(An Enquiry Concerning the Principles of Morals)
David Hume
Một điều tra về những nguyên lý của đạo đức (1751, 1777)
Tổng Quát
1.
Một đạo đức học tự nhiên
và lấy con người làm trung tâm
An Enquiry Concerning the
Principles of Morals (1751) của David Hume được
rộng rãi nhìn nhận như viên
đá nền móng của triết học đạo đức trong Phong trào Khai sáng, và
là biểu hiện ban đầu của thuyết nhân bản thế tục. Nó
đem cho một khảo sát rõ ràng, sâu xa và thấu đáo về việc chúng ta đi đến hiểu về ”đúng” và ”sai” như thế nào. Viết
bởi một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất thời đại, Điều Tra mời
gọi người đọc đi đến xem xét lại đạo đức – không như một tập hợp gồm những
quy luật cố định được uy quyền thần thánh truyền lại, hay được
logic thuần túy khám phá – nhưng như một gì đó bắt nguồn sâu xa
trong những kinh nghiệm và tình cảm tự nhiên của con người, kinh nghiệm xã
hội và quan sát thực nghiệm. Những ý tưởng của Hume kết hợp sự trong sáng và chiều sâu triết học, khuyến khích suy ngẫm về những gì thực sự có ý nghĩa để sống một đời sống tốt đẹp và xây dựng một xã hội
công bằng.
Bối cảnh lịch sử và trí thức
Điều Tra xuất hiện từ một giai đoạn chuyển đổi trong tư tưởng phương
Tây. Phong trào Khai sáng đã là một thời kỳ được đánh dấu bằng những
khám phá khoa học nhanh chóng và một nhấn mạnh ngày càng tăng trên lý
trí và nghiên cứu thực nghiệm. Những triết gia đã tìm cách hòa giải kiến thức mới với những truyền thống tôn giáo và đạo đức lâu đời.
Những nhà tư tưởng duy lý như Samuel Clarke và Ralph Cudworth lập luận rằng đạo
đức gồm trong những sự thật khách quan, vĩnh cửu vốn chỉ mình lý
trí có thể khám phá. Trong khi đó, gót học luân lý Kitô dạy rằng đức hạnh
gắn liền sâu xa với luật thiêng liêng và định mệnh cuối cùng của hồn người: sự hợp
nhất với Gót.
Nghiên cứu giải quyết của Hume hoàn toàn
khác biệt với cả khuôn khổ duy lý lẫn gót học. Dựa trên Treatise of
Human Nature (1739–40) trước đó, ông bác bỏ khái niệm rằng chỉ có
lý trí mới có thể đem lại kiến thức về đạo đức. Thay vào đó, ông biện luận rằng
những phán đoán đạo đức của chúng ta đều cơ bản có nền
móng trong những cảm xúc. Bước ngoặt
tâm lý và thực nghiệm này neo giữ Điều Tra vào những gì
sau này gọi là thuyết duy cảm đạo đức (moral
sentimentalism) – một học thuyết đặt nguồn gốc của đạo đức rong tình cảm
con người thay vì lý luận trừu tượng hay mệnh lệnh thần thánh.
Chủ đề trung tâm của Điều Tra: Đạo Đức Học Duy Cảm: Sự ưu tiên của cảm xúc trên lý trí
Hume nổi tiếng với tuyên bố rằng ” đạo đức được
cảm nhận thì đúng hơn là được thẩm định”. Khi chúng ta gọi một hành động là “tốt”
hay “xấu”, chúng ta diễn tả cảm xúc chúng ta cảm nhận từ nó –
cho dù nó gây
nên sự ấm áp, chấp thuận hay khó chịu. Cốt
lõi của phản ứng cảm xúc này nằm ở sự đồng cảm, một khả năng tự nhiên của con
người trong việc chia sẻ và cộng hưởng với cảm xúc của người khác. Sự
đồng cảm nuôi dưỡng những tình cảm đạo đức gắn kết mọi người với nhau trong một
sự hiểu biết chung về đức hạnh, vượt qua những ranh giới văn hóa.
Theo quan
điểm của Hume, chúng ta chấp nhận lòng tốt hoặc sự hào phóng vì chúng mang lại
cảm giác tốt đẹp cho chúng ta và người khác; chúng ta không chấp nhận sự tàn nhẫn
vì nó tự nhiên khơi dậy những phản ứng cảm xúc tiêu cực. Vì vậy, đạo đức (điều
gì đúng hay sai) dựa trên cách chúng ta cảm nhận, đặc biệt là qua những cảm xúc
chung của con người. Điều này trái ngược với đạo đức học duy lý (như của Kant),
trong đó đạo đức dựa trên lý trí hoặc nghĩa vụ, bất kể chúng ta cảm thấy thế
nào.
Những đức hạnh tự
nhiên và nhân tạo: Phẩm chất bẩm sinh và quy ước xã hội
Hume phân biệt hai phạm trù đức hạnh rộng lớn: đức hạnh tự nhiên
và đức hạnh nhân tạo Những đức hạnh tự nhiên – chẳng hạn như lòng tốt, lòng
dũng cảm, độ lượng, tính hài hước và sự dí dỏm – là những phẩm chất mà chúng ta
tự nhiên ngưỡng mộ vì chúng làm cho đời sống dễ chịu hơn và thúc đẩy hạnh phúc
của con người. Những phẩm chất này nảy sinh một cách tự nhiên từ bản chất con
người và được chấp nhận ở nhiều nền văn hóa do những tác động dễ chịu hoặc có lợi
của chúng đối với người khác. Ngược lại, những đức hạnh nhân tạo – chẳng hạn
như công lý, lòng trung thành với lời hứa và lòng trung thành – không xuất hiện
từ bản năng nhưng được thiết lập qua những quy ước xã hội. Chúng được phát triển
để giải quyết những vấn đề về phối hợp và hợp tác trong những xã hội phức tạp,
góp phần duy trì hòa bình, ổn định và tin tưởng lẫn nhau.
Điều quan
trọng là, Hume không đánh giá những đức hạnh này bằng cách viện dẫn đến những mệnh
lệnh thiêng liêng, chân lý đạo đức vĩnh cửu hay những quy luật lý trí trừu tượng.
Thay vào đó, ông đánh giá chúng dựa trên tác động thực tế của chúng đối với đời
sống con người – cụ thể là dựa trên tính hữu ích và sự dễ chịu của chúng đối với
bản thân và người khác. Như câu nói nổi tiếng của ông, “Giá trị cá nhân hoàn
toàn nằm ở việc sở hữu những phẩm chất tinh thần, hữu ích hoặc dễ chịu đối với
bản thân hoặc người khác”. Nguyên tắc này đánh dấu bước chuyển quyết định khỏi
đạo đức siêu hình hay gót học và hướng tới phương pháp tiếp cận dựa trên kinh
nghiệm, tự nhiên, trong đó đạo đức dựa trên tình cảm con người và tính hữu ích
xã hội của những tính cách hoặc phẩm chất rõ ràng của tnaox thức và hành vi của
một người,
Lý trí là, và chỉ nên là nô lệ
của những đam mê, và không bao giờ có thể đảm nhận bất kỳ chức vụ nào khác
ngoài việc phục vụ và tuân theo chúng.
Hume nổi tiếng nói về lý trí như “phục vụ những gì chúng
ta cảm nhận và ham muốn, nhưng không ngược lại.”. Chỉ một mình lý trí không thể thúc đẩy chúng ta chấp nhận đạo đức hay hành động;
thay vào đó, nó giúp chúng ta hiểu được sự kiện và dự đoán những hậu quả, định hình phản
ứng cảm xúc của chúng ta. Khi chúng ta ngưỡng mộ lòng độ lượng hoặc
lên án sự tàn ác, đó là vì những hành động này khơi gợi cảm xúc, chứ không phải
vì chúng xuất phát từ suy luận logic.
Quan điểm này thách thức quan điểm duy lý
truyền thống, mở rộng quan tâm đạo đức để gồm vào những đặc điểm như hài
hước, nhạy cảm hoặc kiêu hãnh – những phẩm chất có thể không phải là sản
phẩm của sự lựa chọn có chủ ý nhưng vẫn góp phần vào sự phát triển con người.
Tiện ích như thước đo của
đức hạnh
Đối với Hume, tiện ích (utility) – được hiểu
như khả năng của một đặc điểm hoặc hành động thúc đẩy hạnh phúc, sự ổn định
và phúc lợi xã hội – là tiêu chuẩn chính chúng ta dùng để phán đoán một gì đó là
đức hạnh. Thay vì viện dẫn đến những mệnh lệnh thiêng liêng hay những nguyên tắc
lý trí trừu tượng, Hume lập luận rằng chúng ta ngưỡng mộ đức hạnh bởi vì chúng
hữu ích hoặc dễ chịu, cho bản thân hoặc cho người khác. Lòng nhân ái được
ca ngợi vì nó mang lại lợi ích cho nhiều người; công lý được coi trọng vì nó đảm
bảo hòa bình, hợp tác và sự ổn định của xã hội.
Việc tập trung vào kết quả thực tế này đặt
Hume gần với những nhà tư tưởng duy lợi sau này như Jeremy Bentham và John
Stuart Mill. Tuy nhiên, triết lý đạo đức của ông vẫn rất riêng biệt: Hume không
định nghĩa đức hạnh bằng tính toán hạnh phúc tổng thể, nhưng bằng xem xét
những phản ứng cảm xúc mà một số khuynh hướng đạo đức và tâm lý nhất định gợi
lên trong chúng ta. Chúng ta chấp nhận những gì hữu ích, không phải vì chúng ta
lý luận qua những hệ quả toán học, mà bởi vì tiện ích tự nhiên khơi dậy cảm
giác chấp nhận qua cơ chế của sự đồng cảm. Theo cách này, lý thuyết đạo đức
của Hume kết hợp quan sát thực nghiệm với tâm lý học đạo đức, đặt đức hạnh
trong cảm xúc của con người thay vì chỉ dựa vào tiện ích trừu tượng.
So sánh Hume với Gót học Đạo đức
Kitô
Đạo đức đạo Kitô truyền thống hiểu đức
hạnh trong liên quan đến ý muốn của Gót và luật tự nhiên có thể nghiên cứu
giải quyết được qua lý trí. Luân lý tôn giáo dẫn dắt hồn
người đến sự kết hợp với Gót, và lý trí giúp nhận thức những sự thật
đạo đức vĩnh cửu. Theo quan điểm này, một số đặc điểm nhất định – chẳng hạn như
kiêu hãnh – là tội lỗi, trái ngược với sự khiêm nhường cần có trước Gót.
Đạo đức học của Hume bác bỏ nền tảng siêu
hình và gót học này. Ông đưa những đặc điểm như lòng kiêu hãnh vào danh sách những
đức hạnh khi chúng đáp ứng những tiêu chuẩn của ông về tính hữu dụng và sự
dễ chịu, bất kể giáo điều tôn giáo. Triết lý đạo đức của ông mang tính thế tục,
bắt nguồn từ bản chất con người và kết quả xã hội hơn là quy định của Gót. Sự
tách biệt này với đạo đức Catô và đạo Kitô là rất sâu xa, đặt định Điều Tra như một bản văn nền tảng trong sự phát triển của tư tưởng đạo đức
thế tục và tự nhiên hiện đại.
Bản chất thực tiễn và cách mạng
của đạo đức học Hume
Không giống như đạo đức học Kitô,, đóng khung
đạo đức của con người như một con đường hướng tới một kết thúc tinh thần siêu việt, cuối
cùng, sự kết hợp với Gót. Hume căn cứ đạo đức trong những thực tại thực iễn của
đời sống hàng ngày. Khung đạo đức của ông tập trung vào những phương diện cảm xúc, xã hội
và tâm lý của kinh nghiệm con người, tập trung vào những đặc điểm và hành
động giúp tăng cường hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc chung. Theo nghĩa này, cách
nghiên cúu giải
quyết của Hume, vừa thực dụng vừa mang tính cách
mạng: bác bỏ hàng thế kỷ truyền thống tôn giáo và duy lý để đặt đạo đức một
cách vững chắc trong phạm vi cảm xúc, đời sống xã hội và tâm lý tự nhiên của
con người.
Hơn hai thế kỷ rưỡi sau khi xuất bản, Điều
Tra của Hume vẫn còn nguyên giá trị sâu xa. Những hiểu biết sâu xa của
nó làm sáng tỏ tác động hỗ tương phức tạp giữa cảm xúc, lý trí
và những chuẩn mực xã hội trong đời sống đạo đức. Trong một thế giới ngày càng
đa nguyên và thế tục, đạo đức học tự nhiên, lấy con người làm trung tâm của
Hume mang đến một giải pháp thay thế hấp dẫn cho những hệ thống tôn giáo hoặc
thuần túy duy lý.
Nhấn mạnh của ông về lòng trắc ẩn và tính
hữu dụng đã ảnh hưởng đến những nhà tư tưởng sau này như Adam Smith và Jeremy
Bentham, và tiếp tục có tiếng vang trong tâm lý học đạo đức
ngày nay và đạo đức học tiến hóa. Bằng cách hiểu đạo đức như bắt nguồn
trong tình cảm có chung của con người và những lợi ích thiết thực,
Hume đem cho những dụng cụ bền vững để vượt qua những thách thức đạo đức của
đời sống hiện đại.
Bằng coi đạo đức là biểu hiện tự nhiên của
tình cảm con người và lợi ích xã hội, Hume mời gọi chúng ta xem xét lại ý nghĩa
của việc sống tốt lành, và hành động đúng đắn – không như người phục vụ thần thánh hay chỉ lý
trí, nhưng còn là những thành viên đồng cảm của một cộng đồng nhân loại.
2.
Ghi Chú
Của Người Biên Tập [1]
An Enquiry Concerning the
Principles of Morals/
Một Điều Tra Về Những Nguyên Lý của Đạo Đức – thường được gọi là
Enquiry thứ hai của Hume – được
Andrew Millar, một nhà xuất bản sách nổi tiếng ở phố The Strand,
London, xuất bản lần đầu tiên năm 1751. Là một tác phẩm đồng hành với Enquiry thứ nhất, nó là
một sự tái cấu trúc của lý thuyết đạo đức trong Quyển 3 của A Treatise of Human
Nature / Một Chuyên Luận Về Bản Chất Con Người (1739-1740), giữ lại hầu hết tinh thần của bản gốc trong khi có
những khác biệt đáng kể về chi tiết. Một số lập luận có ảnh hưởng và gây tranh
luận nhất của Hume chống lại (những gì chúng ta hiện nay gọi là) thuyết duy thực đạo
đức (moral realism)
và thuyết
duy lý (rationalism)
đã được
loại bỏ: một sự thay đổi mà hầu hết mọi người thường coi là việc rút gọn và đơn
giản hóa văn bản, không phải là bằng chứng cho thấy bất kỳ sự thay đổi nào
trong quan điểm của Hume – mặc dù giả định phổ biến đó gần đây đã bị đặt dấu
hỏi. Tương tự như vậy, Tâm Lý Học Liên Tưởng (những tiến trình tâm lý – như
suy nghĩ, cảm xúc, và ký ức – được giải thích bằng sự liên kết những ý tưởng)
của Treatise – chẳng
hạn như giải thích về sự đồng cảm – mờ nhạt vào hậu cảnh, và thay vào đó Hume
tập trung vào việc cố gắng tìm kiếm những nguyên tắc có hệ thống để sắp xếp
những phán đoán hàng ngày của chúng ta về những đức tính và tật xấu, như được
thể hiện trong ngôn ngữ chung. Điều này dẫn đến một quan điểm có những yếu tố
mạnh mẽ của cả thuyết duy lợi (utilitarianism)
và đạo
đức đức học về nhân cách (virtue ethics)
, đặc
trưng cho những đức tính như là “những phẩm chất tinh thần, hữu ích hoặc dễ
chịu cho chính bản thân người đó, hoặc cho người khác” (M 9.1).
Bản in thứ hai của An Enquiry Concerning the Principles of Morals dưới hình thức Quyển III của bốn tập Essays and Treatises on Several
Subjects /Tiểu Luận Và Luận Văn Về Những Chủ Đề Khác Nhau của Hume vào năm 1753. Bản in thứ ba của nó (mặc
dù không được ghi nhận rõ ràng như vậy) nằm trong tập Essays and Treatises /Tiểu luận và Luận văn năm 1758, kết hợp những tác phẩm thành phần thành
một tập duy nhất. Trong những Bản in bốn tập năm 1760 và 1770 của Essays and Treatises/
Tiểu luận và Luận văn, Enquiry thứ hai xuất hiện trong tập IV trước The Natural History of Religion /
Lịch sử Tự nhiên của Tôn giáo. Trong những Bản in hai tập năm 1764, 1767, 1768,
1772, và 1777, nó xuất hiện trong tập II, sau An Enquiry concerning Human Understanding and A Dissertation on the Passions / Một Thăm dò về Khả
năng Hiểu biết của Con người và A
Dissertation on the Passions / Luận văn về Đam mê, và trước The Natural History of Religion./
Lịch sử Tự nhiên của Tôn giáo.
Ở đây, thấy
có một số thay đổi đáng kể được thực hiện với bản gốc, cho ấn tượng rằng nó đã được biên tập ít cẩn thận hơn so với bản Enquiry đầu tiên của Hume,
nhưng chúng tôi không
thể khẳng định điều này một cách chắc. (Bản văn này vẫn được tiếp tục biên tập, và sẽ có thêm chi tiết bổ sung một
khi tiến trình này ở đây hoàn tất. Chúng tôi đặc biệt hoan nghênh
phản hồi từ những người đọc nếu nhận ra bất
kỳ vấn đề nào với bản văn).
Peter Millican
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May/2025)
(Còn tiếp... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] An Enquiry concerning the Principles of Morals
(1751, 1777) Dịch theo bản phổ biến trên
Hume Texts Online https://davidhume.org/texts/m/
Biên tập Amyas Merivale và Peter Millican
Bản
của Hume Texts Online là những bản sao chụp từ văn khố Thư viện Quốc gia
Scotland và Hội Hoàng gia Edinburgh.
Những chú thích để trong
[ …] lấy từ bản tiếng Anh. Những chú thích này, của
chính Hume.
Những
chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ đọc lại, tìm chữa sau.
Tất cả, mong có thể cho một một bản đọc triết học ‘mộc mạc’, trung thực với
nguyên tác, nhìn theo hướng diễn giải, khai triển nội dung những khái niệm, tư
tưởng và luận thuyết triết học, đồng thời cố gắng giữ phần nào văn phong cổ
kính của tác giả. Mục đích là mong giúp những người đọc, không chuyên môn, hiểu được
ý ‘nôm na’ của tác giả.