Sunday, May 25, 2025

Hume – Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức (01)

 Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức

(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)

 

David Hume

 

 

 


Một điều tra về những nguyên lý của đạo đức (1751, 1777)

 

Ghi Chú Của Người Biên Tập 

 

An Enquiry Concerning the Principles of Morals/ Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đứcthường được gọi là Enquiry thứ hai của Hume – được Andrew Millar, một nhà xuất bản sách nổi tiếng ở phố The Strand, London, xuất bản lần đầu tiên năm 1751. Là một tác phẩm đồng hành với Enquiry thứ nhất (Một Điều Tra Về Những Khả Năng Nhận Thức Của Con Người /An Enquiry concerning Human Understanding), nó là một sự tái cấu trúc của lý thuyết đạo đức trong Quyển 3 của A Treatise of Human Nature / Một Chuyên Luận Về Bản Chất Con Người (1739-1740), giữ lại hầu hết tinh thần của bản gốc trong khi có những khác biệt đáng kể về chi tiết. Một số lập luận có ảnh hưởng và gây tranh luận nhất của Hume chống lại (những gì chúng ta hiện nay gọi là) thuyết duy thực đạo đức (moral realism) và thuyết duy lý (rationalism) đã được loại bỏ: một sự thay đổi vốn hầu hết mọi người thường coi là việc rút gọn và đơn giản hóa văn bản, không phải là bằng chứng cho thấy bất kỳ sự thay đổi nào trong quan điểm của Hume – mặc dù giả định phổ biến đó gần đây đã bị đặt dấu hỏi. Tương tự như vậy, Tâm Lý Học Liên Tưởng (những trình tự tâm lý – như suy nghĩ, cảm xúc, và ký ức – được giải thích bằng sự liên kết những ý tưởng) của Treatise – chẳng hạn như giải thích về sự đồng cảm – mờ nhạt vào hậu cảnh, và thay vào đó Hume tập trung vào việc cố gắng tìm kiếm những nguyên lý có hệ thống để sắp xếp những phán đoán hàng ngày của chúng ta về những đức hạnh và tật xấu, như được thể hiện trong ngôn ngữ chung. Điều này dẫn đến một quan điểm có những yếu tố mạnh mẽ của cả thuyết duy lợi (utilitarianism) và đạo đức đức học về nhân cách (virtue ethics) , đặc trưng cho những đức hạnh như là “những phẩm tính tâm lý và đạo đức, có ích hay dễ chịu cho chính bản thân người đó, hay cho người khác” (M 9.1).

 

Bản in thứ hai của Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức / An Enquiry Concerning the Principles of Morals (1751, 1777) dưới hình thức Quyển III của bốn tập Essays and Treatises on Several Subjects /Tiểu Luận Và Luận Văn Về Những Chủ Đề Khác Nhau của Hume vào năm 1753. Bản in thứ ba của nó (mặc dù không được ghi nhận rõ ràng như vậy) nằm trong tập Essays and Treatises /Tiểu luận và Luận văn năm 1758, kết hợp những tác phẩm thành phần thành một tập duy nhất. Trong những Bản in bốn tập năm 1760 và 1770 của Essays and Treatises/ Tiểu luận và Luận văn, Enquiry thứ hai xuất hiện trong tập IV trước The Natural History of Religion. Trong những Bản in hai tập năm 1764, 1767, 1768, 1772, và 1777, nó xuất hiện trong tập II, sau An Enquiry concerning Human Understanding và A Dissertation on the Passions / Một Luận văn về Đam mê, và trước Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo / The Natural History of Religion (1757-1777)

 

Ở đây, thấy có một số thay đổi đáng kể được thực hiện với bản gốc, cho ấn tượng rằng nó đã được biên tập ít cẩn thận hơn so với bản Enquiry đầu tiên của Hume, nhưng chúng tôi không thể khẳng định điều này một cách chắc. (Bản văn này vẫn được tiếp tục biên tập, và sẽ có thêm chi tiết bổ sung một khi tiến trình này ở đây hoàn tấtChúng tôi đặc biệt hoan nghênh phản hồi từ những người đọc nếu nhận ra bất kỳ vấn đề nào với bản văn).

 

Peter Millican

 

Giới Thiệu Tổng quát Của Người Dịch

 

 1.

Một đạo đức học tự nhiên và lấy con người làm trung tâm

An Enquiry Concerning the Principles of Morals (1751) của David Hume được rộng rãi nhìn nhận như viên đá nền móng của triết học đạo đức trong Phong trào Khai sáng, và là biểu hiện ban đầu của thuyết nhân bản thế tục. Nó đem cho một khảo sát rõ ràng, sâu xa và thấu đáo về việc chúng ta đi đến hiểu về đúng và sai” như thế nào. Viết bởi một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất thời đại, Enquiry mời gọi người đọc đi đến xem xét lại đạo đức – không như một tập hợp gồm những quy luật cố định được uy quyền thần thánh truyền lạihay được lôgích thuần túy tìm ra – nhưng như một gì đó bắt nguồn sâu xa trong những kinh nghiệm và tình cảm tự nhiên của con người, kinh nghiệm xã hội và quan sát thực nghiệm. Những ý tưởng của Hume kết hợp sự trong sáng và chiều sâu triết học, khuyến khích suy ngẫm về những gì thực sự có ý nghĩa để sống một đời sống tốt đẹp và xây dựng một xã hội công bằng.

 

2.

Bối cảnh lịch sử và trí thức

Enquiry xuất hiện từ một giai đoạn chuyển đổi trong tư tưởng phương Tây. Phong trào Khai sáng đã là một thời kỳ được đánh dấu bằng những tìm ra khoa học nhanh chóng và một nhấn mạnh ngày càng tăng trên lý trí và nghiên cứu thực nghiệm. Những triết gia đã tìm cách hòa giải kiến thức mới với những truyền thống tôn giáo và đạo đức lâu đời. Những nhà tư tưởng duy lý như Samuel Clarke và Ralph Cudworth lập luận rằng đạo đức gồm trong những sự thật khách quan, vĩnh cửu vốn chỉ mình lý trí có thể tìm ra. Trong khi đó, gót học luân lý Kitô dạy rằng đức hạnh gắn liền sâu xa với luật thiêng liêng và định mệnh cuối cùng của hồn người: sự hợp nhất với Gót.

 

Tìm hiểu giải quyết của Hume hoàn toàn khác biệt với cả khuôn khổ duy lý lẫn gót học. Dựa trên Treatise of Human Nature (1739–40) trước đó, ông bác bỏ khái niệm rằng chỉ có lý trí mới có thể đem lại kiến thức về đạo đức. Thay vào đó, ông biện luận rằng những phán đoán đạo đức của chúng ta đều cơ bản  nền móng trong những cảm xúc. Bước ngoặt tâm lý và thực nghiệm này neo giữ Enquiry vào những gì sau này gọi là thuyết duy cảm đạo đức (moral sentimentalism) – một học thuyết đặt nguồn gốc của đạo đức rong tình cảm con người thay vì lý luận trừu tượng hay mệnh lệnh thần thánh.

 

3.

Chủ đề trung tâm của EnquiryĐạo Đức Học Duy Cảm: Sự ưu tiên của cảm xúc trên lý trí

Hume nổi tiếng với tuyên bố rằng ” đạo đức được cảm nhận thì đúng hơn là được thẩm định”. Khi chúng ta gọi một hành động là “tốt” hay “xấu”, chúng ta diễn tả cảm xúc chúng ta cảm nhận từ nó – cho dù nó gây nên sự ấm áp, chấp thuận hay khó chịu. Cốt lõi của phản ứng cảm xúc này nằm ở sự đồng cảm, một khả năng tự nhiên của con người trong việc chia sẻ và cộng hưởng với cảm xúc của người khác. Sự đồng cảm nuôi dưỡng những tình cảm đạo đức gắn kết mọi người với nhau trong một sự hiểu biết chung về đức hạnh, vượt qua những ranh giới văn hóa.

Theo quan điểm của Hume, chúng ta chấp nhận lòng tốt hay sự hào hiệp vì chúng mang lại cảm xúc tốt đẹp cho chúng ta và người khác; chúng ta không chấp nhận sự tàn nhẫn vì nó tự nhiên khơi dậy những phản ứng cảm xúc tiêu cực. Vì vậy, đạo đức (điều gì tốt lành hay xấu ác) dựa trên cách thức chúng ta cảm nhận, đặc biệt là qua những cảm xúc có chung của con người. Điều này trái ngược với đạo đức học duy lý (như của Kant), trong đó đạo đức dựa trên lý trí hay trách nhiệm, bổn phận, cho dù chúng ta cảm nhận thế nào.

 

4.

Những đức hạnh tự nhiên và nhân tạo: Phẩm tính bẩm sinh và quy ước xã hội

Hume phân biệt hai loại đức hạnh cơ bản: đức hạnh tự nhiên và đức hạnh nhân tạo. Đức hạnh tự nhiên – gồm lòng tử tế, lòng can đảm, sự hào hiệp, tính hài hước và sự dí dỏm – là những phẩm tính mà chúng ta ngưỡng mộ theo bản năng bởi vì chúng làm tăng thêm vui sướng trong đời sống và nuôi dưỡng sự phát triển của con người.

 

Hãy cùng xem xét kỹ hơn những đức hạnh tự nhiên này. Lòng tử tế nghĩa là thực sự quan tâm và trắc ẩn với người khác – kiểu một người giúp đỡ một người hàng xóm khi gặp khó khăn hoặc an ủi một người bạn đang gặp khó khăn. Chúng ta tự nhiên thích những người tử tế vì họ khiến chúng ta cảm thấy được coi trọng và được giúp đỡ. Lòng can đảm gồm việc đối mặt với khó khăn, nguy hiểm hoặc sợ hãi một cách quyết tâm – dù đó là một người lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy hay một người đứng lên chống lại kẻ bắt nạt. Chúng ta ngưỡng mộ những người can đảm vì họ truyền cảm hứng cho chúng ta và thường bảo vệ người khác khỏi bị tổn hại. Sự hào hiệp nghĩa là chia sẻ rộng rãi những gì chúng ta có, dù đó là thời gian, tiền bạc hay sự quan tâm. Những người hào hiệp làm cho đời sống xã hội trở nên thú vị hơn và giúp xây dựng cộng đồng vững mạnh hơn.

 

Sự hài hước và sự dí dỏm có vẻ ít mang tính đạo đức rõ ràng hơn, nhưng Hume nhận ra giá trị xã hội riêng biệt của chúng. Sự hài hước là khả năng tìm ra điều thú vị, cười trước những cảnh đời và giúp người khác nhìn thấy khía cạnh tích cực của mọi việc. Một người có khiếu hài hước có thể kể những câu chuyện cười, pha trò, hoặc đơn giản là có một tiếng cười lan tỏa khiến mọi người cảm thấy thoải mái và vui vẻ hơn. Tiếng cười ấm áp, bao dung này kết nối mọi người lại với nhau và tạo ra bầu không khí xã hội thoải mái. Mặt khác, sự dí dỏm bao hàm sự hài hước sắc sảo, thông minh hơn, thể hiện trí thông minh nhanh nhạy. Một người dí dỏm có thể chơi chữ đúng lúc, đưa ra những bình luận châm biếm xuất sắc, hoặc đưa ra những phản hồi thông minh bất ngờ. Mặc dù sự dí dỏm đôi khi có thể mang tính hạn chế hơn - vượt quá tầm hiểu biết của một số người hoặc có góc nhìn sắc bén - nhưng nó giúp mọi người giải trí và khiến những cuộc trò chuyện trở nên thú vị và đáng nhớ hơn. Cả sự hài hước và sự dí dỏm đều góp phần vào điều mà Hume coi là thiết yếu: làm cho tương tác giữa con người trở nên dễ chịu và hữu ích hơn. Sự hài hước tạo ra bầu không khí thân thiện, nơi mọi người cảm thấy thoải mái, trong khi sự dí dỏm mang lại sự lấp lánh trí tuệ cho những trao đổi xã hội.

 

Những đặc điểm này xuất hiện một cách tự nhiên từ bản chất con người và nhận được sự chấp thuận rộng rãi trên khắp những nền văn hóa chính xác là nhờ tác động dễ chịu và hữu ích của chúng với người khác. Chúng ta không cần được dạy để trân trọng những phẩm tính này – chúng ta tự nhiên hướng đến những người sở hữu chúng.

Ngược lại, những đức hạnh nhân tạo – chẳng hạn như công lý, giữ lời hứa và trung thành – không xuất phát từ bản năng tự nhiên mà nảy sinh qua những thỏa thuận xã hội có chủ đích. Những đức hạnh này phát triển như những giải pháp cho những vấn đề phối hợp trong những xã hội phức tạp, đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì hòa bình, ổn định và lòng tin lẫn nhau giữa những người phải hợp tác bất chấp những lợi ích tiềm ẩn xung đột.

 

Điều quan trọng là, Hume không đặt bất kỳ loại đức hạnh nào vào những mệnh lệnh thần thánh thiêng liêng, sự thực đạo đức vĩnh cửu hay những nguyên tắc lý trí trừu tượng. Thay vào đó, ông đặt giá trị của chúng hoàn toàn dựa trên những hậu quả có thể quan sát được với phúc lợi của con người – cụ thể là dựa trên mức độ hữu ích hoặc dễ chịu mà chúng mang lại, cho dù với cá nhân sở hữu chúng hay với những người khác bị ảnh hưởng bởi chúng. Như ông đã nói một cách đáng nhớ, “Giá trị cá nhân hoàn toàn nằm ở việc sở hữu những phẩm tính tinh thần, hữu ích hoặc dễ chịu với bản thân người đó hoặc với người khác.”

 

Nguyên lý này đại diện cho một sự thay đổi cách mạng, thoát khỏi những cách tiếp cận siêu hình và gót học về đạo đức. Thay vào đó, Hume chủ trương một khuôn khổ thực nghiệm, tự nhiên, trong đó đạo đức lấy thẩm quyền không phải từ những nguồn siêu việt, nhưng từ tình cảm con người và những lợi ích xã hội rõ ràng vốn những đặc điểm tính cách và hành vi cụ thể mang lại cho cá nhân và cộng đồng.

 

5.

Lý trí là, và chỉ nên là nô lệ của những đam mê, và không bao giờ có thể đảm nhận bất kỳ chức năng nào khác ngoài việc phục vụ và tuân theo chúng.

Hume nổi tiếng nói về lý trí như “phục vụ những gì chúng ta cảm nhận và ham muốn, nhưng không ngược lại.”. Chỉ một mình lý trí không thể thúc đẩy chúng ta chấp nhận đạo đức hay hành động; thay vào đó, nó giúp chúng ta hiểu được sự kiện và dự đoán những hậu quảđịnh hình phản ứng cảm xúc của chúng ta. Khi chúng ta ngưỡng mộ lòng độ lượng hay lên án sự tàn ác, đó là vì những hành động này khơi gợi cảm xúc, chứ không phải vì chúng xuất phát từ suy luận lôgích.

 

Quan điểm này thách thức quan điểm duy lý truyền thống, mở rộng quan tâm đạo đức để gồm vào những đặc điểm như hài hước, nhạy cảm hay kiêu hãnh – những phẩm tính có thể không phải là sản phẩm của sự lựa chọn có chủ ý nhưng vẫn góp phần vào sự phát triển con người.

 

6.

Hữu ích như thước đo của đức hạnh

Với Hume, hữu ích (utility) – được hiểu như khả năng của một đặc điểm hay hành động thúc đẩy hạnh phúc, sự ổn định và phúc lợi xã hội – là tiêu chuẩn chính chúng ta dùng để phán đoán một gì đó là đức hạnh. Thay vì viện dẫn đến những mệnh lệnh thiêng liêng hay những nguyên lý lý trí trừu tượng, Hume lập luận rằng chúng ta ngưỡng mộ đức hạnh vì chúng có ích hay dễ chịu, cho bản thân hay cho người khác. Lòng từ thiện được ca ngợi vì nó mang lại hữu ích cho nhiều người; công lý được coi trọng vì nó bảo đảm hòa bình, hợp tác và sự ổn định của xã hội.

 

Việc tập trung vào kết quả thực tế này đặt Hume gần với những nhà tư tưởng duy lợi sau này như Jeremy Bentham và John Stuart Mill. Tuy nhiên, triết lý đạo đức của ông vẫn rất riêng biệt: Hume không định nghĩa đức hạnh bằng tính toán hạnh phúc tổng thể, nhưng bằng xem xét những phản ứng cảm xúc vốn một số khuynh hướng đạo đức và tâm lý nhất định gợi lên trong chúng ta. Chúng ta chấp nhận những gì có ích, không phải vì chúng ta lý luận qua những hệ quả toán học, vốn vì hữu ích tự nhiên khơi dậy cảm giác chấp nhận qua cơ chế của sự đồng cảm. Theo cách này, lý thuyết đạo đức của Hume kết hợp quan sát thực nghiệm với tâm lý học đạo đức, đặt đức hạnh trong cảm xúc của con người thay vì chỉ dựa vào hữu ích trừu tượng.

 

7.

So sánh với đạo đức học Kitô 

Đạo đức Kitô truyền thống hiểu đức hạnh trong liên quan đến ý muốn của Gót và luật tự nhiên có thể tìm hiểu giải quyết được qua lý trí. Luân lý tôn giáo dẫn dắt hồn người đến sự kết hợp với Gót, và lý trí giúp nhận thức những sự thật đạo đức vĩnh cửu. Theo quan điểm này, một số đặc điểm nhất định – chẳng hạn như kiêu hãnh – là tội lỗi, trái ngược với sự khiêm nhường cần có trước Gót.

 

Đạo đức học của Hume bác bỏ nền tảng siêu hình và gót học này. Ông đưa những đặc điểm như lòng kiêu hãnh vào danh sách những đức hạnh khi chúng đáp ứng những tiêu chuẩn của ông về sự Hữu ích và sự dễ chịu, cho dù giáo điều tôn giáo. Triết lý đạo đức của ông mang tính thế tục, bắt nguồn từ bản chất con người và kết quả xã hội hơn là quy định của Gót. Sự tách biệt này với đạo đức Catô và đạo Kitô là rất sâu xa, đặt định Enquiry như một bản văn nền tảng trong sự phát triển của tư tưởng đạo đức thế tục và tự nhiên thời nay.

 

8

Bản chất thực tiễn và cách mạng của đạo đức học Hume

Không giống như đạo đức học Ki,, đóng khung đạo đức của con người như một con đường hướng tới một kết thúc tinh thần siêu việt, cuối cùng, sự kết hợp với GótHume căn cứ đạo đức trong những thực tại thực tiễn của đời sống hàng ngày. Khung đạo đức của ông tập trung vào những phương diện cảm xúc, xã hội và tâm lý của kinh nghiệm con người, tập trung vào những đặc điểm và hành động giúp tăng cường hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc cộng đồng. Theo nghĩa này, cách nghiên cúu giải quyết của Hume, vừa thực dụng vừa mang tính cách mạng: bác bỏ hàng thế kỷ truyền thống tôn giáo và duy lý để đặt đạo đức một cách vững chắc trong phạm vi cảm xúc, đời sống xã hội và tâm lý tự nhiên của con người.

 

Hơn hai thế kỷ rưỡi sau khi xuất bản, Enquiry của Hume vẫn còn nguyên giá trị sâu xa. Những khám phá quan trọng của nó làm sáng tỏ tác động hỗ tương phức tạp giữa cảm xúc, lý trí và những chuẩn mực xã hội trong đời sống đạo đức. Trong một thế giới ngày càng đa nguyên và thế tục, đạo đức học tự nhiên, lấy con người làm trung tâm của Hume mang đến một giải pháp thay thế thiết thực cho những hệ thống tôn giáo hay thuần túy duy lý. Nhấn mạnh của ông về sự đồng cảm giứa con người và sự hữu ích trong hành động đã ảnh hưởng đến những nhà tư tưởng sau này như Adam Smith và Jeremy Bentham, và tiếp tục có tiếng vang trong tâm lý học đạo đức ngày nay và đạo đức học tiến hóa. Bằng cách hiểu đạo đức như bắt nguồn trong tình cảm có chung của con người và những hữu ích thiết thực, Hume đem cho những dụng cụ bền vững để vượt qua những thách thức đạo đức của đời sống thời nay. Bằng coi đạo đức là biểu hiện tự nhiên của tình cảm con người và hữu ích xã hội, Hume mời gọi chúng ta xem xét lại ý nghĩa của việc sống tốt lành, và hành động đúng đắn – không như người phục vụ thần thánh hay chỉ lý trí, nhưng còn là những thành viên đồng cảm của một cộng đồng loài người.

 

Lê Dọn Bàn

Viết lại Aug/2025

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com