Tuesday, July 8, 2025

Hume – Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (10)

Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên

(Dialogues concerning Natural Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )

 

 

 



PHẦN XII

 

Tóm Tắt

 

1.

Phần XII, của Dialogues Concerning Natural Religion là một trong những chương phức tạp nhất về khái niệm và gợi mở suy nghĩ nhất về tư tưởng tôn giáo của phong trào Khai sáng, vì nó đặt ra những câu hỏi lớn như: Chúng ta có thực sự có thể hiểu được Gót bằng lý trí không? Lòng tin tôn giáo có đáng tin cậy hơn lôgích không? Và tại sao mọi người lại tin vào tôn giáo? Trong suốt tập sách, ba nhân vật đại diện cho ba quan điểm riêng biệt: Cleanthes, người người theo thuyết tin có gót duy nghiệm tin rằng sự hiện hữu của Gót có thể được biện giải qua sự quan sát trên những gì thấy được trong thế giới tự nhiên; Demea, người theo thuyết duy tín nhấn mạnh rằng Gót chỉ có thể được biết đến qua lòng tin vào tôn giáo và vào tính chất huyền bí của(những nội dung vượt quá sự thấu hiểu hay lý trí hạn hẹp của con người, như những khái niệm, ý tưởng không thể giải thích hoặc biết được đầy đủ bằng lôgích, quan sát thực nghiệm hay khoa học), và Philo, người giữ một lập trường hoài nghi – được ngầm hiểu rộng rãi như người phát ngôn của Hume – người tranh luận với cả hai trong đàm thoại.

Nhưng trong chương này, Demea đột ngột bỏ đi, để lại chỉ Cleanthes và Philo đi đến kết thúc thảo luận. Những gì diễn ra sau đó thực sự rất ngạc nhiên và như cố ý giữ sự mơ hồ, không rõ ràng, như để mở ra nhiều cách hiểu khác nhau, khiến người đọc phải không vội đi đến sự chắc chắn trước những gì nhận được về ý nghĩa hay chủ đích chính xác sau văn bản. Philo – người đã dành phần lớn đàm thoại để tấn công cả luận chứng thiết kế và và tin tưởng tôn giáo truyền thống – đột nhiên có vẻ dịu giọng hơn. Ông nhìn nhận rằng thiên nhiên có vẻ có trật tự và có mục đích, và ông ngay cả còn nói rằng việc coi trật tự này như đưa ra giả thuyết về một loại nguyên nhân xa xôi, không rõ ràng nào đó có chút giống với não thức con người là hợp lý. Điều quan trọng là “nguyên nhân thông minh” này không nhất thiết phải là một vị gót – và chắc chắn không phải là vị gót toàn năng, nhân hó của tôn giáo có tổ chức. Nó chỉ đơn giản là một sự nhượng bộ tối thiểu: rằng vũ trụ thể hiện những mô hình, và một gì đó đã gây ra những mô hình đó. Sau đó, trong một bất ngờ khác, Philo kết thúc bằng một tuyên bố nghe giống như thuyết duy tín – quan điểm giả định rằng lý trí của con người quá giới hạn để thấu hiểu được Gót, vì vậy chúng ta phải dựa vào lòng tin hoặc sự vén lên cho thấy huyền bí tôn giáo. Cuối cùng, Pamphilus – người kể chuyện – bước vào và tuyên bố rằng lập trường của Cleanthes (thuyết tin có gót duy nghiệm) là “hợp lý nhất”.

2.

Để diễn giải chương cuối này đúng mức, chúng ta phải đọc kỹ những nhận xét của Philo, so sánh chúng với phần còn lại của Đàm thoại cũng đặt chúng trong nội dung rộng hơn của nhữngHume đã viết. Làm như vậy, chúng ta thấy Phần XII này không phải là một thoái lui khỏi thuyết hoài nghi, nhưng là một tính toán khéo léo, một chiến lược khôn ngoan nhằm bảo vệ thuyết hoài nghi. (ở đây, nghĩa là những nhận xét cuối cùng của Philo không nhất thiết phải chân thành, nhưng được đưa ra vì những lý do thực tế – như tránh sự kiểm duyệt hay trừng phạt. Ở nước Anh, thế kỷ 18, công khai tấn công đạo Kitô là hành động rất nguy hiểm, gây những hậu quả nguy hại. Hume phải thận trọng xây dựng một câu chuyện qua đó có thể tự bảo vệ khi trình bày lập trường hoài nghi của ông.

3.

Còn lại một mình Cleanthes, Philo nhìn nhận một sự việc vốn đến giờ ông đã không phủ nhận thẳng thừng: thế giới hiện ra có vẻ như theo một trật tự, có chức năng và có thể hiểu được. Ông nói rằng quan sát này là nền tảng của sự thămkhoa học. Những nhà khoa học giả định rằng thiên nhiên hoạt động theo những cách thức đơn giản, hiệu quả và đều đặn. Với điều đó, Philo công nhận rằng không phải là vô lý khi giả định rằng có một số nguyên nhân đằng sau trật tự hiển nhiên này. Nhưng đây là chìa khóa: Philo cực kỳ thận trọng. Ông chỉ nhìn nhận rằng nguyên nhân của vũ trụ có một “sự tương tự xa vời” với trí thông minh của con người. Nói cách khác, nguyên nhân của trật tự tự nhiên có thể là một gì đó giống như một não thức, nhưng không theo bất kỳ nghĩa phong phú hay quen thuộc nào. Nó không phải là một thần linh toàn trí, toàn thiện, toàn năng như Gót của thuyết tin có gót cổ điển.

Trên thực tế, Philo rõ ràng tránh gọi nguyên nhân này là “Gót” theo bất kỳ nghĩa truyền thống nào. Ông phủ nhận rằng so snahs loại suy này đem lại một cơ sở cho tín ngưỡng, thờ phụng, tuân thủ giới luật đạo đức hoặc giáo lý của tôn giáo có tổ chức. Kết luận của ông rất tối thiểu: có một nguyên nhân của trật tự trong tự nhiên, và nó có thể hơi giống não thức. Ông ngay cả còn tuyên bố rằng những người được gọi là không tin có gót phải chấp nhận điều này, vì sự hiện hữu của một số nguyên nhân là hiển nhiên. Ông nói, câu hỏi thực sự không phải là liệu có nguyên nhân hay không, nhưng là nó giống với trí thông minh của con người đến mức nào. Cleanthes nói rằng đó là một loại suy gần; Philo nhấn mạnh rằng nó thì mờ nhạt và nông cạn ngoài mặt. Điều này hoàn toàn phù hợp với thái độ hoài nghi của Philo và Hume trong suốt quyển sách.

4.

Sau khi đưa ra nhượng bộ tối thiểu, Philo chuyển sang một chỉ trích nồng nhiệt hơn: những nguy hiểm của tôn giáo có tổ chức – tức là, những hệ thống thờ phụng mang tính thể chế như những hội nhà thờ, giáo đoàn, và những nhà chức trách giáo lý tự nhận là đại diện cho thần thánh, đòi hỏi sự tuân phục, và thường ngăn cản độc lập tư tưởng. Philo phân biệt giữa nhữnggọi là “tôn giáo chân chính” – một sự sùng kính hợp lý, mang tính triết lý, với trật tự của vũ trụ – và những tôn giáo có tổ chức, vốn ông coi là suy đồi, có hại và vô cùng phi lý.

Chỉ trích của ông về tôn giáo có tổ chức vừa về đạo đức và về tâm lý. Về đạo đức, tôn giáo có tổ chức là một thế lực gây ra bất công. Philo lập luận rằng những hội nhà thờ và những nhà chức trách giáo lý đã ủng hộ sự ngược đãi và đàn áp tôn giáo, chế độ nô lệ, bạo lực và giáo điều trong suốt chiều dài lịch sử. Những thể chế này thường đặt lòng trung thành với giáo lý lên trên lòng trắc ẩn hoặc sự thật. Thay vì khuyến khích đức hạnh, tôn giáo thường nuôi dưỡng lợi ích cá nhân: mọi người hành động không phải hầu giúp đỡ người khác, nhưng để đảm bảo sự cứu rỗi hay tránh sự trừng phạt của thần thánh cho chính họ. Về tâm lý, tôn giáo nuôi dưỡng sự sợ hãi về những gì không hay chưa biết – đặc biệt là sợ cái chết và đau khổ. Nhưng thay vì xoa dịu sợ hãi này, tôn giáo có tổ chức làm nó trầm trọng hơn bằng đe dọa về một sự nguyền rủa (phải chịu đọa đày) vĩnh cửu, về thịnh nộ của thần thánh (trừng phạt tội lỗi và sự bất tuân), và sự phán xét sau cùng (ấn định số phận của họ ở thế giới bên kia).Thay vì mang lại bình yên hay an ủi, tin tưởng tôn giáo thường khiến mọi người lo lắng, bất an, có mặc cảm tội lỗi, và kinh hoàng.

Philo lập luận rằng đạo đức đích thực không đến từ tôn giáo, nhưng từ những tình cảm tự nhiên của con người, đặc biệt là sự đồng cảm: Sự đồng cảm là khả năng tự nhiên của con người để cảm nhận những gì người khác cảm thấy – quan tâm đến hạnh phúc, đau khổ và lòng nhân ái của họ. Lòng nhân ái là khuynh hướng bẩm sinh của con người muốn làm điều tốt cho người khác – hành động vì lòng tốt, lòng thương người không phải chỉ vì lợi ích cá nhân. Philo nói rằng những bản năng đạo đức này là những hướng dẫn đáng tin cậy hơn cho hành vi đạo đức so với bất kỳ giáo lý tôn giáo nào dựa trên đe dọa về một hỏa ngục hoặc hứa hẹn về một thiên đường.

5.

Quan điểm rộng hơn của Philo trong Phần XII củng cố một trong những chủ đề trung tâm của triết học Hume: những giới hạn của lý trí – bởi vì lý luận của con người dễ mắc sai lầm, được định hình bởi thói quen và cảm xúc, và thường vượt quá bằng chứng – đặc biệt là khi nói đến siêu hình học và tôn giáo. Philo lập luận rằng thần học tự nhiên – dự án chứng minh sự hiện hữu của Gót qua quan sát thục nghiệm và suy luận lôgích – có thể tạo ra, nhiều nhất, chỉ sự gợi ý mờ nhạt về một nguyên nhân thông minh. Nhưng chúng ta không thể chuyển từ gợi ý yếu ớt đó sang bất kỳ một tuyên bố chi tiết nào về những thuộc tính, ý định hoặc những quan tâm đạo đức của Gót. Điều này phù hợp với thuyết duy nghiệm của Hume, quan điểm cho rằng mọi kiến ​​thức chân chính – tức là sự hiểu biết thực sự, đáng tin cậy – phải đến từ kinh nghiệm giác quan trực tiếp, như nhìn, nghe hoặc chạm, ...thay vì từ lý luận trừu tượng hoặc suy đoán. Vì chúng ta không có kinh nghiệm trực tiếp về Gót, nên chúng ta có thể nói rất ít – nếu có – về bản chất thiêng liêng của Gót. Vì vậy, theo Philo, tất cả những tuyên bố đầy tự tin của những tổ chức tôn giáo – về việc Gót là như thế nào, Ngài muốn gì, chúng ta nên sống theo, hay thờ phụng Ngài như thế nào – đều là vô căn cứ và tự phụ. Chúng khẳng định nhiều hơn những gì bằng chứng có thể hỗ trợ.

6.

Vào cuối Phần XII, Philo dường như thay đổi lập trường. Ông tuyên bố rằng đạo Kitô đích thực không bắt đầu bằng xác quyết và chắc chắn, nhưng bằng khiêm nhường và hoài nghi – tức là bằng nhìn nhận trung thực về hiểu biết giới hạn của con người và sự sẵn lòng đặt câu hỏi về những giả định của chúng ta. Vì lý trí yếu đuối và giới hạn, ông nói, chúng ta phải hướng đến sự vén lên cho thấy huyền bí (kiến thức đến trực tiếp từ Gót, qua kinh thánh hoặc sự giao tiếp thiêng liêng – không phải qua quan sát hay lôgích) – những chân lý được Gót vén lên cho thấy – như là kim chỉ nam của chúng ta. Nếu không có sự vén lên cho thấy huyền bí này, lý trí sẽ dẫn chúng ta đến hoài nghi và ngay cả là không tin có gót.

Điều này nghe giống như thuyết duy tín – ý tưởng giả định rằng tin tưởng, không phải lý trí, là cơ sở thích hợp của tôn giáo. Nhưng Philo có thành thực không? Gần như chắc chắn là không. Trong The Natural History of Religion (viết trước nhưng xuất bản sau Dialogues), Hume trình bày tôn giáo như một sản phẩm của tâm lý con người, đặc biệt là từ sợ hãi và ngu dốt, không phải từ cảm hứng của thần thánh. Ông lập luận rằng tin tưởng vào những vị gót nảy sinh một cách tự nhiên khi con người thấy bất lực trước những gì không hiểu, chưa biết, những bất trắc. Không có viện dẫn nào với sự vén lên cho thấy hay kiến thức huyền bí – chỉ có một giải thích nhân quả về – tại sao mọi người có tín ngưỡng. Trong thời ông, Hume được nhìn như một người hoài nghi tôn giáo, hay ngay cả không tin có gót, và không có gì trong những tác phẩm của ông nhắc nhở về thuyết duy tín chân thành. Do đó, những kết thúc của Philo ở đây, được hiểu tốt nhất là một chiến lược: một hành động tự bảo vệ, nhằm tránh bị chỉ trích, và tạo một vẻ ngoài tôn kính tôn giáo. Kết thúc như thuyết duy tín là một mặt nạ, không phải là xác định một tin tưởng

7.

Bước ngoặt cuối cùng xảy ra, khi Pamphilus, người kể chuyện và là học trò trung thành của Cleanthes, kết luận rằng lập trường của Cleanthes là “hợp lý nhất”. Điều này gây ngạc nhiên. Cleanthes đã nhiều lần bị những lập luận của Philo thách thức và làm suy yếu. Vậy tại sao quyển sách lại kết thúc bằng trình bày lập trường của Cleanthes là thuyết phục nhất? Có nhiều giải thích cho việc này – và tất cả chúng đều có thể thuận hợp, bổ túc nhau:

-         Pamplius có thành kiến. Là học trò nhiệt tình của Cleanthes, ông trung thành một cách tự nhiên và tiếp nhận quan điểm của người thày dạy, nhưng có thể không hiểu được toàn bộ chiều sâu trong những phê bình của Philo.

-         Pamphilus hiểu lầm. Có thể ông không nhận ra lập trường hoài nghi của Philo thực sự đã phá vỡ những lý luận của Cleanthes, và do đó hiểu sai kết quả của đàm thoại.

-         Đó là một “tấm chắn” trong văn học.Bằng cách để Pamphilus tuyên bố Cleanthes là “người chiến thắng”, Hume tạo ra một lớp bảo vệ cho sự hoài nghi của Dialogues. “Chiến lược” này khiến ông có thể đưa ra những nghi ngờ nghiêm trọng về tin tưởng tôn giáo nhưng không công khai bác bỏ nó. Ở nước Anh thế kỷ 18, việc công khai chỉ trích tôn giáo có thể dẫn đến những phản ứng dữ dội, khắt khe, như kiểm duyệt hoặc tệ hơn, như sự phẫn nộ của hội nhà thờ, buộc tội và trừng phạt. Bằng kết thúc cho một nhân vật ca ngợi lập trường tin có gót của Cleanthes, Hume có một mặt ngoài che dấu sự phủ nhận – nếu bị buộc tội là không tin có gót, ông có thể chỉ vào kết luận này của người kể chuyện và nói, “Hãy xem, quan điểm tôn giáo chiến thắng”. Nhưng những người đọc sẽ thấy sức mạnh trí tuệ thực sự nằm trong những lập luận của Philo, không phải trong những lời cuối của Pamphilus. Theo cách này, Hume tránh dược sự đối đầu trực tiếp, trong khi đưa ra chỉ trích mạnh mẽ kín đáo, ngấm ngầm, che giấu lập trường hoài nghi dưới mặt ngoài trung lập.

-         Thật mỉa mai. Với những người đọc chăm chú, sự mỉa mai thì không thể nhầm lẫn: nếu Philo đã hệ thống phá bỏ những lập luận của Cleanthes, nhưng Cleanthes lại được cho là “chiến thắng”, thì những đàm thoại này sẽ mời gọi chúng ta đọc sâu hơn những gì ngoài mặt. Phần kết tinh tế báo hiệu rằng kết luận được nêu không phải là kết luận thực sự.

Trên thực tế, quan điểm hoài nghi chiếm ưu thắng – nhưng một cách kín đáo. Hume đã khéo léo che giấu một phê phán cấp tiến về tri thức học về tôn giáo vào trong một khuôn khổ có vẻ thông thường của tin tưởng tôn giáo truyền thống, và tôn trọng gót học. Trình bày này khiến thông điệp sâu xa hơn của ông về hoài nghi triết học tồn tại trong bóng tối của những mặt ngoài vốn được đông đảo chấp nhận – cho dù nó không chân thực.

8.

Tri thức học tôn giáo

Phần XII của Dialogues Concerning Natural Religion là một luận văn được xây dựng cẩn thận về thuyết hoài nghi triết học – giọng điệu tinh tế nhưng hàm ý cấp tiến. Trên bề mặt, Philo dường như nhượng bộ: ông đưa ra một phiên bản tối giản của luận chứng thiết kế, ca ngợi sự vén lên cho thấy huyền bí của thần thánh và cho phép Cleanthes được trình bày như tiếng nói của lý trí. Nhưng giống như nhiều tác phẩm khác của Hume, mặt ngoài này là cố ý để tạo hiểu lầm. Bên dưới là một thách thức sâu xa và có phương pháp – không chỉ với tin tưởng tôn giáo, nhưng còn với chính khả năng hiểu biết của con người với bất cứ gì về thần thánh.

Mục tiêu thực sự của Hume là tri thức học về tôn giáo: vốn giả định rằng con người có thể có được kiến ​​thức đáng tin cậy về Gót. Ông không chỉ tranh luận về tính hợp lý của luận chứng thiết kế hoặc chỉ trích thẩm quyền giảng dạy đạo đức của những tổ chức tôn giáo. Thách thức của ông còn sâu xa hơn thế. Ông đặt câu hỏi: Bằng cách nào chúng ta có thể tuyên bố biết dược bất cứ gì về một đấng thiêng liêng – sự hiện hữu, bản chất hay ý định của thần linh đó? Và trả lời của ông, thuận hợp với triết lý rộng hơn của ông, là – chúng ta Không Biết.

Thách thức này đến từ thuyết duy nghiệm của Hume – quan điểm cho rằng mọi kiến ​​thức chân chính đều xuất phát từ kinh nghiệm giác quan. Chúng ta biết những gì chúng ta có thể nhìn thấy, chạm vào, nghe được và có kinh nghiệm. Nhưng theo định nghĩa, Gót nằm ngoài tầm với của những giác quan chúng ta. Chúng ta không có kinh nghiệm trực tiếp về một não thức thiêng liêng, không tiếp cận được những hoạt động hoặc yếu tính của nó. Và nếu không có kinh nghiệm, chúng ta không thể hình thành những ý tưởng rõ ràng, hợp lý. Do đó, mọi tuyên bố về tính cách đạo đức, ý định hoặc thậm chí sự hiện hữu của Gót đều trở nên – tốt nhấtsuy đoán, và tệ nhất.thường là huyễn tưởng.

Theo hướng nhìn này, cấu trúc rõ ràng của Phần XII tự bộc lộ là một vỏ ngoài che dấu cho sự nghi ngờ sâu xa hơn:

-         Sự nhượng bộ của Philo đối với luận chứng thiết kế không phải là một nhượng bộ thực sự. Ông chỉ cho phép một gợi ý mơ hồ nhất về một trí thông minh có trật tự – chắc chắn không giống như Gót công bằng, toàn năng của đạo Kitô. Ngôn ngữ của ông được giữ trong cố tình không cam kết và không để lại chỗ cho sự thoải mái về mặt gót học.

-         Kêu gọi sự vén lên cho thấy huyền bí của ông không phải là sự chứng thực, nhưng là một sự khiêu khích. Sự vén lên cho thấy huyền bí – kiến thức được cho là đến từ sự tiết lộ thiêng liêng – chỉ được đưa ra sau khi lý trí đã thất bại. Philo dường như gợi ý rằng nếu chúng ta không thể biện minh cho tôn giáo qua lôgích, có lẽ chúng ta phải quay lại với sự vén lên cho thấy huyền bí. Nhưng đây không phải là sự chuyển hướng sang lòng tin tôn giáo – nhưng là phơi bày của sự tuyệt vọng. Tác động này cho thấy – còn có bao nhiêu những sự vật việc để lại, không giải quyết, khi việc tìm hiểu duy lý đã cạn kiệt.

-         Phán quyết cuối cùng của Pamphilus được hiểu tốt nhất là thiên vị hoặc ngụy trang văn học. Là học trò của Cleanthes, ông có thể chỉ trung thành – hoặc ngây thơ. Nhưng có nhiều khả năng, Hume dùng Pamphilus như một “chắn đỡ” tự vệ. Trong một xã hội tôn giáo vốn sự hoài nghi néu trình bày công khai là nguy hiểm, việc để một tiếng nói ôn hòa “chiến thắng” đem lại một phủ nhận, nếu cần, thể dùng vào việc biện hộ được. Điều này cho phép quyển sách có vẻ cân bằng và tôn trọng, ngay cả khi nó âm thầm làm suy yếu toàn bộ nền tảng của kiến ​​thức tôn giáo.

Xét về tổng thể, cấu trúc của Đàm Thoại phản ảnh phương pháp triết học rộng hơn của Hume: người ta không hò hét cổ võ cho thuyết hoài nghi người ta để nó diễn ra dưới áp lực điềm tĩnh, phê phán mọi giả định không cơ sở. Những gì có vẻ hòa hoãn bên ngoài, trên thực tế, lại mang tính ăn mòn.

Với Hume, bài học rất rõ ràng: lý trí của con người thì yếu đuối, và giả tưởng của chúng ta như có hiểu biết về thần thánh đã bắt nguồn từ sự phù phiếm, nhưng không từ bằng chứng. Nếu chúng ta muốn suy nghĩ khôn ngoan, chúng ta phải suy nghĩ khiêm tốn. Chúng ta phải nhận ra giới hạn của những khả năng của con người và từ chối vượt ra ngoài những gì kinh nghiệm cho phép. Trong triết học của Hume, nghi ngờ không phải là dấu hiệu của thất bại – nhưng là dấu hiệu của trưởng thành. Người khôn ngoan không vội vàng đưa ra những tuyên bố siêu hình lớn lao, nhưng biết dừng lại, đặt câu hỏi và kiềm chế tin tưởng trong sự vắng mặt của bằng chứng. Vì vậy, trong những dòng cuối cùng của Đàm Thoại, không phải Cleanthes chiến thắng – nhưng là thuyết hoài nghi. Nhưng thuyết hoài nghi chiến thắng một cách lặng lẽ, khiêm tốn và không kiêu ngạo. Thiên tài của Hume nằm ở cách thức ông để nghi ngờ phát huy tác dụng nhưng không cần phải lớn tiếng. Kết luận thực sự thì không được nói ra – nhưng được hiểu.

 

 

Phần XII.

 

D 12.1, KS 214

Sau khi Demea rời đi, Cleanthes Philo tiếp tục trò chuyện theo cách sau. Tôi e rằng, Cleanthes nói, người bạn chúng ta sẽ không có nhiều ý muốn để khơi lại đề tài thảo luận này, đương khi bạn còn ở đây; và nói thật, Philo, tôi thà muốn lý luận về một đề tài cao siêu và thú vị đáng chú ý như vậy với riêng một trong hai bạn. Tinh thần tranh luận của bạn, kết hợp với sự khinh miệt của bạn với mê tín dị đoan thông tục, đưa bạn đến những chiều hướng kỳ lạ, khi bạn dấn vào một tranh luận; và không có gì quá thiêng liêng và tôn kính, ngay cả trong mắt nhìn của của riêng bạn, mà bạn không tha thứ trong dịp đó.

 

D 12.2, KS 214-5

Tôi phải thú nhận, Philo trả lời, rằng tôi thoải mái khi nói về đề tài Tôn giáo Tự nhiên hơn về bất kỳ đề tài nào khác; phần vì tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể, về đề tài đó, hiểu sai những nguyên lý của bất kỳ ai phán đoán thực tiễn với kiến thức thông thường, và phần vì không ai, tôi tin chắc, dưới mắt người đó nhìn tôi như một người giống họ, sẽ từng bao giờ hiểu lầm những ý định của tôi. Đặc biệt là bạn, Cleanthes, người vốn sống trong thân mật không dè dặt với tôi; bạn biết đấy, mặc dù có táo bạo tự do trong trò chuyện của tôi, và yếu thích của với những lập luận kỳ lạ, khác biệt với thông thường, không ai có một ý thức tôn giáo in sâu trong não thức, hay dành sự tôn thờ sùng kính hơn với Đấng thiêng hơn tôi, khi Ngài tự thể hiện với lý trí con người chúng ta qua sự thiết kế và sự khéo léo bí ẩn của thiên nhiên. Một mục đích, một ý định, một thiết kế đập vào mắt khắp nơi, ngay cả bởi những người suy nghĩ hời hợt nhất, kém cỏi nhất; và không ai có thể cứng nhắc trong những hệ thống phi lý đến mức luôn luôn bác bỏ nó. Rằng Tự nhiên không làm gì vô ích, là một châm ngôn được thiết lập trong tất cả những trường phái, chỉ từ chiêm nghiệm những công trình của Tự nhiên, không phải từ tôn giáo nào. Vì mọi người tin tưởng mạnh mẽ như vậy, một nhà giải phẫu học, người đã quan sát một cơ quan hay ống dẫn mới trong cơ thể, sẽ không bao giờ hài lòng, cho đến khi ông cũng khám phá được công dụng và mục đích của nó nữa. Một nền tảng lớn của hệ thống Copernicus là châm ngôn, Rằng Tự nhiên hoạt động theo những phương pháp đơn giản nhất, và lựa chọn phương tiện thích hợp nhất cho bất kỳ mục đích nào; và những nhà thiên văn học, vốn không nghĩ đến điều đó, thường đặt nền tảng vững chắc này của lòng mộ đạo và tôn giáo. Điều tương tự cũng có thể quan sát được trong những phần khác của triết học: Và do đó, tất cả những ngành khoa học gần như đều âm thầm dẫn chúng ta đến nhìn nhận một Tác giả thông minh đầu tiên; Và họ thường thuyết phục hơn khi làm như vậy vì họ không công khai tuyên bố đó là mục tiêu của họ.

 

D 12.3, KS 215

Tôi rất vui khi nghe Galen lý luận về cấu trúc của cơ thể con người. Giải phẫu một con người, ông nói [10] , khám phá ra hơn 600 bắp thịt khác nhau; và bất kỳ ai xem xét cẩn thận những bắp thịt này, sẽ thấy rằng ở mỗi bắp thịt, Tự nhiên đã phải điều chỉnh ít nhất mười mười phương diện khác nhau để đạt được cứu cánh nó đưa ra; hình dạng thích hợp, kích thước thích đáng, sự phân phối đúng của những đầu khác nhau, vị trí trên và dưới của toàn bộ, sự chèn vào đúng chỗ của những dây thần kinh, tĩnh mạch và động mạch khác nhau: Vì vậy, chỉ riêng trong những bắp thịt, hơn 6000 lựa chọn khác nhau hoặc mục đích riêng biệt phải được hình thành và thực hiện. Ông tính toán có 284 xương: Những mục đích riêng biệt, nhắm vào cấu trúc của mỗi xương, là trên 40. Thật là một sự trưng bày kỳ diệu của sự tinh xảo khéo léo, ngay cả trong những phần đơn giản và nhất quán về cấu trúc này? Nhưng nếu chúng ta xem xét da, dây chằng, mạch máu, tuyến, dịch, những chi và phần khác nhau của cơ thể; sự ngạc nhiên của chúng ta phải tăng lên như thế nào, tương ứng với số lượng và sự phức tạp của những phần được được kết hợp khéo léo với nhau như vậy? Càng tiến xa hơn trong những nghiên cứu này, chúng ta càng khám phá ra những cảnh tượng mới của khéo léo tài tình và trí tuệ khôn ngoan: Nhưng vẫn còn, ở một khoảng cách xa hơn, những cảnh tượng ngoài tầm với của chúng ta; trong sự sắp xếp bên trong tinh tế của những bộ phận, trong tổ chức của não, trong thiết kế của những ống dẫn và tuyến sinh dục. Tất cả những thiết kế phức tạp này được tìm thấy, hết lần này đến lần khác, ở mọi loài động vật, mỗi lần đều có sự đa dạng đáng kinh ngạc và hoàn toàn phù hợp với mục đích cụ thể mà Thiên nhiên, trong việc đã định hình từng loài. Và nếu ngay cả Galen – người sống vào thời sinh học vẫn còn chưa phát triển – cũng không thể không bị những dấu hiệu rõ ràng của thiết kế như vậy thuyết phục, thì một triết gia thời nay phải cực đoan cố chấp đến mức nào nếu vẫn nghi ngờ sự hiện hữu của một Trí tuệ Tối cao? [1]

 

D 12.4, KS 215-6

Nếu tôi có thể gặp một người như họ, (tạ ơn Gót, họ rất hiếm) tôi sẽ hỏi người này: Giả định như có một Gót, vị đã không tự thể hiện trực tiếp với giác quan của chúng ta; liệu vị này có thể đưa ra những bằng chứng mạnh mẽ hơn về sự hiện hữu của ngài, ngoài những gì xuất hiện trên toàn bộ khuôn mặt của Tự nhiên không? Thật vậy, một Đấng Thần Linh như vậy có thể làm gì, ngoài việc sao chép cấu trúc và hoạt động hiện tại của mọi sự vật việc; làm cho nhiều trong số những công trình của Ngài trở nên rõ ràng đến mức không một sự ngu ngốc nào có thể hiểu lầm chúng; cho phép chúng ta thoáng thấy những những tinh xảo khéo léo còn lớn hơn, những công trình chứng minh sự vượt trội phi thường của Ngài vượt lên trên những hiểu biết hạn hẹp của chúng ta; và che giấu toàn bộ một số lớn những sự việc khỏi những sinh vật bất toàn như vậy? Bây giờ theo tất cả những quy luật của lý luận công bằng, mọi sự kiện phải được coi là không thể tranh luận, khi nó được tất cả những lập luận hỗ trợ, vốn bản chất của nó cho phép; mặc dù bản thân những lập luận này không nhiều, hay có sức thuyết phục: Trong trường hợp hiện tại, khi không một trí tưởng tượng nào của con người có thể tính toán được số lượng của chúng, và không một sự hiểu biết nào có thể ước tính được sức thuyết phục của chúng?

 

D 12.5, KS 216

Tôi sẽ thêm vào những gì bạn đã trình bày rất hay, Cleanthes, rằng một ưu điểm lớn của nguyên lý Gót học, là nó là hệ thống duy nhất về nguồn gốc vũ trụ có thể được giải thích một cách rõ ràng và hoàn chỉnh, đồng thời vẫn có thể duy trì một sự tương đồng mạnh mẽ với những gì chúng ta thấy và kinh nghiệm hàng ngày trong thế giới. Việc so sánh vũ trụ với một cỗ máy do con người chế tạo là quá hiển nhiên và tự nhiên, và được rất nhiều trường hợp về trật tự và thiết kế trong Tự nhiên chứng minh, đến mức nó phải ngay lập tức gây ấn tượng với tất cả những nhận thức không thành kiến và nhận được sự tán thành phổ biến.Bất cứ ai cố gắng làm suy yếu lý thuyết này không thể thành công bằng cách thiết lập một lý thuyết khác chính xác và xác định thay thế nó: Với họ, chỉ cần gieo nghi ngờ và khó khăn; và qua những quan điểm trừu tượng và xa vừi về sự vật, đạt được sự hoài nghi trong phán đoán, đó là giới hạn tối đa của mong muốn của họ. Nhưng bên cạnh đó, trạng thái não thức này tự nó không thỏa đáng, nó không bao giờ có thể được duy trì một cách vững chắc trước những biểu hiện nổi bật như vậy, những biểu hiện liên tục đưa chúng ta tham dự vào giả thuyết tôn giáo. Một hệ thống sai lầm, phi lý, con người, do sức mạnh của định kiến, có khả năng bám vào với ngoan cố và và kiên trì. Nhưng tôi nghĩ rằng không có hệ thống nào, trái ngược với một lý thuyết, được hỗ trợ bởi lý trí mạnh mẽ và rõ ràng, bởi khuynh hướng tự nhiên, và bởi giáo dục sớm, là hoàn toàn không thể duy trì hay bảo vệ.

 

D 12.6, KS 216-7

Thực sự, tôi tin rất ít rằng có thể hoãn lại phán đoán về chủ đề này; Philo trả lời, khiến tôi nghiêng sang ngờ rằng ở đây sự bất đồng một phần chỉ là về từ ngữ hơn là về những gì thường được tưởng tượng. Rõ ràng là những công trình của Tự nhiên mang một tương đồng lớn với những tác phẩm nghệ thuật là hiển nhiên; và theo tất cả những quy luật của lý luận hợp lý, chúng ta phải suy luận rằng, nếu chúng ta biện luận về chúng, rằng những nguyên nhân của chúng cũng có một sự tương đồng tỷ lệ tương ứng. Nhưng vì cũng có những khác biệt đáng kể, chúng ta có lý do để giả định một sự khác biệt tỷ lệ tương ứng trong những nguyên nhân; và đặc biệt nên gán cho nguyên nhân tối cao một mức độ cao hơn nhiều về sức mạnh và hiệu quả so với bất kỳ nguyên nhân nào chúng ta từng quan sát thấy ở loài người. Vậy thì ở đây sự hiện hữu của một THẦN LINH được lý trí xác định rõ ràng; và nếu chúng ta đặt câu hỏi về nó, liệu, dựa trên những sự tương đồng này, chúng ta có thể gọi vị này là một não thức hay trí tuệ thông minh, bất chấp sự khác biệt lớn lao, vốn có thể hợp lý để giả định giữa ngài và những não thức con người; thì đây là gì? Nếu không phải chỉ là một tranh luận về từ ngữ không? Không người nào có thể phủ nhận những tương đồng giữa những kết quả: Thật khó để chúng ta tự kiềm chế khỏi việc tìm hiểu về nguyên nhân: Từ tìm hiểu này, kết luận hợp lý là những nguyên nhân cũng có một tương đồng: Và nếu chúng ta không hài lòng với việc gọi nguyên nhân đầu tiên và tối cao là một GÓT hay ĐẤNG TỰ HỮU, nhưng muốn thay đổi cách diễn đạt; thì chúng ta có thể gọi ngài là gì, nếu không là NÃO THỨC hay TƯ TƯỞNG, vốn ngài được giả định là mang một tương đồng đáng kể?

 

D 12.7, KS 217-9

Tất cả những người có lý luận vững chắc đều chán những tranh luận tập trung vào ngữ nghĩa, vốn rất phổ biến trong những điều tra triết học và gót học; và người ta thấy rằng, cách khắc phục duy nhất cho lạm dụng này phải xuất phát từ những định nghĩa rõ ràng, từ sự chính xác của những ý tưởng đưa vào bất kỳ biện luận nào, và từ việc dùng chặt chẽ và thống nhất những thuật ngữ được dùng. Nhưng có một loại tranh luận, vốn từ chính bản chất của ngôn ngữ và của những ý tưởng con người, liên quan đến sự mơ hồ liên tục, và không bao giờ có thể, bằng bất kỳ biện pháp phòng ngừa hay bất kỳ định nghĩa nào, có thể đạt được sự chắc chắn hay chính xác hợp lý. Đây là những tranh luận liên quan đến những mức độ của bất kỳ phẩm chất hay hoàn cảnh. Người ta có thể biện luận đến muôn đời, liệu Hannibal có phải là một người vĩ đại, hay rất vĩ đại, hay một người vĩ đại siêu phàm, sắc đẹp của Cleopatra mức độ nào? Livy hoặc Thucydides xứng đáng với danh hiệu ca ngợi nào, nhưng không đem tranh luận đến bất kỳ quyết định nào. Những người tranh luận ở dây có thể đồng ý về ý nghĩa của họ nhưng khác nhau về những từ ngữ, hay ngược lại; nhưng không bao giờ có thể định nghĩa những từ ngữ của họ một cách rõ ràng để hiểu được ý nghĩa của nhau: Bởi vì những mức độ của những phẩm chất này không giống như lượng hoặc số, có thể đo lường chính xác, vốn có thể là tiêu chuẩn trong tranh luận. Rằng tranh luận về Thuyết tin có gót giống như thế này – tức là, chủ yếu chỉ là về từ ngữ, hoặc thậm chí có lẽ còn mơ hồ hơn nữa – và điều này sẽ trở nên rõ ràng ngay cả khi chỉ cần xem xét sơ qua.Tôi hỏi người theo Thuyết tin có gót, nếu ông không nhìn nhận, rằng có một sự khác biệt lớn và không thể đo lường được, vì không thể hiểu nổi, giữa não thức con người và não thức thần thánh : Ông càng ngoan đạo, ông càng dễ dàng đồng ý với sự khẳng định, và ông càng có khuynh hướng phóng đại sự khác biệt: Ông ngay cả sẽ khẳng định rằng sự khác biệt thuộc một bản chất vốn không thể phóng đại quá nhiều. Tiếp theo, tôi quay sang người không tin có gót, người mà tôi khẳng định chỉ không tin có gót trên danh nghĩa, và không bao giờ có thể là người không tin có gót chân thực; và tôi hỏi người này, liệu từ sự mạch lạc và sự đồng cảm rõ ràng ở mọi phần của thế giới này, liệu có một mức độ tương tự nhất định nào đó giữa tất cả những hoạt động của Tự nhiên, trong mọi hoàn cảnh và mọi thời đại hay không; liệu sự thối rữa của một củ cải, sự sinh sản một động vật và cấu trúc của tư tưởng con người có phải là những năng lượng có thể có một số điểm tương đồng xa vời với nhau hay không: không thể nào người này có thể phủ nhận điều đó: người này sẽ sẵn sàng nhìn nhận điều đó. Sau khi đạt được sự nhượng bộ này, tôi tiếp tục thúc ép người này rút lui xa hơn nữa; và hỏi người này rằng liệu có khả năng rằng nguyên lý đầu tiên sắp xếp và vẫn duy trì trật tự trong vũ trụ này có một số điểm tương đồng xa xôi, không thể tưởng tượng được với những hoạt động khác của Tự nhiên, và trong số những hoạt động còn lại là với cấu trúc và hoạt động của não thức và tư tưởng con người hay không. Dù miễn cưỡng đến đâu, người này cũng phải đồng ý.Vậy thì, tôi kêu lên với cả hai đối thủ này, đề tài tranh luận của quí vị là gì? Người theo thuyết tin có gót nhìn nhận rằng trí tuệ thông minh ban đầu rất khác với lý trí con người: Người theo thuyết không tin có gót nhìn nhận rằng nguyên lý ban đầu của trật tự có một số điểm tương đồng xa vời với nó. Có phải quí vị sẽ cãi vã, thưa quí vị, về những mức độ, và bước vào một tranh luận không mang lại bất kỳ ý nghĩa chính xác nào, cũng như không đưa đến bất kỳ quyết định nào không? Nếu quí vị ngoan cố như vậy, tôi sẽ không ngạc nhiên khi thấy quí vị vô tình thay đổi lập trường; trong khi một mặt, người theo thuyết tin có gót phóng đại sự khác biệt giữa Đấng tối cao và những sinh vật yếu đuối, không toàn hảo, hay thay đổi, phù du và hữu hạn; và mặt khác, người theo thuyết không tin có gót phóng đại sự tương tự giữa tất cả những hoạt động của Tự nhiên, trong mọi thời kỳ, mọi hoàn cảnh và mọi vị trí. Vậy thì hãy xem xét xem điểm tranh luận thực sự nằm ở đâu, và nếu quí vị không thể đặt qua bên những tranh chấp của mình, ít nhất hãy cố gắng đừng tỏ ra thù địch hoặc chua chát trong những tranh luận.

 

D 12.8, KS 219

Và ở đây tôi cũng phải nhìn nhận, Cleanthes, rằng, vì những công trình của Tự nhiên có một tương đồng lớn hơn nhiều so với những hiệu quả của nghệ thuật và và sự khéo léo của chúng ta, hơn là với lòng nhân ái và công lý của chúng ta ; chúng ta có lý do để suy luận rằng những thuộc tính tự nhiên của Đấng Tối cao có một tương đồng lớn hơn với những thuộc tính của con người, hơn là sự tương đồng về mặt đạo đức của ngài với những đức tính của con người. Nhưng hậu quả là gì? Không gì khác ngoài điều này, rằng những phẩm chất đạo đức của con người khiếm khuyết hơn trong hạng loại của chúng so với những khả năng tự nhiên của họ. Vì Đấng tối cao được chotoàn hảo và tuyệt đối hoàn toàn, bất cứ gì khác biệt nhất với ngài đều rời xa nhất với tiêu chuẩn tối cao về về sự chính trực và toàn hảo đạo đức.[11]

 

D 12.9, KS 219

Những điều này, Cleanthes, là những tình cảm chân thành của tôi về vấn đề này; và những tình cảm này, bạn biết đấy, tôi luôn ấpvà gìn giữ. Nhưng tỷ lệ với sự tôn kính với tôn giáo chân chính của tôi, là sự khinh miệt với những mê tín thông tục của tôi; và tôi thú nhận rằng tôi thích thú một cách kỳ lạ khi thúc đẩy những nguyên lý như vậy, đôi khi thành phi lý, đôi khi thành bất kính. Và bạn hiểu rằng tất cả những kẻ cuồng tín, mặc dù họ rất ghét điều sau hơn điều trước, đều cùng có lỗi ngang nhau về cả hai.

 

D 12.10, KS 219-20

Khuynh hướng của tôi, Cleanthes trả lời, tôi có một chiều trái ngược. Tôn giáo, cho dù bị hư hỏng đến đâu, vẫn là tốt hơn nếu không có tôn giáo nào cả. Học thuyết về một đời sau là một bảo đảm mạnh mẽ và cần thiết cho đạo đức, khiến chúng ta không bao giờ nên buông bỏ hay lơ là nó. Bởi vì nếu những phần thưởng và hình phạt hữu hạn và tạm thời có một tác động lớn như chúng ta thấy hàng ngày, thì những phần thưởng và hình phạt vô hạn và vĩnh cửu chắc chắn phải có tác động lớn hơn đến chừng nào.

 

D 12.11, KS 220

Philo nói, vậy thì tại sao mê tín thông tục lại có lợi cho xã hội đến vậy, khi mà toàn bộ lịch sử lại đầy rẫy những câu chuyện về những hệ quả nguy hại của nó với những vấn đề chính trị và xã hôi? Những phe phái, nội chiến, đàn áp, những lật đổ chính quyền, áp bức, chế độ nô lệ. Những hậu quả thảm khốc này dường như luôn xảy ra khi mê tín xâm chiếm não thức con người. Mỗi khi tôn giáo được nhắc đến trong lịch sử, nó thường đi kèm với một danh sách dài những đau khổ mà nó gây ra. Trên thực tế, những thời kỳ hạnh phúc và thành công nhất trong lịch sử là những thời kỳ mà tôn giáo không hề đóng bất kỳ vai trò đáng chú ý nào.

 

D 12.12, KS 220

Lý do của nhận xét này, Cleanthes trả lời, thì hiển nhiên. Chức năng thích hợp của tôn giáo là định hình nhân cách đạo đức con người – hướng dẫn cảm xúc của họ, làm cho hành vi của họ trở nên nhân văn hơn, và thấm nhuần tinh thần tự chế, trật tự xã hội, và sự tôn trọng với quyền lực đạo đức và pháp luật, và vì hoạt động của nó là thầm lặng, chỉ củng cố những động cơ của đạo đức và công lý, nên nó có nguy cơ bị bỏ qua và lẫn lộn với những động cơ khác. Khi nó tự phân biệt và hoạt động như một nguyên lý riêng biệt trên con người, nó đã rời khỏi phạm vi thích hợp của nó và trở thành không gì hơn một mặt nạ cho phe phái chính trị và tham vọng cá nhân.

 

D 12.13, KS 220-1

Và tất cả những tôn giáo cũng sẽ như vậy, Philo nói, trừ loại tôn giáo xây dựng trên lý trí và triết học. Những lập luận của bạn có thể dễ dàng bỏ qua hơn là những sự kiện của tôi. Đó là một sai lầm khi nghĩ rằng, chỉ vì những phần thưởng hoặc hình phạt tạm thời và hạn chế ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người, thì những phần thưởng và hình phạt vô hạn và vĩnh cửu phải ảnh hưởng đến họ thậm chí còn nhiều hơn. Hãy xem xét chúng ta gắn bó sâu xa với những sự việc hiện tại như thế nào, và chúng ta quan tâm ít ỏi đến những kết quả xa xôi, không chắc chắn. Khi những nhà gót học, truyền giáo chỉ trích hành vi hàng ngày của con người, họ luôn chỉ ra điều này như một trong những đặc điểm mạnh mẽ nhất của chúng ta – và họ làm như vậy là đúng. Họ mô tả gần như toàn bộ nhân loại đang ở trong trạng thái thờ ơ hoặc ngủ mê, hoàn toàn không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo.Tuy nhiên, những nhà truyền giáo này, khi tranh luận chống lại những người hoài nghi trong những tranh luận trừu tượng, lại khẳng định rằng những động cơ tôn giáo mạnh mẽ đến mức xã hội không thể hoạt động nếu thiếu chúng. Họ thậm chí không cảm thấy xấu hổ trước sự mâu thuẫn rõ ràng này. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng ngay cả một lượng nhỏ nhất của sự trung thực hoặc lòng tốt tự nhiên cũng có tác động thực sự lớn hơn đến hành vi con người so với những lời hứa hẹn hoặc đe dọa lớn lao nhất của giáo lý tôn giáo. Những khuynh hướng tự nhiên của một người luôn hoạt động, luôn hiện diện trong não thức ảnh hưởng đến mọi quyết định. Ngược lại, những động cơ tôn giáo chỉ hoạt động không liên tục – nếu chúng hoạt động – và gần như không thể trở thành một lực lượng ổn định, thường xuyên trong suy nghĩ của một người. Những nhà triết học nói rằng lực hấp dẫn, mặc dù vô cùng yếu hơn một lực đẩy mạnh, cuối cùng sẽ vượt qua nó – bởi vì không gì có thể tác động với cùng một lực liên tục như lực hấp dẫn. Tương tự, những xung lực đạo đức tự nhiên định hình chúng ta liên tục, trong khi những động cơ tôn giáo chỉ tác động thỉnh thoảng – và do đó có ít ảnh hưởng lâu dài hơn nhiều.

 

D 12.14, KS 221

Một lợi thế khác của những khuynh hướng tự nhiên của chúng ta: tận dụng tất cả khôn ngoan và khéo léo của não thức; và khi đối lập với những nguyên tắc tôn giáo, nó tìm mọi phương pháp và nghệ thuật để trốn tránh chúng: Trong trường hợp này, nó hầu như luôn thành công. Ai có thể giải thích được lòng người, hay giải thích những lý luận kỳ lạ và biện minh mà mọi người dùng để theo đuổi mong muốn của họ, ngay cả khi những mong muốn đó mâu thuẫn với nghĩa vụ tôn giáo của họ? Sự viêc này được biết đến rộng rãi trong thế giới. và không ai nhưng chỉ những kẻ ngốc mới đặt ít tin cậy hơn vào một người, chỉ vì họ nghe rằng, từ việc học tập và triết học, người đó đã có một số nghi ngờ suy đoán liên quan đến những chủ đề gót học. Và khi chúng ta giao tiếp với một người lớn tiếng tuyên bố mình là người sùng đạo và ngoan đạo, điều đó thường khiến những người sáng suốt thận trọng hơn phải không – lo lắng rằng người đó có thể đang cố lừa dối hoặc lường gạt họ?

 

D 12.15, KS 221-2

Chúng ta cũng phải xem xét thêm, rằng những nhà triết học, những người vun trồng khả năng lý luận và phản biện suy ngẫm, ít cần đến những động cơ như vậy để giữ họ dưới sự kiềm chế của đạo đức: và rằng những kẻ tầm thường, những kẻ duy nhất có thể cần đến chúng, hoàn toàn không có khả năng theo một tôn giáo thuần khiết, như thể hiện Đấng Tối cao chỉ hài lòng với đức hạnh trong hành vi của con người. Những gì thường được coi là lòng mộ đạo tôn giáo bao gồm hoặc là những nghi lễ tầm thường, những trạng thái cảm xúc cuồng nhiệt, hoặc một sự tin tưởng mù quáng và hẹp hòi. Chúng ta không cần phải tìm kiếm qua những ghi chép thời cổ, cũng không cần phải đi đến những vùng đất xa xôi, để tìm thấy những thí dụ về loại thoái hóa này. Trong số chúng ta, một số đã phạm phải một vô đạo đức quá mức, tệ hơn bất kỳ điều gì được tìm thấy trong những mê tín của Egypt và Greece, họ công khai rao giảng chống lại chính đạo đức, tuyên bố rằng nếu một người đặt dù chỉ một chút tin cậy vào lòng tốt hay hành vi đạo đức của chính mình, thì điều đó thôi cũng đủ để đánh mất ân huệ của Gót. [2]

 

D 12.16, KS 222

Nhưng ngay cà mê tín hay nhiệt tình không nên tự đặt nó vào thế đối lập trực tiếp với đạo đức; việc chuyển hướng sự chú ý, việc đưa ra một loại công đức mới và phù phiếm, việc phân phối vô lý vốn nó tạo ra từ khen và chê; chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả tai hại nhất và làm suy yếu cực độ sự gắn bó của con người với những động cơ tự nhiên của công lý và nhân đạo.

 

D 12.17, KS 222

Một nguyên lý hành động như vậy, không nằm trong số những động cơ thông thường của hành vi con người, chỉ tác động vào não thức theo từng khoảng thời gian, và phải được khơi dậy liên tục để khiến người sùng đạo cuồng tín hài lòng với hành vi của mình và cho phép họ hoàn thành những hành vi sùng đạo. Nhiều thực hành tôn giáo được thực hiện với vẻ ngoài sốt sắng, trong khi trái tim, ngay lúc đó, lạnh lẽo và uể oải. Thói quen che giấu dần dần hình thành; và theo thời gian, sự lừa dối và dối trá trở thành xu hướng chi phối tính cách cá nhân. Do đó, lý do cho nhận xét tầm thường đó là sự nhiệt thành cao nhất trong tôn giáo và đạo đức giả sâu xa nhất, không hề mâu thuẫn, thường xuyên và phổ biến, được tìm thấy thống nhất trong cùng một người.

 

D 12.18, KS 222

Những tác động xấu của những thói quen như vậy, ngay cả trong đời sống thường nhật, có thể dễ dàng hình dung: nhưng khi ai đó tin rằng họ đang hành động vì mục tiêu hoặc bảo vệ tôn giáo của họ, thì không có quy tắc đạo đức nào đủ mạnh để kiềm chế sự nhiệt thành cuồng nhiệt của họ. Sự thánh thiện được cho là của lý tưởng được dùng để biện minh cho bất kỳ hành động nào dùng để thúc đẩy nó.

 

D 12.19, KS 222

Chỉ riêng sự chú ý không đổi đến một quan tâm quan trọng như sự cứu rỗi vĩnh cửu có thể dập tắt những tình cảm nhân ái và sinh ra một một sự ích kỷ hẹp hòi, khép kín. Và khi một tính khí như vậy được khuyến khích, nó dễ dàng tránh né mọi giới luật tổng quát của từ thiện và nhân ái.

 

D 12.20, KS 222-3

Do đó, những động cơ của mê tín dị đoan thông tục không có ảnh hưởng nhiêuf đến hành vi tổng quát; và hoạt động của chúng cũng không thuận lợi cho đạo đức, trong những trường hợp chúng chiếm ưu thế.

 

D 12.21, KS 223

Có châm ngôn nào trong chính trị chắc chắn và không thể sai lầm, hơn là châm ngôn rằng cả số lượng và thẩm quyền của những nhà chăn chiên phải bị giam giữ trong những giới hạn rất hẹp, và rằng và rằng nhà cai trị dân sự phải luôn luôn giữ quyền lực và thẩm quyền của mình [3], tránh xa những bàn tay nguy hiểm như vậy? [4] Nhưng nếu tinh thần của tôn giáo phổ thông có lợi cho xã hội như vậy, thì một châm ngôn ngược lại phải được lưu hành phổ biến. Số lượng những nhà chăn chiên đông đảo hơn, thẩm quyền và sự giàu có lớn hơn của họ sẽ luôn làm tăng thêm tinh thần tôn giáo. Và mặc dù những nhà chăn chiên có sự hướng dẫn của tinh thần này, tại sao chúng ta không thể mong đợi một đời sống thánh thiện hơn, nhân ái hơn và tiết độ hơn từ những người đã dành riêng cho tôn giáo, những người liên tục truyền bá nó cho người khác, và những người phải tự mình tiếp thu một phần lớn hơn của nó?

Vậy thì tại sao trong thực tế, điều tối đa một nhà cai trị dân sự khôn ngoan có thể đưa ra với những tôn giáo phổ thông, chỉ đơn giản là hạn chế thiệt hại – cứu vãn những gì có thể được, và tránh những hậu quả tác hại của chúng với xã hội? Mọi biện pháp người này gắng thử cho một mục đích khiêm tốn như vậy đều bị những khó khăn bất tiện bao quanh. Nếu người này chỉ chấp nhận một tôn giáo cho dân chúng, ông phải hy sinh, cho một viễn cảnh không chắc chắn của yên bình, từ bỏ những giá trị cốt lõi của tự do dân sự, tiến bộ khoa học, tư tưởng duy lý, sức sống kinh tế, và ngay cả cả khả năng cai trị độc lập của chính ông.

Nếu ông dung túng cho nhiều giáo phái, vốn là châm ngôn khôn ngoan hơn, ông phải giữ một thái độ lãnh đạm rất triết học với tất cả chúng, và cẩn thận kiềm chế những đòi hỏi của giáo phái thịnh hành; nếu không, ông không thể mong đợi gì ngoài những tranh chấp, cãi vã, phe phái, đàn áp và náo động dân sự bất tận.

 

D 12.22, KS 223

Tôi đồng ý rằng tôn giáo chân chính không dẫn đến những tác hại này. Nhưng chúng ta phải thảo luận về tôn giáo như nó thực sự xuất hiện trong lịch sử và xã hội – thường pha trộn với mê tín, quyền lực và xung đột. Tôi không nói ở đây về ức đoán trừu tượng vào Gót (thuyết tin có gót) vốn là một lập trường cá nhân hoặc trí thức, không phải là một sức mạnh xã hội. Vì thuyết tin có gót giống như một hình thức triết học hơn, nên nó chia sẻ những phẩm tính tích cực của triết học – như lý trí, chừng mực và sáng sủa. Nhưng giống như triết học, nó cũng chịu bất lợi là chỉ được một nhóm thiểu số nhỏ có học thức hiểu và chấp nhận.

 

D 12.23, KS 224

Những tuyên thệ là bắt buộc trong tất cả những tòa án tư pháp; nhưng vấn đề là liệu thẩm quyền của chúng có xuất phát từ bất kỳ tôn giáo phổ biến nào không. Chính mức độ nghiêm trọng của công việc, sự quan tâm của mọi người với danh tiếng của họ và nhận thức của họ về những gì có lợi cho toàn bộ xã hội, đây là những sự việc chính khiến mọi người trung thực và kiềm chế. Những tuyên thệ ở văn phòng hải quan hay trong chính trị thường bị coi nhẹ – ngay cả bởi những người tự tỏ ra là theo những nguyên lý của trung thực và tôn giáo. Và trong xã hội của chúng ta, lời khẳng định đơn giản của một người Quaker được đặt ngang hàng với lời thề của bất kỳ người nào khác,

Bây giờ, tôi biết rằng nhà sử học thời cổ Polybius [12]  đã đổ lỗi cho sự không đáng tin cậy của những lời hứa của người Greece (những gì ông gọi là “lòng tin của người Greece”) cho sự trỗi dậy của triết học Epicurus (mang tính hoài nghi và thế tục). Nhưng tôi cũng biết rằng “lòng tin Punic” (chỉ người Carthage) cũng có tiếng xấu tương tự vào thời cổ – giống như mọi người ngày nay đôi khi nói một cách khinh thường về lời chứng của người Ireland – và chúng ta không thể giải thích tất cả những tiếng xấu về mặt văn hóa này theo cùng một cách. Bên cạnh đó, lòng tin của người Greece đã có tiếng xấu ngay cả trước khi giảng dạy của Epicurus trở nên có ảnh hưởng. Trên thực tế, nhà viết kịch Euripides [13] , trong một đoạn văn mà tôi sẽ chỉ ra cho bạn, đã có một cái nhìn châm biếm đáng chú ý về quốc gia của ông, liên quan đến trường hợp này.

 

D 12.24, KS 224

Hãy cẩn thận, Philo, Cleanthes trả lời, hãy cẩn thận: đừng đẩy vấn đề đi quá xa: đừng để sự nhiệt thành chống lại tôn giáo sai lầm của bạn làm suy yếu lòng tôn kính của bạn với với tôn giáo chân chính. Đừng đánh mất nguyên lý này, nguyên lý chính, sự an ủi lớn lao duy nhất trong đời sống; và là chỗ dựa chính của chúng ta giữa tất cả những tấn công của số phận bất lợi. Sự phản ảnh dễ chịu nhất, vốn trí tưởng tượng của con người có thể đưa lên, là sự phản ảnh của Thuyết tin có gót đích thực, trình bày chúng ta như công trình của một Đấng toàn thiện, khôn ngoan và quyền năng; Đấng đã tạo ra đã tạo ra chúng ta với mục đích được hạnh phúc, và Đấng đã cấy trồng trong chúng ta những khát khao sâu xa và vô hạn với những tốt đẹp, đấng đó sẽ kéo dài hiện hữu của chúng ta đến vĩnh cửu, và sẽ đưa chúng ta vào một vô hạn của những cảnh tượng, để thỏa mãn những khát khao đó, và làm cho hạnh phúc của chúng ta trở nên trọn vẹn và bền vững. Nếu có gì có thể tốt đẹp hơn sự hiện hữu của một đấng như vậy, (được phép so sánh), đó chính là số phận hạnh phúc nhất vốn chúng ta có thể tưởng tượng, là được đấng đó.bảo vệ và che chở.

 

D 12.25, KS 224

Philo nói, những mặt ngoài này là những gì hấp dẫn và quyến rũ nhất; và với một triết gia chân chính, chúng không chỉ là những mặt ngoài. Nhưng ở đây, cũng như trong trường hợp trước, với phần lớn loài người, những mặt ngoài đều lừa dối, và những kinh hoàng tôn giáo tạo ra (sợ tội lỗi, hình phạt, hỏa ngục, phán xét, v.v.) thường vượt xa sự bình yên hoặc sự an ủi vốn nó được cho là mang lại.

 

D 12.26, KS 225

Người ta nhìn nhận rằng con người không bao giờ cầu tìm đến tôn giáo một cách dễ dàng như khi họ mang năgj đau buồn hoặc bị bệnh tật trầm trọng. Điều này không phải là một bằng chứng rằng tinh thần tôn giáo thì gần gũi với u buồn hơn với vúi sướng sao?

 

D 12.27, KS 225

Nhưng con người, khi chịu đau khổ, tìm thấy an ủi trong tôn giáo, Cleanthes trả lời. Đôi khi, Philo nói: nhưng thật tự nhiên khi tưởng tượng rằng họ sẽ hình thành một khái niệm về những sức mạnh siêu nhiên vốn họ thực sự không biết,

phù hợp với tâm trạng đen tối của họ, khi họ tự chiêm nghiệm chúng. Theo đó, chúng ta thấy những hình ảnh đáng sợ chiếm ưu thế trong mọi tôn giáo. Ngay cả sau khi chúng ta dùng ngôn ngữ diễn đạt cao nhất trong những mô tả về Đấng Tối cao, lại rơi vào mâu thuẫn trắng trợn nhất, khi khẳng định rằng số những kẻ bị nguyền rủa lại vô cùng lớn hơn số những người được cứu rỗi.

 

D 12.28, KS 225

Tôi sẽ mạo muội khẳng định rằng, chưa bao giờ có một tôn giáo phổ thông nào từng mô tả thế giới bên kia theo một cách sẽ khiến mọi người thực sự muốn nó hiện hữu. Những mô hình tuyệt diệu này của tôn giáo về sự sống sau cái chết chỉ là sản phẩm của triết học. Đối với hầu hết mọi người, ý nghĩ về cái chết tạo ra một bóng tối với bất gì có thể xảy ra sau đó. Nó có một viễn cảnh đáng lo ngại đến nỗi trí tưởng tượng tự nhiên lấp đầy thế giới bên kia bằng những hình ảnh đáng sợ, con quái vật ba đầu, những cuồng nộ; những con quỷ, và những dòng lũ của lửa cháy và lưu huỳnh..

 

D 12.29, KS 225-6

Đúng vậy; cả sợ hãi và hy vọng đi vào tôn giáo; vì cả hai tình cảm này, vào những thời điểm khác nhau, kích động não thức con người, và mỗi chúng hình thành một loại thần thánh phù hợp. Nhưng khi một người có tính khí vui vẻ, người này sẵn sàng đến với đám đông bạn bè, hay giải trí dưới bất kỳ hình thức nào; và người này tự nhiên nghiêng sang những điều này, và không nghĩ đến tôn giáo. Khi buồn bã và chán nản, người này không có gì để làm ngoài suy nghĩ về sự kinh hoàng của thế giới vô hình, và chìm sâu hơn trong đau khổ. Thật vậy, có thể xảy ra rằng trong cách thức này, sau khi khắc sâu những quan điểm tôn giáo vào suy nghĩ và trí tưởng tượng, người này có thể đi đến một thay đổi về sức khỏe hoặc hoàn cảnh, khôi phục được vui vẻ khôi hài, và nâng cao hy vọng về tương lai có lẽ còn dẫn đến cực đoan của tâm trạng hạnh phúc, tự tin và thậm chí chiến thắng vì được cứu rỗi. Tuy nhiên, phải nhìn nhận: sợ hãi là gốc rễ của tôn giáo. Đó là tình cảm thống trị trong đời sống tôn giáo, và bất kỳ khoảnh khắc nào của vui sướng mà nó mang lại thì chỉ ngắn ngỉu và tạm thời, thoáng qua.

 

D 12.30, KS 226

Chưa kể, rằng những cơn vui sướng, nhiệt tình quá mức này, sau khi làm kiệt quệ tinh thần, luôn mở đường cho những cơn mê tín khiếp hãi và buông xuôi chán nản tương đương; và cũng không có trạng thái tinh thần nào hạnh phúc bằng trạng thái bình tĩnh và ổn định. Nhưng trạng thái này, không thể duy trì được, khi một người nghĩ rằng mình nằm trong bóng tối sâu thẳm và sự không chắc chắn như vậy, giữa hạnh phúc vĩnh cửu và đau khổ vĩnh cửu. Không có gì ngạc nhiên khi một quan niệm như vậy làm xáo trộn trạng thái bình thường của não thức và đẩy nó vào sự hỗn loạn tột độ. Và mặc dù quan niệm đó hiếm khi vững vàng hoạt động đến mức ảnh hưởng tất cả hành động; nhưng nó có khuynh hướng làm nên một sự đứt gãy đáng kể trong tính khí, và tạo ra sự u ám và buồn bã, rất đáng chú ý ở tất cả những người sùng đạo.

 

D 12.31, KS 226

Thật trái ngược với phán đoán thực tiễn dựa trên kiến thức thông thường khi nuôi dưỡng những lo sợ hay kinh hoàng, dựa trên bất kỳ ý kiến nào, hay tưởng tượng rằng chúng ta sẽ gặp bất kỳ rủi ro nào sau này, bằng dùng lý trí một cách tự do nhất. Một tình cảm như vậy hàm ý vừa phi lý và vừa không nhất quán. Thứ nhất, thật phi lý khi tưởng tượng rằng Đấng Tối Cao cũng có những tình cảm như con người—đặc biệt là một trong những tình cảm thấp hèn và nhỏ nhen nhất: một cơn đói không ngừng nghỉ với tâng bốc hay tán dương. Thứ hai, ngay cả khi chúng ta thừa nhận, để bàn luận, rằng Gót thực sự có một tình cảm như vậy, thì cũng sẽ là thiếu nhất quán nếu không gán cho Ngài những tình cảm khác của con người—chẳng hạn như sự thờ ơ hoàn toàn với những phán xét và ý kiến của những sinh vật hạn hẹp và thấp kém như chúng ta. [5]

 

D 12.32, KS 226-7

Biết Gót, Seneca nói, là biết tôn thờ Ngài.[6] Mọi sự tôn thờ khác thực sự là phi lý, mê tín, và ngay cả là vô đạo. Nó hạ thấp Ngài xuống địa vị thấp kém của loài người, những kẻ thích thú với sự cầu xin, nài nỉ, quà cáp và nịnh hót. Tuy nhiên, sự vô đạo đức này là sự nhỏ nhất vốn mê tín mắc phải. Thông thường, nó hạ Đấng Tối cao xuống thấp hơn nhiều so với địa vị của loài người; và mô tả Ngài như một con quỷ thất thường, kẻ dùng quyền năng với không lý trí và không có nhân tính! Và nếu Đấng Tối cao đó có khuynh hướng bị xúc phạm bởi những tệ nạn và sự điên rồ của những kẻ phàm trần ngốc nghếch, những kẻ là công trình của chính Ngài; thì Ngài chắc chắn sẽ không được lòng những người sùng bái những mê tín phổ thông nhất. Không một ai trong số loài người xứng đáng được Ngài ưu ái, ngoại trừ một số rất ít, những người tin có gót triết học, những người nuôi dưỡng, hay đúng hơn là cố gắng nuôi dưỡng, những quan niệm phù hợp về sự toàn hảo thiêng liêng của Ngài: Những người duy nhất có quyền được ngài thương xót ban ơn là những người theo thuyết hoài nghi triết học, một phái triết gia, cũng hiếm hoi không kém, những người, từ một sự khiêm tốn tự nhiên về khả năng của chính họ, đình chỉ hoặc nỗ lực để đình chỉ tất cả phán đoán liên quan đến những đề tài cao vời và phi thường như vậy. [7]

 

D 12.33, KS 227-8

Nếu toàn bộ Gót học Tự nhiên, như một số người dường như duy trì, tự thu về trong một mệnh đề đơn giản, dù có phần mơ hồ, ít nhất là không xác định, rằng nguyên nhân hay những nguyên nhân của trật tự trong vũ trụ có thể có một số điểm tương đồng xa xôi với trí tuệ thông minh của con người: Nếu mệnh đề này không có khả năng mở rộng, thay đổi hay giải thích cụ thể hơn: Nếu nó không cung cấp bất kỳ suy luận nào ảnh hưởng đến đời sống của con người, hay có thể là nguồn gốc của bất kỳ hành động hay kiên nhẫn nào: Và nếu sự tương đồng, mặc dù không toàn hảo, không thể được đưa đi xa hơn trí tuệ thông minh của con người; và không thể được chuyển giao, với bất kỳ khả năng nào, sang những phẩm chất khác của não thức: Nếu đây thực sự là trường hợp xảy ra , thì người tò mò nhất, chiêm nghiệm nhất và sùng đạo nhất có thể làm gì hơn là đưa ra một sự đồng ý triết học đơn giản với mệnh đề, mỗi khi nó xuất hiện; và tin rằng nhưng lập luận, trên đó nó được thiết lập, vượt qua những phản đối nằm chống lại nó? Một số ngạc nhiên thực sự sẽ tự nhiên nảy sinh từ sự vĩ đại của đối tượng: Một số u sầu trước sự mù mờ không thể thấu hiểu của nó; Một số khinh thường với lý trí con người, rằng nó không thể đưa ra bất kỳ giải pháp thỏa đáng nào liên quan đến một câu hỏi phi thường và tuyệt diệu như vậy.

 

Nhưng hãy tin tôi, Cleanthes, tình cảm tự nhiên nhất, vốn một não thức chân thành, chín chắc và thận trọng [8] sẽ cảm thấy vào dịp này, là một mong muốn và kỳ vọng khao khát, rằng quyền năng thần thánh sẽ vui lòng xua tan, ít nhất là làm giảm bớt sự ngu dốt sâu xa này, bằng cung cấp một số sựvens lên cho thấy huyền bí cụ thể hơn cho loài người và tạo những khám phá về bản chất, thuộc tính và hoạt động của đối tượng thiêng liêng của tin tưởng tôn giáo của chúng ta. Một người, được tôi luyện với một ý thức công bằng về sự không toàn hảo của lý trí tự nhiên, sẽ bay đến sự thực được tiết lộ với sự khao khát lớn nhất: Trong khi những người theo thuyết giáo điều kiêu ngạo, tin rằng có thể xây dựng một hệ thống Gót học hoàn chỉnh chỉ bằng trợ giúp của triết học, coi thường bất kỳ sự trợ giúp nào khác và từ chối kiến thức bổ sung đến từ ngoài này. Trở thành một người hoài nghi về triết học, với một người của học thức, là bước đầu tiên và thiết yếu nhất để trở thành một người Kitô tin tưởng vững chắc, một đưa ra tôi sẵn lòng đề nghị với Pamphilus : Và tôi hy vọng Cleanthes sẽ tha lỗi cho tôi vì đã can thiệp quá sâu vào việc giáo dục và hướng dẫn học trò của ông ấy.

 

D 12.34, KS 228

Cleanthes Philo không tiếp tục cuộc trò chuyện này xa hơn nữa; và vì không có gì gây ấn tượng với tôi lớn hơn tất cả những lập luận tôi đã nghe vào ngày hôm đó; vì vậy, tôi thú nhận rằng, khi xem xét nghiêm trang toàn bộ vấn đề, tôi không thể không nghĩ rằng những quan điểm của Philo thuyết phục hơn, có khả năng xảy ra hơn so với của Demea ; nhưng những lập trường của Cleanthes lại gần với sự thực hơn. [9]

 

D 12.3n10, KS 215

1.       Sự hình thành thai nhi.

D 12.8n11, KS 219

2.       Có vẻ như rõ ràng là tranh luận giữa những người theo thuyết hoài nghi và những người theo thuyết giáo điều hoàn toàn chỉ là tranh luận về ngôn từ, hay ít nhất chỉ liên quan đến mức độ nghi ngờ và sự chắc chắn mà chúng ta nên dành cho tất cả lý luận: Và những tranh luận như vậy thường là, ở tận cùng, bằng lời nói, và không nhìn nhận bất kỳ sự xác định chính xác nào. Không một người theo thuyết giáo điều triết học nào phủ nhận rằng có những khó khăn liên quan đến cả giác quan và mọi khoa học; và rằng những khó khăn này nằm trong một phương pháp lôgích, thông thường, hoàn toàn không thể giải quyết được. Không một người theo thuyết hoài nghi nào phủ nhận rằng chúng ta nằm dưới một sự cần thiết tuyệt đối, bất chấp những khó khăn này, về việc suy nghĩ, tin tưởng và lý luận liên quan đến mọi loại đề tài, và ngay cả thường xuyên đồng ý với sự tự tin và chắc chắn. Do đó, sự khác biệt duy nhất giữa những phe phái này, nếu chúng xứng đáng với cái tên đó, là người theo thuyết hoài nghi, do thói quen, sự thất thường hay khuynh hướng, nhấn mạnh nhiều nhất vào những khó khăn; người theo thuyết giáo điều, vì những lý do tương tự, nhấn mạnh vào sự tất yếu.

D 12.23n12, KS 224

3.       Lib. 6. chương 54.

 

D 12.23n13, KS 224

4.       Iphigenia ở Tauride.

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jul/2025)

(Còn tiếp... →)

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 



[1] Galen (khoảng 129 – 216 CN) là một y sĩ và nhà giải phẫu học người Greece, những tác phẩm của ông đã định hình nên tư tưởng y khoa ở cả châu Âu và thế giới Islam trong hơn một thiên niên kỷ. Là người ủng hộ mạnh mẽ cứu cánh giải phẫu học, ông lập luận rằng những cấu trúc phức tạp của cơ thể con người cho thấy những dấu hiệu rõ ràng về thiết kế có chủ đích của Tự nhiên hoặc một nghệ nhân thần thánh. Trong những tác phẩm lớn như Về tính hữu ích của những bộ phận cơ thể (De Usu Partium Corporis Humani) và Về những khả năng tự nhiên (De Naturalibus Facultatibus), Galen đã có những đóng góp nền tảng cho giải phẫu học, sinh lý học và lý thuyết y khoa. Do những giới hạn trong mổ xẻ cơ thể người, phần lớn nghiên cứu giải phẫu của ông dựa trên những nghiên cứu trên động vật, nhưng ông nhấn mạnh đến sự phức tạp và tính nhất quán về chức năng của cơ thể như bằng chứng của thiết kế có chủ đích. Những ý tưởng của ông đã được bảo tồn và truyền tải qua những bản dịch tiếng Ả Rập và sau đó là tiếng Latinh, tạo ra ảnh hưởng lâu dài đến y học thời trung cổ, gót học tự nhiên và luận chứng thiết kế trong triết học.

[2] Philo lập luận rằng tôn giáo thường thất bại như một hướng dẫn đạo đức vì nó có thể thúc đẩy mê tín, sợ hãi và thụ động hơn là đức hạnh chân chính. Một số giáo lý tôn giáo thậm chí còn ngăn cản việc tin tưởng vào đạo đức của chính mình, nhấn mạnh chỉ vào đức tin hoặc ân điển thần thánh. Điều này làm suy yếu trách nhiệm đạo đức cá nhân và làm suy yếu sự phát triển đạo đức thực sự. Philo tin rằng đạo đức được xây dựng tốt hơn trên lý trí tự nhiên của con người, tình cảm và tình cảm xã hội hơn là trong giáo lý tôn giáo.

[3] bó đũa và rìu: một biểu tượng Rôma thời cổ, là một bó những thanh gỗ có đầu rìu nhô ra. Nó tượng trưng cho quyền lực và sức mạnh, cụ thể là quyền trừng phạt và thực thi luật pháp, gồm án tử hình.

[4] Châm ngôn Hume nhắc đến – rằng những nhà chăn chiên không nên nắm giữ quyền lực chính trị – không chỉ là một ý tưởng lý thuyết mà còn là một nguyên tắc chính trị được chia sẻ rộng rãi trong số những nhà tư tưởng thời Khai sáng, và đã có tiền lệ trong Locke, truyền thống Rôma và những phong trào chống giới nhà thờ ở Châu Âu. Ví dụ, John Locke, trong Letter Concerning Toleration (1689), lập luận rằng “Việc chăm sóc hồn người không được giao cho giới cai trị dân sự”, rõ ràng là tách biệt thẩm quyền tôn giáo và chính trị. Tương tự như vậy, Montesquieu, trong The Spirit of the Laws (1748), đã lưu ý rằng “nhà chăn chiên không được không đượcquyền trong chính phủ”, trong một nhà nước ổn định, công bằng và pháp trị. Thomas Hobbes, trong Leviathan (1651), coi quyền lực tôn giáo là nguồn gốc của những bất ổn và nội chiến, nổi tiếng với mô tả vua chiên là “bóng ma của đế quốc Rôma đã chết, ngồi trên nấm mồ của nó”. Những ý tưởng này phản ảnh một truyền thống lâu đời hơn, có nguồn gốc từ Rôma thời cổ, nơi những thẩm phán dân sự nắm giữ thẩm quyền thế tục, và quyền lực tôn giáo bị hạn chế với chủ đích. Thêm vào đó, Voltaire đã thấu hiểu sự nguy hiểm của những giáo điều tôn giáo kết hợp với quyền lực khi ông viết, “Những kẻ có thể khiến bạn tin vào những điều phi lý có thể khiến bạn phạm tội ác” – một lưu ý về hậu quả đạo đức và chính trị từ ảnh hưởng của giới chăn chiên nhà thờ, nếu không có kiểm soát, sẽ thúc đẩy xã hội vào những xảy ra của áp bức, cuồng tín và rối loạn chính trị.

[5] Một số truyền thống tôn giáo đã miêu tả Gót theo cách giống như một vị vua kiêu ngạo hoặc tự phụ - dễ bị xúc phạm nếu không được ca ngợi hoặc vâng lời liên tục. Hume cho rằng cách miêu tả này không xứng đáng với một đấng thần thánh thực sự, vì nó ám chỉ Gót bị thúc đẩy bởi cùng một loại bản ngã hoặc nhu cầu được nịnh hót mà chúng ta thường thấy ở những người cai trị loài người. Ví dụ, thuyết Calvin và một số nhánh của Phản thệ dạy rằng quan tâm hàng đầu của Gót là vinh quang của chính Ngài và con người phải liên tục phục tùng, ngợi khen và thể hiện sự vâng lời - không phải vì lợi ích bản thân, mà là để tôn vinh sự vĩ đại của Gót. Tương tự như vậy, trong đạo Kitô thời trung cổ, những nghi lễ và lời cầu nguyện tôn giáo - đặc biệt là những lời cầu nguyện hướng đến những vị thánh - dường như tập trung nhiều hơn vào việc làm hài lòng một nhân vật quyền năng xa với, hơn là vun đắp lòng trắc ẩn hay phẩm hạnh đạo đức.

Hume đặt câu hỏi liệu một đấng xứng đáng với cái tên "thần thánh" có quan tâm đến sự ngưỡng mộ và vâng phục đến vậy hay không.

[6] Câu “Biết Gót là biết tôn thờ Ngài” thường được cho là của Seneca, triết gia Stoics (khoảng năm 4 TCN – 65 SCN), mặc dù diễn đạt chính xác có thể khác nhau tùy những bản dịch. Nó thể hiện giảng dạy Stoics rằng lòng tôn kính thực sự với thần thánh đến từ sự hiểu biết và trí tuệ, không từ những nghi lễ sáo rỗng hay mê tín dị đoan. Ý tưởng này có thể bắt nguồn từ Thư của Seneca, cụ thể là Thư 6, Chương 54 (D 12.23n12, KS 224), trong đó ông bàn luận về phương cách thích đáng để biết và thờ phượng Gót. Quan trọng là, khái niệm về Gót của Seneca bắt nguồn từ triết học Stoics - một nguyên lý duy lý, tự nhiên - chứ không phải Gót của đạo Ki tô được sự vén lên cho thấy huyền bí, qua Kinh thánh.

[7] Philosophical Theists: những người tin có gót (với tinh thần) triết học (trong nội dung của Hume) là những nhà tư tưởng tin vào Gót nhưng trên lý trí và tư tưởng, phương pháp triết học, thay vì chỉ trên truyền thống hay mê tín. Họ tìm cách hiểu và mô tả bản chất của Gót một cách thấu đáo và hợp lý.

Philosophical Skeptics: Những người hoài nghi triết học (như chính David Hume), nhận ra những giới hạn của sự hiểu biết của con người, đặc biệt là về những câu hỏi về Gót hoặc vũ trụ. Thay vì đưa ra những khẳng định, họ dừng lại, không đi xa hơn những gì có thể phán xét, nhìn nhận rằng những đề tài, vấn đề đó có thể vượt quá khả năng lý trí con người. Nghiên cứu, giải quyết thận trọng này phân biệt họ với những người khẳng định chắc chắn tuyệt đối về những vấn đề tín ngưỡng, gót học.

[8] a well-disposed mind

9] Lời kết này nổi tiếng là hồ, không rõ ràng vì có thể hiểu ngầm nhiều cách. Mặc dù những lập luận hoài nghi của Philo chiếm ưu thắng trong phần lớn đối thoại—và được hiểu rộng rãi là phản ảnh lập trường phê phán của chính Hume—Pamphilus (người kể chuyện) kết luận bằng nói rằng những lập trường của Cleanthes lại gần với sự thực hơn”. Điều này đặt ra những câu hỏi: Có phải ở đây, ngòi bút của Hume đã rất dè dặt, thận trọng, do những giới hạn trong thời ông về những bàn luận tôn giáo? Có phải chúng ta nên nhìn nó như một “vỏ ngoài về tu từ tránh kiểm duyệt của tác giả? Hiểu rõ lập trường của mỗi nhân vật sẽ làm rõ hơn những câu hỏi liên quan:

(a)     Demea, người theo thuyết thần bí, đại diện cho những nhánh của thuyết tin có gót đạo Kitô truyền thống, nhấn mạnh đến sự uy nghiêm không thể biết được của Gót, sự cần thiết của đau khổ và những giới hạn của lý trí con người—những ý tưởng đặc biệt được tìm thấy trong gót học thời trung cổ và tư tưởng Augustinô.

(b)    Cleanthes, người tin có gót duy lý, phản ảnh một đạo Kitô thời Khai sáng, nơi lòng tin tưởng vào Gót dựa trên lý trí tự nhiên, khoa học và trật tự có thể quan sát được của thế giới. Điều này tương đồng với những lập luận về thiết kế thông minh thời nay và những biện giáo đạo Phản thệ tự do hơn.

(c)     Philo, người hoài nghi, đặt câu hỏi về cả hai cách nghiên cứu giải quyết. Ông hoài nghi rằng lý trí hay thế giới tự nhiên có thể cho chúng ta biết bất cứ điều gì chắc chắn về Gót, và phê phán tôn giáo (đặc biệt trong hình thức của những hội nhà thờ Kitô) thường bắt nguồn từ sợ hãi, đau khổ và những hình ảnh nhân hóa của Gót.

Thế nên, lời kết này vẫn có thể không giải quyết trực tiếp được vấn đề - thay vào đó, nó có thể cho thấy sự căng thẳng nổi bật vẫn dai dẳng giữa tin tưởng tôn giáo và lý trí trong chính tư tưởng đạo Kitô, và cho thấy rằng ngay cả gót học "hợp lý" nhất (Cleanthes) vẫn bị những hoài nghi sâu xa hơn của Philo (và Hume) làm suy yếu hay đánh đổ.

Sự quan trọng của quan điểm của Philo nằm ở vai trò là đại diện gần nhất cho triết học hoài nghi của chính Hume. Ông thách thức sự tự tin của gót học tự nhiên và thúc đẩy sự khiêm nhường về mặt trí tuệ trong những vấn đề tôn giáo. Lập trường hoài nghi này đã ảnh hưởng sâu xa đến triết học tôn giáo thời nay. Một điểm tương đồng đáng chú ý thời nay là Bertrand Russell, người trong những tác phẩm như Tại sao tôi không phải là một người Kitô, đã lặp lại thuyết hoài nghi lý trí của Philo bằng đặt câu hỏi về cả nền tảng logic của lòng tin tưởng tôn giáo và bản chất đạo đức của những giáo lý đạo Kitô truyền thống (như hình phạt vĩnh cửu). Nhìn theo hướng này, tiếng nói của Philo vẫn là trọng tâm trong những tranh luận diễn ra về tin tưởng tôn giáo, lý trí và giới hạn hiểu biết của con người, đặc biệt là trong nội dung tư tưởng tôn giáo châu Âu của những tôn giáo Áp-ra-ham như Kitô.