Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên
Dialogues concerning Natural Religion)
David Hume
Phần VII
Tóm Tắt
Trong phần này, Philo phát triển so sánh loại suy của ông giữa vũ trụ và cơ thể động vật. Nếu vũ trụ giống như cơ thể một động vật hay thực vật, thì có thể xảy ra rằng sự thiết kế thông minh đã không đưa nó vào hiện hữu. Philo dành phần này để cố gắng cho thấy hai lập luận này, hoàn toàn có vẻ hợp lý cũng như lập luận cho rằng thiết kế thông minh đã phát sinh vũ trụ. Mục đích của ông ở đây giống như trong chương trước: nếu ông có thể chứng minh rằng cả hai lập luận này đều là ứng viên hợp lý cho nguyên lý về vũ trụ học (bất kỳ giải thích nào về cách vũ trụ tạo ra) cũng như cho nguyên lý thiết kế (vũ trụ được một nhà thiết kế thông minh tạo ra), thì ông có thể chứng minh rằng không có lý do gì để nghĩ rằng vũ trụ thực sự hình thành qua sự thiết kế.
Mặc dù là khó khăn để hiểu sự sinh sôi nảy nở trong động vật và sự tăng trưởng từ hạt hoặc cây ở thực vật gây ra việc hình thành thế giới, ông bắt đầu nói, nhưng cũng không khó khăn hơn để hiểu cách thức hai tiến trình này có thể tạo ra thế giới cũng như cách thức thiết kế có thể tạo ra thế giới. Trong cả ba trường hợp, chúng ta có thể kể một câu chuyện phức tạp, không mấy soi sáng rõ. Trong trường hợp thực vật, chúng ta có thể nói rằng cũng giống như cây rụng hạt, sau đó nảy mầm, sinh những cây khác, hệ thống hành tinh cũng tạo ra hạt giống bên trong chính nó, sau đó nảy mầm những hành tinh vật lý. Có lẽ, ông phỏng đoán, những sao chổi là những hạt giống này. Trong trường hợp sinh sản, chúng ta có thể nói rằng sao chổi giống như một quả trứng, nở ra thành một vũ trụ có trật tự.
Philo nhìn nhận rằng ông không thể hiểu rõ ràng bất kỳ bức tranh nào trong số này, nhưng ông cho thấy rằng Cleanthes cũng không thể hiểu rõ ràng tuyên bố rằng vũ trụ là kết quả của sự thiết kế thần thánh. Quan điểm của Philo ở đây không phải là hai thuyết vũ trụ học thay thế này thực sự là những biểu hiện chính xác hơn về những gì thực sự đã xảy ra, vốn đúng hơn là cả ba bức tranh chỉ là những ẩn dụ không hiệu quả. Nói rằng thế giới được tạo qua tiến trình sinh sản động vật, hay truyền giống thực vật, hay thiết kế thông minh thực sự chỉ là ám chỉ đến bất kỳ nguyên nhân khó hiểu nào đã đứng sau cho những tác động đã biết, vốn chúng ta thấy quanh chúng ta. Chúng ta chọn để nói về nguồn gốc của thế giới theo những tiến trình này vì chúng ta quen thuộc với chúng. Nhưng rõ ràng đây không phải là những tiến trình có thể xảy ra duy nhất vốn những hệ thống có trật tự có thể bắt nguồn; chúng chỉ đơn giản là ba nguyên lý khởi nguồn vốn chúng ta tình cờ tìm thấy trong góc nhỏ này của vũ trụ. Do đó, việc nghĩ về những tiến trình này như bất kỳ gì khác ngoài những chỗ trống thay mặt thuận tiện cho những tiến trình chưa biết là tự lừa dối rằng những gì chúng ta hiện biết về thế giới là tất cả những gì cần biết.
Sau khi Philo trình bày xong ý tưởng mới nhất này, Demea bất ngờ đứng về phía luận chứng thiết kế: nếu thế giới thực sự có đặc tính có thể gieo hạt giống sinh sản của chính nó, ông nhận xét, thì đó sẽ là một luận chứng tuyệt vời cho Gót như một nhà thiết kế. Xét cho cùng, một hệ thống tự sinh sản là một kỳ tích thiết kế đáng kinh ngạc và do đó, nó thực sự cần một tác nhân có cứu cánh làm nguyên nhân. Philo có hai trả lời cho phản đối này. Đầu tiên, ông nhắc Demea rằng ông đã cho thấy trật tự không phải là một thuộc tính tự nhiên của tư tưởng hơn là của vật chất, và do đó, không có lý do gì để nghĩ rằng chỉ vì có một hệ thống tuyệt vời trong vũ trụ, thì ắt phải có một trí tuệ thông minh tạo ra nó. Trường hợp của một vũ trụ tự sinh sản cũng giống như trường hợp của một cái cây, hay một con vịt: chúng ta không thể thực sự hiểu được trật tự này xuất hiện như thế nào, nhưng nó có thể dễ dàng là do một số nguyên lý trật tự vốn có trong vật chất, cũng như có thể là do một số nguyên lý trật tự vốn có trong tư tưởng. Chúng ta thực sự không biết điều gì tạo ra trật tự, và cho rằng mọi trật tự đều phải là kết quả của trí tuệ thông minh là một giả định vô căn cứ.
Philo cũng nhận thấy rằng, ngay cả khi phản đối của Cleanthes có bất kỳ sức mạnh thực sự nào – mà rõ ràng là không có – thì bản thân Cleanthes cũng không có vị trí để thúc đẩy nó. Vì nếu Cleanthes yêu cầu muốn biết nguyên nhân hoặc nguồn gốc của nguyên lý thực vật của Philo, thì Philo cũng có quyền đảo ngược câu hỏi và hỏi: nguyên nhân của nguyên lý lý luận của Cleanthes là gì? Và khi thực hiện động tác đó, Philo thực sự giành được lợi thế. Vì ở mọi nơi trong kinh nghiệm của chúng ta, chúng ta thấy lý trí và óc thông minh phát sinh từ sự sinh ra – những sinh vật được sinh ra, lớn dậy và phát triển não thức – nhưng chúng ta không bao giờ thấy sự sinh ra hoặc thực vật phát sinh chỉ từ lý trí thuần túy. Vì vậy, nếu Cleanthes muốn suy ra một não thức thiết kế từ giả thuyết sinh sản của Philo, thì Philo cũng có thể suy ra một quá trình sinh sản đằng sau não thức thiết kế của Cleanthes. Ông có thể nói: tất cả những não thức mà chúng ta biết, bao gồm cả những não thức có khả năng thiết kế, đều được sinh ra; chúng phát sinh qua sự sinh sản. Do đó, nếu vũ trụ thực sự được thiết kế bởi một não thức nào đó, thì não thức đó cũng phải được sinh ra. Trong trường hợp đó, sự sinh sản chứ không phải thiết kế sẽ là nguyên lý cơ bản hơn, là nguồn gốc thực sự của mọi sự vật việc.
Phần VII
D 7.1, KS176
Nhưng ở đây, Philo tiếp tục, khi tôi suy ngẫm về học thuyết cổ xưa rằng vũ trụ giống như một sinh vật sống được một linh hồn của thế giới cai quản [1], một ý tưởng mới đột nhiên nảy ra trong đầu tôi, một ý tưởng, nếu đúng, có thể làm suy yếu nghiêm trọng mọi lý lẽ của bạn và thậm chí làm mất hiệu lực những giả định cơ bản nhất mà bạn tin tưởng một cách tự tin. Nếu vũ trụ giống một sinh vật sống hơn, như một động vật hay thực vật, hơn là một vật thể do con người tạo ra, thì có nhiều xác xuất xảy ra là nguyên nhân của nó giống với sự sinh sản động vật và tăng trưởng hữu cơ thực vật, hơn là lý trí hay thiết kế thông minh. Do đó, kết luận của bạn, ngay cả theo logic của chính bạn, là khập khiễng và khiếm khuyết.
D 7.2, KS176
Xin hãy mở rộng biện luận này thêm một chút nữa, Demea nói. Vì tôi không hiểu đúng nó theo cách cô đọng bạn đã diễn đạt.
D 7.3, KS 176-7
Bạn Cleanthes của chúng ta ơi, Philo trả lời, như bạn đã nghe, khẳng định rằng vì không có câu hỏi thực tại nào có thể được chứng minh ngoài kinh nghiệm, nên sự hiện hữu của một vị Thần linh không nhận chứng minh bằng bất kỳ phương pháp nào khác ngoài kinh nghiệm. Ông nói rằng thế giới giống với những công trình do con người chế tạo: Do đó, nguyên nhân của nó cũng phải giống với nguyên nhân của nguyên nhân khác. Ở đây chúng ta có thể nhận xét rằng hoạt động của một phần rất nhỏ của tự nhiên, tức là con người, trên một phần rất nhỏ khác, tức là vật chất vô tri nằm trong tầm với của chúng ta, là quy luật vốn Cleanthes phán đoán về nguồn gốc của toàn bộ; và ông đo lường những vật thể, quá chênh lệch, theo cùng một tiêu chuẩn cá nhân. Nhưng để gạt bỏ mọi phản đối lấy ra từ đề tài này; tôi khẳng định rằng có những phần khác của vũ trụ (bên cạnh những máy móc do con người phát minh) có sự giống nhau lớn hơn với cấu trúc của thế giới, và do đó đem cho một phỏng đoán tốt hơn về nguồn gốc tổng quát của hệ thống này. Những phần này là sinh vật sống, những động vật và thực vật. Rõ ràng là thế giới giống với những động vật hay thực vật hơn là với những đồng hồ hay khung dệt sợi. Nguyên nhân của nó, do đó, có nhiều xác xuất xảy ra giống với nguyên nhân của điều trước. Nguyên nhân của sự viẹc trước là sinh sản sinh học ở động vật và tăng trưởng hữu cơ ở thực vật. Do đó, nguyên nhân của thế giới, chúng ta có thể suy ra là một gì đó tương tự với sự sinh sản sinh học ở động vật và tăng trưởng hữu cơ ở thực vật.
D 7.4, KS 177
Nhưng làm sao có thể hình dung được, Demea nói, rằng thế giới có thể phát sinh từ bất cứ một gì tương tự như sự sinh sản sinh học ở động vật và tăng trưởng hữu cơ ở thực vật?
D 7.5, KS 177
Rất dễ dàng, trả lời Philo. Tương tự như một cây phân tán những hạt giống của nó vào những cánh đồng xung quanh, và sinh ra những cây khác; vì vậy, một cây lớn hơn, như thế giới, hay hệ thống hành tinh này, tự sản sinh ra một số hạt giống nhất định, khi được phân tán vào hỗn loạn xung quanh, phát triển thành những thế giới mới. Thí dụ, một sao chổi là hạt giống của một thế giới; và sau khi nó đã chín hoàn toàn, bằng di chuyển từ mặt trời này sang mặt trời khác, và từ ngôi sao này sang ngôi sao khác, cuối cùng nó bị ném vào những nguyên tố chưa hình thành, bao quanh vũ trụ này ở khắp mọi nơi, và ngay lập tức nảy mầm thành một hệ thống mới.
D 7.6, KS 177
Hay nếu, vì nhiều loại mục đích khác nhau (vì tôi không thấy có lợi điểm nào khác) chúng ta cho rằng thế giới này là một loài động vật; sao chổi là trứng của động vật này; và tương tự như cách đà điểu đẻ trứng trong cát, vốn không cần bất kỳ sự chăm sóc nào thêm, trứng sẽ nở và tạo ra một động vật mới; vì vậy. . . . . .
D 7.7, KS 177
Tôi hiểu bạn, Demea nói : Nhưng những giả định xa vời và vô căn cứ này là gì? bạn có dữ liệu nào cho những kết luận phi thường như vậy? Và sự giống nhau tưởng tượng, nhỏ nhặt của thế giới với một loài thực vật hay một loài động vật có đủ để thiết lập cùng một suy luận liên quan đến cả hai không? Những đối tượng, nói chung là rất khác nhau; chúng có nên là tiêu chuẩn cho nhau không?
D 7.8, KS 177
Đúng vậy, Philo kêu lên: Đây chính là điểm vốn tôi đã biện luận ngay từ đầu. Tôi luôn khẳng định rằng chúng ta không có cơ sở đáng tin cậy nào cho bất kỳ lý thuyết nào về nguồn gốc của vũ trụ. Kinh nghiệm của chúng ta, tự bản thân nó không toàn hảo, và bị giới hạn cả về phạm vi và thời gian, không thể đem cho chúng ta bất kỳ phỏng đoán có thể có được nào về toàn bộ sự tồn tại. Nhưng nếu chúng ta cảm thấy buộc phải chấp nhận một số giả thuyết, thì chúng ta nên lựa chọn trên cơ sở nào? Tiêu chuẩn hợp lý duy nhất không phải là mức độ giống nhau giữa những gì chúng ta đang so sánh sao? Và thế giới không giống một loài thực vật hay động vật – xuất hiện qua tiến trình sinh sản sinh học ở động vật và tăng trưởng hữu cơ ở thực vật – hơn nhiều so với bất kỳ máy móc nhân tạo nào xuất phát từ lý trí và thiết kế sao?
D 7.9, KS 177
Nhưng sinh sản sinh học ở động vật và tăng trưởng hữu cơ ở thực vật này bạn nói đến là gì, Demea nói ? bạn có thể giải thích hoạt động của chúng và mổ xẻ cấu trúc bên trong phức tạp vốn chúng tùy thuộc không?
D 7.10, KS178
Ít nhất, Philo, trả lời, như Cleanthes có thể giải thích những hoạt động của lý trí, hay mổ xẻ cấu trúc bên trong vốn lý trí dựa vào. Nhưng không có bất kỳ sự phân tích tỉ mỉ nào như vậy, khi tôi nhìn thấy một con vật, tôi tự nhiên suy ra rằng nó đã khởi phát từ sự truyền giống sinh sản; và cũng tự tin như bạn kết luận rằng một ngôi nhà đã được được xây lên theo thiết kế. Những từ như sinh sản và lý trí chỉ đơn giản là nêu tên một số lực hoặc quyền năng nhất định trong tự nhiên. những quyền năng mà chúng ta quan sát được tác động của chúng, nhưng chúng ta không thấu hiểu được bản chất thực sự của chúng. Và không có nguyên lý nào trong những lý tắc này – sinh sản hoặc lý trí – có bất kỳ quyền đặc biệt nào để được coi là tiêu chuẩn phổ quát để giải thích mọi sự vật việc trong tự nhiên.
D 7.11, KS 178
Thật ra, Demea, chúng ta có lý khi mong đợi rằng quan điểm của chúng ta càng rộng thì kết luận của chúng ta càng đáng tin cậy khi giải quyết những đề tài ộng lớn và phi thường như vậy. Ngay cả trong góc nhỏ này của vũ trụ, chúng ta thấy ít nhất bốn lực đã biết trong tự nhiên tạo ra những hiệu ứng phức tạp: lý trí – suy nghĩ hợp lý, giống như ở con người; bản năng – hành vi không suy nghĩ, giống như ở động vật; sinh sản động vật và tăng trưởng hữu cơ thực vật, vốn là những tiến trình khác nhau, nhưng tạo những loại kết quả rất tương tự giống nhau. Bây giờ, hãy tưởng tượng có bao nhiêu nguyên lý khác như vậy có thể hiện hữu trong đa dạng vô tận của vũ trụ, nếu chúng ta có thể du hành từ hành tinh này sang hành tinh khác, từ hệ thống tinh hà này sang hệ thống tinh hà khác và nghiên cứu từng phần của cấu trúc rộng lớn này. Bất kỳ nguyên lý nào trong bốn nguyên lý này – hoặc hàng chục nguyên lý khác mà chúng ta có thể tưởng tượng một cách hợp lý – đều có thể cung cấp cho chúng ta một mô hình để suy nghĩ về nguồn gốc của thế giới. Vì vậy, việc chỉ tập trung vào lý trí cho thấy sự thiên vị thực sự, chỉ vì đó là cách não thức của chúng ta hoạt động. Sự thiên vị đó sẽ dễ dàng được bào chữa hơn nếu lý trí là những gì mà chúng ta hiểu rõ. Nhưng thực ra, chúng ta biết rất ít về hoạt động bên trong của lý trí cũng như chúng ta biết về bản năng hay thực vật. Và có lẽ ngay cả từ mơ hồ, bao hàm tất cả “Thiên nhiên”, vốn người thường dùng để giải thích mọi sự vật việc, cũng không kém phần bí ẩn. Chúng ta biết những lực này hiện hữu vì chúng ta đã thấy tác động của chúng trong kinh nghiệm – nhưng cách chúng hoạt động và bản chất sâu xa của chúng vẫn hoàn toàn là điều chúng ta chưa biết. Vì vậy, cuối cùng, không có gì là xa vời – hay ít nhất quán với kinh nghiệm của chúng ta – khi nói rằng thế giới phát triển như một cái cây từ một hạt giống do một thế giới khác gieo xuống, cũng giống như khi nói rằng nó được lý trí thiêng liêng thiết kế, theo cách mà Cleanthes tưởng tượng.
D 7.12, KS 178-9
Nhưng tôi nghĩ, Demea nói, nếu thế giới có một tính chất giống như sự sống thực vật, và có thể gieo những hạt giống của những thế giới mới vào trong hỗn loạn bao quanh rộng lớn, thì sức mạnh này vẫn sẽ là một lý luận củng cố cho sự thiết kế trong người sáng tạo ra nó hay không? Vì từ đâu có thể nảy sinh ra một khả năng tuyệt diệu như vậy nếu không từ sự thiết kế? Hay làm sao trật tự có thể nảy sinh từ bất kỳ gì, nhưng không nhận thức được trật tự đó vốn nó ban tặng?
D 7.13, KS 179
Bạn chỉ cần nhìn xung quanh bạn, Philo trả lời, và bạn sẽ tìm thấy trả lời của bạn. Một cái cây tạo ra trật tự và cấu trúc trong cái cây mới mọc từ hạt của nó – nhưng cái cây không nhận thức được trật tự mà nó tạo ra. Một con vật cũng làm như vậy với con của nó. Một con chim xây tổ, được hướng dẫn bởi bản năng, không phải bởi sự hiểu biết. Những ví dụ về những nguồn không suy nghĩ tạo ra trật tự này thực sự phổ biến hơn trong tự nhiên so với những trường hợp trật tự xuất phát từ lý trí hoặc kế hoạch. Việc tuyên bố rằng tất cả trật tự mà chúng ta thấy ở động vật và thực vật cuối cùng phải xuất phát từ thiết kế là đang cho rằng chính quan điểm mà bạn đang cố chứng minh. Ý tưởng đó chỉ có thể được biện minh nếu trước tiên bạn có thể chứng minh, hoàn toàn qua lý trí, rằng trật tự luôn luôn và chỉ gắn liền với suy nghĩ có ý thức – và nó không bao giờ có thể đến từ chính vật chất hoặc từ bất kỳ những nguyên lý ban đầu nào chưa biết đến, thuộc về vật chất.
D 7.14, KS 179-80
Nhưng xa hơn nữa, Demea; phản đối này, vốn bạn thúc đẩy, không bao giờ có thể được Cleanthes dùng, nếu không từ bỏ một biện hộ, vốn ông đã đưa ra phản lại một trong những phản đối của tôi. Khi tôi hỏi về nguyên nhân của lý trí và trí tuệ thông minh tối cao đó, vốn ông dùng để giải quyết tất cả sự việc; ông đã bảo tôi rằng sự không thể có của việc thỏa mãn những câu hỏi loại như vậy sẽ không bao giờ được nhìn nhận như một phản đối trong bất kỳ loại triết học nào. Chúng ta phải dừng lại ở đâu đó, ông nói; và cũng không bao giờ nằm trong tầm với của khả năng con người để giải thích những nguyên nhân sau cùng, hoặc cho thấy những kết nối cuối cùng của bất kỳ đối tượng nào. Chỉ cần những bước, cho đến giờ, được kinh nghiệm và quan sát hỗ trợ là đủ. Vậy thì – sinh sản động vật và tăng trưởng hữu cơ thực vật, giống như lý trí, là những nguyên lý có thể quan sát được, tạo ra trật tự trong tự nhiên. Đó là không thể phủ nhận.Vì vậy, nếu tôi giải thích hệ thống vũ trụ của tôi dựa vào điều trước, thay vì điều sau, thì đây là quyền lựa chọn của tôi. Không có lý do rõ ràng nào để ưu tiên điều này hơn điều kia. Và nếu Cleanthes hỏi tôi về nguyên nhân của khả năng sinh sản hoặc tâng trưởng thực vật lớn lao này của tôi là gì, tôi cũng có quyền hỏi ông về nguồn gốc của nguyên lý lý luận vĩ đại của ông. Những câu hỏi này chúng tôi đã đồng ý hoãn lại ở cả hai bên; và chú ý chính của ông ấy trong trường hợp này là tuân thủ thỏa thuận này. Cả hai chúng tôi đều đồng ý tránh những câu hỏi không thể trả lời loại như vậy, và thành thật mà nói, Cleanthes có lợi khi tuân theo thỏa thuận đó. Dựa trên những gì chúng ta thấy, sinh sản sinh học ở động vật, thậm chí có thể chiếm ưu thế hơn lý trí – vì chúng ta thường thấy lý trí phát triển từ sinh sản sinh học ở động vật, nhưng không bao giờ thấy sinh sản sinh học ở động vật xuất hiện từ lý trí.
D 7.15, KS 180
Tôi xin ban hãy so sánh những hệ quả quan trọng ở cả hai phía. Tôi nói thế giới giống như một loài động vật – do đó, nó là một động vật – do đó, nó bắt nguồn từ sự sinh sản động vật. Đây là những bước nhảy vọt lớn, tôi nhìn nhận, nhưng ít nhất cũng có một loại suy mờ nhạt kết nối mỗi bước. Mặt khác, Cleanthes nói thế giới giống như một cỗ máy – do đó, nó là một cỗ máy – do đó, nó bắt nguồn từ sự thiết kế. Lý luận của ông bao gồm những bước nhảy vọt lớn như nhau, và so sánh loại suy ông dựa vào ngay cả còn kém thuyết phục hơn. Và nếu ông tuyên bố quyền mở rộng lý thuyết của tôi và suy ra thiết kế hoặc trí thông minh đằng sau tiến trình bắt nguồn tôi nêu lên, thì tôi cũng có quyền mở rộng lý thuyết của ông và suy ra một sự sinh sản những thần thánh – một loại thần phả – từ nguyên lý lý trí của ông. Ít nhất thì tôi có thể viện dẫn đến một cái bóng mờ nhạt của kinh nghiệm, đó là điều mà bất kỳ ai cũng có thể hy vọng trong những vấn đề như vậy. Vì chúng ta thường thấy lý trí hoặc trí thông minh phát sinh từ nguyên lý của sinh sản sinh học ở động vật, nhưng không bao giờ ngược lại – chúng ta không bao giờ thấy lý trí phát sinh từ bất kỳ nguyên lý nào khác.
D 7.16, KS 180
Hesiod và tất cả những nhà thần thoại học thời cổ đều bị so sánh loại suy này ảnh hưởng mạnh mẽ, đến nỗi họ liên tục giải thích nguồn gốc của thiên nhiên từ sinh sản và giao hợp động vật. Plato cũng vậy – theo như ý nghĩa rõ ràng của ông – có vẻ đã chấp nhận một số khái niệm tương tự trong Timaeus của ông.[2]
D 7.17, KS 180-1
Những Bramin khẳng định rằng thế giới bắt nguồn từ một con nhện vô hạn, con vật đã tạo ra toàn bộ khối phức tạp này từ ruột của nó, và sau đó hủy diệt toàn bộ hay bất kỳ phần nào của nó, bằng hấp thụ nó trở lại, và phân giải nó vào trong bản chất của chính nó. Đối với chúng ta, loại thuyết vũ trụ này có vẻ nực cười, bởi vì loài nhện là một sinh vật nhỏ bé và có vẻ tầm thường – chúng ta không bao giờ có thể coi những hoạt động của chúng là mô hình của toàn bộ vũ trụ. Tuy nhiên, nó vẫn là một thí dụ về sự so sánh loại suy, được rút ra từ thiên nhiên trên chính hành tinh của chúng ta. Và nếu có một hành tinh hoàn toàn có nhện sinh sống (điều này hoàn toàn có thể có), thì giải thích dựa trên loài nhện về nguồn gốc của thế giới này có vẻ tự nhiên và không thể nghi ngờ đối với chúng, giống như lập luận của Cleanthes về thiết kế và trí thông minh đối với loài người chúng ta. Rốt cuộc, thật khó để nói tại sao một hệ thống được sắp xếp có trật tự lại không thể được tạo ra từ bụng một cách hợp lý như nó có thể được thiết kế bởi bộ não. [3]
D 7.18, KS 181
Tôi phải thú nhận, Philo, Cleanthes trả lời, rằng, trong tất cả những người đang sống, nhiệm vụ vốn bạn đã đảm nhiệm, là nêu ra những nghi ngờ và phản đối, là phù hợp với bạn nhất, và trong một cách nào đó, có vẻ tự nhiên và không thể tránh khỏi với bạn. Khả năng sáng tạo của bạn phong phú đến mức tôi không phải xấu hổ khi nhìn nhận rằng tôi không thể ngay lập tức đưa ra trả lời có trình tự cho những khó khăn kỳ lạ và bất ngờ bạn liên tục nêu lên với tôi: mặc dù tôi thấy rõ, trong tổng quát, ngụy biện và sai lầm của chúng. Và tôi không nghi ngờ, hiện tại, chính bạn cũng đang ở trong cùng một oàn cảnh tương tự, bạn đưa ra phản đối nhanh hơn cả tốc độ tìm ra giải pháp phù hợp cho nó. Chắc chắn, bạn phải cảm thấy rằng lý trí và phán đoán thực tiễn trên kiến thức thông thường đều hoàn toàn phản lại bạn, và những ý tưởng kỳ quặc như bạn đã đưa ra, có thể gây bối rối, nhưng không bao giờ có thể thuyết phục được chúng tôi. Và tôi nghi ngờ bạn cũng ở trong hoàn cảnh tương tự – Chắc chắn, bạn phải cảm thấy rằng lý lẽ và lý trí đều hoàn toàn chống lại bạn, và những ý tưởng kỳ quặc bạn vừa mag đến, có thể khiến chúng tôi bối rối trong giây lát, nhưng không bao giờ có thể thực thuyết phục chúng tôi.
Phần VIII
Tóm Tắt
Trong phần này, Philo tiếp tục phát triển những gì có thể thay thế cho so sánh loại suy về máy móc. Ông mạnh dạn tuyên bố rằng thế giới như chúng ta biết, có thể là kết quả của một sắp xếp ngẫu nhiên của những atom. Có lẽ những atom chuyển động hỗn loạn trong những trạng thái hỗn độn khác nhau (như ông nói, vật chất bị ném vào trong những sắp xếp khác loại, bởi “lực mù quáng, không định hướng”). Do sự tình cờ tuyệt đối, những atom chuyển động ngẫu nhiên này, đôi khi có thể kết hợp vào thành những cấu trúc có trật tự. Những cấu trúc có trật tự này sau đó có thể hiện hữu bất chấp những lực thay đổi tác động lên chúng, vì chính trật tự có được của những cấu trúc có thể mang lại những lợi thế sinh tồn đặc biệt. Ông nói với chúng ta rằng mô hình này là một sửa đổi của hệ thống Epicurus cũ, và nó có vẻ như như ứng viên hợp lý nhất cho một thuyết vũ trụ học thực sự.
Phản đối của Demea với ý tưởng cách mạng này là cho thấy rằng vật chất cần phải có chuyển động trong đó vốn không có bất kỳ tác nhân hay động lực đầu tiên nào đưa chuyển động này vào hệ thống. Đáp lại, Philo nói rằng không dễ để hiểu cách chuyển động có thể hiện hữu đơn giản trong vật chất hơn là hiểu cách chuyển động có thể được truyền từ não thức đến vật chất. Có lẽ, ông đưa ra giả thuyết, luôn có chuyển động bên trong vật chất. Cùng một loại chuyển động này có thể tồn tại mãi mãi và được lan truyền giữa những mảnh vật chất bằng xung lực.
Cleanthes đưa ra một phản đối khác. Thuyết vũ trụ của Epicurus có thể giải thích mức độ trật tự tối thiểu cần thiết cho sự sống còn – nhưng còn sự dư thừa trật tự mà chúng ta quan sát thấy trên thế giới thì sao? Tại sao thiên nhiên thường vượt ra ngoài những gì chỉ hữu ích hay đầy đủ? Ví dụ, tại sao chúng ta có mắt và tai, thay vì dựa vào những có thể xảy ra nguyên thủy hơn? Tại sao sa mạc lại có ngựa và lạc đà, hay những khoáng chất của Trái đất như đá nam châm để hướng dẫn chúng ta? Cleanthes lập luận rằng những sự vật việc này không cần thiết cho sự sống còn – chúng làm tăng sự thoải mái và thịnh vượng của con người. Những sự cung cấp dồi dào như vậy không chỉ gợi ý về trật tự mà còn cho thấy lòng nhân từ, chỉ ra một người thiết kế thần linh đã nghĩ đến hạnh phúc của chúng ta. Ông nhấn mạnh rằng luận chứng về cứu cánh giải thích tốt hơn những dư thừa này.
Philo nhìn nhận rằng hệ thống của ông chưa được xây dựng toàn hảo; ông không có cách nào để giải thích cho những lợi ích bổ sung này của hệ thống. Tuy nhiên, ông cho thấy rằng lý thuyết của Cleanthes cũng mắc phải nhiều điểm không nhất quán nhỏ. Thí dụ, trong tất cả kinh nghiệm của chúng ta, chưa bao giờ thấy suy nghĩ di chuyển những phần vật chất không được kết nối với suy nghĩ như một cơ thể với não thức. Ông nói với bạn bè rằng rất dễ tìm ra vấn đề với tất cả những hệ thống vũ trụ học. Đó là lý do tại sao thuyết hoài nghi luôn chiến thắng – bởi vì khi nói đến những đề tài về tôn giáo tự nhiên và nguồn gốc của thế giới (những đề tài vốn kinh nghiệm của chúng ta không đạt tới) thì đơn giản là không có đủ bằng chứng để hỗ trợ đầy đủ cho bất kỳ lý thuyết nào.
Phần VIII
D 8.1, KS 182
Những gì bạn gọi là óc tưởng tượng “màu mỡ” của của tôi, Philo đáp, hoàn toàn nhờ vào bản chất của đề tài. Trong những vấn đề thích nghi với phạm vi chật hẹp của lý trí con người, với nó thường chỉ có một kết luận có vẻ có thể xảy ra hay thuyết phục; và với một người có phán đoán vững chắc, tất cả những giả định khác, ngoại trừ một giả định đó, hoàn toàn hiện ra rõ ràng là phi lý hay hoang tưởng. Nhưng trong những câu hỏi, như câu hỏi này, hàng trăm lý thuyết mâu thuẫn vẫn có thể giữ được một chút của sư so sánh loại sy bất toàn, và óc tưởng tượng có ở đây có đầy đủ phạm vi để tự mở rộng. Tôi tin rằng, hầu như không cần nỗ lực, tôi có thể ngay lập tức đưa ra những hệ thống vũ trụ học khác, vốn sẽ có một mờ nhạt cúauwj thật, dù nó là tỷ lệ là một phần nghìn, một phần triệu , rằng hoặc hệ thống của bạn hoặc bất kỳ hệ thống nào của tôi, là hệ thống đúng.
D 8.2, KS 182
Thí dụ; nếu tôi làm sống lại giả thuyết cũ của Epicurus thì sao? Đây thường là, và tôi tin, chính đáng được coi trọng như hệ thống phi lý nhất, vốn từng đưa ra đến nay; tuy nhiên, tôi không biết, liệu với một ít thay đổi, nó có thể không mang một vẻ ngoài mờ nhạt của có thể xảy ra hay không. Thay vì giả định vật chất vô hạn, như Epicurus đã làm; chúng ta hãy giả định nó hữu hạn. Một số lượng hữu hạn gồm những phân tử chỉ có thể chuyển vị hữu hạn; và trong một khoảng thời gian vô hạn, mọi sự sắp xếp có thể xảy ra cuối cùng phải xảy ra—không chỉ một lần, mà là vô hạn lần. Do đó, thế giới này, với tất cả những biến cố của nó, ngay cả những biến cố nhỏ nhất, đã từng được tạo ra và bị hủy diệt, và sẽ lại được tạo ra và bị hủy diệt, với không có bất kỳ ranh giới và giới hạn nào. Không ai, người có một khái niệm về sức mạnh của vô hạn, khi so sánh với hữu hạn, sẽ từng do dự trước xác định này.
D 8.3, KS 182
Nhưng giả định này, Demea nói, rằng vật chất có thể tự chuyển động nhưng không cần bất kỳ tác nhân có ý thức hay nguyên nhân đầu tiên nào khiến nó chuyển động.
D8.4, KS182-3
Và đâu là khó khăn của giả định đó? Philo trả lời. Mọi sự kiện, trước kinh nghiệm, đều khó khăn và không thể hiểu được như nhau; và mọi sự kiện, sau kinh nghiệm, đều dễ dàng và dễ hiểu như nhau. Chuyển động, trong nhiều trường hợp, từ trọng lực, từ tính đàn hồi, từ điện từ, bắt đầu trong vật chất, với không có bất kỳ tác nhân tự nguyện nào được biết; và để luôn luôn giả định trong những trường hợp này một tác nhân tự nguyện vô danh, chỉ là giả thuyết; và giả thuyết đi kèm không với những lợi thế nào. Sự khởi đầu của chuyển động trong tự thân vật chất cũng thì có thể hình dung được tiên nghiệm như sự truyền đạt của nó từ não thức và trí tuệ thông minh.
D 8.5, KS 183
Ngoài ra; tại sao chuyển động không thể được truyền qua những tác động của sức đẩy tới trong suốt thời gian vĩnh cửu, với tổng lượng của nó, hoặc gần như cùng một lượng, vẫn được duy trì trong vũ trụ? Khi chuyển động bị mất theo một cách, nó sẽ được tăng theo cách khác. Bất kể nguyên nhân là gì, thì sự kiện là chắc chắn, vật chất đang và luôn luôn ở trong trạng thái dao động liên tục, ít nhất là trong thời gian được quan sát hay lịch sử của con người có thể cho biết. Có lẽ, hiện tại, trong toàn bộ vũ trụ, không có một phân tử vật chất nào ở trạng thái yên nghỉ tuyệt đối. [4]
D 8.6, KS 183-4
Và cũng chính sự cân nhắc này, Philo nói tiếp, vốn chúng ta tình cờ gặp trong tiến trình lập luận, nêu lên một giả thuyết mới về vũ trụ học, không hoàn toàn phi lý, hay không khó có thể xảy ra. Chúng ta hãy gọi đó là Giả thuyết chuyển động vĩnh cửu.[5] Giả sử tồn tại một hệ thống, một trật tự, một cơ cấu tổ chức của sự vật, vốn nhờ đó vật chất có thể duy trì sự dao động liên tục, điều dường như là yếu tính với nó, nhưng vẫn duy trì sự ổn định trong những cấu trúc vật chất [6] Chắc chắn là có một một cơ cấu tổ chức như vậy: vì đây thực sự là trường hợp xảy ra của thế giới hiện tại. Do đó, chuyển động liên tục của vật chất, trong những lần chuyển vị ít hơn vô hạn, phải tạo ra cơ cấu tổ chức hay trật tự này; và theo chính bản chất của nó, trật tự đó, một khi đã thiết lập, sẽ tự chống đỡ trong nhiều thời đại, nếu không nói là vĩnh cửu. Nhưng bất cứ nơi nào vật chất được cân bằng, sắp xếp và điều chỉnh như thế để tiếp tục chuyển động liên tục, nhưng vẫn duy trì một không đổi trong những cấu trúc nó hình thành, thì trường hợp của nó, tất yếu, phải có cùng dạng ngoài xuất hiện với chúng ta như thể nó là sản phẩm của thiết kế và có mục đích, vốn chúng ta đang quan sát hiện nay. Mọi bộ phận cấu trúc có tổ chức ổn định phải có quan hệ với nhau và với toàn thể: và bản thân toàn thể phải có quan hệ với những bộ phận khác của vũ trụ; với nguyên tố vốn cấu trúc tồn tại; với những vật liệu, với chúng nó sửa chữa những lãng phí và mục nát của nó; và với mọi cấu trúc khác, thù địch hay thân thiện với nó. Một khiếm khuyết trong bất kỳ đặc thù nào trong số này sẽ phá hủy cấu trúc; và vật chất vốn cấu thành nó được giải phóng, và bị ném vào những chuyển động và những náo động bất thường, cho đến khi nó hợp nhất chính nó với một vài cấu trúc thông thường khác. Nếu không có cấu trúc nào như vậy chuẩn bị tiếp nhận nó, và nếu có một lượng lớn vật chất bị hư hỏng này tích tụ trong vũ trụ, thì bản thân vũ trụ sẽ hoàn toàn hỗn loạn; cho dù đó là phôi thai yếu ớt của một thế giới trong giai đoạn đầu tiên, bị phá hủy theo cách đó, hay xác chết thối rữa của một thế giới, đang mòn mỏi chết dần trong tuổi già và bệnh tật. Trong cả hai trường hợp, một sự hỗn loạn sẽ theo sau; cho đến khi sau một số những chu kỳ hữu hạn, mặc dù vô số, cuối cùng tạo ra một số cấu trúc, những bộ phận và cơ quan của chúng điều chỉnh ăn khớp với nhau đến mức chúng có thể tồn tại bền bỉ bất chấp sự thay đổi liên tục của vật chất.
D 8.7, KS 184
Giả định (vì chúng ta sẽ cố gắng thay đổi cách diễn đạt) rằng vật chất bị ném vào bất kỳ vị trí nào, bởi một lực mù quáng, không định hướng; rõ ràng là vị trí đầu tiên này có khả năng là vị trí hỗn loạn và hỗn loạn nhất có thể tưởng tượng được, không giống với những công trình do con người chế tạo, cùng với sự đối xứng của những bộ phận, khám phá ra sự điều chỉnh phương tiện cho mục đích và xu hướng tự bảo tồn. Nếu lực tác động chấm dứt sau hoạt động này, vật chất phải mãi mãi hỗn loạn và tiếp tục hỗn loạn vô cùng, không có bất kỳ tỷ lệ hay hoạt động nào. Nhưng giả định, rằng lực tác động, bất kể là gì, vẫn tiếp tục trong vật chất, thì vị trí đầu tiên này sẽ ngay lập tức nhường chỗ cho vị trí thứ hai, cũng có khả năng hỗn loạn như vị trí đầu tiên, v.v., qua nhiều chuỗi thay đổi và vòng quay. Không có trật tự hay vị trí cụ thể nào từng tiếp tục được một khoảnh khắc nhưng không thay đổi. Lực ban đầu, vẫn còn hoạt động, liên tục mang lại kích động cho vật chất. Mọi trường hợp có thể xảy ra được tạo ra và bị phá hủy ngay lập tức. Nếu một tia sáng hay bình minh của trật tự xuất hiện trong một khoảnh khắc, nó ngay lập tức bị cuốn đi và bị ném vào hỗn loạn bởi một lực không bao giờ ngừng, tác động lên mọi phần của vật chất.
D 8.8, KS 184-5
Thế nên, vũ trụ tiếp tục nhiều thời đại trong một chu kỳ hỗn loạn và mất trật tự liên tục. Nhưng có phải cuối cùng nó có thể đạt đến trạng thái không mất chuyển động và lực hoạt động của nó (vì chúng ta giả định rằng chuyển động là bản chất vốn có của vật chất) nhưng vẫn duy trì được một dạng ngoài xuất hiện đồng nhất, giữa chuyển động và dao động liên tục của những bộ phận của nó? Chúng ta thấy đây là trường hợp của vũ trụ hiện tại. Mỗi cá thể và mọi bộ phận của mỗi cá thể không ngừng thay đổi, nhưng ngoại hình vẫn có vẻ giữ được tổng thể ổn định và nhất quán. Chúng ta không thể hy vọng vào một vị trí như vậy, hay đúng hơn là được bảo đảm tự tin về nó, từ những chu kỳ vĩnh cửu của vật chất chuyển động không hướng dẫn, và điều này không có thể giải thích cho tất cả sự khôn ngoan và sự sắp đặt như xuất hiện, vốn có trong vũ trụ hay sao? Chúng ta hãy suy ngẫm về đề tài này một chút, và chúng ta sẽ thấy rằng sự điều chỉnh này, nếu đạt được bằng vật chất, về sự ổn định có vẻ như trong những cấu trúc, với một chuyển động hoặc thay đổi tuần hoàn hoặc theo chu kỳhoặc chuyển động thực sự và liên tục của những bộ phận, thì điều đó sẽ đưa ra một giải thích hợp lý, ngay cả có thể là đúng, cho khó khăn mà chúng ta đối mặt: giải thích sự xuất hiện của sự thiết kế (thấy bên ngoài) nhưng không cần viện dẫn một người thiết kế.
D 8.9, KS 185
Do đó, thật vô nghĩa khi nhấn mạnh vào những công dụng của những bộ phận trong động vật hay thực vật và sự điều chỉnh kỳ lạ của chúng với nhau. Tôi thực sự muốn biết làm sao một động vật có thể hiện hữu, nếu những bộ phận của nó đã không điều chỉnh như vậy? Không phải là chúng ta thấy rằng nó sẽ ngay lập tức sụp đổ và ngừng hoạt động ngay khi nào điều chỉnh này chấm dứt, và vật chất của nó, một khi phân hủy, bắt đầu tìm kiếm một hình thức mới sao? Quả thực là khi điều đó xảy ra, những yếu tố của thế giới được phối hợp rất tài tình đến mức một số cấu trúc thông thường nhanh chóng khẳng định vật chất đang phân hủy này thuộc về chúng. Và nếu đã không như vậy, liệu thế giới có thể tiếp tục tồn tại không? Liệu nó có sụp đổ giống như loài động vật không—bị phá vỡ và luân lưu qua những trạng thái và sắp xếp khác nhau, cho đến sau một loạt những thay đổi dài nhưng hữu hạn, nó đạt đến hình thức hiện tại của nó hoặc một sự việc gì đó rất giống như vậy.
D 8.10, KS 185
Vâng, Cleanthes trả lời, khi bạn đã nói với chúng tôi rằng giả thuyết này đột nhiên đưa ra trong tiến trình biện luận của chúng ta. Nếu bạn dừng lại để suy nghĩ kỹ hơn về nó, tôi tin rằng bạn sẽ sớm nhận ra những khó khăn không thể vượt qua mà nó kéo theo. Bạn khẳng định rằng không có hình dạng nào có thể tồn tại trừ khi nó đã sở hữu những cơ quan và sức mạnh cần thiết để bảo tồn. Vì vậy, bạn nói rằng thiên nhiên liên tục thí nghiệm những cấu hình mới, từ nỗ lực thất bại này sang nỗ lực thất bại khác, cho đến khi cuối cùng xuất hiện một số sự sắp xếp có thể tự duy trì. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận điều này, thì tất cả những tiện nghi và sự tinh tế mà chúng ta quan sát thấy ở cơ thể con người và thế giới động vật xuất phát từ đâu? Hai mắt, hai tai không hoàn toàn cần thiết cho sự sống còn của chủng loại. Loài người có thể được sinh sôi và bảo tồn nhưng không cần nhưng loài ngựa, chó, bò, cừu và vô số loại trái cây và sản phẩm phục vụ cho sự thỏa mãn và hưởng thụ của chúng ta. Liệu thế giới có sụp đổ nếu không có lạc đà xuất hiện để hỗ trợ con người băng qua những sa mạc cát của Châu Phi và Ả Rập? Hoặc nếu đá nam châm không bao giờ được tìm ra để chỉ hướng cho người đi biển với độ chính xác kỳ lạ như vậy, liệu loài người có diệt vong không? Mặc dù những châm ngôn của Tự nhiên nói chung rất tiết kiệm, nhưng những trường hợp như thế này không phải là hiếm; và bất kỳ trường hợp nào trong số chúng cũng là bằng chứng đủ cho sự thiết kế và cho một sự thiết kế nhân từ, đã tạo ra trật tự hài hòa và sự sắp xếp của vũ trụ.
D 8.11, KS 186
Ít nhất, bạn có thể an toàn suy luận, Philo nói, rằng giả thuyết nêu trên cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện và không toàn hảo; điều tôi sẽ không ngần ngại nhìn nhận. Nhưng có bao giờ chúng ta có thể mong đợi thành công lớn hơn trong bất kỳ cố gắng nào thuộc bản chất này không? Hay có bao giờ chúng ta có thể hy vọng dựng lên một hệ thống vũ trụ học, không có ngoại lệ nào và không chứa bất kỳ hoàn cảnh nào trái ngược với kinh nghiệm giới hạn và không toàn hảo của chúng ta về so sánh loại suy của Tự nhiên? Ngay cả lý thuyết của bạn cũng không thoát khỏi những vấn đề này, mặc dù thực tế là bạn đã dựa vào thuyết nhân hóa để khiến nó có vẻ phù hợp hơn với kinh nghiệm thông thường. Chúng ta hãy một lần nữa đưa nó ra thử thách. Trong mọi trường hợp mà chúng ta từng quan sát, suy nghĩ và ý tưởng đều bắt nguồn từ những gì bên ngoài, chúng là bản sao của những vật thể thực, không phải là những khuôn mẫu gốc. (Để mượn thuật ngữ kỹ thuật, chúng là ectypal, không phải nguyên mẫu.) Nhưng bạn đảo ngược tiến trình này: theo quan điểm của bạn, suy nghĩ xuất hiện trước, và thế giới vật chất được định hình theo hình ảnh của nó. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thực tế, suy nghĩ không bao giờ ảnh hưởng đến vật chất trừ khi nó là một phần của một thực thể mà vật chất và suy nghĩ được kết nối lẫn nhau và ảnh hưởng lẫn nhau và như nhau. Không loài động vật nào có thể di chuyển bất cứ gì ngoại trừ những bộ phận của chính cơ thể nó. Trên thực tế, ảnh hưởng lẫn nhau này - hành động và phản ứng ngang nhau giữa não thức và cơ thể - dường như là một quy luật phổ quát của tự nhiên: Nhưng lý thuyết của bạn lại mâu thuẫn với kinh nghiệm thực tại của chúng ta. Những thí dụ này,và nhiều thí dụ khác có thể dễ dàng thêm vào, đặc biệt là ý tưởng về một não thức hoặc ý thức tồn tại vĩnh cửu (hay nói cách khác, một thực thể không bao giờ sinh ra và không bao giờ có thể chết), sẽ dạy cho tất cả chúng ta phải kiềm chế hơn khi phán đoán những lý thuyết của nhau. Chúng ta nên nhận ra rằng không có lý thuyết nào thuộc loại này được chấp nhận chỉ vì nó giống với thứ gì đó quen thuộc, cũng không nên bác bỏ nó chỉ vì nó bao gồm một sự bất nhất nhỏ. Vì không có hệ thống nào thuộc loại này hoàn toàn không có khó khăn hoặc mâu thuẫn.
D8.12, KS 186-7
Tất cả những hệ thống tôn giáo, người ta nhìn nhận, đều phải chịu những khó khăn nghiêm trọng và không thể giải quyết được. Mọi bên tranh luận dường như đều thắng thế, khi họ tấn công đối phương của họ. Trong khi tiến hành một tấn công và phơi bày những phi lý, man rợ và giáo điều tệ hại của đối phương. Nhưng tất cả chúng, nhìn chung, đều chuẩn bị một chiến thắng hoàn toàn cho người hoài nghi; người nói với họ rằng không nên chấp nhận bất kỳ hệ thống nào liên quan đến những đề tài như vậy: Vì lý do rõ ràng, rằng không nên chấp nhận bất kỳ phi lý nào liên quan đến bất kỳ đề tài nào. Một sự bất ngờ hoàn toàn của phán đoán ở đây là nguồn lực hợp lý duy nhất của chúng ta. Và nếu, như thường thấy, mọi tấn công do những nhà gót học thực hiện—mỗi người chỉ trích những học thuyết hay lập luận của những nhà gót học khác—đều thành công, trong khi không có biện hộ nào chứng minh được hoàn toàn thuyết phục, thì chiến thắng của người hoài nghi, người tham gia cùng toàn thể nhân loại trong cuộc tấn công nhưng không bao giờ cam kết với một lập trường cố định của riêng mình, phải trọn vẹn đến mức nào. Người này không tuyên bố có lãnh thổ, không có học thuyết cố định, vì vậy người này không thể bị đánh bại. Người này không nắm giữ 'thành phố' nào để những người khác có thể bao vây.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Mar/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] “The soul of the world” (Latin: anima mundi): ý tưởng cho rằng vũ trụ như một tổng thể thì giống như một sinh vật sống, có một linh hồn phổ quát duy nhất tác động và sắp xếp. Ý tưởng này từ Plato (đặc biệt trong Timaeus).
[2] Hesiod: nhà thơ Hy Lạp thời kỳ đầu (thế kỷ thứ 8–7 trước Công nguyên), tác giả của Theogony, một vũ trụ học mô tả cách vũ trụ và những vị gót xuất hiện qua sinh sản thành những phả hệ. Ví dụ, Gaia (Trái đất) sinh ra Uranus (Bầu trời), và từ đó xuất hiện những Titan, những vị gót và con người. Hume dẫn điều này để cho thấy rằng thuyết về vũ trụ học dựa trên sinh sản rất phổ biến trong lịch sử. (b) Trong Timaeus, Plato tưởng tượng vũ trụ là sản phẩm của một nghệ nhân thần thánh (Demiurge), người áp đặt trật tự lên vật chất đã tồn tại từ trước. Tuy nhiên, đàm thoại này cũng mô tả vũ trụ như một sinh vật sống có linh hồn, dùng những ẩn dụ sinh học. Hume nhắc đến điều này như một mô hình mờ nhạt, một phần phù hợp với loại suy về thế hệ/sinh vật của chính ông, mặc dù ông có ý chế giễu nhẹ sự mơ hồ trong Plato.
[3] Trong vũ trụ luận Hindu và Veda, đặc biệt là trong tư tưởng Upanishad, vũ trụ đôi khi được mô tả là được tạo ra theo cách tương tự như cách một con nhện giăng tơ của nó – từ bên trong chính nó, mà không cần bất kỳ vật liệu bên ngoài nào. Ẩn dụ này xuất hiện trong những văn bản như Mundaka Upanishad, trong đó có đoạn: “Như một con nhện tung ra và kéo vào (lưới của nó), như cây cối mọc lên từ đất, như tóc mọc ra từ một người sống, vũ trụ cũng xuất hiện từ Brahman bất diệt.”
Ở đây, Brahman (thực tại tối thượng hoặc linh hồn thế giới) giống như con nhện: vũ trụ phát ra từ nó, được nó duy trì và có thể được rút trở lại vào nó. Ẩn dụ này nhấn mạnh đến sự tự sinh, phi nhị nguyên và sự nội tại của thần thánh trong vũ trụ.
Philo thực hiện một thí nghiệm tư tưởng: nếu có một hành tinh hoàn toàn do loài nhện thông minh sinh sống, thì phép so sánh về loài nhện (vũ trụ được tạo ra từ cơ thể của một con nhện) sẽ có vẻ tự nhiên và thuyết phục đối với chúng như phép so sánh về máy móc và nhà thiết kế đối với con người như Cleanthes. Quan điểm của ông là phép so sánh ưa thích của chúng ta (ví dụ: máy móc → nhà thiết kế) không phải là chân lý phổ quát, mà dựa trên dạng sống và kinh nghiệm cụ thể của chúng ta. Đối với loài nhện, thế giới của chúng sẽ khiến chúng suy ra một đấng sáng tạo giống loài nhện (Nhện Gót) – cũng giống như chúng ta suy ra một nhà thiết kế giống con người (Người Gót).
[4] Cleanthes đưa ra luận chứng thiết kế, cho rằng vũ trụ, với trật tự và sự phức tạp tinh vi, giống như một cỗ máy. Cũng giống như một chiếc đồng hồ, với những thành phần chính xác và mục đích rõ ràng, chỉ ra sự hiện hữu của một người thợ làm đồng hồ, Cleanthes lập luận rằng vũ trụ cũng chỉ ra một nhà thiết kế—Gót. Lập luận này dựa trên kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta khi nhìn thấy thiết kế có chủ đích trong những vật thể do con người tạo ra. Từ đó, Cleanthes kết luận rằng vũ trụ hẳn đã được một hữu thể thông minh tạo ra, người đã thiết kế nó với một cứu cánh.
Ngược lại, giả thuyết của Epicurus, đưa ra một giải thích theo thuyết tự nhiên về nguồn gốc của vũ trụ. Theo thuyết này, vũ trụ gồm những nguyên tử vĩnh cửu chuyển động ngẫu nhiên qua một khoảng không trống rỗng. Trong thời gian vô hạn, những nguyên tử này kết hợp theo vô số cách thức, và nhờ sự ngẫu nhiên thuần túy, vũ trụ—và mọi sự vật việc trong đó, gồm sự sống, ý thức và trật tự—xuất hiện. Lý thuyết này bác bỏ nhu cầu về một nhà thiết kế và thay vào đó quy sự hiện hữu của vũ trụ cho sự ngẫu nhiên và chuyển động của vật chất. Nó cho rằng mọi hiện tượng, thậm chí cả trật tự của thế giới, đều phát sinh từ những quy luật tự nhiên và sự tác động hỗ tương mù quáng của những phân tử vật chất.
Philo giới thiệu một sửa đổi của giả thuyết Epicurus, thêm một lớp phức tạp nữa. Trong khi lý thuyết ban đầu cho rằng vật chất vô hạn và thời gian vô hạn, Philo đưa ra một dạng thức hơi khác: nếu vũ trụ có vật chất hữu hạn nhưng thời gian vô hạn, thì về cơ bản kết quả là giống nhau. Trong một khoảng thời gian vô hạn, mọi sự kết hợp có thể có của vật chất sẽ xảy ra lập đi lập lại. Philo giải thích rằng mọi sự sắp xếp có thể có của những hạt phân tử vật chất, bất kể phức tạp đến đâu, cuối cùng cũng sẽ xảy ra—điều này gồm cả việc tạo ra những thế giới, như thế giới của chúng ta. Tiến trình này không diễn ra qua thiết kế, nhưng qua sự lập đi lập lại vô tận của những kết hợp ngẫu nhiên trong thời gian vô hạn. Trong dạng thức này, trật tự của vũ trụ có thể chỉ đơn giản là kết quả của thời gian vô hạn và vật chất hữu hạn, thay vì công việc có chủ đích của một đấng sáng tạo thông minh. Việc Philo sửa đổi thuyết Epicurus, thách thức luận chứng thiết kế của Cleanthes bằng đưa ra một quan điểm cạnh tranh, dựa trên những nguyên lý tự nhiên và thời gian vô hạn. Bằng cách cho thấy rằng có những giải thích khác, như thuyết Epicurus này, cũng có thể giải thích cho trật tự của vũ trụ, Philo đặt ra sự hoài nghi về tính duy nhất của luận chứng thiết kế. Ông cho rằng ngay cả một lý thuyết có vẻ vô lý như thuyết Epicurus cũng có vẻ hợp lý khi xem xét thời gian vô hạn và tính ngẫu nhiên của những hạt phân tử vật chất.
[5] Tạm gọi phần này là Giả Thuyết Chuyển Động Vĩnh Cửu của Philo, trong thừa nhận rằng đó là một tên gọi ngày nay gán cho thuyết vũ trụ luận tự nhiên của ông nói trên: ý tưởng rằng vật chất chuyển động vĩnh cửu, qua vô số hoán vị, đôi khi rơi vào những mô hình ổn định, có trật tự có vẻ như được thiết kế nhưng không phải là sản phẩm của một sự thiết kế. Giả thuyết này là một giải pháp thay thế trực tiếp cho Lập luận thiết kế và Philo dung nó để chỉ ra rằng trật tự rõ ràng có thể phát sinh mà không cần viện dẫn đến trí thông minh thiêng liêng, do đó thách thức suy luận từ trật tự đến người thiết kế
[6] Form: Một cấu trúc tương đối ổn định và có tổ chức mà vật chất hình thành - chẳng hạn như một sinh vật sống, một hệ hành tinh hoặc bất kỳ cấu trúc bền vững nào - có những bộ phận bên trong và quan hệ bên ngoài cho phép vật chất tồn tại trong một thời gian bất chấp sự thay đổi và chuyển động liên tục trong vũ trụ..