(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Một điều tra về những nguyên lý của đạo đức (1751, 1777)
Ghi Chú Của Người Biên Tập
An Enquiry Concerning the Principles of
Morals/ Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo
Đức – thường được gọi là Enquiry thứ hai
của Hume – được Andrew Millar, một nhà xuất bản sách nổi tiếng ở phố The
Strand, London, xuất bản lần đầu tiên năm 1751. Là một tác phẩm đồng
hành với Enquiry thứ nhất (Một Điều Tra Về Những Khả Năng Nhận
Thức Của Con Người /An Enquiry concerning Human Understanding), nó là một sự tái cấu trúc
của lý thuyết đạo đức trong Quyển 3 của A Treatise of
Human Nature / Một Chuyên
Luận Về Bản Chất Con Người (1739-1740), giữ lại hầu hết tinh thần của bản gốc trong khi có những khác biệt đáng
kể về chi tiết. Một số lập luận có ảnh hưởng và gây tranh luận nhất của Hume
chống lại (những gì chúng ta hiện nay gọi là) thuyết duy thực đạo đức (moral realism) và thuyết duy lý (rationalism) đã được loại
bỏ: một sự thay đổi vốn hầu hết mọi người thường coi là việc rút gọn và đơn
giản hóa văn bản, không phải là bằng chứng cho thấy bất kỳ sự thay đổi nào
trong quan điểm của Hume – mặc dù giả định phổ biến đó gần đây đã bị đặt dấu
hỏi. Tương tự như vậy, Tâm Lý Học Liên Tưởng (những
trình tự tâm lý – như suy nghĩ, cảm xúc, và ký ức – được giải thích bằng sự
liên kết những ý tưởng) của Treatise – chẳng hạn như giải thích về sự đồng
cảm – mờ nhạt vào hậu cảnh, và thay vào đó Hume tập trung vào việc cố gắng tìm
kiếm những nguyên lý có hệ thống để sắp xếp những phán đoán hàng ngày của chúng
ta về những đức hạnh và tật xấu, như được thể hiện trong ngôn ngữ chung. Điều
này dẫn đến một quan điểm có những yếu tố mạnh mẽ của cả thuyết duy lợi (utilitarianism) và đạo đức đức học về nhân cách (virtue ethics) , đặc trưng cho những đức hạnh như là “những phẩm tính tâm lý và đạo
đức, có ích hay dễ chịu cho chính bản thân người đó, hay cho người khác” (M
9.1).
Bản in thứ hai của Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo
Đức / An Enquiry Concerning the Principles of Morals (1751, 1777) dưới hình thức Quyển III
của bốn tập Essays and Treatises on Several Subjects /Tiểu Luận Và
Luận Văn Về Những Chủ Đề Khác Nhau của Hume vào năm 1753. Bản in thứ ba của nó (mặc dù không được ghi nhận
rõ ràng như vậy) nằm trong tập Essays and Treatises /Tiểu luận và Luận văn năm 1758, kết hợp những
tác phẩm thành phần thành một tập duy nhất. Trong những Bản in bốn tập năm 1760
và 1770 của Essays and Treatises/ Tiểu luận và Luận văn, Enquiry thứ hai xuất hiện trong
tập IV trước The Natural History of Religion. Trong những Bản in hai
tập năm 1764, 1767, 1768, 1772, và 1777, nó xuất hiện trong tập II, sau An
Enquiry concerning Human Understanding và A Dissertation on the Passions / Một Luận văn về Đam mê, và trước Lịch Sử Tự Nhiên Của
Tôn Giáo / The Natural History of Religion (1757-1777)
Ở
đây, thấy có một số thay đổi đáng kể được thực hiện với bản gốc, cho ấn tượng rằng nó đã được biên tập ít cẩn thận hơn so với bản Enquiry đầu tiên của Hume, nhưng chúng tôi không thể khẳng định điều này một cách chắc. (Bản văn
này vẫn được tiếp tục biên tập, và sẽ có thêm chi tiết bổ sung một khi tiến trình
này ở đây hoàn tất. Chúng
tôi đặc biệt hoan nghênh phản hồi từ những người đọc nếu nhận ra bất kỳ vấn đề nào với bản văn).
Giới Thiệu Tổng quát Của
Người Dịch
1.
Một đạo đức học tự nhiên và lấy con người
làm trung tâm
An Enquiry Concerning the Principles of
Morals (1751) của David Hume được
rộng rãi nhìn nhận như viên
đá nền móng của triết học
đạo đức trong Phong trào Khai sáng, và là
biểu hiện ban đầu của thuyết nhân bản thế tục. Nó đem cho một khảo sát rõ ràng, sâu xa và thấu đáo về việc chúng
ta đi đến hiểu về ”đúng” và ”sai” như thế nào. Viết bởi một
trong những triết gia có ảnh hưởng nhất thời đại, Enquiry mời
gọi người đọc đi đến xem xét lại đạo đức – không như một tập hợp
gồm những quy luật cố định được uy quyền thần thánh truyền lại, hay được lôgích thuần
túy tìm ra – nhưng như một gì đó bắt nguồn sâu xa trong những kinh
nghiệm và tình cảm tự nhiên của con người, kinh nghiệm xã hội và quan sát thực
nghiệm. Những ý tưởng của Hume kết hợp sự trong sáng và chiều
sâu triết học, khuyến khích suy ngẫm
về những gì thực sự có ý nghĩa để sống một đời sống tốt đẹp và xây
dựng một xã hội công bằng.
2.
Bối cảnh lịch sử và trí thức
Enquiry xuất hiện từ một giai đoạn chuyển đổi trong tư tưởng
phương Tây. Phong trào Khai sáng đã là một thời kỳ được đánh
dấu bằng những tìm ra khoa học nhanh chóng và một nhấn mạnh ngày càng tăng
trên lý trí và nghiên cứu thực nghiệm. Những triết gia đã tìm cách hòa giải kiến
thức mới với những truyền thống tôn giáo và đạo đức lâu đời. Những nhà tư tưởng
duy lý như Samuel Clarke và Ralph Cudworth lập luận rằng đạo đức gồm
trong những sự thật khách quan, vĩnh cửu vốn chỉ mình lý trí có
thể tìm ra. Trong khi đó, gót học luân lý Kitô dạy rằng đức hạnh gắn liền
sâu xa với luật thiêng liêng và định mệnh cuối cùng của hồn người: sự hợp nhất với
Gót.
Tìm hiểu giải quyết của Hume hoàn toàn khác biệt với cả
khuôn khổ duy lý lẫn gót học. Dựa trên Treatise of Human Nature (1739–40) trước
đó, ông bác bỏ khái niệm rằng chỉ có lý trí mới có thể đem lại kiến thức về đạo
đức. Thay vào đó, ông biện luận rằng những phán đoán đạo đức của chúng
ta đều cơ bản có nền móng trong những cảm xúc. Bước ngoặt tâm lý
và thực nghiệm này neo giữ Enquiry vào những gì sau này gọi
là thuyết duy cảm đạo đức (moral sentimentalism) – một học thuyết đặt nguồn gốc của đạo đức
rong tình cảm con người thay vì lý luận trừu tượng hay mệnh lệnh thần thánh.
3.
Chủ đề trung tâm của Enquiry: Đạo Đức Học Duy Cảm:
Sự ưu tiên của cảm xúc trên lý trí
Hume nổi tiếng với tuyên bố rằng ” đạo đức được cảm nhận
thì đúng hơn là được thẩm định”. Khi chúng ta gọi một
hành động là “tốt” hay “xấu”, chúng ta diễn tả cảm xúc chúng ta
cảm nhận từ nó – cho dù nó gây nên sự ấm
áp, chấp thuận hay khó chịu. Cốt lõi của phản ứng cảm xúc này nằm ở sự đồng cảm,
một khả năng tự nhiên của con người trong việc chia sẻ và cộng hưởng với cảm xúc của
người khác. Sự đồng cảm nuôi dưỡng những tình cảm đạo đức gắn kết mọi người với
nhau trong một sự hiểu biết chung về đức hạnh, vượt qua những ranh giới
văn hóa.
Theo quan điểm của Hume, chúng ta chấp
nhận lòng tốt hay sự hào hiệp vì chúng mang lại cảm xúc tốt đẹp cho chúng ta và
người khác; chúng ta không chấp nhận sự tàn nhẫn vì nó tự nhiên khơi dậy những
phản ứng cảm xúc tiêu cực. Vì vậy, đạo đức (điều gì tốt lành hay xấu ác) dựa
trên cách thức chúng ta cảm nhận, đặc biệt là qua những cảm xúc có chung của
con người. Điều này trái ngược với đạo đức học duy lý (như của Kant), trong đó
đạo đức dựa trên lý trí hay trách nhiệm, bổn phận, cho dù chúng ta cảm nhận thế
nào.
4.
Những đức hạnh tự
nhiên và nhân tạo: Phẩm tính bẩm sinh và quy ước xã hội
Hume
phân biệt hai loại đức hạnh cơ bản: đức hạnh tự nhiên và đức hạnh nhân tạo. Đức
hạnh tự nhiên – gồm lòng tử tế, lòng can đảm, sự hào hiệp, tính hài hước và sự
dí dỏm – là những phẩm tính mà chúng ta ngưỡng mộ theo bản năng bởi vì chúng
làm tăng thêm vui sướng trong đời sống và nuôi dưỡng sự phát triển của con
người.
Hãy
cùng xem xét kỹ hơn những đức hạnh tự nhiên này. Lòng tử tế nghĩa là thực sự
quan tâm và trắc ẩn với người khác – kiểu một người giúp đỡ một người hàng xóm khi gặp khó khăn hoặc an
ủi một người bạn đang gặp khó khăn. Chúng ta tự nhiên thích những người tử tế
vì họ khiến chúng ta cảm thấy được coi trọng và được giúp đỡ. Lòng can đảm gồm việc đối mặt
với khó khăn, nguy hiểm hoặc sợ hãi một cách quyết tâm – dù đó là một người lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà
đang cháy hay một người đứng lên chống lại kẻ bắt nạt. Chúng ta ngưỡng mộ những
người can đảm vì họ truyền cảm hứng cho chúng ta và thường bảo vệ người khác
khỏi bị tổn hại. Sự hào hiệp nghĩa là chia sẻ rộng rãi những gì chúng ta có, dù
đó là thời gian, tiền bạc hay sự quan tâm. Những người hào hiệp làm cho đời
sống xã hội trở nên thú vị hơn và giúp xây dựng cộng đồng vững mạnh hơn.
Sự
hài hước và sự dí dỏm có vẻ ít mang tính đạo đức rõ ràng hơn, nhưng Hume nhận
ra giá trị xã hội riêng biệt của chúng. Sự hài hước là khả năng tìm ra điều thú
vị, cười trước những cảnh đời và giúp người khác nhìn thấy khía cạnh tích cực
của mọi việc. Một người có khiếu hài hước có thể kể những câu chuyện cười, pha
trò, hoặc đơn giản là có một tiếng cười lan tỏa khiến mọi người cảm thấy thoải
mái và vui vẻ hơn. Tiếng cười ấm áp, bao dung này kết nối mọi người lại với
nhau và tạo ra bầu không khí xã hội thoải mái. Mặt khác, sự dí dỏm bao hàm sự
hài hước sắc sảo, thông minh hơn, thể hiện trí thông minh nhanh nhạy. Một người
dí dỏm có thể chơi chữ đúng lúc, đưa ra những bình luận châm biếm xuất sắc,
hoặc đưa ra những phản hồi thông minh bất ngờ. Mặc dù sự dí dỏm đôi khi có thể
mang tính hạn chế hơn - vượt quá tầm hiểu biết của một số người hoặc có góc
nhìn sắc bén - nhưng nó giúp mọi người giải trí và khiến những cuộc trò chuyện
trở nên thú vị và đáng nhớ hơn. Cả sự hài hước và sự dí dỏm đều góp phần vào điều mà Hume coi là thiết
yếu: làm cho tương tác giữa con người trở nên dễ chịu và hữu ích hơn. Sự hài
hước tạo ra bầu không khí thân thiện, nơi mọi người cảm thấy thoải mái, trong
khi sự dí dỏm mang lại sự lấp lánh trí tuệ cho những trao đổi xã hội.
Những
đặc điểm này xuất hiện một cách tự nhiên từ bản chất con người và nhận được sự
chấp thuận rộng rãi trên khắp những nền văn hóa chính xác là nhờ tác động dễ
chịu và hữu ích của chúng với người khác. Chúng ta không cần được dạy để trân
trọng những phẩm tính này – chúng ta tự nhiên hướng đến những người sở hữu
chúng.
Ngược
lại, những đức hạnh nhân tạo – chẳng hạn như công lý, giữ lời hứa và trung
thành – không xuất phát từ bản năng tự nhiên mà nảy sinh qua những thỏa thuận
xã hội có chủ đích. Những đức hạnh này phát triển như những giải pháp cho những
vấn đề phối hợp trong những xã hội phức tạp, đóng vai trò thiết yếu trong việc
duy trì hòa bình, ổn định và lòng tin lẫn nhau giữa những người phải hợp tác
bất chấp những lợi ích tiềm ẩn xung đột.
Điều
quan trọng là, Hume không đặt bất kỳ loại đức hạnh nào vào những mệnh lệnh thần thánh thiêng liêng, sự thực đạo đức
vĩnh cửu hay những nguyên tắc lý trí trừu tượng. Thay vào đó, ông đặt giá trị
của chúng hoàn toàn dựa trên những hậu quả có thể quan sát được với phúc lợi
của con người – cụ thể là dựa trên mức độ hữu ích hoặc dễ chịu mà chúng mang
lại, cho dù với cá nhân sở hữu chúng hay với những người khác bị ảnh hưởng bởi
chúng. Như ông đã nói một cách đáng nhớ, “Giá trị cá nhân hoàn toàn nằm ở việc
sở hữu những phẩm tính tinh thần, hữu ích hoặc dễ chịu với bản thân người đó
hoặc với người khác.”
Nguyên lý này đại diện cho một sự thay đổi cách mạng,
thoát khỏi những cách tiếp cận siêu hình và gót học về đạo đức. Thay vào đó,
Hume chủ trương một khuôn khổ thực nghiệm, tự nhiên, trong đó đạo đức lấy thẩm
quyền không phải từ những nguồn siêu việt, nhưng từ tình cảm con người và những
lợi ích xã hội rõ ràng vốn những đặc điểm tính cách và hành vi cụ thể mang lại
cho cá nhân và cộng đồng.
5.
Lý trí là, và chỉ nên là nô lệ của những đam mê,
và không bao giờ có thể đảm nhận bất kỳ chức năng nào khác
ngoài việc phục vụ và tuân theo chúng.
Hume nổi tiếng nói về
lý trí như “phục vụ những gì chúng ta cảm nhận và ham muốn, nhưng không ngược lại.”. Chỉ một mình lý trí không thể thúc đẩy chúng ta chấp nhận đạo
đức hay hành động; thay vào đó, nó giúp chúng ta hiểu được sự kiện và dự
đoán những hậu quả, định hình phản ứng cảm xúc của chúng ta. Khi
chúng ta ngưỡng mộ lòng độ lượng hay lên án sự tàn ác, đó là vì những hành động
này khơi gợi cảm xúc, chứ không phải vì chúng xuất phát từ suy luận lôgích.
Quan điểm này thách thức quan điểm duy lý truyền thống, mở
rộng quan tâm đạo đức để gồm vào những đặc điểm như hài hước, nhạy cảm hay
kiêu hãnh – những phẩm tính có thể không phải là sản phẩm của
sự lựa chọn có chủ ý nhưng vẫn góp phần vào sự phát triển con người.
6.
Hữu ích như thước đo của đức hạnh
Với Hume, hữu ích (utility) – được hiểu như khả năng của một đặc điểm hay
hành động thúc đẩy hạnh phúc, sự ổn định và phúc lợi xã hội – là tiêu chuẩn
chính chúng ta dùng để phán đoán một gì đó là đức hạnh. Thay vì viện dẫn đến những
mệnh lệnh thiêng liêng hay những nguyên lý lý trí trừu tượng, Hume lập luận rằng
chúng ta ngưỡng mộ đức hạnh vì chúng có ích hay dễ chịu, cho bản thân hay cho
người khác. Lòng từ thiện được ca ngợi vì nó mang lại hữu ích cho nhiều
người; công lý được coi trọng vì nó bảo đảm hòa bình, hợp tác và sự ổn định của
xã hội.
Việc tập trung vào kết quả thực tế này đặt Hume gần với những
nhà tư tưởng duy lợi sau này như Jeremy Bentham và John Stuart Mill. Tuy
nhiên, triết lý đạo đức của ông vẫn rất riêng biệt: Hume không định nghĩa đức hạnh
bằng tính toán hạnh phúc tổng thể, nhưng bằng xem xét những phản ứng cảm
xúc vốn một số khuynh hướng đạo đức và tâm lý nhất định gợi lên trong chúng ta.
Chúng ta chấp nhận những gì có ích, không phải vì chúng ta lý luận qua những hệ
quả toán học, vốn vì hữu ích tự nhiên khơi dậy cảm giác chấp nhận qua cơ chế của sự đồng cảm. Theo cách
này, lý thuyết đạo đức của Hume kết hợp quan sát thực nghiệm với tâm lý học đạo
đức, đặt đức hạnh trong cảm xúc của con người thay vì chỉ dựa vào hữu ích
trừu tượng.
7.
So sánh với đạo đức học Kitô
Đạo đức Kitô truyền thống hiểu đức hạnh
trong liên quan đến ý muốn của Gót và luật tự nhiên có thể tìm hiểu giải
quyết được qua lý trí. Luân lý tôn giáo dẫn dắt hồn người đến sự kết hợp với Gót,
và lý trí giúp nhận thức những sự thật đạo đức vĩnh cửu. Theo quan điểm
này, một số đặc điểm nhất định – chẳng hạn như kiêu hãnh – là tội lỗi, trái ngược
với sự khiêm nhường cần có trước Gót.
Đạo đức học của Hume bác bỏ nền tảng siêu hình và gót học
này. Ông đưa những đặc điểm như lòng kiêu hãnh vào danh sách những đức hạnh khi
chúng đáp ứng những tiêu chuẩn của ông về sự Hữu ích và sự dễ chịu, cho
dù giáo điều tôn giáo. Triết lý đạo đức của ông mang tính thế tục, bắt nguồn từ
bản chất con người và kết quả xã hội hơn là quy định của Gót. Sự tách biệt này
với đạo đức Catô và đạo Kitô là rất sâu xa, đặt định Enquiry như một bản văn nền tảng trong sự phát triển của
tư tưởng đạo đức thế tục và tự nhiên thời nay.
8
Bản chất thực tiễn và cách mạng của đạo đức học
Hume
Không giống như đạo đức học Kitô,, đóng khung đạo đức của con
người như một con đường hướng tới một kết thúc tinh thần siêu việt, cuối cùng,
sự kết hợp với Gót. Hume căn cứ đạo đức trong những thực tại thực tiễn của
đời sống hàng ngày. Khung đạo đức của ông tập trung vào những phương diện cảm xúc, xã hội và
tâm lý của kinh nghiệm con người, tập trung vào những đặc điểm và hành động
giúp tăng cường hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc cộng đồng. Theo nghĩa này, cách
nghiên cúu giải quyết của Hume, vừa thực dụng vừa mang tính cách mạng:
bác bỏ hàng thế kỷ truyền thống tôn giáo và duy lý để đặt đạo đức một cách vững
chắc trong phạm vi cảm xúc, đời sống xã hội và tâm lý tự nhiên của con người.
Hơn hai thế kỷ rưỡi sau khi xuất bản, Enquiry của Hume vẫn
còn nguyên giá trị sâu xa. Những khám phá quan trọng của nó làm sáng tỏ tác động
hỗ tương phức tạp giữa cảm xúc, lý trí và những chuẩn mực xã hội trong đời sống
đạo đức. Trong một thế giới ngày càng đa nguyên và thế tục, đạo đức học tự
nhiên, lấy con người làm trung tâm của Hume mang đến một giải pháp thay thế thiết
thực cho những hệ thống tôn giáo hay thuần túy duy lý. Nhấn mạnh của ông về sự đồng cảm giứa con người và sự hữu
ích trong hành động đã ảnh hưởng đến những nhà tư tưởng sau này như Adam Smith
và Jeremy Bentham, và tiếp tục có tiếng vang trong tâm lý học đạo đức ngày nay
và đạo đức học tiến hóa. Bằng cách hiểu đạo đức như bắt nguồn trong tình cảm có
chung của con người và những hữu ích thiết thực, Hume đem cho những dụng cụ bền
vững để vượt qua những thách thức đạo đức của đời sống thời nay. Bằng coi đạo đức
là biểu hiện tự nhiên của tình cảm con người và hữu ích xã hội, Hume mời gọi
chúng ta xem xét lại ý nghĩa của việc sống tốt lành, và hành động đúng đắn –
không như người phục vụ thần thánh hay chỉ lý trí, nhưng còn là những thành
viên đồng cảm của một cộng đồng loài người.
Lê Dọn Bàn
Viết lại Aug/2025
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com