỉ đến thế, và hiếm
có sự bảo đảm nào kiên quyết đến thế, để phủ nhận hoàn toàn mọi sự khác biệt giữa những thái cực như vậy. Dù sự vô cảm của một người có lớn đến đâu, người này cũng vẫn phải thường bị những hình ảnh của ĐÚNG và SAI lay động; và dù những định kiến của người này có cứng cỏi đến đâu, người
này cũng không thể không nhận
ra rằng những những người khác cũng dễ bị ảnh hưởng bởi
những ấn tượng tương tự. Do đó, cách duy nhất để chuyển đổi một đối phương loại này là để mặc
người này tự do. Vì khi thấy không ai tiếp tục tranh luận với nữa, rất có thể cuối cùng, do quá mệt mỏi, người này sẽ quay sang phía của lý trí và kiến thức thực tiễn thông thường.
M 1.3, SBN 170
Gần đây đã có một tranh luận nổ ra, đáng để
xem xét hơn, liên quan đến nền tảng tổng quát của ĐẠO ĐỨC; liệu chúng có bắt nguồn từ LÝ
TRÍ hay từ TÌNH CẢM; liệu chúng ta có đạt được kiến thức về chúng qua một chuỗi
của lập luận và quy nạp, hay qua một cảm giác trực tiếp và giác quan nội
tại tế nhị hơn: liệu
giống như những phân biệt đạo đức, phán đoán đúng đắn về sự thực và dối trá,
chúng có giống nhau với mọi sinh vật thông minh có lý trí hay không; hay giống
như nhận thức về cái đẹp và sự dị hình xấu xí, chúng hoàn toàn dựa trên cấu
trúc và bản chất đặc thù của loài người.
M 1.4, SBN 170-1
Những triết gia thời cổ, mặc dù thường khẳng
định rằng đức hạnh là không gì khác hơn sự phù hợp với lý trí, nhưng trong tổng quát, dường
như coi đạo đức bắt nguồn từ sở thích và tình cảm. nghĩa là từ thẩm vị hay cảm giác tự nhiên về những
gì dễ chịu hay khó chịu, đẹp hay xấu. Mặt khác, những nhà tư tưởng thời nay của
chúng ta, mặc dù họ thường nói về cái đẹp của đức hạnh và sự biến dạng của thói
hư tật xấu, nhưng nhìn chung lại tìm cách giải thích những sự khác biệt này qua
lý luận siêu hình và bằng suy luận từ những nguyên lý trừu tượng nhất của sự hiểu
biết. Sự nhầm lẫn như vậy đã ngự trị trong những chủ đề
này, đến mức những bất đồng
nghiêm trọng đã nảy sinh không chỉ giữa những hệ thống khác nhau, mà ngay cả
trong những bộ phận của hầu hết mọi hệ thống; vậy mà cho đến gần đây, dường như
không ai nhận thức được điều này. Shaftesbury lịch lãm, người đầu tiên đưa sự
khác biệt này ra ánh sáng và phần lớn tuân theo những nguyên lý của người xưa,
nhưng bản thân ông cũng không hoàn toàn thoát khỏi sự
nhầm lẫn tương tự. [2]
M 1.5, SBN 171
Phải được nhìn nhận,
rằng cả hai bên của vấn đề đều có thể đưa ra những biện luận bề ngoài có vẻ hợp
lý. Có thể nói rằng, những phân biệt đạo đức đều có thể nhận thức rõ bằng lý
trí thuần túy: Nếu không, tại sao có nhiều tranh luận trong đời sống thường
ngày, cũng như trong triết học, liên quan đến chủ đề
này: Chuỗi dài những bằng chứng thường được đưa ra từ cả hai bên; những thí dụ
được trích dẫn, những thẩm quyền được viện dẫn, những phép loại suy được dùng,
những ngụy biện được tìm ra, những suy luận được nêu lên, và nhiều kết luận được
điều chỉnh theo những nguyên lý ứng hợp với chúng. Sự thật thì tranh luận được; nhưng thị hiếu thì không: Những
gì hiện hữu trong bản chất của sự vật việc là tiêu chuẩn cho phán
đoán của chúng ta; những gì mỗi người cảm nhận trong chính mình là tiêu
chuẩn của tình cảm. Những mệnh đề trong hình học có thể được chứng minh, những
hệ thống trong vật lý có thể bị phủ nhận; nhưng sự hài hòa của thơ ca, sự thiết tha mong manh của tình cảm, sự rực rỡ của trí
tuệ, phải đem cho thich thú tán thưởng
ngay lập tức. Không ai lý luận hay bàn cãi về việc một ai đó có xinh đẹp hay không.
Nhưng thường lý luận và bàn cãi về việc hành động của một người là công bằng
hay bất công. Trong mọi phiên tòa hình sự, mục tiêu đầu
tiên của bị cáo là bác bỏ những
sự kiện được cho là xảy ra, và phủ nhận những hành vi quy tội cho người này. Nếu
không thành công, mục tiêu thứ hai là chứng minh rằng, ngay cả khi những hành
vi đó là có xảy ra, chúng vẫn có thể được biện minh là vô tội và hợp pháp. Giờ
đây, mọi người đều đồng ý rằng vấn đề đầu tiên – liệu hành vi đó có xảy ra hay
không – được giải quyết bằng lý luận và bằng chứng (tức là bằng lý trí, lôgích
và tìm hiểu thực tế). Vậy tại sao chúng ta lại cho rằng một năng lực tinh thần
hoàn toàn khác (tình cảm đạo đức, hay cảm giác đồng tình hay phản đối) được
dùng để xác định vấn đề thứ hai – liệu những hành vi đó là đúng hay sai?
M 1.6, SBN 171-2
Mặt khác, những người muốn quy giản mọi phán đoán đạo đức
vào trong tình cảm, có thể cố gắng để cho thấy, rằng lý
trí không bao giờ có thể lấy
ra được những kết luận của bản chất này. Họ nói rằng đức hạnh, theo bản chất của
nó, là đáng yêu, còn thói hư tật xấu thì đáng ghét. Điều này thành hình chính bản chất hay yếu tính của chúng. Nhưng liệu lý trí hay lập luận có thể
gán những nhãn hiệu mô tả này cho bất kỳ đối tượng hay hành động nào không? Và
tuyên bố trước rằng đối tượng này phải khơi dậy tình yêu, và hành động kia phải
khơi dậy hận thù? Hay chúng ta có thể gán nguyên nhân nào khác cho
những tình cảm này, ngoại trừ
cấu trúc và sự hình thành ban đầu của não thức con người,
vốn được điều chỉnh một cách tự nhiên để tiế sẵn sàng tiếp nhận chúng?
M 1.7, SBN 172
Cúu cánh của tất cả những suy diễn đạo đức là dạy
chúng ta bổn phận của chúng ta; và bằng những biểu hiện thích hợp về sự biến dạng của thói hư tật xấu và cái đẹp
của đức hạnh, tạo ra những tập quán tương ứng, và thúc đẩy chúng ta tránh cái
này và chấp nhận cái kia. Nhưng liệu sự việc này có bao giờ được mong đợi từ những suy luận
và kết luận của sự hiểu biết, vốn bản thân chúng không nắm giữ được những tình cảm, hay
khởi động sức mạnh tích cực của con người? Chúng tìm ra những sự thực: Nhưng
khi những sự thực vốn chúng tìm ra ra là thờ ơ lãnh đạm, và không nảy
sinh ham muốn hay ác cảm, chúng không thể ảnh hưởng đến hành vi và ứng xử. Điều
gì đáng kính, điều gì công bằng, điều gì phù hợp, điều gì cao quý, điều gì hào
hiệp, chiếm hữu trái tim, và thúc đẩy chúng ta đón nhận và duy trì nó. Điều gì
dễ hiểu, điều gì hiển nhiên, điều gì có thể xảy ra, điều gì đúng, chỉ mang lại
sự đồng tình lạnh lùng của sự hiểu biết; và thỏa mãn một sự tò mò ức đoán, đặt dấu
chấm hết cho những nghiên cứu của chúng ta.
M 1.8, SBN 172
Sau khi dập tắt tất
cả những tình cảm nồng nhiệt và những khuynh hướng tự nhiên ủng hộ đức hạnh –
và xóa bỏ mọi ác cảm hay ghê tởm với thói hư tật xấu – thì đạo đức sẽ không còn
là là một nghiên cứu thực tiễn nữa. Nó sẽ hoàn toàn mất đi ảnh hưởng,
không còn sức mạnh dẫn dắt hành động hay định hình đòi sống của chúng ta. Không
có những phản ứng cảm xúc đó, những phân biệt đạo đức sẽ trở thành những ý tưởng
sáo rỗng, và triết học đạo đức không còn liên quan gì đến đời sống thực tại.
M 1.9, SBN 172-3
Những lập luận này ở mỗi bên (và còn nhiều
hơn nữa có thể được đưa ra) đều rất hợp lý, khiến tôi ngả sang nghi ngờ rằng cả hai
bên đều có thể là vững chắc và thỏa đáng, và rằng lý trí và tình cảm đồng thuận trong
hầu hết những quyết định và kết luận đạo đức. Phán quyết cuối cùng, có lẽ, tuyên bố
những nhân vật và hành động động là đáng yêu hay đáng ghét, đáng khen hay
đáng chê; vốn nó đóng lên chúng dấu ấn của danh dự hay ô nhục, tán thành hay khiển trách; vốn nó biến đạo đức
thành một nguyên lý tích cực,và tạo nên hạnh phúc từ đức hạnh và thói hư tật xấu từ tội lỗi của chúng ta. Tôi cho rằng, rất
có thể khả năng phán đoán đạo
đức cuối cùng này tùy thuộc vào một cảm giác hay ý thức nội tại nào đó, mà tự nhiên đã làm cho phổ quát trong toàn bộ
loài người. Vì còn gì khác có thể có một ảnh hưởng thuộc bản chất này? Nhưng để dọn đường cho một
tình cảm như vậy và đưa ra nhận thức đúng đắn về đối tượng của nó, chúng ta thường
thấy rằng, cần phải có nhiều lý luận trước đó, cần phải đưa ra những phân biệt
rõ ràng, nêu lên những kết luận chính xác, hình thành những nhìn xa so sánh, xem
xét những quan hệ phức tạp và những sự kiện tổng quát được thiết lập rõ ràng và chắc chắn. Một số loại của cái đẹp, đặc biệt là những loại tự nhiên, ngay từ
lần xuất hiện đầu tiên, đã chiếm lấy thiện cảm và tán thưởng của
chúng ta; và ở nơi chúng không đạt được tác động này, không có lý luận
nào có thể khắc phục ảnh hưởng của chúng, hay làm cho chúng phù hợp hơn với thị hiếu và cảm xúc của
chúng ta. Nhưng trong nhiều
lĩnh vực của cái đẹp, đặc biệt là trong mỹ thuật, cần phải vận dụng nhiều lý luận
để cảm nhận được tình cảm xứng đáng; và một sự say mê sai lầm thường có thể được
sửa chữa bằng biện luận và suy ngẫm. Có đủ cơ sở để kết luận rằng cái đẹp đạo đức
phần lớn mang đặc điểm này, và đòi hỏi sự hỗ trợ của những năng lực trí tuệ của
chúng ta, để mang lại cho nó một ảnh hưởng thích hợp
trên não thức con người.
M 1.10, SBN 173-5
Nhưng dù câu hỏi này, liên quan đến những
nguyên lý tổng quát của đạo đức, thích thú để tìm hiểu và quan trọng, nhưng hiện tại, chúng ta không
cần phải dành nhiều quan tâm hơn nữa trong những khảo cứu của chúng ta về nó. Vì nếu
chúng ta có thể được may mắn, trong tiến trình điều tra này, về phần tìm ra ra nguồn gốc
đúng thực của đạo đức, thì khi đó sẽ dễ dàng hiện ra mức độ vốn tình cảm hay
lý trí đi vào tất cả những quyết định mang tính chất này xa đến đâu [1]. Để đạt mục
đích này, chúng ta sẽ cố gắng theo một phương pháp rất đơn giản: Chúng ta sẽ
phân tích sự phức tạp của những phẩm chất tâm lý và đạo đức, vốn chúng tạo nên những gì, chúng ta gọi là Công Trạng Cá Nhân [3] trong đời sống
thường ngày. Chúng ta sẽ xem xét mọi thuộc tính của tinh thần, khiến một người trở thành đối tượng của quý trọng và
yêu mến, hay của căm ghét và khinh miệt; mọi tập quán, hay tình cảm hay khả năng, nếu
được gán cho bất kỳ người nào, đều hàm ý hay khen ngợi hay chê trách,
và có thể đi vào bất kỳ ca ngợi hay châm biếm nào về cá tính và cư xử của người
đó. Nhận thức đạo đức nhạy bén vốn rất phổ biến trong loài người, đem cho một triết gia
đủ chắc chắn rằng ông có thể không bao giờ bị
xem là nhầm lẫn trong việc lập danh mục, hay gặp bất kỳ nguy
hiểm nào trong việc đặt sai đối tượng của suy nghiệm của ông: Ông chỉ cần nhìn vào chính mình
trong giây lát và cân nhắc xem liệu mình có nên mong muốn được gán cho phẩm chất
này,
hay phẩm chất kia hay không, và liệu sự gán ghép này hay phẩm chất kia sẽ đến từ
bạn bè hay kẻ thù. Bản chất của ngôn ngữ hướng dẫn chúng ta gần như chắc chắn
trong việc hình thành một phán đoán về bản chất này; và vì mỗi ngôn ngữ đều sở
hữu một tập hợp những từ được hiểu theo nghĩa tốt và một tập hợp khác theo
nghĩa ngược lại, nên chỉ cần làm quen một chút với từ ngữ cũng đủ, vốn không cần
bất kỳ lý luận nào, để hướng dẫn chúng ta thu thập và sắp xếp những phẩm chất
đáng quý hay đáng chê trách của con người. Đối tượng duy nhất của việc lý luận là để tìm ra ra những hoàn cảnh ở cả
hai bên, những trường hợp vốn có chung những phẩm chất này; để quan sát cá biệt đó trong đó những phẩm chất đáng quý đồng ý ở một bên,
và những phẩm chất đáng chê trách ở bên kia; và từ đó đạt đến nền tảng của đạo
đức, và tìm ra những nguyên lý phổ quát đó, từ đó tất cả chỉ trích hay chấp thuận
cuối cùng đều bắt nguồn. Vì đây là một vấn đề thực tế,
không phải khoa học trừu tượng, chúng ta chỉ có thể mong đợi thành công bằng tuân theo phương pháp thực nghiệm và suy ra những châm ngôn tổng quát từ một so sánh của những trường hợp
cụ thể. Phương pháp khoa học khác, ở đó một nguyên lý trừu tượng tổng quát được thiết lập
trước, rồi sau đó được phân nhánh thành nhiều suy luận và kết luận khác nhau,
có thể toàn hảo hơn, nhưng lại ít phù hợp với sự bất toàn của bản chất con người,
và là một nguồn gốc phổ thông của ảo tưởng và sai lầm trong lĩnh vực này cũng
như những lĩnh vực khác. Con
người bây giờ đã chữa khỏi đam mê của họ với những giả
thuyết và hệ thống trong triết học tự nhiên, và sẽ không nghe theo bất kỳ lập
luận nào ngoài những lập luận bắt nguồn từ kinh nghiệm. Đã đến lúc họ nên cố gắng một cải cách tương tự
trong tất cả những thảo luận đạo đức; và bác bỏ mọi hệ thống đạo đức, dù tế nhị
hay khéo léo đến đâu, nếu không được xây dựng trên cơ sở của sự kiện và quan
sát. thực tại.
M 1.11, SBN 175
Chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu về chủ đề này
bằng xem xét những đức hạnh xã hội, lòng từ thiện và công lý. Việc giải thích
chúng sẽ có thể đem cho
chúng ta một mở đầu qua đó có thể giải thích những đức hạnh
khác.
------------------------------------------------------
M 1.10n1, SBN 173
1. Xem Phụ lục I.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] An Enquiry concerning the Principles of Morals
(1751, 1777) Dịch theo bản phổ biến trên
Hume Texts Online https://davidhume.org/texts/m/
Biên tập Amyas Merivale và Peter Millican
Bản của Hume Texts Online là những bản sao chụp từ
văn khố Thư viện Quốc gia Scotland và Hội Hoàng gia Edinburgh.
Những chú thích có dạng : E 2.9n1, SBN
22 ... E 2.9n1.3, SBN 22 ...
[E
2.9n1, SBN 22 – “SBN 22” đưa ra số
trang trong ấn bản Oxford chuẩn của những tác phẩm của Hume, do Selby-Bigge
biên tập và Nidditch hiệu đính; “E 2.9n1” cho biết vị trí trong tác phẩm (Enquiry,
Section 2, paragraph 9, note 1) ] từ bản tiếng Anh. Những chú thích
này, của chính Hume.
Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là
của tôi, sẽ đọc lại, tìm chữa sau. Tất cả, mong có thể cho một một bản đọc
triết học “mộc mạc”, trung thực với nguyên tác, nhìn theo hướng diễn giải, khai
triển nội dung những khái niệm, tư tưởng và luận thuyết triết học, đồng thời cố
gắng giữ phần nào văn phong cổ kính của tác giả. Mục đích là mong giúp những người đọc, không
chuyên môn, hiểu được ý “nôm na” của tác giả.
[2] Hume so sánh những
cách khác nhau vốn những triết gia đã giải thích về đạo đức:
(a) Những triết
gia thời cổ (như Plato, Aristotle và những Stoics) thường nói rằng đức hạnh
liên quan đến lý trí, nhưng trên thực tế, họ cũng coi đạo đức là những gì vốn
chúng ta cảm nhận tự nhiên – ngưỡng mộ lòng dũng cảm, sự hào hiệp, hay công lý
là cao quý và tốt đẹp.
(b) Những triết
gia hiện đại (như Hobbes, Clarke và những người khác cùng thời với Hume) cũng
tuyên bố ngưỡng mộ vẻ đẹp của đức hạnh – nhưng lại cố gắng giải thích đúng sai
về mặt đạo đức bằng lý luận trừu tượng và những nguyên tắc lôgích, thường tách
rời khỏi cảm xúc thực tế của con người.
(c) Shaftesbury
(1671–1713), một nhà tư tưởng quan trọng thời đầu hiện đại, lập luận rằng đạo đức
xuất phát từ ý thức đạo đức tự nhiên của chúng ta – cảm
giác bản năng về đúng sai. Hume ngưỡng mộ ông vì đã tránh xa những lý thuyết
trừu tượng, mặc dù Shaftesbury đôi khi vẫn pha trộn những lập luận duy trí khó
hiểu.
Quan điểm tổng
quát của Hume: Sự khác biệt về đạo đức không được khám phá bằng lý luận trừu tượng.
Chúng xuất phát từ những cảm xúc tự nhiên của con người – sự đồng cảm, sự tán
thành, ý thức về cái đẹp đạo đức – và tình cảm đạo đức có chung này chính là nền
tảng thực sự của đạo đức.
[3] Personal Merit