(Triết Học của Toán
Học)
Stewart
Shapiro
4
NHỮNG ĐỐI LẬP GẦN: KANT VÀ MILL
1. Định hướng lại
Chúng ta tiếp tục câu chuyện còn dở dang của chúng ta trong thế kỷ 18, với Immanuel Kant. Tất
nhiên, đã có hoạt động triết học đáng kể trong thời Cổ, sau Aristotle và qua thời Trung cổ,
nhưng nó đã không nhiều tập
trung trực tiếp trên toán học.[1]
Thế kỷ 17 đã thấy những cách mạng lớn
trong khoa học và toán học, qua những người như Rene Descartes, Isaac Newton và
Gottfried Wilhelm Leibniz. Kant đã trong một vị trí để nhận lấy sự đo lường triết học của những phát triển khoa học
mới. Những đòi hỏi của vật lý đang nổi lên đã dẫn đến sự phát triển của những
nhánh toán học mới và đến những
khái niệm
mới của những
nhánh toán học truyền thống. Những sáng kiến chủ yếu gồm những phương pháp mới của toán phân tích liên kết
hình học với đại số học và
số học (Pierre Fermat và Descartes), và sự phát triển của calculus
(Newton và Leibniz) cho sự nghiên
cứu của lực
hấp dẫn và chuyển động. Nghiên cứu vừa kể sau đòi hỏi những khái niệm về liên tục, đạo hàm
và giới hạn, trong số đó không khái niệm nào đặt vừa vặn được vào trong những mô hình toán học trước đó. (Xem Mancosu 1996 cho một giải quyết minh bạch về toán học và triết
học của nó trong thế kỷ 17).
Ở thời đó, có hai trường phái triết học lớn.
Trên lục
địa Europe, những người theo thuyết duy lý như Descartes, Baruch Spinoza
và Leibniz đã là
những người thừa kế tự nhiên của Plato. Họ đã nhấn mạnh vai trò của lý trí, như đối lại với kinh nghiệm giác quan, trong việc
thu nhận kiến thức. Những dạng cực đoan của cái nhìn này tuyên bố rằng tất cả kiến thức, hoặc trong lý tưởng, phải là dựa trên lý
trí. Mô hình duy lý cho việc
thu thập kiến thức là toán học – đặc biệt là chứng minh toán học.
Thí dụ: Ethics của Spinoza có cùng hình thức như Elements
của Euclid, chứa ‘những
mệnh đề’ và ‘những chứng minh’. Phần lớn công
trình triết học của Descartes là một cố gắng để đem cho khoa học cùng mức độ của chắc chắn như toán học. Khoa học thì giả định là được thành lập
trên những nguyên lý đầu
tiên của triết học [2].
Descartes đã gắng thử
một suy diễn theo kiểu toán học của những luật của chuyển động. [3]
Thuyết duy nghiệm,
đối lập chính với thuyết duy lý, là một cố gắng để dựa kiến thức, hay những
vật liệu
từ đó kiến thức đã dựa vào chúng,
trên kinh nghiệm từ năm
giác quan. Trong giai đoạn
đang bàn, những người viết lớn
là John Locke, George Berkeley, David Hume và Thomas Reid, tất cả họ đều sống ở quần đảo Britain, Một chủ đề duy nghiệm phổ
thông là bất cứ gì chúng ta biết về thế giới phải cuối cùng đều đến từ sự quan sát
trung lập và lãnh đạm.
Sự tiếp
cận duy nhất với vũ
trụ là qua tai, mắt,
v.v. của chúng ta. Những người theo thuyết duy nghiệm
đôi khi trình bày một hình ảnh của não thức như một tấm bảng trắng, trên đó thông tin được in
sâu, qua những giác quan. Chúng ta là những người quan sát thụ động, sàng lọc qua những dữ liệu đi đến, cố gắng để tìm hiểu ý nghĩa của thế giới xung quanh chúng ta.
Không có giải thích triết học chi tiết quan trọng nào đáng kể về toán học trong giai đoạn này. Tất
nhiên, những người theo thuyết duy lý, đã ngưỡng mộ toán học, và chính những Descartes và
Leibniz đều là
những nhà toán học lớn. Những người theo thuyết duy nghiệm có khuynh hướng hạ thấp sự quan trọng của toán
học, có lẽ vì nó không phù hợp dễ dàng với khuôn mẫu thu thập kiến thức của họ.
Berkeley đã khởi động
một tấn công kéo dài trên sự chính xác nghiêm ngặt được
giả định
của calculus về sự thay đổi liên tục. [4] (xem Jesseph 1993). Tuy nhiên, trước vai trò của toán học trong những
ngành khoa học, những người theo thuyết duy nghiệm phải đưa ra một số giải
thích về nó.
Những
nhận xét triết học rải rác về toán học ngạc nhiên cho thấy một lượng đồng
ý lớn
giữa hai trường phái lớn. Cả những người theo thuyết duy lý và những người theo
thuyết duy nghiệm đều coi toán học là về những độ lớn vật lý, hay những đối tượng mở
rộng. Những đối tượng đã tiếp xúc
qua kinh nghiệm. Hai trường phái khác nhau trên sự tiếp cận của não thức với những ý tưởng của những đối
tượng mở rộng và về trạng thái của việc suy luận
về những ý tưởng đó. Thí dụ, Descartes chủ trương rằng chúng ta có nhận thức rõ
ràng và phân biệt
về phần mở rộng thuần túy vốn ẩn
chìm trong những
đối tượng vật chất, và ông chủ trương rằng chúng ta có thể lý luận trực tiếp về
phần mở rộng thuần túy này. Cái nhìn này
chứng thực xác quyết duy
lý rằng trí tuệ con người là một dụng cụ đắc lực
cho việc
lý luận –
về toán
học – đem hỗ trợ quan trọng cho những kết luận tiên nghiệm về thế giới
vật lý.
Những
người theo thuyết duy nghiệm đã nhận những
ý tưởng toán học là đã bắt
nguồn từ kinh nghiệm, có lẽ đi theo
Aristotle. Thí dụ, ý tưởng của chúng ta về số 6, đến
từ kinh nghiệm của
chúng ta với những nhóm gồm 6 đối
tượng. Ý tưởng của ‘hình tam
giác’ đến từ
việc nhìn vào những
vật thể hình-tam
giác. Với người theo thuyết duy nghiệm, không có “sự mở rộng thuần túy” thực chất
nào ẩn chìm
trong những
đối được tri giác.
Chỉ có những đối tượng được tri giác.
Những gì bạn trông thấy
là những gì bạn có được.
Mặc dù những điều này và những khác biệt
khác, một người theo thuyết duy nghiệm điển hình có thể đồng ý với một người
theo thuyết duy lý điển hình rằng, một khi có được những ý tưởng liên quan, sự theo đuổi kiến thức toán học thì độc
lập với bất
kỳ kinh nghiệm thêm hơn nào
khác.
Nhà toán học suy ngẫm tìm xem
những ý tưởng toán học khác nhau liên quan với nhau thế nào. Thí dụ, trong Treatise
on Human Nature, Hume nhắc đến những
đúng thật của số học và đại số học như ‘những
quan hệ của những
ý tưởng’ và
phân biệt chúng với
‘những
sự vật việc của thực tế và hiện hữu’, vốn chúng ta học biết qua kinh nghiệm [5]. Hình học là một khoa học duy nghiệm, đã giả
định có quan tâm với những khái quát hóa từ kinh nghiệm.
Mười năm sau, trong quyển An Enquiry Concerning Human Understanding phổ
thông của ông, Hume
tuyên bố rằng số học, đại số học và
hình học đều tất giống
nhau, chúng đều (đơn
thuần) quan tâm với những quan hệ giữa những ý tưởng, và
do đó chúng không
là duy nghiệm.
Nền tảng chung giữa
những trường phái, ít
nhất trong một
ý hướng nào
đó, là những đúng thật toán học là tiên nghiệm,
hay độc lập với kinh nghiệm. Tranh luận chính là cho đến
mức độ
nào kinh
nghiệm giác quan thì cần thiết để
có được hay thấu hiểu những
ý tưởng liên quan và để nghiên
cứu chúng.
Sự
đúng thật
trong toán học ít nhất hiện ra như có
một tất yếu nhất định nào
đó đã gắn
với nó. Trong điều kiện nào 5
+ 7 có thể không
là 12? Định lý lấy thừa
số nguyên tố có thể sai như thế nào?
Thuyết duy lý đem cho một giải thích suông sẻ về điều này, dọc những đường suy
nghĩ ‘gập ghềnh’ theo Plato. Không có bất ngờ
hay ngẫu
sinh nào trong
những ý tưởng toán học nắm bắt được về tinh thần, giống như sự mở rộng thuần
túy, vốn nằm
chìm dưới những đối tượng vật lý. Tất nhiên,
chúng ta có thể sai lầm trong nắm
bắt của chúng
ta về những
ý tưởng toán học hay trong gắng
thử một bằng
chứng,
nhưng, nếu
được thực hiện đúng cách, phương pháp luận của toán học mang lại chỉ những đúng
thật tất yếu.
Tất nhiên viễn tượng này
không dành cho những người theo thuyết duy nghiệm, và họ không có một giải thích rõ
ràng dễ hiểu như
vậy về tính tất yếu
dường có của toán học. Một số họ có thể chủ
trương rằng những mệnh đề toán học cơ bản là đúng theo định nghĩa, một kết luận
vốn một người theo thuyết duy lý sẽ cảm thấy thất vọng vì nó bỏ lại
toán học với không thực chất. Hume lưu ý rằng chúng ta
không thể tưởng tượng hay
khai triển một ý niệm về
những phủ định của những định lý toán học điển hình, nhưng điều này xem dường
như là một chủ trương yếu
trên tính tất
yếu của
toán học. Có phải chỉ một sự giới
hạn tâm lý ngẫu nhiên vốn ngăn
cản chúng ta với việc hình
dung những sự
vật việc trong bất
kỳ cách nào
khác?
Việc
dùng toán học mới trong khoa học đã mang đến sức mạnh mới cho những vấn đề của
tính ứng
dụng của toán học với thế
giới vật lý. Ở đây thuyết duy nghiệm đã làm tốt hơn. Theo trường phái đó, những
ý tưởng toán học được ‘đọc
ra’
khỏi những thuộc tính của những đối tượng đã quan sát, và những nhà toán học
nghiên cứu những quan
hệ giữa những ý tưởng này. Đó là,
những người theo thuyết duy nghiệm chủ trương rằng nhà toán học nghiên cứu gián
tiếp những quan hệ vật lý nhất định nào đó giữa những đối tượng vật lý đã quan sát. Giải thích này thì không có sẵn
sàng với một
người theo thuyết duy lý. Vấn đề của người này là để cho thấy những thực thể toán học vĩnh
cửu, nắm bắt bẩm sinh có liên
hệ thế nào
với những đối tượng chúng ta tri
giác trong
thế giới quanh chúng ta, và
nghiên cứu trong khoa học. Do đó, người theo thuyết duy nghiệm của chúng ta đi theo Aristotle, với một giải
thích rõ ràng không
khúc mắc về
sự tương ứng giữa những đối tượng vật lý được quan
sát và những tương ứng của chúng, trong khi người theo thuyết
duy lý của chúng ta đi theo
Plato, với một giải thích đơn
giản về sự không tương ứng giữa những đối tượng của giác quan và
những tương ứng toán học của chúng, như những vòng
tròn và hình tam giác toàn
hảo, và có lẽ những con số
lớn.
2.
Kant
Sự
xung đột giữa
thuyết duy lý và thuyết duy nghiệm đem đến một động lực trung tâm
cho cố gắng của
Kant trong một tổng hợp vốn
thâu tóm
những khía cạnh
đặc biệt giá trị
nhất của mỗi thuyết.
Kết quả đã là
một cố gắng hào hùng để
giải thích hay cung cấp không gian cho tính tất yếu của toán học và bản chất tiên
nghiệm của đúng thật toán học, trong khi giải thích hay đem
cho vị
trí của toán học trong khoa học thực nghiệm và đặc biệt trong
tính có thể ứng
dụng của toán học với thế giới vật lý được quan
sát. Vấn đề của Kant đã là
để cho
thấy toán học có
thể biết được tiên
nghiệm như thế nào, và lại
vẫn áp
dụng được phổ quát – cho tất cả kinh nghiệm – với sự chắc chắn không thể sửa chữa
được.
Những cái nhìn của
ông về toán học không là một thành phần tách rời của toàn bô triết học của ông. Ngược lại, những
nhắc dẫn toán
học diễn ra suốt trong mọi văn
bản triết
học của ông. Thế nên,
một chìa
khóa quan trọng để hiểu Kant là để hiểu
những cái
nhìn của
ông trên toán
học.
Người
đọc nên lưu
ý rằng, ngay cả nếu phác
lược sau
đây quả thực có nêu lên một vài chủ đề của triết học của toán học phức tạp và
tinh tế của Kant, nó mới chỉ là những
‘cào xước’ (bàn luận thiếu chiều sâu) ngoài mặt. Hơn nữa, có nhiều những bất
đồng giữa
những học giả (xem những mục được nói đến ở cuối chương này, để bắt đầu). Những
diễn giải tạm nêu lên
dưới
đây dựa trên một số công trình của
họ, và tôi đã cố gắng hoặc ghi
nhận những bất đồng chính
hoặc tránh
xa khỏi chúng.
Tuy nhiên, không thể tránh được rằng
những phần của một diễn
giải bất kỳ nào sẽ bất đồng với một số nghiên cứu
học thuật chú ý nổi
bật.
Đặc
điểm lôi cuốn và
khó khăn nhất
trong triết học của toán học của Kant là luận điểm của ông rằng sự đúng thật của hình học,
số học và đại số là ‘tổng hợp tiên
nghiệm’, được thành lập trên
‘trực
giác’.
Thế nên,
những khái niệm then chốt là
kiến thức tiên nghiệm, sự phân biệt tương phản phân tích-tổng hợp và khả
năng của
trực giác.
Đối
với Kant, một mệnh đề phổ quát (trong dạng
‘Mọi
S đều là P’)
là phân tích nếu khái niệm vị ngữ (P)
thì chứa
trong khái niệm chủ ngữ (S); nếu không thì mệnh đề là tổng hợp. Thí dụ, ‘tất
cả những người độc
thân đều chưa-lập gia đình’
là phân tích nếu khái niệm chưa-lập gia đình thì có trong khái niệm của
người độc
thân.
‘Tất
cả mọi người đều chết’ là
phân tích nếu khái niệm chết thì có trong
khái niệm con người. Vì là phái nam (có
lẽ) không là phần của khái niệm của làm Tổng thống, nên ‘tất cả những Tổng thống là phái
nam’ là
tổng hợp.
Như
bây giờ chúng ta biết, không phải mọi mệnh đề
đều có một dạng
chủ ngữ – vị ngữ, và do đó, nhìn dưới ánh sáng thời nay, định nghĩa về phân tích của Kant là không-tự nhiên và kìm hãm
ngột ngạt. Ông có
nhìn nhận những
dạng khác
của phán
đoán, sau khi đề nghị
rằng sự áp dụng của
sự phân biệt phân
tích-tổng hợp với những phán đoán phủ định thì đơn giản (Critique of Pure Reason, A6 / Bl 1), nhưng ông không nói gì
khác nhiều.
Thế còn những mệnh
đề giả thuyết như ‘nếu
bây giờ trời đang mưa, thì hoặc trời
đang mưa hoặc trời đang
có mưa tuyết?
Đây không là chỗ để đề nghị
những cải tiến hay
những mở rộng của sự
phân biệt
của Kant, nhưng chúng ta cần phải xem xét cơ bản của nó. [6]
Vị thế
siêu hình của phân
tích những đúng
thật của Kant
mở ra bản
chất của những khái niệm. Chúng ta không cần đào sâu hơn vào
trong điều
này, ngoài việc lưu
ý rằng luận điểm của Kant có giả
định-trước rằng
khái niệm có những phần (ít
nhất là theo nghĩa ẩn dụ), vì nếu không thì chúng ta không thể nói về một khái
niệm ‘chứa
đựng’
một khái niệm khác. Những vấn đề liên quan ở đây là tri thức học. Kant tin rằng những phần của khái
niệm được nắm bắt qua một tiến trình tâm lý của phân tích khái niệm. Thí dụ, khi
trình bày một mệnh đề trong ở dạng ‘Tất cả S là P’, chúng ta phân tích khái niệm chủ ngữ
S để xem vị ngữ P có nằm trong số những phần hay không. Chúng ta biết rằng tất
cả ‘những
người độc thân đều
chưa lập gia đình’ bằng
việc phân tích người độc thân
và biết rằng nó có chứa ‘chưa
lập gia đình’.
Vắn tắt,
bất kể khái niệm là gì, Kant chủ trương rằng bất kỳ một ai nắm giữ
một
khái niệm thì trong một vị thế để thực hiện sự phân tích và xác định những thành phần
của nó. Phân tích khái niệm khai quật được những
gì đã ẩn chìm trong những khái niệm: Những phán đoán phân tích ... có thể được
gọi là làm sáng
tỏ.
Vì chúng không
qua vị ngữ để thêm
bất cứ gì vào khái niệm của chủ
ngữ; đúng hơn chúng chỉ
mổ xẻ khái niệm, chia nhỏ nó thành những khái niệm thành phần, vốn đã được nghĩ trong nó rồi (Critique
of Pure Reason, B11). Vì vậy, phân tích khái niệm không mang lại kiến thức
mới về thế giới. Theo một ý hướng nào
đó, nó không bảo cho chúng
ta biết gì cả, hay không có gì mới.
Điều là đơn giản
dễ hiểu rằng
những đúng
thật phân tích đều là biết
được tiên nghiệm.
Cho A là một đúng thật phân tích. Bất cứ ai nắm được những khái niệm trình bày
trong A thì trong một vị trí để xác định những phần của chúng và do đó sự đúng thật của A. Không cần
thiết có kinh
nghiệm cụ thể nào về thế giới, ngoài những gì cần thiết để nắm được những khái
niệm tất yếu.
Kant
lưu ý rằng một số ít những
mệnh đề toán học
là phân tích.
Thí dụ, hãy xem xét ‘tất
cả những tam giác đều có ba góc’ hay
có lẽ ‘tất
cả những tam giác đều có ba cạnh’ [7],
hay ‘tất
cả những tam giác đều đồng dạng’.
Tuy nhiên, Kant chủ trương rằng hầu hết tất cả những mệnh đề toán học đều là tổng
hợp. Phân tích khái niệm, chỉ mình nó, thì không
xác định rằng ‘7
+ 5 = 12’,
hay ‘giữa
hai điểm bất kỳ có thể vẽ được một đường thẳng x’, hay rằng ‘một đường thẳng là khoảng cách ngắn
nhất giữa hai điểm’.
Xem xét những
khái niệm tương ứng với 7, 5, 12, phép cộng, định tính, điểm và đường thẳng sẽ không mở
ra sự đúng
thật của những mệnh đề này.
Để
thấy tại
sao Kant đã nghĩ rằng
phân tích khái niệm thì không
đủ để thiết lập nhiều những mệnh
đề toán học, chúng ta chú ý tới tri thức học của Kant. Ông chủ trương
rằng những mệnh đề tổng hợp đều có thể
biết được chỉ qua
‘trực
giác’,
và vì vậy chúng ta phải quay sang
khái niệm đó.
Trực
giác theo Kant
có hai thuộc tính đặc biệt,
dù những học giả không đồng ý về sự quan trọng tương đối của mỗi chúng. Đầu
tiên, trực giác là cá biệt/đơn lẻ,
trong ý hướng rằng chúng
là những phương
thức của việc hình dung cho những đối tượng cá biệt. Thật vậy, trực giác là thiết yếu cho kiến thức của những đối tượng cá biệt. Ngược lại, phân tích khái niệm thì không cá biệt,
và chỉ đưa ra những
sự đúng thật tổng quát.
Chúng ta biết từ phân
tích khái niệm, rằng tất cả những người độc thân đều chưa lập gia đình, nhưng bằng cách
đó
chúng ta không biết có bất kỳ những người
độc thân nào hay không, cũng không quen biết với bất kỳ một người độc thân nào. Trong bàn luận về luận chứng
bản thể học cho sự hiện hữu của Gót, Kant biện luận
rằng chúng ta
không thể tìm hiểu về sự hiện hữu của bất cứ gì chỉ bằng sự phân tích khái niệm mà
thôi (Critique of Pure Reason, B622-3). Để điều
chỉnh luận điểm này với toán
học, giả đỉnh rằng một ai
đó muốn chứng minh rằng có một số nguyên tố lớn hơn 100. Theo cách thức
điển hình toán học, người ấy giả định rằng mọi
số tự nhiên trên 100 đều là những hợp
số (số nguyên có nhiều hơn hai ước số) và dẫn đến một
mâu thuẫn. Vì vậy,
có lẽ người ấy đã thiết lập một đúng thật phân tích rằng không là trường hợp
xảy ra rằng tất
cả những số trên 100 đều là những hợp
số. Nhưng chúng ta chỉ nhận được sự hiện hữu của một số nguyên tố nếu chúng ta biết
rằng có những số tự nhiên lớn hơn 100. Trong chừng
mức của phân
tích khái niệm, có vẻ như chúng ta vẫn có lựa chọn để bác bỏ giả thiết về
hiện hữu.
[8] Tương tự, chúng ta chỉ biết rằng một
đường chéo của một hình vuông là không so sánh tỉ lệ [9] với cạnh của nó, nếu chúng ta biết rằng có những
hình vuông và những
hình vuông có những
đường chéo. Phân
tích khái niệm không thiết lập điều này. Theo Kant, chúng ta cần trực giác để
hình dung, trình bày
những
con số
(hay những nhóm đối tượng được đánh số) và những dạng hình học, và để tìm hiểu những sự việc
về chúng. Huống chi,
phân
tích khái niệm không thể đem cho (tiềm năng) vô hạn của số và của không gian (xem Friedman 1985).
Vì
vậy, một lý do để coi toán học là tổng hợp là nó giải quyết những đối tượng đơn lẻ như những nhóm của
những sự vật
việc đã đánh số,
những dạng hình
học,
và ngay cả tự thân không gian – vốn
Kant coi là đặc biệt độc nhất, và thấu hiểu
được bằng trực
giác. Tuy nhiên, những quan
điểm của ông sâu xa hơn điều này.
Trong
một đoạn văn nổi tiếng, hay tai tiếng, Kant lập luận rằng những tổng số là tổng hợp:
Đúng
là thoạt đầu một người có thể nghĩ rằng mệnh đề 7 + 5 = 12 là một phân tích đơn
thuần, bởi nguyên
lý mâu
thuẫn, từ khái niệm của một tổng
số bảy
và năm. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ
hơn; chúng ta thấy rằng khái niệm của tổng
số của
7 và 5 chứa không gì
hơn là sự hợp nhất của
hai con số vào thành một; nhưng trong [suy nghĩ] về hợp nhất đó, chúng ta hoàn
toàn không
nghĩ gì cả
rằng con
số duy nhất đó vốn hợp
nhất cả
hai là gì.
Trong suy nghĩ
chỉ đơn thuần về sự
hợp nhất của
bảy và năm, tôi hoàn toàn không
có cách nào đã
nghĩ đến khái niệm mười hai; và cho dù tôi có mổ xẻ khái niệm của tôi về một tổng số có thể
có như
vậy trong bao lâu, tôi vẫn sẽ không bao giờ tìm thấy trong đó con số mười hai.
Chúng ta phải vượt ra khỏi những khái niệm này và tận dụng chúng ta
với trực
giác tương ứng với một trong hai: ví dụ: năm ngón tay của chúng ta hoặc ... năm
dấu chấm. Trong cách
này, chúng ta phải dần dần cộng them, vào khái niệm của số bảy, những đơn vị của năm được cho trong trực
giác ... Trong cách
này, tôi thấy số 12 xuất hiện. Số 5 đó được cộng với 7, điều này
tôi quả thực
đã nghĩ trong khái niệm của một
tổng số
= 7 + 5, nhưng không phải rằng tổng số này bằng với số 12. Do đó, những mệnh đề số học luôn là tổng hợp. Chúng ta nhận thức rõ ràng
hơn về điều này nếu chúng ta lấy những số
lớn hơn. Vì khi đó, là
điều rất
hiển nhiên rằng.
. . chúng ta không
bao giờ có thể tìm thấy. . . tổng số bằng
chỉ đơn thuần mổ xẻ những khái niệm của
chúng ta, tức là, không tự tận dụng trực giác chúng ta. (Critique of Pure Reason, B15-16)
Nhớ
lại rằng với Kant phân tích khái niệm không mang lại kiến thức mới. Đúng hơn,
nó chỉ mở ra cho thấy những gì ẩn chìm trong những khái niệm. Ở đây Kant khẳng
định rằng phép cộng mang
lại kiến thức mới, và cũng thế là sự tổng
hợp.
Kant
chủ trương rằng, mặc dù hầu hết những mệnh đề toán học là tổng hợp, chúng đều được biết tiên nghiệm, độc lập với kinh nghiệm giác
quan.
Điều này có
thể là thế nào?
Cho dù động lực đến từ
toán học hay không, phần lớn triết học tổng
quát của
Kant thì được dành
để cho thấy những mệnh đề tiên nghiệm tổng hợp có thể thực hiện được thế
nào.
Làm thế nào có thể có những đúng thật tiên nghiệm vốn không đặt nền tảng
trong phân tích
khái niệm?
Một đăc
điểm thứ hai của
trực giác theo Kant
là nó đem đến kiến thức
trực tiếp.
Như đã cho
thấy trong đoạn văn về 7 + 5, ít nhất với
con người,
trực giác thì gắn
buộc với
tri thức
giác quan.
Một trực giác điển hình sẽ là nhận thức
vốn làm nền tảng cho phán
đoán rằng bàn tay phải của tôi có năm ngón tay.
Tất
nhiên, trực giác loại này thì thực
nghiệm và kiến thức nó tạo ra thì tùy
thuộc [10]. Chúng ta không học toán theo cách
đó. Kant chủ trương rằng có một dạng trực giác mang lại kiến thức tiên nghiệm của những đúng thật tất yếu. Trực giác ‘thuần túy’ này giao cho những dạng của những
trực
giác duy nghiệm có thể có.
Nghĩa là, trực giác thuần túy là một ý thức về hình thức không-thời [11] của tri thức giác quan thông thường. Ý tưởng
là trực giác thuần túy mở ra cho thấy những giả định
-trước của
kiến thức thực nghiệm, không phức tạp rắc rối của những đối tượng không-thời. Thí dụ, hình học Euclid liên
quan đến cách con người tất yếu nhận
thức không gian và những đối tượng không gian. Chúng ta nắm bắt những đối tượng
trong không gian ba chiều, những vùng bao quanh với những đường thẳng, v.v. Số học liên
quan đến cách con người nhận thức những đối tượng trong không gian và thời
gian, xác định vị trí và phân biệt những đối tượng và đếm chúng. Do đó, số học
và hình học mô tả khung cấu trúc hỗ trợ của nhận thức. Như Jaakko Hintikka (1967:
§18) đã nói, với Kant, ‘sự
hiện hữu của những riêng lẻ [12] vốn lý luận toán học quan tâm với
chúng là
nhờ vào tiến
trình của nó chúng
ta đi đến biết
sự hiện hữu của những riêng lẻ trong tổng
quát. Kant chủ trương rằng tiến trình này là nhận thức giác
quan.
Vì vậy, cấu trúc của lý luận toán học là nhờ vào
cấu trúc của bộ
máy nhận thức của chúng ta’.
Nhớ
lại rằng, với Descartes, ‘mở
rộng thuần túy’
được nhận thức trực tiếp trong những đối tượng vật lý (ít nhất về nghĩa ẩn dụ). Ngược lại, Kant lấy trực giác
thuần túy để quan tâm với
những dạng nhận thức có thể có của con người. Những dạng này không trong những đối tượng vật
lý tự
thân, nhưng trong một ý hướng
nào đó, chúng được
não thức con
người cung cấp.
Chúng ta cấu trúc những nhận
thức của chúng ta trong một
cách thức nhất
định nào đó
Đây
là một đoạn từ Critique of Pure Reason, làm nổi
bật bản
chất của trực giác tiên nghiệm hình học và tính tất
yếu của
toán học. Rõ ràng, Kant coi triết học là hoạt động của phân tích khái niệm, và
ông nêu một
sự tương phản với toán học:
Toán
học đem cho thí
dụ lộng lẫy nhất
của một
lý trí thuần túy tự mở rộng thành công trên
chính nó, không
với sự
giúp đỡ của kinh nghiệm ... Nhận thức triết học là nhận thức duy lý từ
những khái niệm. Nhận thức toán học là nhận thức duy lý từ sự xây dựng của những khái niệm. Nhưng để xây dựng
một khái niệm nghĩa
là để trưng bày
trực giác tiên
nghiệm tương ứng với nó. Do đó, sự xây
dựng một khái niệm đòi hỏi một trực giác không-thực nghiệm.
Hệ quả
là trực giác này, như trực giác, là một đối tượng riêng
lẻ; nhưng như sự xây dựng của một khái niệm (một
trưng bày
phổ quát), nó dù sao cũng phải truyền đạt ... tính hợp
lệ phổ
quát của nó cho tất
cả những trực giác có thể có thuộc cùng khái niệm. Thế nên, tôi xây dựng một tam giác bằng việc
trưng bày đối tượng tương ứng với khái niệm này, hoặc qua chỉ
tưởng tượng trong
trực giác thuần túy hoặc... cũng trên giấy, và do đó cũng trong trực giác duy
nghiệm. Nhưng trong cả hai trường hợp, tôi đều trưng bày đối tượng hoàn toàn
tiên nghiệm, đã không
lấy mô hình cho nó từ bất
kỳ kinh nghiệm nào. Hình vẽ riêng lẻ được vẽ ở đó là thực nghiệm, nhưng vẫn dung để thể hiện khái niệm nhưng không làm yếu đi tính phổ quát của khái niệm. Đối với việc giải quyết trực giác duy
nghiệm này, người ta chỉ tính đến hành động của việc
xây dựng khái niệm
– với nó nhiều
những xác
định là ... không quan trọng: thí dụ, độ lớn của những cạnh và của những góc –
và do đó, một người tóm tắt từ những
sự khác biệt đó vốn không
thay đổi khái niệm của
tam giác ... Tri thức
triết học suy ngẫm cái
riêng lẻ chỉ
trong cái phổ quát. Mặt khác, tri thức
toán học suy ngẫm về cái phổ quát trong ... cái riêng lẻ; tuy nhiên nó vẫn làm như vậy là
tiên nghiệm và bằng phương tiện của lý
trí. (Critique of Pure Reason,
B741-2)
Như thế,
chúng ta gặp một chủ đề được lập lại nhiều lần trong lịch sử triết học của toán
học, sự trừu tượng hóa (xem chương 3, §4).
Người ta có thể nghĩ về trực giác thuần túy của Kant
và tiến trình của trừu
tượng hóa như việc trưng bày những trường hợp điển hình hay những mô thức của
những khái niệm đã cho. Thí dụ, bắt đầu với khái niệm của tam giác, trực giác đem cho cho chúng ta
(tiên nghiệm) một tam giác điển hình. Tương tự, bắt đầu với khái niệm của con số, trực giác đem cho một con số điển hình. Sau việc này, nhà toán học làm việc với những trường
hợp đã trực giác. Tuy
nhiên, như đã cho thấy ở cuối đoạn
văn, đây có lẽ không là những gì Kant
đã nghĩ. Có thể có một điểm hay đường thẳng
điển hình, nhưng đơn giản là không có tam giác điển hình hay mô thức điển hình. Bất kỳ tam giác nào cho trước,
dù được tưởng tượng hay trên giấy, phải là hoặc nhọn,
vuông hay tù, và hoặc lệch,
cân hay đều, và vì vậy bất kỳ tam giác nào đã cho không thể đại diện cho tất cả
những tam giác. Hơn nữa, như Gottlob Frege (1884: §13) sau này đã cho thấy, sự
trừu tượng thô giản này
không có một cơ hội ứng dụng thành công vào số học. Mỗi số tự
nhiên có những đặc tính riêng của nó và chỉ mình nó, và do đó không có số tự nhiên nào
có thể đại diện cho tất
cả những số tự nhiên.
Nhận xét của Kant rằng ‘trong việc giải quyết [một] trực giác duy nghiệm, người ta tính chỉ hành động của việc xây dựng khái niệm’, cho thấy một liên kết với một kỹ thuật phổ thông trong suy
luận diễn dịch. Giả định rằng một nhà hình học làm một minh chứng hình học về những tam giác cân. Người ấy vẽ
một hình tam giác như vậy và lý luận
với
nó. Trong bản văn tiếp theo, nhà hình học của chúng ta chỉ gọi những thuộc tính
của tất cả những tam giác cân và không dùng bất kỳ đặc trưng nào khác của tam giác đã vẽ, chẳng hạn
như kích thước chính xác của những góc hay liệu cạnh đáy thì ngắn
hơn hay dài hơn những cạnh khác. Nếu thành công, kết luận giữ đúng cho tất cả những tam giác cân. Kỹ thuật
này thì phổ thông trong toán học. Một nhà lý thuyết
số học có thể bắt đầu ‘cho
n là một số nguyên tố’
và tiếp tục suy luận với ‘thí
dụ’ n,
dùng chỉ những thuộc tính vốn
đúng với tất cả những số nguyên tố. Nếu người ấy cho thấy rằng n có thuộc tính P, người ấy kết
luận rằng tất cả những số nguyên tố đều có thuộc tính P, có lẽ nhắc nhở người đọc
rằng n là ‘tùy tiện’.
Thực hành này tương ứng với một quy tắc của suy diễn trong
những hệ thống lôgích thời nay, đôi khi được gọi là ‘tổng quát
hóa’ hay ‘giới thiệu phổ quát’[13].
Trong những hệ thống của diễn
dịch tự nhiên, quy tắc là từ một công thức
trong dạng Φ (c) (tức là một vị từ Φ giữ đúng của một riêng lẻ c) người ta có thể suy ra ∀
x Φ
(x) (tức là Φ giữ đúng của mọi
sự vật việc), với điều kiện là hằng số c không xuất hiện trong công thức ∀
x Φ
(x) hay trong bất kỳ tiền đề nào
vốn Φ (c) dựa trên. Những hạn chế
trong việc dùng quy tắc bảo đảm rằng thuật ngữ riêng lẻ c thực sự là tùy tiện bất kỳ. Nó có thể là bất kỳ số nào. Tuy
nhiên, quy tắc suy diễn này
nằm ngoài phạm vi lôgích như Kant đã biết. Kant nổi tiếng khẳng định rằng lôgích
học không cần phải vượt quá những
phương pháp suy luận (tam đoạn luận) của Aristotle. Khi giải
thích Kant, Hintikka (1967) coi ‘những
suy diễn’ giống như
quy tắc tổng quát hóa là thành phần thiết yếu của trực giác toán học. Có nghĩa
là, bất kỳ minh chứng nào vốn thiết
yếu dung quy tắc này đều có một kết luận tổng hợp –
ngay cả nếu những tiền đề của nó là phân tích. Trong những
khung cấu trúc hỗ trợ thời nay, quy tắc tổng quát hóa gợi dậy một thuật ngữ riêng lẻ, hằng số ‘tùy tiện’ được đưa vào bản văn. Sau một thịnh hành, điều này phù hợp đặc điểm vốn trực
giác của Kant đối phó với những đối tượng riêng lẻ. Theo cách giải thích này, nếu
Kant đã học một số lôgích học thời nay, ông sẽ
hoặc rút lại luận điểm chính của ông rằng toán
học là tổng hợp, hoặc, nhiều phần xảy
ra hơn,
ông sẽ tuyên bố rằng dưới ánh sáng của lôgích
(của chúng ta), một suy diễn hợp
lệ có thể có những tiền đề phân
tích. và một kết luận tổng hợp, chỉ vì một trong những quy tắc suy luận của
chúng ta gợi dậy một
thuật ngữ riêng lẻ (xem
thêm chú thích 3 ở trên).
Tất nhiên, Kant đã buộc trực giác với nhận thức giác quan hoặc, trong trường hợp trực giác thuần
túy, với những hình thức của nhận thức giác quan, và quy luật của tổng quát
hóa không có gì liên hệ cụ thể với một trong hai điều này.
Quy tắc thì hoàn toàn tổng quát. Hintikka giảm thiểu những luận điểm của Kant rằng những trực giác là tức thời và chúng gắn
liền với nhận thức hay những hình
thức của nó. Ông chỉ trích Kant vì có cái nhìn quá hạn hẹp về phạm vi của ‘trực giác’. Hầu hết những nhà bình luận không đi theo Hintikka ở đây, và cố gắng phân định
một vai trò trực tiếp hơn với tính tức thời và
những hình thức của nhận
thức trong triết học của toán học của Kant (xem, thí dụ như Parsons 1969, và
Bài viết tái bản, Parsons 1983: Tiểu luận 5). Hầu hết những học giả đều chủ
trương rằng những tiên đề của hình học là tổng hợp, và do đó trạng thái
của lôgích là không liên hệ.
Chúng ta hãy xem xét một đoạn văn nữa trong đó Kant giải
thích rõ hơn sự khác biệt giữa toán học và phân tích khái niệm của ‘triết học’: [14]
Triết học chỉ tuân theo
những khái niệm phổ quát. Toán học không thể hoàn tất được gì với chỉ đơn thuần khái niệm nhưng ngay lập tức vội vàng đến với trực giác, trong đó nó chiêm
nghiệm khái niệm một
cách cụ thể [15],
thế nhưng không duy nghiệm; đúng hơn, toán học chiêm nghiệm chỉ
khái niệm trong một trực giác vốn nó trưng bày tiên nghiệm – tức là một trực giác vốn
nó đã xây dựng ... Đem cho
một triết gia khái niệm của một
tam giác, và để người ấy khám phá theo cách riêng của ông, liên hệ
của tổng số của những
góc của nó với một góc vuông có thể là gì.
Bây giờ người ấy không có gì ngoài khái niệm của một
hình vẽ có ba đoạn thẳng bao quanh – với hình này – và khái niệm của ba góc tương tự. Bây giờ, bất kể người ấy
ngẫm nghĩ bao
lâu về khái niệm này, người ấy sẽ không tìm ra được điều gì mới. Người ấy có thể
mổ xẻ và phân biệt khái niệm về đường thẳng, về góc, hay về số ba, nhưng người ấy
không thể đi đến bất kỳ tính chất nào khác không liên kết với những
khái niệm này. Nhưng bây giờ hãy để nhà hình học giải đáp câu hỏi này. Người ấy
bắt đầu ngay lập tức bằng việc xây dựng một hình tam giác. Người ấy . . . kéo
dài một cạnh của tam giác này và do đó có được
hai góc kề vốn cùng nhau
chúng bằng hai góc vuông. . . Bây giờ người ấy
chia góc bên ngoài bằng việc vẽ một đường song song với cạnh đối diện của tam
giác; và người ấy thấy rằng ở đây đưa ra một
góc kề bên ngoài bằng với góc bên trong; v.v ... Theo cách này, người ấy đến, bằng
một chuỗi những suy
luận nhưng luôn được trực giác hướng dẫn, đến một
lời giải hoàn
toàn hiển nhiên và đồng thời là lời
giải phổ quát của vấn đề. (Critique
of Pure Reason, B743-5)
Ở đây Kant nhắc đến
chứng minh tiêu chuẩn theo Euclid rằng tổng số những
góc trong một tam giác thì bằng
hai
góc vuông (180 °), thấy trong Quyển 1, Mệnh
đề 32 của Elements
của Euclid. Cái nhìn của Kant thì có tính gợi dẫn. Như đã nói ở trên, phân
tích khái niệm không tạo kiến thức mới nhung chỉ
khơi mở những
gì ẩn chìm trong những khái
niệm. Nó chỉ đơn thuần là ‘mổ
xẻ’ hay ‘làm phân biệt’ những phần vốn đã sẵn có
ở đó. Ngược lại, toán học thực sự tạo
kiến thức mới. Những kết
luận của nó không ẩn chìm trong những khái niệm. Trực giác đem cho cho chúng ta
những thí dụ về những đối tượng hay nhóm đối tượng thể hiện những khái niệm được
nói đến. Có nghĩa là, trực giác tạo ra những hình hình học hay những sưu tập được
đánh số của những đối tượng. Tuy nhiên, đây chỉ là một khởi đầu sơ sài. Chỉ với những thí dụ, nhà toán học
không thể đạt được nhiều hơn những gì sẽ có sẵn từ phân tích khái niệm. Cho đến
giờ, tất cả những gì
người ấy biết về những thí dụ là chúng có những khái niệm đã cho đang được nói
đến, và như thế bất
kỳ khái niệm nào khác có trong chúng. Toán học mở ra
kiến thức mới qua một tiến trình tinh thần tiên nghiệm của sự xây dựng.
Nhà toán học làm việc và hành động trên những thí dụ đã cho, tuân theo
những quy tắc ẩn chìm trong ‘trực
giác thuần túy’.
Hintikka (1967: §8) cho thấy rằng mô thức của Kant là Elements của Euclid,
và là đáng vắn tắt nhìn vào cấu trúc của một chứng minh điển hình theo Euclid. Nó bắt đầu với một ‘nói rõ ra’ của một mệnh đề tổng quát, trong đó nêu lên những gì
sẽ được thiết lập. Mệnh đề 32 của Sách 1 có nội dung (một phần), ‘Trong bất kỳ tam giác nào ... ba góc trong
... bằng hai góc vuông’.
Sau đó, Euclid giả định rằng một hình cụ thể, thỏa mãn giả thuyết của mệnh đề,
đã được vẽ ra. Điều này được gọi là ‘cắm
mốc’ hay
ecthesis. Với Kant, ‘cắm mốc dựng cọc’ này bao gồm trực
giác, như nói trên. Trực giác
đem cho những trường hợp trừn bày
những
khái niệm đã cho. (Xem phần bên trái của Hình 4.1.) Phần thứ ba quan trọng của
phần chứng minh là
chỗ hình được xong xuôi bằng việc vẽ thêm một số đường,
hình tròn, điểm, v.v. Trong thí dụ dưới đây, điều này sẽ là sự kéo
dài của đoạn thẳng AB tới AD
và đoạn BE song song với AC. (Xem bên phải của
Hình 4.1.) [16]
Có lẽ những cấu trúc phụ trợ này là bản chất của trực
giác thuần túy liên quan đến toán học. Nhà hình học (trong trường hợp này là
Euclid) tạo ra những sự vật không có trước đây. Sau đó, Euclid tiếp tục với chứng
minh, hay apodeixis, vốn gồm
một chuỗi những suy diễn liên quan đến hình đã hoàn thành. Trong
thí dụ trên, chúng ta nhận thấy rằng góc ∠ CAB
bằng ∠ EBD (theo định lý trước) và ∠ ACB bằng ∠ CBE.
Như vậy, ba góc của tam giác cộng lại
thì bằng hai góc vuông.
Trong đoạn đã dẫn,
Kant nói rằng những suy luận ‘luôn
luôn
được trực giác hướng dẫn’.
Trực giác liên quan đến việc đọc những sơ đồ và do đó mở ra cho thấy những sự kiện về hình tam giác ban đầu. Phần cuối
cùng, phần ‘chứng
minh’ của phần minh chứng mang lại kiến thức tổng hợp.[17]
Tiếp theo, hãy xem xét những gì Kant nói về 7 + 5 =
12. Lại nữa, phân tích về khái
niệm không mang lại tổng số,
vì không gì trong khái niệm của bảy
và của năm cho chúng ta số mười
hai. Để có tổng số,
chúng ta dùng trực giác có sẵn tương ứng với một trong hai: thí dụ:
năm ngón tay của chúng ta hay ... năm dấu chấm’. Điều này tương ứng với việc ‘cắm mốc’ trong một minh chứng của Euclid. Chúng ta cần một
thí dụ của một sư tập của năm
đối tượng. Tuy nhiên, điều này thì không
đủ, vì chúng ta vẫn chưa có tổng số.
Vì vậy, chúng ta ‘dần
dần cộng, vào
khái niệm bảy, những đơn vị của năm được cho trong trực giác’. Bước quan trọng này, nơi chúng ta tiếp tục
‘cộng’ một đơn vị, tương ứng với sự xây dựng phụ. Do đó, nhà toán học
tạo ra những số 8, 9, 10, 11, và cuối cùng người ấy thấy ‘con số 12 xuất hiện’. Do đó, người ấy xây dựng một
gì đó vốn không
ẩn chìm trong khái niệm ban đầu của tổng
số của 7 và 5, cũng không trong những thí dụ được trực giác đã cung cấp. Charles Parsons (1969)
cho thấy rằng bất cứ khi nào Kant nói về chủ đề này, ông tuyên bố rằng con số,
và do đó số học, liên quan đến sự kế tiếp trong một cách thức quan trọng’.
Ở đây chúng ta thấy số học giải quyết với triển vọng đi đến vô hạn
trong tương lai như thế nào. Chúng ta trực giác rằng chúng ta luôn luôn có thể tiếp tục
đếm.
Để chắc chắn, có một khác biệt quan trọng giữa những
thí dụ hình học và số học của chúng ta. Với những tổng số đơn giản, không có gì tương ứng với ‘giai đoạn chứng minh’ của một minh chứng theo Euclid. Một xay dựng phụ hoàn thành, chúng ta có tổng số và như vậy là xong. Kant đã nêu lên rằng số học không có những tiên đề (thí dụ Critique of Pure Reason, B204--6). Điều này có thể có nghĩa là ông
chủ trương rằng không có những chứng
minh về số học.[18] Tuy nhiên, những tương đồng giữa số học và hình học thì rất nổi bật. Trong cả hai trường hợp, xây
dựng là thiết yếu với
tiến bộ toán học.
Để theo đuổi diễn giải này, hay xây dựng lại giải thích của Kant về
toán học. chúng ta cần tập trung trên bản
chất của xây dựng toán
học. Ý tưởng là trực giác thuần túy hợp thức việc chúng ta khám phá (tiên nghiệm) những có thể có cho hoạt động về xây dựng. Những định đề Euclid phân định những xây dựng có thể có trong không gian. Thí dụ, bất
kỳ đoạn thẳng nào cũng có thể được kéo dài vô hạn, hay trong lời Euclid, nhà hình học có thể tạo ra một
đoạn thẳng hữu hạn liên tục trên một đường thẳng (Định đề 2). Trong số học, một
nguyên tắc tương ứng là bất kỳ số nào cũng có thể được kéo dài đến số kế tiếp. Điều này được dùng trong thảo luận của 7 + 5 = 12. Theo giải thích này, những định
đề cho chúng ta biết nhà toán học có thể làm gì. [19]
Điều này làm toán học chủ yếu là một hoạt động trí óc, và chủ đề-nội dung của nó có thể là hoạt động
tinh thần của con người (xem Parsons 1984). Chúng ta sẽ gặp lại ý tưởng của xây dựng toán học với một số dạng của thuyết
trực giác – có lẽ là triết học của toán học thế kỷ XX gần nhất với Kant (xem
chương 7).
Chúng ta phải thắt chặt liên kết giữa trực giác thuần túy tiên nghiệm
này và nhận thức giác quan thông thường, hay trực giác duy nghiệm. Như trên, trực giác thuần túy phân
định những dạng của sự nhận
thức. Một giải thích là xây dựng toán học mở ra cho thấy những có thể có được của
tri giác trong không gian và thời gian. Thí dụ, số học mô tả những thuộc tính của
những sưu tập đã nhận thức của những đối tượng. Từ viễn tượng này, hình học thì rắc rối khó khănnhiều hơn. Về cách giải
thích được nói đến, những định đề Euclid mô tả những đường có thể có vốn chúng ta có thể thấy. Tuy
nhiên, nếu chúng ta nhìn xuống một đoạn dài của những
đường thẳng song song, chẳng hạn như một cặp đường rầy xe điện, chúng có vẻ như gặp nhau. Nếu chúng ta xoay một vòng tròn, nó
có vẻ như
hình elip. Tóm lại, hình học Euclid không phải lúc nào cũng mô tả không gian hiện ra như thế nào. Tri giác thì phóng chiếu [20],
không phải theo như Euclid. Vì Kant gắn trực giác với tri thức giác quan, và do đó là xuất hiện bên ngoài, ông phải giải quyết sự phân đôi thực tại–xuất hiện bên ngoài này. Có lẽ, một người theo Kant có thể bằng cách nào đó trừu tượng hóa từ những viễn tượng khác nhau của những người quan sát
khác nhau, tìm những gì là phổ biến với họ. Một vấn đề thứ hai là
với những ý tưởng hóa, một vấn
đề chúng ta đã gặp trước đây và sẽ gặp lại. Một người thì đơn giản là không thể nhận thức
một đường thẳng với không
có bề rộng. Với những hình vẽ thực sự (hình
dung qua ‘trực
giác duy nghiệm’), hai đường thẳng, hay một tiếp tuyến với
đường tròn, không gặp nhau ở một
điểm duy nhất, nhưng ở
một vùng nhỏ (được xác định bởi độ dày của những đường; xem Hình. 3.2.). Để giải
quyết vấn đề này, Kant không có lựa chọn nào của Plato là tách thế giới hình học
ra khỏi thế giới vật lý vốn chúng ta đang sống, với thế giới thứ hai chỉ là một
thí dụ kém hơn và không toàn hảo
của thế giới trước. Đó sẽ là một sự sa vào thuyết duy lý, và sẽ cắt đứt ràng buộc
chặt chẽ với tri thức.
Kant lấy hình học để mô tả không gian, và như thế những hình Euclid là những phần của không gian. Chúng ta không thể
nhìn thấy một đường Euclid, vì nó quá mỏng, nhưng dù sao nó cũng là một phần của
không gian. Những đối tượng nhận thức hiện hữu trong không gian và chúng ta chỉ
hiểu nhận thức trong phạm vi vốn chúng ta hiểu được không gian. Hình học nghiên
cứu những dạng của nhận
thức trong ý hướng rằng nó
mô tả không gian vô hạn tạo điều
kiện cho những đối tượng nhận thức. Không gian Euclid này là nền tảng cho nhận
thức, và như thế nó
đem cho những dạng của nhận
thức hay nói theo thuật ngữ Kant là dạng tiên nghiệm của trực giác duy nghiệm. Cách chúng ta tìm hiểu về không
gian tiên nghiệm là bằng việc
thực
hiện những xây dựng trong
trực giác thuần túy và việc chứng
minh những sự vật việc về
những kết quả.
Liên quan giữa những hình vẽ hình học và những đối ứng đã vẽ của chúng là gì? Không
ai có thể phủ nhận rằng những đường đã vẽ
chỉ những đường gần đúng
theo Euclid. Tuy nhiên, Kant nói đến những hình
vẽ, và ‘trực
giác duy nghiệm’
như phần của những minh chứng hình học, theo Euclid. Vậy khi đó vai trò của những hình vẽ trong minh
chứng của Euclid là gì? Một giải thích, có lẽ, là những đường đã vẽ (và nắm bắt qua trực giác duy nghiệm) giúp nhà toán học trong việc tập trung trên những đường Euclid tương ứng. Những xây dựng trên những hình vẽ tương ứng
với những xây dựng đã nắm bắt về tinh
thần trong không gian theo Euclid.
Chắc chắn Kant đã không
nghĩ rằng là cần thiết để thực sự vẽ một hình vẽ trên giấy để nắm một minh chứng theo Euclid. Với một số thực hành, một người trực tiếp đi theo bản văn của một minh chứng – qua mắt nhìn của trí tưởng – không
cần tham khảo sơ đồ. Tương tự, Kant chắc chắn không chủ trương rằng chúng ta phải
nhìn vào một nhóm gồm
năm
đối tượng (chẳng hạn như ‘năm
ngón tay của chúng ta hay ... năm chấm’)
để tính 7 + 5. Chúng ta có thể đếm nhẩm (trong đầu). Tóm lại, những hình vẽ hay sơ đồ được vẽ
trong trực giác duy nghiệm giúp đỡ não
thức trong việc tập
trung trên những dạng tiên
nghiệm của nhận
thức.
Đã đồng ý rộng rãi rằng triết học của toán học của
Kant đã mất đà tiến trên những phát triển về sau trong khoa
học và toán học. Thí dụ phổ thông nhất được dẫn là sự nổi lên và chấp nhận của hình học không-Euclid, và ứng dụng của
nó vào vật lý. Kant đã chủ
trương rằng định đề song song là một sự đúng thật tất yếu tiên nghiệm. Như thế, nó thì không thể sai, thế nhưng, theo vật lý học thời nay – một lý
thuyết thực nghiệm không-thời gian thì được
hiểu nhất như không-Euclid. Có sự
bất đồng giữa
những học giả về phần liệu
Kant có thể cho phép hình học không-Euclid bất kỳ địa vị chính đáng nào không. Một số biện luận rằng ông đã hình dung chỉ một loại của tất yếu, và do đó ông có thể không phân biệt
giữa hình học thuần túy và hình học ứng dụng. Nếu những học giả này đúng, khi đó với Kant hình học không-Euclid là một
hình học không triển vọng.
Tuy nhiên, những người khác gán cho Kant một sự phân biệt giữa khả năng về khái niệm và những gì có thể được gọi là khả năng về ‘trực giác’. Một mệnh đề, hay lý thuyết, về mặt khái
niệm thì có thể có được
nếu sự phân tích của những khái niệm liên quan không cho thấy một mâu thuẫn. Kant có cho phép rằng những tư tưởng nhất định vốn mâu thuẫn với hình học
Euclid là mạch lạc, vì những tư tưởng
đó
không bao gồm một mâu
thuẫn. Ông nói đến một hình mặt phẳng nằm giữa hai đường thẳng. Vì hình học Euclid
là tổng hợp nên hình học không-Euclid có thể có về mặt khái niệm [21].
Tất nhiên, hình học không-Euclid thì không
thể có bằng trực giác, vì hình học Euclid thì tất yếu đúng.
Về giải
thích này của hình học không-Euclid, một người theo Kant sẽ phải cho phép một số học không-tiêu chuẩn có thể có về khái niệm – những gì vốn chúng ta có thể gọi
là ‘số học không-Peano’. Với Kant, 7
+ 5 = 12 là tổng hợp, vì vậy 7 + 5 = 10 và 7 + 5 = 13 là có thể về mặt khái niệm.
Nhưng chúng ta có thể có một toán học ‘thuần túy’ mạch lạc trong đó một (hay ngay cả hai)
trong những điều là
đúng đúng?
Ngay cả nếu sự
xoay vần khéo léo
trong
vấn đề đang bàn chấp nhận cho hình học không-Euclid một
vài địa vị chính
đáng nào đó,
có lẽ như toán học thuần
túy, nó không thích nghi việc dùng nó trong vật lý. Kant đã viết
rằng hình học (Euclid) được hưởng
‘tính hợp lệ khách quan chỉ qua trực giác duy nghiệm,
vốn ... hình thành trực giác thuần túy là của nó’. Nếu đã không vì sự liên hệ với trực giác, hình học sẽ không
có tính hợp lệ khách
quan gì cả, nhưng chỉ
là trò chơi ... bởi sự tưởng tượng hay bởi sự hiểu biết (Critique of Pure Reason, B298). Vì hình học không-Euclid thể đoán chừng đã cắt đứt ràng buộc của
Kant với trực giác, nó chỉ là trò chơi. Đến theo quan điểm của Kant khiến chúng ta biết tiên nghiệm rằng hình học không-Euclid không
thể được áp dụng trong vật
lý.
Có lẽ, một đáp ứng
tốt hơn sẽ là cho
một người theo Kant để rút lại luận điểm rằng định đề song song
là tổng hợp tiên nghiệm. Trạng
thái đặc biệt này được chấp thuận chỉ cho những mệnh đề vốn chúng là phổ thông với Euclid và một
số hình học không-Euclid (tức là tất cả những định đề của Euclid trừ định đề thứ
năm). Có lẽ nó thì không
là một phần ‘cố thủ’ của triết học Kant rằng hình học theo Euclid
là tổng hợp tiên nghiệm. Điều
quan trọng là hình học là tổng hợp tiên nghiệm và trong thời Kant, hình học là theo Euclid. Để tránh bị lúng túng hai lần, người
theo Kant của chúng ta có thể vẫn đề phòng những phát triển tương lai trong vật
lý vốn phủ
định một của những định đề hay
tiên đề khác. Tuy nhiên, điều thắc mắc muốn biết rằng người theo Kant sẽ
thay đổi quan điểm của người này
về
những gì có thể biết được tiên nghiệm để đáp ứng với những phát triển trong một
dự án khó khăn đòi hỏi nỗ lực trí tuệ thực nghiệm như vật lý. Như chúng ta đã
thấy trong chương 1, §3, một người theo thuyết duy nhiên sẽ mong đợi để sửa
đổi quan điểm triết học của người này
dưới ánh sáng của những phát triển của khoa
học và toán học. Triết học là một dự án khó khăn đòi hỏi nỗ lực trí tuệ toàn diện.
Nhưng Kant đã không là người
theo thuyết duy nhiên. Ông ‘vừa
vặn’ với
khuôn của trường phái vốn tôi gọi là triết học-trước tiên
trong chương 1, §2. Kant tự đặt mình
với việc qui định những giả định-trước của kinh nghiệm và của khoa học thực nghiệm. Sự kiện rằng vật
lý không tuân theo những giới hạn
nghiêm ngặt thì có khó khăn sâu xa, trừ khi người theo Kant sẵn sàng để phủ
nhận những phát triển trong vật lý ngoài tầm tay. Có là mạch lạc không để sửa đổi những quan điểm của một người về những gì là tiên nghiệm trong đáp ứng với khoa học thực nghiệm? Những
phát triển khác trong toán học cũng chứng tỏ
gây khó khăn cho những người theo Kant. Thí dụ, sự phân biệt quan trọng giữa tính liên tục và tính
khác biệt và giữa đồng dạng
không đổi và liên tục
theo từng điểm xem dường như không có cơ sở trong trực
giác. Những phân biệt này liên hệ thế nào với những hình thức của nhận thức? những nhánh khác của toán học ứng
dụng và thuần túy đi xa hơn trong việc cắt đứt ràng buộc với trực giác. Chúng
ta có thể liên hệ thế nào toán giải
tích phức, hình học nhiều chiều,
phân tích chức năng và thuyết tập hợp
với
những dạng của nhận thức? Nhiều
những nhánh này của
toán học đã tìm thấy ứng
dụng trong những ngành khoa học. Thật vậy, nhiều đã được phát triển để đáp ứng
với những nhu
cầu của khoa học. Tất nhiên, Kant không có lỗi về điều này vì hầu hết những
phát triển được nói đến xảy ra sau
thời ông, nhưng ông thực đã coi những cái nhìn của ông như đem cho những giới
hạn cho tất cả khoa học trong tương lai. Một người theo Kant thời nay có một khó khăn phải giải quyết.
3. Mill
Bất kể ảnh hưởng đáng
kể của Kant, nhiều triết gia đã tìm thấy. và tiếp tục tìm thấy, ý niệm
của ông về trực giác – và luận điểm đi kèm về sự đúng thật tiên nghiệm tổng hợp – thì khó khăn rắc rối. Theo Alberto Coffa (1991), một đề mục chính trong chương trình bàn luận của triết học trong suốt thế kỷ XIX
đã là để giải thích cho tính tất yếu thoạt nhìn ban đầu và
bản chất tiên nghiệm của toán học và lôgích, nhưng không
phải gọi đến
trực giác theo Kant. Chúng ta có
thể hiểu toán học và lôgích học
độc lập với những dạng của trực
giác về không gian và thời gian hay không? Từ một viễn tượng thực nghiệm toàn bộ, có hai lựa chọn thay thế cho cái nhìn theo Kant, rằng toán học là tổng hợp tiên
nghiệm. Người ta hoặc có
thể hiểu toán học như phân tích,
hoặc hiểu nó khác
đi như duy nghiệm, và như thế là hậu nghiệm. Chương tiếp
theo liên quan đến những nhà lôgích, những người đã theo con đường kể trước. Một số những dạng cụ thể của thuyết hình thức cũng có
thể được hiểu như
một bảo vệ tính phân tích của toán học [22]
(xem chương 6). Bây giờ chúng ta quan tâm với một người theo thuyết duy nghiệm cấp tiến, John Stuart
Mill.[23] Người đã đi theo con đường thứ hai, lập luận
rằng toán học là duy nghiệm.
Ông là người đi trước mở đường đối với một số những giải thích duy nghiệm về toán học, vẫn có ảnh hưởng đến thời nay (xem chương 8, §2).
Như chúng ta đã thấy, những triết gia như Kant đã tự
khám phá những điều kiện tiên quyết và những giới hạn của suy nghĩ và kinh nghiệm
của con người qua những phương pháp độc lập và có trước
khoa học tự nhiên. Họ chủ trương rằng chúng ta cần triết học để xác định nền tảng
cơ bản và những giới hạn tiên nghiệm của tất cả những điều tra thực nghiệm.
Kant tự nhận mình là người tìm ra được khung cấu trúc hỗ trợ của kiến thức thực
nghiệm, mà nhận thức của chúng ta phải tuân theo.
Philip Kitcher (1998) gọi những quan điểm như thế
này là thuyết siêu nghiệm, [24] vì chúng nhìn triết học như vượt lên trên khoa học tự nhiên. Chúng là
những kiểu quan điểm vốn tôi gọi là triết học-trước tiên trong chương 1, §2, dẫn đến rằng, về
mặt khái niệm, triết học xuất hiện trước mọi sự vật việc khác – chắc chắn trước
khoa học theo một thứ tự nền tảng nào đó. Theo quan điểm của Kant, triết học bộc
lộ những giả định-trước của khoa học thực nghiệm.
Quan điểm bây giờ gọi là thuyết duy nhiên chống lại thuyết
nền tảng này [25].
Những người theo thuyết duy nhiên nhìn con
người như phần hoàn toàn của
trật tự nhân quả đã nghiên
cứu trong khoa học. Không có nguồn kiến thức triết học nào đứng độc lập và có trước khoa học tự nhiên. Willard Van Orman
Quine (1981: 72) mô tả đặc điểm
thuyết
duy nhiên như ‘sự
từ bỏ triết học trước-tiên’ và ‘sự
thừa nhận rằng nó nằm trong chính khoa học ... rằng thực tại phải được nhận biết và mô tả’ (xem thêm Quine 1969). Bất kỳ khả năng về tri thức học nào vốn triết gia dẫn
nhắc phải có thể chịu được
sự xem xét kỹ lưỡng thông
thường và khoa học. Tri thức học hòa lẫn vào
trong tâm lý học nhận thức. [26]
Mill là một trong những người theo thuyết duy nhiên nhất
quán nhất trong lịch sử triết học. Chống lại những người theo Kant, ông chủ trương rằng não
thức con người hoàn toàn là một phần của tự
nhiên, và do đó, không có kiến thức quan trọng nào về thế giới có thể là tiên
nghiệm. Ông đã phát triển một tri thức học trên cơ sở duy nghiệm triệt để đó.
Phân biệt của Mill giữa những mệnh đề “nói” và “thực”
xem dường như đã mô
phỏng theo sự phân đôi phân tích-tổng hợp của Kant, hay đúng hơn
là sự phân biệt của Hume giữa “những liên hệ của những ý
tưởng” và “những vấn
đề của thực tế”. Đối với Mill, những mệnh đề nói ra bằng lời đều đúng
bởi định nghĩa. Chúng không có nội dung ban đầu và không nói bất cứ gì về thế giới.
Mill khác với Kant và một số người theo thuyết duy nghiệm khác, chẳng hạn như
Hume trước ông và Rudolf Carnap [27]sau ông, trong chủ
trương rằng những mệnh đề
của toán học – và hầu hết của lôgích – là thực và do đó tổng hợp và duy nghiệm. Trong thuật ngữ của Hume, toán học và lôgích với Mill là về những
vấn đề thực tế.
Không giống như những người theo thuyết duy nghiệm trước
đó và sau này, suy luận cơ bản về tri thức học của Mill là quy nạp liệt kê.
[28] Chúng ta thấy nhiều những con quạ đen và không thấy con nào có bất kỳ màu nào khác, và kết luận rằng tất cả những
con quạ đều màu đen,
và rằng con quạ lần sau chúng ta nhìn thấy sẽ là màu đen. Tất cả kiến thức (thực) về
thế giới đều gián tiếp bắt nguồn
từ những khái quát hóa trên quan sát. Tri thức học toàn diện của Mill thì tinh vi phức tạp, và gồm những nguyên tắc nổi
tiếng của ông về nghiên
cứu thực nghiệm trong khoa học. Liên hệ về tri
thức giữa những quy luật khoa học và những khái
quát hóa từ kinh nghiệm thì đúng hơn là đi đường vòng, không trực tiếp.
Tuy nhiên, tri thức học
cho toán học và lôgích học của Mill thì không phức tạp như thế. Ông chủ trương rằng những quy luật
toán học và lôgích có thể được truy nguồn
trực tiếp đến suy luận quy nạp
liệt kê – những suy luận từ
sự quan sát qua những khái quát hóa trên những gì đã quan
sát.
Ở ít nhất một chỗ, Mill đề nghị rằng những khái quát hóa không công gì thêm cho
sức mạnh của những lập luận, vì tất cả những suy luận quan trọng đều từ ‘những cá biệt đến những cá biệt’. Những mệnh đề phổ quát, như ‘tất cả những con quạ đều màu đen’, chỉ là những ‘ghi chép’ kết luận tóm tắt của những
gì chúng ta đã quan sát được và những gì chúng ta mong đợi sẽ quan sát được. Với
Mill, những mệnh đề toán học điển hình là những khái
quát hóa, và vì vậy những mệnh đề này cũng ghi chép và kết luận tóm tắt kinh nghiệm. Triết học của toán học của Mill
được thiết kế để cho thấy những mệnh đề toán học là gì, để đem chúng vào phù
hợp với chủ đề tri thức học tổng
quát này.
Chúng ta
hãy bắt
đầu với hình học. Mill bác bỏ sự hiện hữu của những đối tượng trừu tượng, và
ông tìm để xây dựng hình
học trên sự quan sát. Như thế, giống Aristotle, ông phải giải
thích cho ý hướng hiển nhiên trong đó những đối tượng nghiên cứu
trong hình học thì không
giống như bất cứ gì chúng ta
quan sát trong thế giới vật lý. Mọi đường thẳng chúng
ta thấy đều có bề rộng và không hoàn toàn thẳng.
Bài viết của Mill về vấn đề này không rõ ràng, nhưng có thể đưa ra một tóm lược tổng quát. Ông chủ trương rằng những
đối tượng hình học là những gần đúng của những hình dạng thực sự. Hình học là về những ý tưởng hóa của những có thể có của xây dựng. Hai khái niệm
trung tâm ở đây là ‘ý
tưởng hóa’
và ‘tính có thể có’. Người theo thuyết duy nghiệm kiên
quyết này hiểu thế nào những
khái niệm này?
Mill lấy những đường không rộng và những điểm không
dài để là những khái niệm giới hạn. Cho một đường kẻ trên giấy có thể là đậm nhạt ít nhiều,
tùy phẩm chất của mực, độ sắc nét của bút chì hay độ
phân giải của máy in. Chúng ta có thể nghĩ những
đường hình học như giới
hạn tiến đến gần khi
chúng ta vẽ những đường có nét càng nhỏ
hơn,
và những đường thẳng càng thẳng
hơn. Tương tự, một điểm là giới hạn tiến đến gần khi chúng ta vẽ những đoạn thẳng sắc nét hơn và ngắn hơn, và một đường tròn là
giới hạn tiến đến gần khi
chúng ta vẽ những đường tròn mỏng hơn và toàn hảo hơn. [29] Về vật lý, tất nhiên, không có những giới hạn loại giống vậy và Mill đã chủ trương rằng hình học không giải quyết với những đối tượng đang hiện hữu. Vì vậy, nói cho đúng theo Mill, hình học Euclid là một
công trình của tưởng tượng. Những hình dạng đã công nhận (qua định đề) là
những ‘đại diện giả
tạo’. Tuy nhiên, vì những
hình dạng hình
học gần đúng với những
hình đã vẽ và với những
đối tượng tự
nhiên, những mệnh đề hình
học là đúng (về tự nhiên) đến mức
độ vốn những hình dạng thực và những đối tượng gần đúng với những ý tưởng hóa. Nếu
chúng ta đo những góc của một tam giác đã vẽ, chúng ta sẽ thấy tổng số là khoảng hai góc vuông. Những đường thẳng
vẽ tam giác càng
thẳng và càng sắc nét thì những góc của chúng càng gần hơn để bằng hai góc vuông. Nếu chúng
ta kỹ lưỡng vẽ một tam giác, chúng ta sẽ thấy rằng ba đường trung tuyến thẳng góc
(với mỗi cạnh) cắt lẫn
nhau. Nếu chúng ta cẩu thả (nhưng không quá cẩu thả), chúng ta sẽ thấy rằng những
đường trung tuyến gần
như cắt lẫn nhau (ở một điểm) [30].
Trong ý hướng này,
những mệnh đề của hình học là những khái quát quy nạp về những hình dạng vật lý có thể có trong không gian vật lý.
Chúng đã được kinh nghiệm lâu
đời xác định.
Người ta có thể biện luận ý niệm
cuả tính có thể có (khả năng) vốn
Mill gọi đến trong giải thích về hình học của ông. Để tập trung trên một thí dụ, chúng ta hiểu thế nào về định đề Euclid rằng giữa
hai điểm bất kỳ người ta có thể vẽ một đường thẳng? Nếu điều này có nghĩa là
chúng ta có thể vẽ một đường thẳng không bề rộng, khi đó định
đề này thì không đúng ngay cả với xấp xỉ gần đúng. Thật vậy, chúng ta
không thể mường tượng
được ngay cả việc vẽ một đường
không bề rộng.
Chúng ta sẽ dùng dụng cụ nào? Bàn về
những giới hạn đề nghị rằng
định đề có thể có nghĩa là nếu chúng ta được cho bất kỳ hai điểm vật lý A, B, bất
kể nhỏ đến mức nào, và nếu chúng ta được cho bất kỳ độ dày d nào, chúng
ta có thể vẽ một đường thẳng giữa A và B không dày (đậm nét) hơn d. Điều này
thì không tốt hơn gì nhiều,
vì chúng ta không thể xem phát biểu-giới hạn này như một sự tổng quát hóa đã thiết lập vững chắc từ kinh nghiệm. Chúng ta đã có được bao nhiêu kinh nghiệm với những
đường kẻ vẽ thật mỏng? Ngay cả có phải sự
khái quát thì đúng không? Như đến giờ chúng ta biết, có một giới hạn thấp
hơn với độ dày của một đường vốn chúng ta có
thể vẽ và nhận biết.
Chúng ta có thể vẽ một đường mỏng hơn đường kính của một atom hydro không? Bằng chất liệu gì? Được hiểu
theo những thuật ngữ vật lý rõ ràng như vậy, dạng cụ thể giới hạn của định đề
Euclid chắc chắn thì sai. Tương tự, định lý rằng mọi đường thẳng đều có một đường
trung tuyến vuông
góc thì sai về mặt vật lý, ngay cả cho phép những ý tưởng hóa của Mill. Giả định
chúng ta bắt đầu với một đoạn thẳng cho trước, dài hai cm, và chia đôi nó. Sau
đó chia đôi nửa bên trái, rồi chia đôi nửa bên trái đó, tiếp tục càng lâu càng tốt. Đơn giản là
không thể nào tiếp tục điều này
ba mươi lần. Đoạn thẳng thứ ba mươi sẽ có một độ
dài dưới-atom.
Vậy có thể vẽ một
đoạn thẳng giữa hai điểm,
hay cắt thành hai phần bằng
nhau một
đoạn thẳng bất kỳ theo nghĩa nào? Có lẽ Mill đã lấy hình học để nói về một kinh nghiệm được cải thiện theo
giả thuyết, trong đó khả năng nhạy bén của chúng ta là hết sức sắc bén. Hay có
lẽ một người theo thuyết Mill có thể giải thích những tiên đề hình học trong những điều kiện của một khả năng toán học
đặc biệt nào đó, thay vì khả
năng vật lý đã dẫn nhắc ở trên.
Luận điểm cơ bản là nó phù hợp với những luật toán học của không gian, nếu
không nói những luật vật lý
của vũ trụ, rằng không có giới hạn về độ mỏng của những đường thẳng và không có giới hạn với những đoạn thẳng
có thể cắt được thành hai phần
bằng nhau. Tuy nhiên, thật khó để thấy Mill có cung ứng nào để tạo ra hoặc khả năng giả định hết sức nhạy bén đã cải thiện, hoặc những
khả năng toán học đặc biệt. Hãy nhớ rằng, với Mill, tất cả kiến thức toán học đều dựa trên những khái quát hóa quy nạp từ kinh nghiệm. Vậy chúng ta sẽ học
ở đâu về những khả năng hết sức nhạy bén và những khả năng toán học?
Bây giờ chuyển sang số học, Mill đồng ý với Plato và
Aristotle rằng số tự nhiên là những
con
số của những sưu tập.
Ông đứng về phía Aristotle trong việc phủ nhận những ‘đơn
vị’ lý tưởng và vì vậy,
với Mill, những số là những số của những
đối tượng thông thường:
Tất cả những số phải là những số
của một gì đó: không có những sự vật việc như những số trong trừu tượng. Mười phải có nghĩa là mười vật thể, hay mười âm thanh, hay mười nhịp đập của mạch máu. Nhưng mặc dù những số phải
là những số của một gì đó, chúng có thể là những số của sự vật việc bất kỳ nào. Do đó, những
mệnh đề liên quan đến những số, có một điểm khác thường đáng chú ý là chúng là những mệnh đề
liên quan đến tất cả sự vật việc dù là gì, tất cả những đối tượng, tất cả những hiện hữu thuộc mọi loại,
biết được với kinh nghiệm của chúng ta. (Mill 1973:
254-5)
Do đó Mill không coi một chữ số là một riêng lẻ/cụ thể vốn biểu thị một đối tượng độc nhất. Đúng hơn, những chữ số là những thuật ngữ tổng quát, như ‘con chó’ hay ‘màu đỏ’.
Chúng không gồm những đối tượng riêng lẻ, nhưng gồm những kết tập của những đối tượng: Thí dụ, ‘hai, biểu thị tất cả những cặp/đôi của sự vật việc, và mười hai cho tất cả những tá của sự vật việc’ (1973: 610).
Những mệnh
đề số học là gì? Mill quan tâm với việc đưa ra một giải thích của những tổng số, như ‘5 + 2 = 7’ và ‘165
+ 432 = 597’.
Ông nói rằng chỉ
có hai tiên đề, đó là ‘những
sự vật việc
vốn đều bằng với cùng những sự vật việc đều bằng
với lẫn nhau’ và
‘những bằng nhau cộng với những bằng nhau tạo những tổng số bằng nhau’ (1973: 610) và một giản đồ định nghĩa, một cho mỗi chữ số biểu thị
con số được ‘hình thành’ bằng cộng thêm
một đơn vị vào số ngay bên
dưới nó. Từ điều này, ông đưa
ra một diễn dịch của ‘5 + 2 = 7’. Là rõ ràng để mở rộng cách tiến hành để lấy được bất kỳ tổng số chính xác nào như thế nào.[31]
Đặc điểm nổi bật ở đây, với Mill, là rằng những tổng số này là những mệnh đề thực, không phải lời nói
về những kết tập vật
lý và những thuộc tính cấu trúc của chúng. Vì chúng là thực, cuối cùng chúng phải được biết bằng quy nạp
liệt kê, sự khái quát hóa trên
kinh nghiệm. Kinh nghiệm hầu như
đồng nhất của chúng ta với việc thu thập và phân tách những đối tượng xác nhận những tổng số số học. Trong một đoạn văn nhiều tai tiếng, Mill đã viết rằng tổng số ‘2 + 1 = 3’ gồm giả
định ‘rằng những sưu tập của những đối tượng hiện hữu, vốn trong khi chúng gây ấn tượng giác
quan, cách này 0
0 0, có thể được phân tách vào thành
hai phần, cách này,
00 0’
(1973: 257).
Foundations of Arithmetic của Frege gồm một tấn công dai dẳng và chua chát trên giải thích của Mill về số học:
Thật là may mắn, sau đó, rằng không phải mọi sự vật việc trong thế giới thì được xác định chặt chẽ;
vì nếu đã thế,
chúng ta sẽ không có khả năng để làm được sự phân tách này, và ‘2 + 1 sẽ không là 3’ Thật may mắn là Mill cũng đã không minh họa những sự kiện vật lý cơ bản cho những số zero và 1 ! ... Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng
thực sự là không chính xác để nói
về ba tiếng gõ khi đồng hồ điểm ba, hay gọi ngọt,
chua và đắng là ba
cảm giác . Vì không một nào của những điều này tao ấn
tượng giác quan, cách này 0 0 0’. (Frege 1884: §7)
Do đó, Frege lấy bài
nói về việc sắp
xếp của Mill trong một
nghĩa vật lý thẳng thừng:
‘Chúng ta có phải
tổ chức,
theo đúng nghĩa đen,
một đại hội của
tất cả người mù ở Germany trước
khi chúng ta có thể gắn bất kỳ ý nghĩa nào với cụm từ diễn đạt “số những người mù ở Germany”?’ (§23).
Phê
bình của Frege thì không
công bằng. Như chúng ta đã thấy ở trên, tự thân Mill nói về số của những
sự vật việc vốn không
thể được sắp xếp trong cụ thể vật
chất vào những đỉnh của một tam giác. Ông nói về
những tiếng động và những nhịp tim đập.
Như thế,
Mill phải có một
gì tổng quát hơn trong não thức. Gom góp
và
tách biệt
những sưu tập nhỏ
gồm những đối tượng là một trường hợp thí dụ điển hình
của sự tổng quát hóa những tổng số trong số học.
Chúng ta thực hiện việc thu
thập và tách biệt nhịp tim và chuông đồng hồ trong não thức, chưa kể đến những lục địa
và những hành tinh, ngay cả nếu chúng
không gây ấn tượng giác quan,
cách này 0 0 0, và không thể tách
biệt về vật lý, cách này 00
0’.
Chúng ta cũng thu thập một hay ngay cả zero đối tượng của một loại nhất định, khi
chúng ta xem xét có bao nhiêu quân vua
trắng
trên một bàn cờ chess, hay
bao nhiêu nữ tổng thống US đã nhậm
chức trước năm 1999.
Tuy nhiên, Frege thì đúng rằng gánh nặng nghiêm trọng với người theo thuyết
duy nghiệm là để hiểu ý nghĩa mạch lạc
và rõ ràng của những thuật ngữ ‘thu thập’ và ‘phân
tách’. Chính xác kinh
nghiệm nào thì gồm trong việc nêu lên rằng hai nhịp tim đập cộng với một nhịp tim tạo ra ba nhịp tim đập, hay hai hành tinh cộng với ba hành
tinh thành năm hành tinh?
Frege cũng đặt câu hỏi về ý tưởng của Mill rằng những
con số biểu thị những kết tập
vật
chất. Nếu chúng ta nghĩ về một
kết tập như một ‘đụn-đống’
của lỉnh kỉnh chất liệu vật
chất, chúng ta sẽ không thể gán kèm
một con số vào nó: Nếu tôi đặt một xấp quân bài vào tay [ai đó], với lời bảo: Tìm con số cúa xấp này, điều này không bảo người ấy rõ liệu
tôi muốn biết con số
của những quân bài trong xấp, hay của bộ bài đầy đủ những quân bài, hay ngay cả nói về điểm trong một
ván bài Skat. Đưa cho người ấy cái xấp bài vào tay
chưa phải là đã trao cho người ấy hoàn toàn đối tượng vốn người ấy sẽ điều tra;
Tôi phải thêm một số từ khác – quân bài,
hay bộ bài,
hay điểm. (1884: §22).
Trong phần tiếp theo, Frege đã viết rằng ‘một
bó rơm có thể được tách thành nhiều phần bằng việc cắt đôi tất cả những cọng rơm, hay bằng việc tách nó thành những cọng rơm đơn lẻ, hay bằng việc chia nó vào thành hai bó’. Ông thêm rằng ‘từ số “một” ... trong cụm từ “một cọng rơm” là dấu hiệu
của thất bại, không đúng với cách thức trong đó cọng rơm được tạo thành từ những tế bào hay phân tử’
Tự thân Mill (1973: 611) đã trả lời Frege ở đây: ‘Khi chúng ta gọi một sưu tâp của những đối tượng là hai,
ba hay bốn, chúng không là hai, ba hay bốn trong trừu tượng; chúng là hai, ba, hay bốn của những sự vật việc thuộc của một loại nhất định nào đó; những hòn sỏi, những con ngựa, những inches/thước đo, những pound/kg nặng. Những gì là tên gọi của con số có nghĩa là cách thức trong đó những đối tượng đơn lẻ của loại đã
cho phải được đặt vào cùng nhau,
để tạo ra kết tập (gói/bó đống/đụn)
cụ
thể đó’. Khi đó, với Mill, một kết tập thì đông nhất với khối vật của những lỉnh kỉnh này nọ cùng
với
những đơn vị trong đó sẽ
được phân chia (và do đó được
tính/đếm).
Một bộ bài thì không
cùng là một kết tập vật lý như 52 lá bài riêng lẻ, bốn cách xếp bài, v.v. Những kết tập nằm ở cùng một nơi vào cùng một thời
điểm, nhưng dù sao chúng là những kết tập khác biệt. Tương tự như vậy. kết tập bó rơm của Frege không giống như kết tập của nửa bó rơm, hay bó của hai nửa bó, hay bó của những phân tử. Mặc dù Mill bác bỏ sự hiện hữu
của những đối tượng trừu tượng, và như thế chủ trương rằng những kết tập (gói/bó đống/đụn) là vật chất, bản
thể học của ông không nghiêm khắc
như người ta nghĩ.
Tuy nhiên, lại nữa, gánh nặng thì trên người theo thuyết duy
nghiệm để đưa ra phạm trù bản
thể học này và cho thấy nó đặt nền
tảng trên
kinh nghiệm như thế nào. Penelope Maddy (1990: ch. 2, §2) nêu lên rằng có một sự khác biệt giữa nhìn, nói, bốn chiếc giày, và xem chúng như hai đôi.
Có lẽ một gì đó giống điều này sẽ giúp người theo Mill ở đây (xem
thêm Burge 1977).
Frege cũng đưa Mill đến công việc liên quan với những con số lớn. Chúng ta có kinh nghiệm về một kết tập có kích
thước 1.234.457.890 hay không,
và chúng ta có thể phân
biệt nó với một kết tập có
kích thước 1.234.457.891 hay
không?
Kinh nghiệm đã tổng quát hóa bởi 1.234.457.890 + 6.792 = 1.234.464.682
là gì? Chúng ta có thể mở rộng quan điểm của Frege, bằng việc hỏi chúng ta xác
nhận tổng số trung bình, như 1,256 + 2,781 = 4,037 như thế nào. Giả định chúng ta lấy một mẫu ngẫu nhiên của những người lớn và đưa cho mỗi người một đống
1.256 hòn bi và một đống
2.781 hòn bi và bảo người ấy gom hai đống vào thành một đống lớn và xác định số lượng của nó. Sự
chú ý của con người là những gì
như nó vẫn là, rất ít (nếu có) của những đối tượng của chúng ta sẽ
cho ra con số cuối cùng là 4.037. Theo cái nhìn của Mill, chúng ta có phải coi kết quả
này như một sự phủ nhận tổng
số không? Giả thử chúng ta dùng những con thỏ thay vì những hòn bi, và phải mất mấy tháng để làm xong thí nghiệm? Giả thử chúng ta dùng gallon của hai chất lỏng,
trong đó một phản ứng hóa học hay bay hơi có thể làm thay đổi thể tích của tổng
hợp? Chúng ta sẽ không có được
kết quả chính xác và sẽ phải tuyên bố rằng tổng
số thì không được
xác nhận. Thoạt đầu, mới thoáng nhìn,
có vẻ vô lý ngay cả khi thử làm
thí
nghiệm này để xác nhận những tổng số số học.
Chúng ta biết tổng số đúng
là bao nhiêu trước khi bắt đầu thí nghiệm. Chúng ta có thể dùng kết quả
để xác định khả năng của
những đối tượng trong việc cộng và đếm.
Theo những dòng tương tự, Mill chủ trương rằng mỗi chữ
số đại diện cho những sưu tập kích
thước của những con số
tương ứng. Điều này dẫn đến rằng có,
hay có thể có vô hạn của những đối
tượng. Chúng ta có hỗ trợ thực nghiệm cho điều này không? Điều gì sẽ xảy ra nếu
chúng ta áp dụng một lý thuyết vật lý vốn dẫn đến rằng chỉ có hữu hạn gồm nhiều những đối tượng vật lý. Điều này có phủ nhận số học không?
Tình trạng ở đây tương tự như sự không ăn khớp giữa những mệnh đề hình học và những
phát biểu về
những vật thể thông thường. Kinh nghiệm hạn chế của chúng ta không hoàn toàn ăn khớp với những mệnh đề toán học. Về hình học, một người theo Mill có thể trả lời
bằng việc nói về sự ý
tưởng hóa, sự có thể có, và
sự gần đúng. Những mệnh đề toán học – đặc biệt
là những định nghĩa của những con số – không hoàn toàn tương ứng với kinh nghiệm. Họ
quan tâm với kinh nghiệm có thể có, trong những điều kiện lý tưởng trong
đó khoảng kéo dài của chú
ý của chúng ta được cải thiện và bất kỳ khác
biệt và tác động hỗ tương nào giữa
những đơn vị (có thể thay đổi số lượng theo thời gian) đều bị bỏ qua. Kinh nghiệm
khẳng định rằng những mệnh đề
số học là gần
đúng của kinh nghiệm. Tuy nhiên, lại nữa, người
theo Mill lại có gánh nặng là phải đưa ra ý tưởng về sự có thể có này.
Một chiều khác
của cái nhìn của Mill, ẩn chìm trong
những gì chúng ta đã thấy rồi,
là ông đã rời xa đáng kể với cái nhìn đã nhận
của toán học như rất
(nếu không là hoàn toàn) chắc
chắn và tất yếu. Theo
như Mill, ngay cả nhiều mệnh đề toán học còn
không đúng gì cả,
chưa nói đến đúng tất yếu và không thể nghi ngờ, và chưa nói đến có thể biết được tiên nghiệm. Mill coi trọng vấn đề của việc cho thấy tại sao cái nhìn đã nhận
thì thuyết phục đến vậy. Ông đặt câu hỏi: Tại sao sự
chắc chắn trong toán học, và bằng chứng
của minh chứng, những cụm từ phổ thông để diễn đạt
mức độ cao nhất của sự bảo
đảm lý trí có thể đạt được? Tại sao toán học bởi hầu
hết tất cả những triết gia ...
đã coi là độc lập với bằng chứng của kinh
nghiệm và quan sát, và được đặc trưng như hệ thống Sự Đúng thật Tất yếu? (Mill 1973: 224). Mill chủ trương rằng
số học có vẻ là
tất yếu và
có thể biết tiên nghiệm vì
những tiên đề và những định nghĩa ‘được
biết với chúng ta bởi kinh nghiệm sớm có và liên tục’ (1973: 256). Những đúng thật cơ bản của số
học, chẳng hạn như những tổng số đơn
giản, đã được xác nhận từ khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc với thế giới. Điều này
không làm cho chúng gốc rễ thực sự thành tiên nghiệm. Mill đồng ý rằng
những tổng số số học
đơn giản thí tất yếu,
nhưng chỉ với nghĩa là chúng ta không thể tưởng tượng mọi sự vật việc trở nên là khác
biệt (mặc dù những ý tưởng hóa đã nói ở trên). Vì vậy, thí dụ, chúng ta không
thể tưởng tượng rằng một sưu tập
của những những đối tượng hiện hữu, trong khi chúng gây ấn tượng
với những giác quan, cách này 0
0 0, có thể được tách thành hai phần, cách này 00 0,
hay ít nhất với không
không thay đổi những đối tượng trong
cách nào
đó [32]
Mill đồng ý với những người
theo Kant rằng nguồn gốc cuối cùng của tin tưởng vào những tiên đề của số học
và hình học nằm trong những giới
hạn của những gì chúng ta có thể nhận thức được. Những tiên đề của những lý thuyết toán học đều được lựa chọn bởi sự phản
ảnh trên cách
chúng ta nhận thức cấu trúc của thế
giới. Tất nhiên, Mill đồng ý rằng những hiểu biết sâu xa này trong trực
giác tri giác này là đáng tin cậy, ở chỗ chúng ta không bị dẫn đi lạc khi đi theo chúng và giả định, chẳng
hạn, thế giới là như Euclid
và rằng những kết tập đó thuận hợp với số học. Nhưng ông nhấn mạnh rằng độ tin cậy của trực giác tri
giác liên quan đến những thuộc tính
hình học và số học thực sự của
những đối tượng vật lý là một vấn đề thực nghiệm. Đó là, chúng ta tìm ra
được qua kinh
nghiệm rằng trực giác tri giác là đáng tin cậy. Bằng tự quan
sát, chúng ta thấy rằng chúng ta không thể nhận thức thế giới trong bất kỳ cách nào khác và sự quan sát đó tiếp
tục thuận hợp với những
hình thức số học và hình dạng Euclid.
Với cơ sở tri thức học nghèo nàn của quy nạp liệt kê, thật đáng chú ý rằng Mill
đưa thuyết duy nghiệm kiên quyết của ông đến xa như ông làm, sau khi trình bày những giải thích triết học
tinh vi về
hình học và số học cơ bản Euclid.
Tuy nhiên, triết học của toán học của ông không đi xa lắm. Mill chỉ nói đến hình học. số học,
và một vài đại số, không là những nhánh
của toán học cao cấp. Thiếu sót này có thể hiểu được ở Aristotle, tất nhiên,
nhưng không dễ dàng như vậy ở đây, với sự quan trọng của toán học cao cấp trong những ngành khoa học đang phát triển
vào thời của Mill.
Ngay cả những giải thích của Mill về số học và hình học
cũng hạn chế nghiêm trọng trong phạm vi của chúng. Triết học số học của ông nắm
bắt được nhiều hơn
một chút những
tổng số và những khác
biệt đơn giản, những gì được học ở trường tiểu học. Nguyên lý (có lẽ không khéo gọi tên)
của toán học quy
nạp
là luận điểm chủ trương rằng với bất kỳ thuộc tính
P nào, nếu P đúng với 0, và nếu, với mọi số tự nhiên n, nếu
P giữ đúng với n thì P giữ đúng với n +
1, thì P giữ đúng với mọi
số tự nhiên. Trong những ký hiệu:
(P0 & ∀ x ((Nx & Px)
→ Px + 1)) → ∀
x (Nx →Px).
Nguyên lý quy nạp toán học là một chủ đề trung tâm của số học tiên đề. Là khó khăn để làm sáng rõ thêm về những
số tự nhiên nếu không
có nguyên lý này.
Theo như tôi có thể nói, quy nạp liệt kê – những tổng quát hóa từ kinh nghiệm – không
đem lại hỗ
trợ cho quy nạp toán học. ‘Kinh
nghiệm sớm có và không đổi’ nào xác nhận quy nạp toán học? Mill có thể
đáp ứng rằng chúng ta
không thể tưởng tượng quy nạp toán học thì
sai, và ông có nhắc đến tính tin cậy thực nghiệm của khả năng của tưởng tượng này. Tuy nhiên, khó khan để thấy quy nạp toán học liên hệ trực tiếp thế nào trên kinh
nghiệm. Nó mô tả những loại kinh nghiệm nào?
Ở điểm
này, người theo thuyết Mill của chúng ta có thể thử dùng những động tác khéo léo theo Euclid của việc thành lập số học trên hình học (mặc
dù việc này sẽ làm
giảm giá trị tính ứng
dụng phổ quát của số học). Một tương tự hình học của quy nạp toán học là
nguyên lý Archimede, rằng với hai đoạn thẳng a, b bất kỳ, có một số tự
nhiên n, sao cho nhân n-lần của a thì dài hơn b. Một người theo Mill có
thể cho thấy rằng nguyên lý này được xác nhận bởi kinh nghiệm sớm có và không đổi (miễn là chúng ta nói về khả
năng toán học nhưng không
phải khả năng vật lý). Một thí dụ ngược lại với nguyên tắc Archimede sẽ là một
cặp của đoạn thẳng, một đoạn thẳng thì ngắn hơn, gần đến vô hạn, so với đoạn thẳng kia. Chắc
chắn, chúng ta không có kinh nghiệm trực tiếp nào về những vô hạn, ngay cả khi
chúng ta gắng tưởng tượng chúng. Ngay cả nếu người
theo Mill của chúng ta có thể liên hệ nguyên lý quy nạp toán học với nguyên lý
Archimede, thì điều này cũng không
giúp được gì nhiều để thành công. Tiên đề bao hàm [33] sẽ
là một trở ngại thêm nữa.
Trong giải tích thực, nguyên lý phát biểu rằng mọi set gồm những số thực có giới hạn đều
có một giới
hạn trên nhỏ nhất. Một tương tự trong hình học là thuộc tính
Bolzano-Weierstrass rằng mọi set vô hạn,
có giới hạn có một điểm giới hạn. Vì chúng ta không có kinh nghiệm với những
set vô hạn của những điểm hay
những đối tượng, nên xem dường như không có cơ sở
cho những những nguyên lý này trong quy nạp liệt kê.
Chúng ta hãy xem xét lại trước khi kết luận. Chúng ta đã ghi nhận một số phê bình cứng rắn về những ý niệm khác nhau của ‘khả năng’ cần thiết để duy trì giải thích của Mill
về toán học. Mặc dù những điều này có thể được khắc phục, nhưng có vẻ rằng gánh nặng phản bác là một khó khăn. Thứ hai, và quan trọng
hơn, quyết định của Mill để
dựa tất cả toán học và lôgích dựa trên quy nạp liệt kê thì không thể được duy trì được. Vì
những lý do giống như của những đã nêu ở đây, những người theo thuyết duy
nghiệm đương thời không cố gắng bảo vệ Mill về những vấn đề này. Tuy nhiên, động
lực chính của thuyết duy nghiệm của Mill vẫn sống đến
ngày nay, và có lẽ còn mạnh. Một nhóm cốt lõi gồm những triết gia tận tụy chấp nhận và bảo vệ ‘phương diện cấp tiến’ của thuyết duy nghiệm của Mill, quan điểm
chủ trương rằng lôgích và toán học chứa những định đề ‘tổng hợp’ hay ‘thực’, và
trái ngược với Kant, rằng những
định đề này được biết đến hậu nghiệm, cuối cùng theo kinh nghiệm.
Kitcher (1983, 1998) đem cho một giải thích tinh tế và
phức tạp về toán học cao cấp trong
một khung cấu trúc hỗ trợ gần như theo
Mill. Giống Mill, Kitcher đem toán
học đến liên quan với những khả năng của con người để xây dựng và
thu thập, nhưng ông nói rõ hơn Mill về những ý tưởng hóa liên quan. Thay vì nói
về những hoạt động thu thập và xây dựng của con người thực sự, Kitcher nói về
hoạt động của những người xây
dựng lý
tưởng tưởng tượng, những người không có cùng những giới hạn của con người về thời gian, không gian,
khoảng thời gian chú ý,
hay ngay cả đời sống.
Những người xây dựng lý tưởng vẽ những đường không bề rộng và họ thu thập những kết tập lớn. Thí dụ, những tiên đề về quy nạp
toán học và thuộc tính BalzanoWeierstrass trình bày những phát biểu về những khả năng được phân phát cho những người xây dựng lý tưởng, tương ứng với số
học và giải tích thực. Những người xây
dựng lý
tưởng này giải quyết những set vô hạn của những đoạn thẳng và lấy những điểm giới hạn và giới hạn
trên của chúng. Với Kitcher,
đúng thật toán học –
những mệnh đề về những người xây
dựng lý
tưởng – liên quan đến những đúng thật về những khả
năng của con người sự
lý tưởng hóa và tính gần đúng vốn
ít
nhiều không phức tạp.
Trong những ngành cao cấp hơn, chẳng hạn như thuyết tập hợp, những ý tưởng hóa thực sự rất lý tưởng.
Cho mỗi số đếm vô
hạn K, người xây dựng lý tưởng có thể tạo ra một
sưu tâph có
kích thước K. Tuy nhiên, liên hệ với sự xây dựng con người thực tế thì không
bị bỏ quên.
Tất nhiên, không như Mill,
Kitcher không chỉ dựa
trên quy nạp liệt kê để đặt nền tảng cho toán học và lôgích. Những chuyển dịch được phân phát cho người xây dựng lý tưởng thì chính đáng trên cơ bản của sự hữu
dụng của lý thuyết trong tổng thể nỗ lực hoạt động khoa học . Kitcher vẫn là một
người duy nghiệm cấp tiến, trong đó mục tiêu bao trùm của toàn bộ nỗ lực hoạt động
khoa học – toán học – là để giải
thích cho kinh nghiệm. Ông cùng với Mill bác bỏ quan điểm đã nhận
rằng toán học là biết được tiên nghiệm.
Kitcher lập luận rằng chúng ta cần kinh nghiệm để xác định đúng những ý tưởng hóa nào là có ích trong việc đoán trước kinh nghiệm
và kiểm soát môi trường. Toán học thì không
thể sửa đổi, vì chúng ta phải không
đóng lại những khả năng của những ý tưởng hóa hoàn toàn
khác nhau, và do đó, toán học khác biệt hoàn
toàn. Trong chương 8, §2 dưới đây, chúng ta xem xét một người theo thuyết duy
nghiệm kiên quyết khác, Quine, người duy trì một tri thức học diễn dịch-giả thuyết cho tất cả toán học và khoa học, nhưng lại
khác xa Mill ở chỗ không coi toán học là về hoạt động xây dựng thực hay lý tưởng.
Trong thời gian đó,
chúng ta chuyển sang những cái
nhìn khác
về toán học, gồm một thuyết duy nghiệm ít triệt để hơn (chương
5, §3).
4. Đọc thêm
Xem Coffa 1991: ch. 1, và những tài liệu trong Posy 1992 cho một bắt đầu rất tốt trên sự giàu có của nghiên cứu hàn lâm trên triết học của Kant về
toán học (đặc biệt là bài giới
thiệu của Posy). Tuyển tập chứa
những tài liệu đã trích
dẫn ở trên Parsons 1969, 1984, Friedman 1985, Hintikka 1967, và Posy 1984, cũng như rất nhiều những công trình có ảnh hưởng và thể hiện sự hiểu biết
chính xác và sâu sắc khác.
Cũng xem thêm
Friedman 1992. A System of Lôgic (1973)
của riêng Mill là một giải
thích dễ đọc về những quan
điểm về toán học của
ông. Nguồn thứ cấp chắc chắn là
Skorupski 1989: ch. 5. Cũng xem
thêm
những tài liệu trong
Skorupski 1998, đặc biệt là Skorupski 1998a và Kitcher 1998.
(Jan/2022)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [Không phải là không phổ thông khi những chuỗi trong lịch
sử triết học nhảy từ Aristotle sang cái gọi là thời kỳ thời nay (‘hiện đại’, với Bacon hay Hobbes,
hay ngay cả là Descartes. những khóa học trong lịch sử toán học thường có một
khoảng trống tương tự, có lẽ được lấp đầy sơ sài. Điều sai lầm là có rất ít nội dung
xảy ra trong suốt hai nghìn năm
đó.
Trong quyển sách này, những biện minh cho khoảng cách là những giới hạn về không gian và năng lực của tôi, và
thực tế là chúng ta đang thăm dò những
tiền thân trực tiếp cho những lập trường
thời
nay trong triết học toán học.]
[2]
First Principles: những
nguyên lý đầu tiên, xem như những khối xây dựng của kiến thức đúng thật. Một nguyên lý
đầu tiên là một mệnh đề hoặc giả định nền tảng (vốn đứng
riêng lẻ một mình). Chúng ta không thể suy ra những nguyên lý đầu tiên từ bất kỳ mệnh đề
hoặc giả định nào khác. Aristotle,
viết về những nguyên lý đầu tiên, nói: Trong mọi
điều tra có hệ thống (methodos/phương
pháp), ở đó có những
nguyên lý, hay những nguyên nhân, hay những yếu tố
đầu tiên, kiến thức và khoa học là kết quả từ việc thu nhận kiến thức của những
điều này; vì chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết một gì đó nếu là xảy ra rằng chúng ta có được kiến thức về những nguyên nhân
chính, những nguyên lý đầu tiên lý chính, càng
nhiều càng tốt hoặc hoàn toàn đến những yếu
tố. Về sau, ông kết nối ý tưởng với kiến thức, định nghĩa những
nguyên lý đầu tiên như ‘cơ sở đầu
tiên từ đó một sự vật viêc thì được biết’.
[3] Immanuel Kant (1724-1804) là nhân vật trung tâm trong
triết học hiện đại. Ông đã tổng hợp thuyết duy lý hiện đại ban đầu và thuyết duy nghiệm, đặt ra những thuật ngữ cho phần lớn triết học thế
kỷ 19 và 20, và tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể ngày nay trong siêu hình học, nhận
thức học,
đạo đức học, triết học chính trị, mỹ học và nhiều những lĩnh vực khác.
René Descartes (1596-1650) là một nhà toán học sáng tạo
bậc nhất, một nhà tư tưởng khoa học quan trọng và một nhà siêu hình học ban đầu.
Trong suốt cuộc đời của mình, trước nhất, ông là một nhà toán học, thứ hai là một nhà khoa học tự nhiên hay “triết
gia tự nhiên”, và thứ ba là một
nhà siêu hình học. Trong toán học, ông đã phát triển những kỹ thuật đưa đến hình học giải tích.
Isaac Newton
(1642-1727) được biết đến nhiều nhất vì đã phát minh calculus, vào khoảng giữa
đến cuối những năm 1660 (gần mười năm trước, độc lâp với Leibniz, và cuối cùng
có ảnh hưởng lớn hơn) và vì đã xây dựng lý thuyết về lực hấp dẫn phổ quát – lý
thuyết sau trong Principia của ông, công trình quan trọng nhất trong việc chuyển
đổi triết học tự nhiên hiện đại ban đầu thành khoa học vật lý hiện đại.
Gottfried Wilhelm Leibniz (1646–1716), người Germany, là một trong những nhà tư tưởng vĩ
đại của thế kỷ XVII và XVIII. Ông
có những đóng góp sâu xa và
quan trọng trong những lĩnh
vực siêu hình học, nhận thức luận, logic học, triết học tôn giáo, cũng như toán
học, vật lý học, địa chất học, luật học và lịch sử. Về toán học, ông
nổi tiếng đã phát minh calculus (độc
lập với Newton).
Baruch Spinoza (1632-1677), người
Holland, gốc Jew, một trong những người đi đầu trong thuyết duy lý ở thế kỷ 17
và là một trong những nhân vật đầu tiên và nổi tiếng của thời kỳ Khai sáng. Tác
phẩm của ông là Ethics (1677).
John Locke (1632-1704) triết gia người Britain, học giả Oxford và nhà nghiên cứu
y học. An Essay
Concerning Human Understanding (1689), công trình siêu việt nhiều ảnh hưởng của Locke, như một trong những tuyên ngôn biện
minh lớn đầu tiên của thuyết duy nghiệm hiện đại, quan
tâm với việc xác định
những giới hạn của sự hiểu biết của con người với một loại nhiều đề tài. The Second Treatise of
Government, tác phẩm chính trị nổi tiếng nhất của Locke, trong đó ông lập luận rằng chủ quyền
nằm ở người dân và giải thích bản chất của chính phủ hợp pháp về quyền tự nhiên
và khế ước xã hội. Ông cũng nổi tiếng với việc kêu gọi sự tách biệt giữa hội Nhà
thờ và Nhà nước trong
Letter Concerning Toleration.
George
Berkeley (1685-1753), thày chăn
chiên cấp tỉnh Cloyne, người
Ireland, một trong những
triết gia lớn của
thời kỳ đầu hiện đại. Ông là nhà phê bình xuất sắc đối với những người đi trước, đặc biệt là với Descartes, Malebranche và Locke. Là nhà siêu hình học nổi tiếng, ông
chủ trương một thuyết duy ý (tuyên bố rằng mọi sự vật việc hiện hữu đều hoặc là
não thức hoặc phụ thuộc vào một não thức để hiện hữu, nên ông đôi khi được coi
là cha đẻ của thuyết duy ý hiện đại) và thuyết phi-vật chất (tuyên bố rằng vật
chất không hiện hữu). Ông cũng là nhân vật chính trong phong trào duy nghiệm của
England, mặc dù thuyết duy nghiệm của ông thuộc loại rất cấp tiến, đến từ tuyên
bố thường được nhắc nhở của ông ‘hiện hữu là được ý thức’.
David Hume (1711-1776): xem Hume – Đời Tôi, bản tôi dịch trên
blog này.
Thomas Reid (1710-1796) triết gia người Scotland, ông bác bỏ thuyết duy nghiệm (nghiêng về) hoài nghi
(skeptical Empiricism) của David Hume để ủng hộ một ‘triết lý của phán đoán hợp
lý thực tiễn dựa trên khả năng nhận thức cơ bản thông thường có tổng quát với mọi
người’ (philosophy of common sense) sau này được trường phái Scotland tán
thành.
[4] infinitesimal calculus: nhánh toán học
giải quyết với việc tìm kiếm và với những tính chất của đạo hàm và tích phân của
những hàm số, bằng những phương pháp ban đầu dựa trên tổng số những hiệu số nhỏ,
gần bằng không, tiến dần đến vô cực (infinitesimal differences). Hai loại calculus chính là phép tính vi phân và
phép tính tích phân
(differential calculus & integral calculus).
[5] Hume nêu lên sự khác biệt giữa ‘những quan hệ
của ý tưởng’ và ‘những sự vật việc của thực tế’. Những quan hệ
của những ý tưởng là những ràng buộc
tiên nghiệm và không thể phá hủy, được tạo
ra giữa những ý tưởng. Tất cả những phát biểu đúng
lôgích như “5 + 7 = 12” và “tất cả những người độc thân đều không lập gia
đình” đều là những quan hệ
của những ý tưởng. Những quan hệ của những ý tưởng là về trực giác hay có thể
chứng minh chắc chắn được, và
một phủ nhận
một mệnh đề như vậy có nghĩa là một mâu thuẫn.
Những vấn đề thực tế liên quan đến kinh nghiệm: ‘mặt trời
chiếu sáng’, ‘hôm qua
tôi đi dạo’, hay ‘ngày mai
trời sẽ mưa’ đều là
những sự vật việc của thực tế. Chúng
được học hậu nghiệm, và có
thể bị phủ nhận nhưng không sợ
bị mâu
thuẫn. Nếu bên ngoài trời đang nắng và tôi khẳng định rằng trời đang mưa, tôi
có thể bị chứng minh là sai chỉ bằng
việc nhìn ra
cửa sổ và xem trời có mưa không: xác định của
tôi không thể bị bác bỏ bằng chỉ đơn
giản gọi đến lôgích và
lý trí.
Trong khi tôi có
thể biết nhiều những sự vật việc của thực tế từ kinh
nghiệm giác quan hoặc từ trí nhớ, nhưng nguồn kiến thức của tôi không phải là
bạn tôi đang ở France hay mặt
trời sẽ mọc vào ngày mai. Hume nêu lên rằng
chúng ta biết những vấn đề thực tế của những sự
vật việc chưa được quan sát qua một tiến trình
nhân quả. Sự hiểu biết của tôi rằng bạn tôi đang ở France có thể là
từ một lá thư gây
ra hậu quả đó, và kiến thức của tôi rằng mặt trời sẽ mọc vào ngày mai được
suy ra từ kinh nghiệm trong quá khứ, vốn cho tôi
biết mặt trời đã mọc mỗi ngày trong quá
khứ.
[6] Sự phân biệt ‘phân tích / tổng hợp’ nói về một phân biệt giữa hai loại của sự đúng thật. Những đúng thật tổng hợp đều đúng vì (a) những gì chúng có nghĩa, và (b) vì cách thức là-thế của thế giới, trong khi những đúng thật phân tích đều đúng chỉ vì những gì chúng có nghĩa mà thôi. Thí dụ:
“Tuyết thì trắng” là tổng hợp, vì nó thì đúng thật, phần vì nghĩa của nó (mênh đề phát biểu) và phần vì tuyết (cách thức của thế giới) có một màu sắc nhất định. Ngược lại, “Tất cả những người độc thân đều chưa-lập gia đình”, thường được cho là đúng bất kể cách thức thế giới là như thế nào; nó là ‘đúng nhờ vào ý nghĩa’," hoặc do phân tích. Sự hiện hữu của những đúng thật phân tích vẫn còn tranh luận chưa ngã ngũ. Những triết gia từng nghĩ rằng chúng hiện hữu gồm Immanuel Kant, Gottlob Frege và Rudolf Carnap.
Nhà triết học nổi tiếng nhất với suy nghĩ rằng chúng không hiện hữu là W. V.
V. O. Quine. Những người hoài nghi đôi khi cho rằng ý tưởng về những đúng thật phân tích là không mạch lạc
và đôi khi họ bày tỏ điều này qua việc phủ nhận sự tồn tại của sự khác
biệt giữa phân tích
& tổng hợp’. Một
quan điểm liên quan là tuy có một sự khác biệt nhưng nó thì không đáng kể, vì lớp gồm những mệnh đề phân tích
thì trống. Một loại hoài nghi
thứ ba về khả năng phân tích đặt câu hỏi về tính hữu dụng của nó.
[7] [Khái niệm được diễn tả bằng từ tiếng England ‘triangle’ chứa đựng khái niệm của là ‘có ba-góc’.
Nó cũng chứa khái niệm cua ‘ba mặt’? Từ tiếng Germany cho tam giác là Dreieck, hay ba-góc. Có lẽ, khái niệm đó gồm ba-góc, nhưng, lại nữa, nó có gồm ba-cạnh không?]
[8] [Là khó
khăn để xác định về thí dụ này vì, theo như tôi
biết, Kant không nói về chứng
minh trong
số học. Ông có đồng ý rằng một
số luật trong số học là phân tích,
nhưng có lẽ chúng ta cần trực giác để xác định rằng không phải mọi số nguyên tố
lớn hơn 100 đều là hợp số.
Điểm nói ở
đây là ông sẽ chắc chắn sẽ chủ
trương rằng chúng ta cần trực giác để thiết lập tuyên bố về sự hiện hữu. Trong những hệ thống lôgích thời
nay, ‘không là trường hợp
rằng tất cả x là P’ theo đến rằng ‘có một x vốn không-P’. Trong những ký hiệu, ¬ ∀xPx dẫn đến ∃3x ¬ Px.
Để đi vào vào
một chủ trương lỗi thời thô sơ, nếu cách giải thích ở trên của Kant là
đúng, thì người ấy sẽ coi suy luận này liên quan đến trực giác. Đó là, suy luận
được nói đến có thể dẫn từ một đúng thật phân tích đến một đúng thật tổng hợp.
Xem Posy 1984 cho một
giải thích có ý nghĩ về
lôgích thích hợp để gán cho Kant].
[9] incommensurable, dẫn
đến số vô tỉ
[10] contingent: tùy thuôc
(vào trường hợp/mệnh đề) có khi là đúng và có khi là sai, (ngược với necessary: tất yếu)
[11] spatio-temporal
[12] individual
[13] Universal generalization
hay universal
introduction (∀I,
đôi khi là GEN) là một quy tắc cơ bản của suy diễn trong logic bậc nhất (first-order logic) mà theo đó một phát biểu phổ quát được đưa vào một
chứng minh. Quy tắc tổng quát hóa phổ quát chủ trương rằng nếu bạn có thể chứng minh một sự việc gì là đúng với bất kỳ hằng số tùy tiện nào, thì nó phải là đúng với
mọi sự biệc. Điều này cho phép bạn chuyển từ một tuyên bố cụ thể về một đối
tượng tùy tiện bất kỳ sang một
tuyên bố tổng quát bằng việc dùng một biến số định lượng.
Quy tắc giới thiệu phổ quát có thể
được trình bày chính thức như sau:
If Γ
… trong đó Γ là một tập hợp những công thức và c là một
hằng số tùy tiện vốn mới
với chứng minh hoặc lập luận đang được trình bày. Tức là hằng số c không thể có
trong Γ.
[14] [Về khái niệm tam giác, xem chú thích 2 ở
trên.]
[15] in
concreto
[16] [Mệnh đề 32 là: ‘Trong một tam giác bất kỳ, nếu một trong những
cạnh được tạo ra, góc ngoài thì bằng hai góc nội tiếp và những góc đối diện, và ba góc trong của tam giác
thì bằng hai
góc vuông’.
Như thế,
cắm mốc sẽ
là tam giác ABC dọc theo với đoạn
thẳng BD. Xây dựng phụ
là đoạn thẳng BE song song với AC.]
[17] [Vấn đề này có liên quan đến một trong những
cái gọi là ‘những khoảng
trống’ lôgích trong Elements của Euclid. Giả định rằng chúng
ta có một đường thẳng đi từ bên trong của một đường tròn ra bên ngoài. Euclid
giả định rằng có một điểm vốn đường thẳng cắt đường tròn. Theo cái nhìn thời nay, điều này không
tuân theo những định đề, tiên đề và định nghĩa. Người ta phải rành mạch thêm vào một nguyên lý của tính
liên tục. Tuy nhiên, nếu chúng ta coi suy luận của Euclid như được trực giác hướng dẫn, khi đó có
lẽ không có khoảng trống. Từ
viễn tượng này,
tính liên tục của đường tròn và đường thẳng là trực giác , và không mang tính lôgích hay phân tích.]
[18] [những định lý số học trong Sách 10 Elements của Euclid được giải thích rõ
ràng bằng những thuật ngữ hình học. Một số nhà bình luận gán cho Kant một nền tảng
tiên đề về số học. Ngẫu nhiên, tôi không biết Kant sẽ tạo ra sự khác biệt gì,
như 12 – 5 = 7.
Người ta có thể nghĩ rằng không cần xây dựng phụ trợ ở đây. Khi chúng ta đã nắm
được khái niệm về mười hai đối tượng, chúng ta có thể mổ xẻ nó để xác định sự
khác biệt. Mặt khác, có lẽ chính hành động phân vùng sưu tập là một công trình
liên quan đến trực giác.]
[19] [Tuy nhiên, định đề thứ tư của
Euclid là ‘tất
cả những góc vuông đều bằng nhau’,
điều này không đại diện cho một xây dựng.]
[20] projective
[21] [Một số nhà giải thích nói Kant chủ trương rằng người ta không thể diễn
đạt những khái niệm của hình
học với không gọi đến sự xây dựng trong trực giác – và xây dựng này là theo Euclid. Vì vậy, ngay cả hình học không-Euclid cũng giả định trước tính tất yếu của hình học theo Euclid.]
[22] the analyticity of mathematics
[23]John Stuart Mill (1806–73) là nhà triết học tiếng
England có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XIX. Ông là một nhà tự tưởng theo thuyết
duy nhiên (natualist), một
người theo thuyết duy lợi thực dụng
(utilitarianism), và một người theo chủ nghĩa tự do, với những tác phẩm khám phá những hệ quả của một quan điểm
theo chủ nghĩa kinh nghiệm trọn vẹn triệt để. Trong việc làm như vậy, ông đã tìm kết hợp những gì hay nhất của tư tưởng Khai sáng
thế kỷ 18 với những trào lưu triết học lịch sử và
phong trào lãng mạn mới
xuất hiện của thế kỷ 19. Những tác phẩm quan trọng nhất của ông
gồm System of Logic
(1843), On Liberty (1859), Utilitarianism (1861) and An Examination of Sir
William Hamilton’s Philosophy (1865).
[24] transcendentalism
[25] foundationalism
[26] [Xem chương 1, §3 để biết sơ lược về thuyết
duy nhiên trong triết học toán học. Maddy 1997 là một nghiên cứu thông xuốt.]
[27] Rudolf Carnap (1891–1970) triết gia
người Germany, là một
trong những nhà triết học nổi tiếng nhất của thế kỷ XX. Carnap là một trong những người khởi xướng
của lĩnh vực mới về triết học khoa học và sau này là
người đóng góp đứng đầu
cho ngữ nghĩa học và lôgic quy nạp.Nổi
tiếng là một trong những người sáng lập, và có lẽ là đại diện đứng đầu về triết học của phong trào được biết như chủ nghĩa thực chứng lôgic hay chủ
nghĩa thực nghiệm logic
(logical empiricism/logical positivism).
Ông là triết
gia dẫn đầu của NhómVienna (Vienna Circle) vào cuối những năm 1920 và đầu những
năm 1930. Lần đầu tiên ông được biết đến nhiều với quyển Der logische Aufbau
der Welt, 1928. Quyển sách lớn tiếp theo của ông, Logical Syntax of
Language (Cú pháp logic của ngôn ngữ),1934, đã tìm cách giải quyết tranh luận
giữa những trường phái cơ bản của thuyết logic, thuyết trực giác và thuyết hình
thức (lúc đó đang ở đỉnh cao của nó) bằng đề nghị một ‘nguyên tắc khoan dung’,
theo đó không có lôgic ‘đúng’ cuối cùng, nhưng chỉ có những lôgic ít hay nhiều
hữu ích hơn cho những mục đích khác nhau của con người. Điều này đã trở thành
nguyên tắc dẫn đường cho toàn bộ triết lý sau này của ông, bao gồm chương trình
“giải thích” của ông, hay thay thế từng phần những ý tưởng và khái niệm mơ hồ bằng
những ý tưởng và khái niệm tốt hơn. Quyển sách lớn khác của ông là Logical
Foundations of Probability,1950, đã định hình lại lĩnh vực và cuối cùng dẫn đến
nhận thức luận Bayes hiện tại (Bayesian epistemology) và thuyết quyết định
(decision theory).
[28] Enumerative Induction: Quy Nạp Liệt Kê – phương pháp quy nạp trong đó kết luận
được xây dựng dựa trên số lượng của những trường hợp hỗ trợ nó. Càng nhiều trường
hợp hỗ trợ, kết luận càng vững mạnh.
[29] [Lưu ý sự giống nhau giữa những khái niệm
giới hạn của Mill và cách những giới hạn, như đạo hàm và nguyên hàm, được định nghĩa trong tích phân thời nay.]
[30] tâm vòng tròn
ngoại tiếp
[31] [Như Frege đã lưu ý trong một nội dungkhác, suy diễn những tổng số của Mill làm việc dùng luật kết hợp là thiết yếu]
[32] [Giải quyết của Mill về tính tất yếu hiển nhiên và tiên nghiệm của toán học thì tương tự với luận
điểm của Hume về tính nhân
quả và ‘liên
hệ tất yếu’.
Hume đề nghị rằng
tin tưởng của chúng ta vốn một
điều này gây ra một điều kia thì dựa
trên kinh nghiệm không đổi của
chúng ta về hai điều xảy ra cùng
nhau, đến mức khi chúng
ta nhìn thấy một trong chúng xảy
ra,
chúng ta mong đợi điều kia sẽ
xảy ra.
Xem Yablo 1993 cho một
thảo luận sâu xa về mức độ vốn tính có thể mường tượng là một hướng dẫn đáng tin cho tính có thể có được. Một số kết quả của vật
lý thời nay cho thấy rằng có lẽ vũ trụ vận hành theo những cách vốn chúng ta thấy
không thể tưởng tượng được. Điều này có đem cho sự phủ nhận thực nghiệm về mức độ tin cậy của trực giác không gian và thời
gian không? Nếu cuối cùng chúng ta không thể dựa vào ‘kinh nghiệm sớm có và kông đổi’, khi đó một người theo Mill có thể dựa trên gì?]
[33] Tiên đề bao hàm (comprehension
axiom)