Homo Deus: A Brief History of Tomorrow
Yuval Noah Harari
PHẦN III
Homo Sapiens đánh mất
kiểm soát
Có thể nào con người tiếp tục điều
hành thế giới và đem cho nó ý nghĩa?
Công nghệ sinh học và trí tuệ
nhân tạo đe dọa chủ nghĩa nhân bản như thế nào?
Ai có thể kế thừa loài người, và
tôn giáo mới nào có thể thay thế chủ nghĩa nhân bản?
8.
Bomb nổ chậm trong phòng thí nghiệm
9.
Sự Phân ly Lớn
10. Biển Mênh mông của Ý thức
11.
Tôn Giáo thờ phụng Dữ liệu
Bom nổ chậm trong phòng thí nghiệm
Vào
năm 2016, gói hàng tự do của chủ nghĩa cá nhân, nhân quyền, dân chủ và thị trường
tự do đã thống trị thế giới. Tuy nhiên, khoa học thế kỷ XXI đang sói mòn những nền
móng của trật tự do tư tưởng tự do tạo dựng. Vì khoa học không giải quyết với
những câu hỏi về giá trị, nó không thể xác định liệu những người tự do là đúng hay
không trong việc định giá trị của tự do cao hơn của bình đẳng, hoặc trong việc
định giá trị cá nhân cao hơn tập thể. Tuy nhiên, giống như tất cả những tôn
giáo khác, tư tưởng tự do cũng thế, đã dựa vào những gì nó tin là những phát biểu
về thực tại, ngoài những phán đoán về đạo đức trừu tượng. Và những phát biểu thực
tại này giản dị là không đứng vững trước sự xem xét kỹ lưỡng khoa học chính xác.
Những
người tự do đặt quá nhiều giá trị cho tự do cá nhân vì họ tin rằng con người có
ý chí tự do. Theo chủ nghĩa tự do, những quyết định của những người bỏ phiếu
(chính trị) và những khách hàng (kinh tế) là không tất định và cũng không ngẫu
nhiên. Mọi người dĩ nhiên đều chịu ảnh hưởng của những động lực bên ngoài và sự
kiện tình cờ, nhưng sau cùng mỗi người chúng ta đều có thể vẫy cây đũa thần diệu
của tự do và quyết định mọi sự vật việc cho chính chúng ta. Đây là lý do tư tưởng
tự do đem nhiều quan trọng như thế cho những cử tri và khách hàng, và chỉ thị cho
chúng ta hãy tuân theo trái tim của chúng ta và làm những gì cảm thấy tốt lành.
Đó là ý chí tự do của chúng ta đem ý nghĩa thấm nhập vào vũ trụ, và vì không có
người ngoài nào có thể biết bạn thực sự cảm thấy thế nào, hoặc tiên đoán chắc
chắn được những lựa chọn của bạn, bạn không nên tin tưởng vào bất kỳ Ông Anh Lớn [1] nào để chăm lo những
lợi ích và mong muốn của bạn.
Đem
‘ý chí tự do’ gán cho con người không phải là một phán đoán đạo đức – nó có mục
đích để là một mô tả thực tại về thế giới. Mặc dù cái gọi là mô tả thực tại này
có thể đã có ý nghĩa trở ngược về trong những thời của Locke, Rousseau và
Thomas Jefferson, nó không thuận hợp lắm với những phát kiến mới nhất của khoa
học sự sống. Mâu thuẫn giữa ý chí tự do và khoa học ngày nay là một ‘con voi’ –
một vấn đề hiển nhiên, rành rành trước mắt, nhưng quá khó khăn không ai muốn
bàn hay nhắc tới – trong phòng thí nghiệm, điều mà nhiều người không muốn nhìn thấy
khi họ chăm chú soi chiếu qua những kính hiển vi và những máy scan fMRI.[2]
Vào
thế kỷ XVIII, Homo sapiens đã giống
như một cái hộp đen bí ẩn, có những hoạt động bên trong của nó vượt ngoài tầm
hiểu biết, thoát khỏi sự nắm bắt của chúng ta. Do đó, khi những học giả đặt câu
hỏi tại sao một người rút một con dao và đâm chết một người khác, một câu trả lời
chấp nhận được cho biết: “Vì ông ta đã chọn để làm thế. Ông đã dùng ‘ý chí tự
do’ của mình để lựa chọn giết người, đó là tại sao ông ta thì hoàn toàn chịu
trách nhiệm cho tội ác của mình”. Trong thế kỷ qua, khi những nhà khoa học đã mở
tung cái hộp đen của Sapiens, họ đã khám
phá ở trong đó không có ‘linh hồn’, cũng không có ‘ý chí tự do’, cũng chẳng có ‘tự
ngã’ – nhưng chỉ có những gene, hormon và nơrôn vốn đều tuân theo cùng những định
luật vật lý và hóa học điều hành tất cả thực tại còn lại. Ngày nay, khi những học
giả hỏi tại sao một người rút một con dao và đâm chết một người khác, trả lời
“Vì ông ta đã chọn để làm thế’ không phải là trả lời chấp nhận được. Thay vào
đó, những nhà di truyền học và những nhà khoa học não cung cấp một câu trả lời
chi tiết hơn: “Ông ấy đã làm điều đó do những tiến trình điện hoá học như vậy-và-như
vậy trong não, được hình thành bởi một dựng lập di truyền đặc biệt, vốn phản ảnh
áp lực tiến hóa từ thời cổ ghép đôi với những đột biến ngẫu nhiên”.
Những
tiến trình điện hoá học não dẫn đến sự giết người, chúng hoặc là tất định hoặc là
ngẫu nhiên, hay một kết hợp của cả hai – nhưng chúng không bao giờ là tự do. Lấy
thí dụ, khi một nơrôn bắn đi một điện tích, điều này hoặc có thể hoặc là một phản
ứng tất định với những kích thích bên ngoài, hoặc có thể là kết quả của một sự
kiện ngẫu nhiên như sự phân hủy tự phát của một atom phóng xạ. Không trường hợp
lựa chọn nào chừa lại bất kỳ một chỗ đứng cho ý chí tự do. Những quyết định đạt
được qua một chuỗi phản ứng của những sự kiện sinh hóa, mỗi sự kiện được quyết
định bởi một sự kiện trước đó, chắc chắn không phải là tự do. Những quyết định là
hậu quả của những biến cố ngẫu nhiên ở tầng dưới-atom [3] cũng không là tự do.
Chúng chỉ là ngẫu nhiên. Và khi những biến cố ngẫu nhiên kết hợp với những quá
trình tất định, chúng ta có được những kết quả xác suất, nhưng điều này cũng
không đi đến được mức độ của tự do.
Giả
sử chúng ta xây dựng một robot có đơn vị tiến hành dữ kiện trung tâm (CPU) được
nối kết với một cục phóng xạ uranium. Khi lựa chọn giữa hai lựa chọn có thể – tạm
nói, nhấn nút bên phải hoặc nút bên trái – robot này đếm số lượng những atom
uranium đã phân rã trong phút trước. Nếu con số này chẵn – nó nhấn nút bên phải.
Nếu là số lẻ – nút bên trái. Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn về những
hành động của một robot như vậy. Nhưng không ai có thể gọi cái máy kì quặc dù tạm
thời nhưng dùng được việc này là nó thì ‘tự do’, và chúng ta sẽ không mơ ước để
sẽ cho phép nó bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử dân chủ, hoặc buộc nó có trách
nhiệm pháp lý đối với hành động của nó.
Với
trình độ hiểu biết tốt nhất về khoa học của chúng ta, thuyết tất định và tính
ngẫu nhiên đã phân chia toàn bộ cái bánh giữa chúng, để lại thậm chí không một mẩu
vụn nào cho “tự do”. Danh từ thiêng liêng “tự do” hóa ra giống như từ “linh hồn”,
là một thuật ngữ trống rỗng không mang ý nghĩa nào rõ rệt. Tự do sẽ tồn tại chỉ
trong những truyện kể tưởng tượng con người chúng ta đã phát minh ra.
Chiếc
đinh cuối cùng đóng xuống quan tài của tự do được thuyết tiến hóa cung cấp.
Cũng như sự tiến hóa không thể cùng tồn tại với những linh hồn vĩnh cửu, nó
cũng không thể nuốt trôi ý tưởng về ‘ý chí tự do’. Vì nếu con người được tự do,
làm thế nào chọn lọc tự nhiên đã có thể định hình cho họ? Theo thuyết tiến hóa,
tất cả những lựa chọn do những loài động vật thực hiện – dù là chỗ ở, thức ăn
hay những bạn tình – đều phản ánh ‘code’ di truyền của họ. Nếu, nhờ vào những gene
thích nghi nào đó của nó, một con vật chọn để ăn một cây nấm bổ dưỡng và giao
phối với những bạn tình khỏe mạnh và sinh nở mau mắn, những gene này sẽ truyền
lại cho những thế hệ tiếp theo. Nếu, vì những gene không thích nghi nào đó, một
con vật chọn ăn những nấm độc và những bạn tình mang bệnh thiếu máu, những gene
này trở thành tuyệt chủng. Tuy nhiên, nếu một con vật “tự do” chọn những gì để
ăn và với ai để giao phối, sau đó không còn gì để cho chọn lọc tự nhiên làm việc
nữa.
Khi
phải đối diện với những giải thích khoa học như vậy, người ta thường đẩy chúng qua
một bên, chỉ ra rằng họ cảm thấy tự
do, và rằng họ hành động theo như những ước muốn và những quyết định của riêng
họ. Điều này đúng. Con người hành động theo những ước muốn của họ. Nếu khi nói
có “tự do” có nghĩa là có khả năng hành động theo những ước muốn của bạn – khi
đó, quả là có, con người có ý chí tự do, và cũng như thế, cả những chimpanzee, những
con chó và những con vẹt. Khi con vẹt Polly muốn một bánh cracker, Polly ăn một
bánh cracker. Nhưng câu hỏi với giả triệu đô la không phải là liệu con vẹt và
con người có thể hành động theo như những ước muốn bên trong của họ – nhưng câu
hỏi là liệu trước tiên họ có thể lựa chọn
những ham muốn của họ hay không. Tại sao con vẹt Polly lại muốn một cái
bánh cracker hơn là một quả dưa chuột? Tại sao tôi lại quyết định giết người
hàng xóm gây khó chịu của tôi, thay vì đưa nốt ‘má bên kia’ của tôi cho ông ta?
Tại sao tôi muốn mua chiếc ô tô màu đỏ chứ không phải màu đen? Tại sao tôi
thích bỏ phiếu cho đảng Bảo thủ hơn là Đảng Lao động? Tôi không chọn một bất kỳ
nào của những mong ước này. Tôi cảm thấy một ước muốn đặc biệt dâng trào lên
trong tôi, vì đây là cảm xúc được tạo ra bởi những quá trình sinh hóa trong não
của tôi. Những quá trình này có thể là tất định hoặc ngẫu nhiên, nhưng không tự
do.
Bạn
có thể trả lời rằng ít nhất là trong trường hợp những quyết định quan trọng như
giết một người hàng xóm, hoặc bầu một chính phủ, lựa chọn của tôi không phản ảnh
một cảm xúc nhất thời, nhưng một trầm ngâm suy nghĩ lâu dài và đầy lý trí về những
luận chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, có nhiều giòng suy nghĩ, dài như những đoàn
tàu gồm những luận chứng vốn tôi có thể đi theo, một số trong chúng sẽ khiến
tôi bỏ phiếu cho đảng Bảo thủ, một số khác cho đảng Lao động, và vẫn còn số
khác khiến tôi có thể bỏ phiếu cho đảng UK Độc lập, hoặc đơn giản là không buồn
đi bỏ phiếu, nhưng chỉ ở nhà. Điều gì khiến tôi lên một toa tàu của lý luận này
chứ không phải một toa tàu của lý luận kia? Trong (nhà ga) Paddington của bộ óc
của tôi, tôi có thể buộc phải nhảy lên một toa tàu của lý luận đặc biệt nào đó bởi
những tiến trình tất định, hoặc tôi có thể lên một toa tàu một cách ngẫu nhiên.
Nhưng tôi thì không “tự do” lựa chọn những lý luận đó sẽ khiến tôi bỏ phiếu cho
đảng Bảo thủ.
Đây
không chỉ là những giả thuyết hay những suy đoán triết học. Ngày nay chúng ta
có thể dùng những máy scan não để đoán trước những ước muốn và những quyết định
của người ta, lâu trước khi chính họ ý thức chúng. Trong một loại thí nghiệm,
người được đặt bên trong một máy scan não lớn, giữ trong mỗi bàn tay một công tắc.
Họ được yêu cầu nhấn một trong hai công tắc bất cứ khi nào họ cảm thấy thích
nó. Những nhà khoa học quan sát hoạt động thần kinh trong não có thể tiên đoán công
tắc nào người đó sẽ nhấn trước khi người đó thực sự làm như vậy, và ngay cả trước
khi người đó có nhận thức về ý định của mình. Những sự kiện thần kinh trong bộ
óc cho thấy quyết định của người này bắt đầu từ một vài trăm mili giây đến vài
giây trước khi người đó có nhận thức về
lựa chọn này [4]
Quyết
định để nhấn một trong hai công tắc, bên phải hoặc bên trái, chắc chắn phản ảnh
sự lựa chọn của người đó. Tuy nhiên, nó không phải là một lựa chọn tự do. Trong thực tế, tin tưởng của
chúng ta vào ý chí tự do sẽ là kết quả từ lôgích sai lạc. Khi một chuỗi phản ứng
sinh hóa làm cho tôi mong muốn bấm công tắc bên phải, tôi cảm thấy rằng tôi thực
sự muốn bấm công tắc bên phải. Và điều này là đúng. Tôi thực sự muốn bấm nó.
Tuy nhiên, người ta sai lầm nhảy đến kết luận rằng nếu tôi muốn bấm nó, tôi chọn để làm thế. Đây dĩ nhiên là sai.
Tôi không chọn những ham muốn của
tôi. Tôi chỉ cảm nhận chúng, và hành
động thuận hợp theo.
Mọi
người dù sao đi nữa vẫn tiếp tục tranh cãi về ý chí tự do vì ngay cả những nhà
khoa học cũng tất cả rất thường xuyên tiếp tục dùng những khái niệm gót-học lỗi
thời. Những nhà gót học Kitô, Islam và Juda đã tranh luận trong nhiều thế kỷ, về
những quan hệ giữa linh hồn và ý chí. Họ đã giả định rằng mỗi người đều có một yếu
tính tinh thần bên trong mình – gọi là linh hồn – vốn là tự ngã đích thực của
tôi. Họ còn chủ trương thêm rằng tự ngã này có những ước muốn nhiều loại khác
nhau, cũng tựa như nó có quần áo, xe cộ và nhà ở. Tôi cũng được gán buộc là lựa
chọn những ước muốn của tôi cùng một cách như tôi lựa chọn quần áo của tôi, và
số phận của tôi thì được ấn định theo những lựa chọn này. Nếu tôi chọn những ước
muốn tốt, tôi được lên thiên đàng. Nếu tôi chọn những ham muốn xấu, tôi bị đày
xuống hỏa ngục. Khi đó, câu hỏi đặt ra là tôi lựa chọn những ước muốn của tôi
chính xác như thế nào? Tại sao, lấy thí dụ, có phải Eve đã muốn ăn trái cấm con
rắn mời nàng? Có phải ước muốn này ép buộc nàng đã phải làm theo? Có phải ước
muốn này đã đơn giản chỉ nảy lên trong nàng một cách thuần túy tình cờ? Có phải
nàng đã chọn nó một cách “tự do”? Nếu nàng không chọn nó một cách tự do, tại
sao trừng phạt nàng về việc đó?
Tuy
nhiên, một khi chúng ta chấp nhận rằng không có linh hồn, và rằng con người không
có yếu tính nội tại được gọi là “tự ngã’, thôi không còn ý nghĩa gì nữa để hỏi,
“Làm thế nào để tự ngã chọn những ham muốn của nó?” Nó giống như hỏi một người
không vợ, “Thế vợ anh chọn quần áo của cô ấy thế nào?” trong thực tại, chỉ có một
luồng tuôn chảy của hữu thức, và những mong muốn phát sinh và mất đi trong dòng
chảy này, nhưng không có tự ngã vĩnh viễn nào là người sở hữu những ham muốn,
do đó nó là vô nghĩa để hỏi xem có phải tôi chọn những ham muốn của tôi một
cách tất định, ngẫu nhiên hoặc tự do.
Nghe
có vẻ vô cùng phức tạp, nhưng là dễ dàng đến ngạc nhiên để thí nghiệm ý tưởng
này. Lần tới, nếu một ý nghĩ hiện lên trong não thức của bạn, hãy dừng lại và tự
hỏi: “Tại sao tôi đã nghĩ về suy nghĩ đặc biệt này? Có phải tôi đã quyết định một
phút trước rằng hãy nghĩ về ý nghĩ này, và chỉ sau đó có phải tôi đã nghĩ nó?
Hay có phải nó chỉ nảy sinh trong não thức của tôi, mà không có tôi cho phép hoặc
hướng dẫn? Nếu tôi thực sự là người làm chủ của những suy nghĩ và quyết định của
tôi, có thể nào tôi quyết định không suy nghĩ về bất cứ gì tất cả trong sáu
mươi giây kế tiếp?” bạn hãy thử đi, và xem sẽ xảy ra những gì.
Nghi
ngờ ý chí tự do thì không chỉ là một thực tập triết học. Nó có những bao hàm thực
tiễn. Nếu những sinh vật thực sự không có ý chí tự do, nó ngụ ý rằng chúng ta
có thể thao túng và thậm chí kiểm soát những ước muốn của chúng, bằng cách dùng
những loại thuốc, công nghệ di truyền học hoặc kích thích trực tiếp vào bộ óc.
Nếu
bạn muốn thấy triết lý trong hoạt động, hãy đến thăm một phòng thí nghiệm chuột-robo.
Một chuột-robo là một con chuột thông thường nhưng thêm một khác thường: những
nhà khoa học đã cấy những điện cực vào vùng cảm giác và khen thưởng trong não của
con chuột. Điều này khiến những nhà khoa học có thể di động con chuột bằng cách
dùng khí cụ điều khiển từ xa. Sau những huấn luyện ngắn, những nhà nghiên cứu
đã thành công không chỉ để làm cho những con chuột rẽ sang trái hoặc phải,
nhưng cũng leo thang, đánh hơi xung quanh những đống rác, và làm những việc mà
những con chuột bình thường không thích làm, chẳng hạn như nhảy xuống từ những
khoảng rất cao. Quân đội và những tập đoàn kỹ nghệ cho thấy có chú ý nhiệt tình
với những robo-chuột, hy vọng chúng có thể chứng tỏ là hữu ích trong nhiều nhiệm
vụ và hoàn cảnh. Lấy thí dụ, những robo-chuột có thể giúp tìm ra những người sống
sót vẫn còn vùi dưới những toà nhà mới đổ, xác định vị trí bom và mìn bẫy, và giúp
vẽ bản đồ (chi tiết) những đường hầm ngầm và hang động.
Những
người hoạt động bảo vệ súc vật đã lên tiếng lo ngại về sự khổ đau gây ra cho những
con chuột từ những thí nghiệm loại như thế. Giáo sư Sanjiv Talwar của Đại học tiểu
bang New York, một trong những nhà nghiên cứu chuột-robo hàng đầu, đã bác bỏ những
lo ngại này, biện luận rằng những con chuột thực sự thích thú những thí nghiệm.
Dù sao chăng nữa, Talwar giải thích, những con chuột “làm việc để được vui sướng”
và khi những điện cực kích thích trung tâm khen thưởng trong não của chúng,
“con chuột cảm thấy cực lạc”.[5]
Trong
hiểu biết cao nhất của chúng ta, con chuột không cảm thấy rằng một ai đó khác điều
khiển nó, và nó không cảm thấy rằng nó bị ép buộc để làm làm một gì đó trái với
ý muốn của nó. Khi Giáo sư Talwar nhấn công tắc điều khiển từ xa, chuột muốn di chuyển sang trái, đó là tại sao nó
di chuyển sang trái. Khi giáo sư nhấn công tắc khác, con chuột muốn leo lên một cái thang, đó là tại
sao nó ấy trèo những bậc thang. Dù sao chăng nữa, những ham muốn của chuột không
là gì nhưng chỉ là một mẫu thức của những nơrôn bắn đi. Đâu có thành vấn đề cho
dù những nơrôn được bắn đi vì chúng được kích thích bởi những nơrôn khác, hay
vì chúng được kích thích bởi những điện cực cấy ghép vào não chúng kết nối với công
tắc điều khiển từ xa của Giáo sư Talwar? Nếu bạn hỏi chuột về việc đó, nó rất có
thể đã nói với bạn, “Chắc chắn tôi có tự do! Hãy xem đây, tôi muốn rẽ trái – và
tôi rẽ trái. Tôi muốn leo một cái thang – và tôi leo lên một cái thang. Không
phải điều đó chứng minh rằng tôi có ý chí
tự do hay sao?”
Những
thí nghiệm được thực hiện trên Homo
sapiens chỉ ra rằng giống những con chuột, con người cũng có thể bị thao túng,
và rằng là điều có thể để tạo ra hoặc tiêu diệt ngay cả những cảm xúc phức tạp
như yêu thương, giận dữ, sợ hãi và trầm cảm bằng cách kích thích những điểm
đúng trong bộ óc con người. Quân đội US thời gian gần đây đã bắt đầu những thí
nghiệm về cấy những chip computer trong não người, hy vọng sẽ dùng phương pháp
này để điều trị những người lính bị bện taam thần căng thẳng sau chấn thương [6] . Tại Bệnh viện
Hadassah ở Jerusalem, những y sĩ đã đi tiên phong trong một điều trị mới lạ cho
người bệnh bị trầm cảm cấp tính . Họ cấy điện cực vào não của người bệnh, và
dây điện cực vào một computer rất nhỏ được cấy vào ngực của người bệnh. Khi nhận
lệnh từ những computer, những điện cực dùng những dòng điện yếu để làm tê liệt
những khu vực não chịu trách nhiệm về trầm cảm. Việc điều trị không phải lúc
nào cũng thành công, nhưng trong một số trường hợp người bệnh tường trình rằng
cảm giác trống rỗng tối tăm dày vò họ trong suốt cuộc sống của họ đã biến mất
như ảo thuật.
Một
người bệnh phàn nàn rằng vài tháng sau giải phẫu, bệnh ông đã tái phát, và lại bị
trầm cảm rất nặng. Sau khi kiểm xoát, những y sĩ đã tìm thấy nguồn cơn:
computer (trong ngực) đã hết pin. Một khi họ đã thay pin mới, chứng trầm cảm
tan đi nhanh chóng.[7]
Do
những hạn chế hiển nhiên về đạo đức, những nhà khảo cứu cấy những điện cực vào trong
não người chỉ trong những trường hợp đặc biệt. Thế nên hầu hết những thí nghiệm
có liên quan trên con người đều được tiến hành dùng những khí cụ không ấn nhét loại
giống như mũ chùm đầu tDCS (từ
chuyên môn gọi là ‘những kích thích bằng dòng điện trực tiếp xuyên qua xương sọ’)
[8]. Chiếc mũ trùm đầu
được lắp những điện cực gắn vào da đầu từ bên ngoài. Nó tạo ra điện từ trường yếu
và điều khiển chúng hướng tới những khu vực não nào đó cụ thể, từ đó kích thích
hoặc ngăn cấm những hoạt động chọn lựa của não.
Những
thí nghiệm của quân đội US với những mũ trùm đầu như vậy có hy vọng làm sắc bén
sự tập trung và nâng cao hiệu năng của những người lính cả trong những buổi huấn
luyện và trên chiến trường. Những thí nghiệm chính được tiến hành trong Cục
Hiệu Năng Con người [9], nằm trong một căn cứ
không quân ở Ohio. Mặc dù những kết quả còn xa kết luận ngã ngũ, và mặc dù sự
cường điệu xung quanh những khí cụ kích thích xuyên sọ hiện đang bàn bạc quá thổi
phồng những thành tựu thực sự, nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng phương pháp
này thực sự có thể làm tăng khả năng nhận thức của những người điều khiển những
drone [10], những người kiểm
soát không lưu, những người lính chuyên bắn tỉa, và những loại nhân sự khác có
nhiệm vụ đòi hỏi họ phải giữ sự chú ý tập trung rất cao trong những thời gian
dài [11]
Sally
Adee, một nhà báo của tạp chí New
Scientist, đã được phép đến thăm một cơ sở huấn luyện những tay súng bắn tỉa
và thí nghiệm những hiệu ứng cho chính cô. Lúc đầu, cô bước vào một chiến trường
mô phỏng (giả) mà không mang mũ trùm đầu có điện kích thích xuyên sọ. Sally mô
tả sợ hãi dâng lên trong cô như thế nào khi cô nhìn thấy 20 người mang mặt nạ, đeo
bom tự sát và trang bị súng tự động, lao thẳng về phía cô. “Cứ với mỗi một tôi xoay
sở để bắn chết,” Sally viết, “lại có 3 người tấn công khác bật lên không biết từ
đâu. Tôi rõ ràng là bắn không kịp, và bị hoảng loạn và sự thiếu thành thạo khiến
tôi bị nghẽn súng liên tục.” May mắn cho cô, những kẻ tấn công chỉ là những
hình ảnh video, chiếu trên những màn ảnh lớn thay cho tất cả không gian xung
quanh cô. Thế nhưng, cô đã rất thất vọng với sự biểu diễn tệ hại của mình, khiến
cô cảm thấy muốn đặt khẩu súng xuống và rời ngay khỏi chiến trường mô phỏng.
Sau
đó, họ đã gắn điện vào mũ trùm đầu cho cô đội. Cô kể lại không cảm thấy có gì bất
thường, ngoại trừ một kích động nhẹ và một vị kim loại lạ trong miệng. Tuy
nhiên, cô bắt đầu ‘nhổ gọn’ đám người khủng bố lần lượt một này sau một khác, lạnh
lùng và theo phương pháp như thể cô là nhân vật Rambo hay tài tử Clint
Eastwood. “Khi hai mươi người bọn họ khua súng chạy tới tôi, tôi bình tĩnh đặtcây
súng trường của tôi theo hàng, dành một khoảnh khắc để thở vào thật sâu, và bắn
mục tiêu gần nhất, trước khi lặng lẽ ước định mục tiêu kế tiếp của tôi. Trong
những gì có vẻ gần như rất chóng vánh, tôi nghe một giọng gọi lớn, “Được rồi, xong
cả rồi.” Tất cả đèn bật sáng trong phòng mô phỏng. . . Trong im lặng đột ngột
giữa những thân người quanh tôi, tôi đã thực sự đang mong đợi thêm nhiều những
kẻ tấn công, và tôi thì một chút thất vọng khi đội chuyên viên bắt đầu gỡ những
điện cực khỏi đầu tôi. Tôi ngửng lên và tự hỏi, có phải một người nào đó đã
quay kim đồng hồ nhanh tới trước. Không hiểu sao, hai mươi phút đã vừa mới qua.
“Tôi đã hạ được bao nhiêu?” Tôi hỏi người phụ tá. Cô ấy nhìn tôi giễu cợt. “Tất
cả bọn chúng!”.
Thí
nghiệm đã thay đổi đời sống của Sally. Trong những ngày sau cô nhận ra rằng cô
đã trải qua “một kinh nghiệm gần-như tâm linh. . . những gì định nghĩa kinh
nghiệm đã không phải là cảm thấy thông minh hơn hay học nhanh hơn: điều làm tôi
rụng rời trời đất là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi, tất cả mọi thứ trong đầu
của tôi cuối cùng đều câm lặng. . . Bộ óc của tôi với không tự nghi ngờ đã là một
sự vén lên cho thấy. Đột nhiên có sự im lặng lạ thường này trong đầu tôi. . .
Tôi hy vọng bạn có thể thông cảm với tôi khi tôi nói với bạn rằng những điều
tôi mong muốn kịch liệt nhất trong những tuần tiếp theo kinh nghiệm của tôi đã là
quay trở lại và buộc vào đầu những điện cực đó. Tôi cũng bắt đầu có rất nhiều
câu hỏi. Ai là người tôi đã tách khỏi những gnomes cay đắng giận dữ vốn cư ngụ não
thức tôi, và đẩy tôi đến thất bại vì tôi đã quá sợ hãi để thử? Và những tiếng
nói đó đã từ đâu đến?” [12]
Một
số của những tiếng nói đó lập lại những định kiến của xã hội, một số vang dội
lại lịch sử cá nhân của chúng ta, và một số trình bày rõ ràng di sản di truyền
của chúng ta. Tất cả chúng cùng nhau, Sally nói, tạo ra một truyện kể vô hình,
nó uốn nắn cấu thành những quyết định hữu thức của chúng ta trong những cách thức
chúng ta hiếm khi thấu hiểu. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể viết lại (cho
khác đi) những độc thoại nội tâm của chúng ta, hay ngay cả thỉnh thoảng có dịp
làm chúng hoàn toàn im lặng? [13]
Cho
đến năm 2016, công nghệ tạo những kích thích xuyên sọ bằng dòng điện vẫn còn
trong giai đoạn phôi thai của chúng, và chưa rõ ràng nếu và khi nào chúng sẽ trở
thành một công nghệ trưởng thành. Cho đến nay chúng cung cấp những khả năng nâng
cao chỉ trong những khoảng thời gian ngắn, và ngay cả kinh nghiệm hai mươi phút
của Sally Adee có thể là khá đặc biệt (hay ngay cả có lẽ là kết quả của hiệu ứng thuốc-vờ [14] ai
cũng biết). Hầu hết những nghiên cứu về sự kích thích xuyên sọ bằng dòng điện
được công bố đều dựa trên những mẫu rất nhỏ những người hoạt động trong những
trường hợp đặc biệt, và những ảnh hưởng lâu dài và nguy hiểm thì hoàn toàn
không biết. Tuy nhiên, nếu công nghệ có trưởng thành, hoặc nếu một số phương
pháp khác được tìm thấy để thao túng mô thức điện của não, nó rồi sẽ làm những
gì cho xã hội con người và cho con người?
Người
ta cũng rất có thể thao túng những mạch điện não của họ không chỉ để nhắm bắn
những người khủng bố, nhưng cũng còn để đạt được mục tiêu tự do trần tục hơn. Cụ
thể là để học tập và làm việc hiệu quả hơn, đắm mình trong những trò chơi và thú
vui theo sở thích riêng, và có thể tập trung vào những gì chúng ta quan tâm ở một
khoảnh khắc bất kỳ nào cụ thể, có thể là toán học hay bóng đá. Tuy nhiên, nếu
và khi những thao túng như thế trở thành thói quen, ý chí tự do vẫn giả định có
đó sẽ trở thành chỉ là một sản phẩm khác loại, một món hàng chúng ta có thể mua
sắm. Bạn muốn chơi đàn piano như một bậc thày, nhưng hễ khi nào đến giờ thực tập,
bạn lại thực sự thích xem TV hơn? Không có vấn đề gì khó khăn; chỉ cần đội một
mũ trùm quanh đầu, loại có những điện cực gắn vào xương sọ, lắp đúng sofware,
và bạn sẽ hoàn toàn điêu luyện đến ‘ác liệt’ để chơi piano.
Bạn
có thể biện luận ngược lại rằng khả năng để làm im lặng hay nâng cao tiếng nói
trong đầu của bạn sẽ thực sự làm mạnh hơn thay vì làm suy yếu ý chí tự do của bạn.
Hiện nay, bạn thường không nhận ra được những mong muốn yêu thích và xác thực
nhất của mình do những rối động làm lạc hướng bên ngoài. Với sự giúp đỡ của mũ trùm
đầu tạo tập trung chú ý và những dụng cụ tương tự, bạn có thể dễ dàng làm câm
đi những tiếng nói xa lạ của những nhà chăn chiên, những phù thủy chính trị, những
nhà quảng cáo và những người hàng xóm, và tập trung vào những gì bạn muốn. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ sớm
thấy, khái niệm rằng bạn có một tự ngã đơn nhất, rằng bạn do đó có thể phân biệt
được những ham muốn chân chính của bạn khác với những tiếng nói xa lạ chỉ là một
huyền thoại tự do khác, đã bị những nghiên cứu khoa học mới nhất vạch trần những
sai lầm và lừa dối của nó.
Tôi là Những ai?
Khoa
học làm suy yếu nền móng không chỉ của tin tưởng vào ý chí tự do của những người
tự do, nhưng cũng cả của tin tưởng vào chủ nghĩa cá nhân. Những người theo tư
tưởng tự do tin rằng chúng ta có một tự ngã đơn nhất và bất khả phân. Để là một
cá nhân có nghĩa rằng tôi là (một gì đó) không thể phân chia được [15]. Vâng, cơ thể của
tôi được tạo thành gồm khoảng 37 trillion tế bào, [16] và mỗi ngày cả cơ thể
của tôi lẫn não thức của tôi trải qua vô số những hoán vị và biến đổi [17]. Tuy nhiên, nếu tôi
thực sự chú ý và cố gắng liên lạc với bản thân mình, tôi bị buộc để khám phá một
giọng nói duy nhất rõ ràng và xác thực ở sâu bên trong, đó là con người thật của
tôi, và đó là nguồn gốc của tất cả ý nghĩa và thẩm quyền trong vũ trụ. Để cho chủ
nghĩa tự do có được ý nghĩa, tôi phải có một – và chỉ có một – tự ngã chân thực,
vì nếu tôi đã có hơn một tiếng nói chân thực, làm thế nào tôi sẽ biết giọng nói
nào để chú ý tới trong phòng bỏ phiếu, trong siêu thị và trong thị trường hôn
nhân?
Tuy
nhiên, trong vài chục năm qua, khoa học sự sống đã đi đến kết luận rằng câu
truyện tự do này chỉ thuần tuý là huyền thoại. Tự ngã chân thực duy nhất thì
cũng ‘thực’ như ‘linh hồn’ vĩnh cửu của người Kitô, như Santa Claus, và Con Thỏ
lễ Phục Sinh [18]. Nếu bạn nhìn thật
sâu bên trong chính mình, cái xem dường đơn nhất chúng ta vẫn cho là có sẵn tan
biến vào trong một đám inh ỏi chói tai của những tiếng nói mâu thuẫn, không một
nào trong số đó là “tự ngã chân thực của tôi”. Con người không phải là những gì
riêng biệt, không tách riêng, không phân chia được. Họ là những gì có thể tách
riêng, có thể phân chia.
Bộ
óc con người gồm hai bán cầu, nối với nhau qua một dây cáp thần kinh dày. Mỗi
bán cầu điều khiển phía đối diện của cơ thể. Bán cầu não phải điều khiển phía
bên trái của cơ thể, nhận dữ liệu từ những lĩnh vực của tầm nhìn bên trái và chịu
trách nhiệm cho việc di chuyển tay và chân trái, và ngược lại. Đây là tại sao khi
xảy ra chứng mạch máu nuôi não đột ngột bị nghẽn [19], những người đã bị
thương trong bán cầu não bên phải của họ đôi khi không còn biết gì đến phía bên
trái của cơ thể của họ (chải đầu chỉ mái tóc phía bên phải của mình, hoặc chỉ
ăn những thức ăn đặt ở phía bên phải trên đĩa ăn của họ) .[20]
Ngoài
ra cũng còn có những khác biệt về cảm xúc và nhận thức giữa hai bán cầu, mặc dù
sự phân chia thì hoàn toàn không rõ ràng và chắc chắn. Hầu hết những hoạt động
nhận thức liên quan đến cả hai bán cầu, nhưng không đến cùng mức độ như nhau. Lấy
thí dụ, trong hầu hết những trường hợp, bán cầu não trái đóng một vai trò quan
trọng hơn trong lời nói và trong lý luận lôgích, trong khi bán cầu não phải thì
vượt trội hơn trong sự tiến hành dữ kiện thông tin về không gian.
Nhiều
những đột phá trong việc tìm hiểu những liên hệ giữa hai bán cầu não đã dựa
trên nghiên cứu những người mắc bệnh động kinh [21]. Trong những trường
hợp nghiêm trọng của bệnh động kinh, cơn “bão điện” bắt đầu trong một phần của
não nhưng nhanh chóng lan sang những phần khác, gây ra một cơn động kinh rất cấp
tính. Trong những cơn co giật như vậy, người bệnh mất kiểm soát cơ thể của họ,
và những co giật thường xuyên như vậy gây hậu quả là ngăn cản những người bệnh
giữ một việc làm, hay kéo dài một lối sống bình thường. Vào giữa thế kỷ XX, khi
tất cả những phương pháp điều trị khác đã thất bại, những y sĩ đã giảm nhẹ vấn
đề bằng cách cắt dây cáp thần kinh dày nối hai bán cầu, khi đó cơn bão điện bắt
đầu từ một bán cầu không thể tràn sang bán cầu kia. Đối với những nhà khoa học
não những người bệnh này là một mỏ vàng của những dữ liệu (về bộ não) đầy kinh
ngạc.
Một
số nghiên cứu đáng ghi nhận nhất trên những người bệnh có não tách đôi này đã
được giáo sư Roger Wolcott Sperry, người đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y học
cho những khám phá mang tính đột phá của ông, và môn đệ của ông, giáo sư
Michael S. Gazzaniga tiến hành. Một nghiên cứu được tiến hành trên một cậu bé
tuổi teen. Hỏi cậu bé khi lớn lên muốn làm gì. Cậu bé trả lời rằng mình muốn trở
thành một chuyên viên vẽ kỹ nghệ và kiến trúc. Câu trả lời này được bán cầu não
trái cung cấp, vốn nó đóng một vai trò rất quan trọng trong lý luận lôgích cũng
như trong lời nói. Tuy nhiên, cậu bé đã có một trung tâm lời nói hoạt động khác
trong bán cầu não phải của mình, vốn không thể điều khiển lời nói phát thành tiếng,
nhưng có thể đánh vần những từ dùng những thẻ giống như những viên gạch trong
trò chơi xếp chữ Scrabble. Những nhà
nghiên cứu đã rất thích thú muốn biết bán cầu não phải sẽ nói gì. Thế nên, họ bày
những thẻ Scrabble rộng trên bàn, và sau đó lấy một mảnh giấy và viết lên đó:
“Em muốn làm gì khi lớn lên?” Họ đặt tờ giấy ở rìa cạnh của vùng thị giác bên
trái của cậu bé. Dữ liệu thông tin từ vùng thị giác bên trái được tiến hành giải
quyết trong bán cầu não phải. Do bán cầu não phải không thể dùng lời nói phát
thành tiếng, em bé không nói gì. Nhưng tay trái của em bắt đầu di chuyển nhanh trên
bàn, nhặt thẻ chữ ở chỗ này và ở chỗ kia. Ghép chúng lại và nó được đọc thành: “đua
ô tô.” Kỳ quái chưa! [22]
Hành
vi kỳ quái cũng tương tự như thế, đã được người bệnh WJ, một cựu chiến binh Thế
chiến thứ Hai, trưng bày. Mỗi cánh tay của WJ đều được một bán cầu khác biệt điều
khiển. Sau khi hai bán cầu đã mất liên lạc với nhau, xảy ra đôi khi bàn tay phải
của ông sẽ vươn ra để mở một cánh cửa, và khi đó tay trái của ông lại can thiệp
và sẽ cố gắng đóng sầm cửa lại.
Trong
một thí nghiệm khác, Gazzaniga và nhóm của ông bật lóe sáng một hình ảnh của một
móng chân gà cho bên nửa trái của bộ óc – bên chịu trách nhiệm về lời nói – và
đồng thời bật lóe sáng một hình ảnh của một phong cảnh tuyết phủ cho nửa bên phải
của bộ óc. Khi hỏi họ đã nhìn thấy gì, những người bệnh luôn luôn trả lời “một
móng chân gà”. Gazzaniga sau đó trình bày với một người bệnh, PS, một loạt những
thẻ (in) hình ảnh và bảo ông ta hãy chỉ vào một hình ảnh nào giống nhất với những
gì ông đã thấy. tay phải của người bệnh (điều khiển bởi não trái) chỉ vào một
hình ảnh của một con gà, nhưng đồng thời tay trái vung ra và chỉ vào một cái xẻng
xúc tuyết. Gazzaniga sau đó hỏi PS câu hỏi quan trọng quyết định: “Tại sao bạn
chỉ vào cả con gà và cái xẻng?” PS trả lời: “Ồ, móng chân gà đi với con gà, và
bạn cần một cái xẻng để dọn dẹp chuồng gà.” [23]
Những
gì xảy ra ở đây? Não trái, vốn điều khiển lời nói, không có dữ liệu thông tin về
cảnh tuyết, và do đó đã không thực sự biết tại sao tay trái lại chỉ vào cái xẻng.
Vì vậy, nó mới chế tác ra một gì đó để có thể tin được. Sau khi lập đi lập lại
thí nghiệm này nhiều lần, Gazzaniga kết luận rằng bán cầu trái của bộ óc là chỗ
không chỉ của những khả năng lời nói của chúng ta, nhưng cũng của một ‘người” phiên
dịch bên trong vốn cố gắng không ngừng để làm cho đời sống của chúng ta thành
có thể hiểu được, dùng những mảnh, hay phần của những đầu mối để pha chế thành những
truyện kể xem dường có thể xảy ra, hay thuận lý.
Trong
một thí nghiệm khác, bán cầu phải không điều khiển lời nói đã được cho xem một
hình ảnh khiêu dâm. Người bệnh đã phản ứng bằng đỏ mặt và cười khúc khích. “Bạn
thấy gì?” Những nhà nghiên cứu tinh nghịch đã hỏi. “Không có gì, chỉ là một chớp
nháy của ánh sáng,” bán cầu não trái nói, và người bệnh ngay lập tức lại cười
khúc khích lần nữa, che miệng mình với bàn tay mình. “Vậy tại sao bạn lại cười?”,
họ nhấn mạnh. “Người” phiên dịch bán cầu trái bị hoang mang – đang gắng gỏi một
vài giải thích thuận lý – đã trả lời rằng một trong những máy móc trong phòng trông
rất buồn cười.[24]
Chuyện
đó giống như thể nếu CIA đã tiến hành một cuộc tấn công bằng drone ở Pakistan, nhưng
không ai ở Bộ Ngoại giao USA hay biết gì. Khi một phóng viên vặn hỏi những viên
chức Bộ Ngoại giao về vệc đó, họ dựng lên một vài giải thích giống như thật.
Trong thực tế, những phù thủy chính trị không có lấy được một đầu mối nào về tại
sao đã có lệnh tấn công, vì vậy họ chỉ đựng đặt lên một gì đó. Một cơ chế tương
tự được tất cả mọi người đem dùng, không chỉ bởi những người bệnh có não bị phân
đôi. Lập đi lập lại, cứ như thế CIA riêng tư của mình tôi làm những việc mà
không cần sự chấp thuận hoặc hiểu biết của Bộ Ngoại giao riêng tư của mình tôi,
và sau đó Bộ Ngoại giao của tôi xào nấu lên một truyện kể trong đó trình bày
tôi dưới ánh sáng tốt nhất có thể có được. Rất thông thường, chính Bộ Ngoại
giao lại trở thành được thuyết phục về những thuần túy tưởng tượng vốn tự nó đã
tạo tác hay dựng đặt lên.[25]
Những
kết luận tương tự cũng đã được những nhà nghiên cứu về tâm lý ứng xử kinh tế [26], những người muốn biết
người ta đưa ra những quyết định về mua bán như thế nào. Hay chính xác hơn, ai có
những quyết định này. Ai quyết định để mua một chiếc Toyota chứ không một chiếc
Mercedes, để n đi chơi ghỉ mát ở Paris hơn là ở Thailand, và để đầu tư vào những
trái phiếu ngân khố quốc gia Nam Korea hơn là vào thị trường chứng khoán
Shanghai? Hầu hết những thí nghiệm đã chỉ ra rằng không có một tự ngã đơn nhất nào
làm những quyết định này. Thay vào đó, chúng là kết quả của một cuộc tranh đấu giằng
co giữa những thực thể khác biệt và thường mâu thuẫn bên trong.
Một
thí nghiệm mang tính cách mạng đã được Daniel Kahneman thực hiện, người đã đoạt
giải Nobel Kinh tế. Kahneman mời một nhóm những người tình nguyện tham dự một
thí nghiệm gồm ba phần. Trong phần ‘ngắn’ của thí nghiệm, những người tình nguyện
nhúng một tay vào một thùng chứa đầy nước ở 14 ° C trong một phút, đó là khó chịu,
giáp ranh với đau đớn. Sau sáu mươi giây, họ được bảo rút tay của họ ra. Trong
phần ‘dài’ của thí nghiệm, những người tình nguyện đặt bàn tay kia của họ trong
một ngăn chứa nước khác. Nhiệt độ cũng là 14 ° C, nhưng sau sáu mươi giây, nước
nóng đã bí mật thêm vào thùng nước, nâng nhiệt độ lên đến 15 ° C. Ba mươi giây
sau, họ được bảo rút tay của họ ra. Một số người tình nguyện đã làm phần ‘ngắn’
trước tiên, trong khi những người khác đã bắt đầu với phần ‘dài’. Trong cả hai
trường hợp, chính xác bảy phút sau cả hai phần là đến phần thứ ba và quan trọng
nhất của thí nghiệm. Những người tình nguyện được yêu cầu phải lập lại một
trong hai phần, và tùy họ để chọn phần nào; 80 phần trăm đã thích lập lại thí
nghiệm ‘dài’, nhớ lại nó như là ít đau đớn hơn.
Thí
nghiệm nước-lạnh thì đơn giản như vậy, nhưng những ý nghĩa liên quan của nó làm
lung lay cốt lõi của cái nhìn về thế giới của tư tưởng nhân bản tự do. Nó phơi
bày sự là-có của ít nhất hai tự ngã khác biệt bên trong chúng ta: tự ngã trải
nghiệm và tự ngã thuật kể. [27] Tự ngã trải nghiệm
là ý thức của chúng từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kia. Đối với tự ngã trải
nghiệm, điều là rõ ràng rằng phần ‘dài’ của thí nghiệm nước-lạnh thì tệ hơn.
Trước tiên, bạn trải nghiệm nước ở 14 ° C trong sáu mươi giây, vốn tất cả mỗi khoảnh
khắc của nó thì xấu như những gì bạn kinh nghiệm trong phần ‘ngắn’, và sau đó bạn
phải chịu đựng thêm ba mươi giây của nước ở 15 ° C, vốn cũng không hoàn toàn là
xấu như thế, nhưng vẫn còn xa mới đến mức dễ chịu. Đối với tự ngã trải nghiệm, điều
không thể được là khi cộng thêm một kinh nghiệm hơi khó chịu với một kinh nghiệm
rất khó chịu sẽ làm toàn bộ đoạn kinh nghiệm thành hấp dẫn hơn.
Tuy
nhiên, tự ngã trải nghiệm không nhớ gì cả. Nó không kể những câu chuyện, và hiếm
khi nó được hỏi ý kiến khi đi đến những quyết định lớn. Hồi tưởng những ký ức,
kể những truyện kể và đưa ra những quyết định lớn đều tất cả là độc quyền của một
thực thể rất khác biệt bên trong chúng ta: tự ngã thuật kể. Tự ngã thuật kể thì
giống như người thông dịch ở nửa não bên trái trong thí nghiệm Gazzaniga. Nó thì
mãi mãi bận rộn quay guồng quấn sợi về quá khứ và lập những dự định cho tương
lai. Giống như mọi nhà báo, nhà thơ và nhà chính trị, tự ngã thuật kể làm nhiều
cắt ngắn, đi những bước tắt. Nó không tường thuật lại tất cả mọi sự vật việc,
và thường thêu dệt những truyện kể chỉ từ những khoảnh khắc cao điểm và những kết
quả cuối cùng. Giá trị của toàn bộ kinh nghiệm được xác định bằng lấy trung
bình của đỉnh cao với kết thúc sau cùng. Lấy thí dụ, trong phần ngắn của thí
nghiệm nước lạnh, tự ngã thuật kể tìm thấy trung bình giữa phần tồi tệ nhất (nước
rất lạnh) và những giây phút sau cùng (nước vẫn còn rất lạnh) và kết luận rằng
“nước đã rất lạnh”. Tự ngã thuật kể làm cũng điều tương tự với phần dài của thí
nghiệm. Nó tìm thấy trung bình giữa phần tồi tệ nhất (nước rất lạnh) và những
giây phút sau cùng (nước không quá lạnh) và kết luận rằng “nước đã phần nào ấm
hơn”. Quan trọng hơn, tự ngã thuật kể thì mù về thời gian diễn tiến, không đem
cho quan trọng nào với khoảng kéo dài khác biệt của hai phần. Vì vậy, khi nó có
một lựa chọn giữa hai phần, nó thích lập lại phần dài, phần trong đó ‘nước đã
phần nào ấm hơn’.
Mỗi
lần tự ngã thuật kể tự đánh giá những kinh nghiệm của chúng ta, nó giảm trừ thời
gian diễn tiến của chúng, và chấp nhận “quy luật cao điểm – kết thúc” – nó nhớ
chỉ những lúc cao điểm và lúc kết thúc, và đánh giá tất cả kinh nghiệm theo
trung bình của chúng. Điều này có tác động sâu rộng trên tất cả những quyết định
thực tiễn của chúng ta. Kahneman đã bắt đầu điều tra tự ngã kinh nghiệm và tự
ngã thuật kể trong những năm đầu 1990, cùng với Donald Redelmeier của Đại học
Toronto, ông nghiên cứu những người bệnh được khám ruột già bằng soi chiếu từ
bên trong ruột. Trong những thử nghiệm soi chiếu bên trong ruột, một camera nhỏ
xíu được đưa vào ruột qua hậu môn, để chẩn đoán những bệnh khác biệt trong đường
ruột. Nó không phải là một kinh nghiệm thích thú. Những y sĩ muốn biết làm thế
nào để thực hiện sự thử nghiệm theo cách ít đau đớn nhất. Họ có nên làm việc
soi chiếu nhanh lên và gây cho người bệnh nhiều đau đớn hơn nhưng trong khoảng thời
gian ngắn hơn, hay họ sẽ làm việc chậm hơn và cẩn thận hơn?
Để
trả lời câu hỏi này, Kahneman và Redelmeier hỏi 154 người bệnh để thuật lại sự
đau đớn trong khi được khám nghiệm soi chiếu ruột già trong những khoảng thời
gian dài một phút. Họ đã dùng thang điểm từ 0 đến 10, trong đó 0 có nghĩa là
không đau gì tất cả, và 10 nghĩa là đau đớn không thể chịu được. Sau khi đã trải
qua khám nghiệm soi chiếu ruột già, người bệnh được yêu cầu xếp hạng ‘mức độ
đau nói chung’ của khám nghiệm, cũng trên thang điểm từ 0 đến 10. Chúng ta có
thể mong đợi thứ hạng tổng quát để phản ảnh của sự tích tụ của những tường
trình từng phút một. Khám nghiệm kéo dài hơn bao nhiêu và sẽ đau đớn hơn bấy
nhiêu, và khi người bệnh trải qua nhiều khám nghiệm hơn, mức độ đau đớn nói chung
sẽ cao hơn. Nhưng những kết quả thực sự đã khác biệt.
Cũng
đúng như trong thí nghiệm nước-lạnh, mức độ đau đớn nói chung không tính đến diễn
tiến thời gian và thay vào đó chỉ phản ảnh “quy luật cao điểm – kết thúc”. Một
soi chiếu trong ruột già đã kéo dài tám phút, ở thời điểm tồi tệ nhất người bệnh
đã tường trình một đau đớn ở mức 8, và trong phút cuối, ông đã tường trình một đau
đớn ở mức 7. Sau khi thử nghiệm đã xong, người bệnh này xếp hạng mức độ đau tổng
quát của mình ở mức 7,5. Một soi chiếu trong ruột khác kéo dài hai mươi bốn
phút. Lần này đau đớn cao nhất là mức 8, nhưng trong phút cuối cùng của thí
nghiệm, người bệnh tường trình một đau đớn ở mức 1. Người bệnh này xếp hạng mức
độ đau tổng quát của mình chỉ ở mức 4,5. Sự kiện là soi chiếu trong ruột già của
ông đã kéo dài gấp ba lần, và do đó mà ông phải chịu đựng đau đớn hơn rất nhiều
tính trên tổng số, đã không ảnh hưởng đến ký ức của ông gì hết tất cả. Tự ngã
thuật kể không tính tổng số những kinh nghiệm – nó tính trung bình của chúng.
Như
thế, những người bệnh thích gì hơn: có một khám nghiệm soi chiếu trong ruột già
ngắn và đau, hay lâu và kỹ lưỡng? Không có một câu trả lời duy nhất cho câu hỏi
này, vì người bệnh có ít nhất hai tự ngã khác biệt, và chúng có những quan tâm
khác biệt. Nếu bạn hỏi tự ngã trải nghiệm, nó có thể sẽ thích một khám nghiệm
ngắn. Nhưng nếu bạn hỏi tự ngã thuật kể, nó sẽ bỏ phiếu cho một khám nghiệm dài
vì nó nhớ chỉ có trung bình giữa thời điểm đau đớn tồi tệ nhất và giây phút đau
đớn cuối cùng. Thật vậy, từ quan điểm của tự ngã thuật kể, y sĩ nên thêm một
vài phút hoàn toàn không cần thiết của đau âm ỉ ở phần cuối cùng của thử nghiệm,
vì nó sẽ làm cho toàn bộ hồi tưởng của người bệnh bớt đi rất nhiều chấn thương.
[28]
Những
y sĩ khoa nhi biết rành mẹo lừa này. Cũng thế, những y sĩ khoa thú y. Nhiều người
giữ trong những lọ đầy những món thết đãi những phòng khám bệnh của họ, và đem
cho một vài món cho trẻ em (hoặc con chó) sau khi cho chúng một mũi tiêm đau đớn
hoặc khám bệnh không thích thú gì. Khi tự ngã thuật kể nhớ lại chuyến viếng
thăm y sĩ, mười giây của niềm vui ở cuối chuyến thăm sẽ xoá đi nhiều phút của
lo lắng và đau đớn trước đó.
Tiến
hóa đã khám phá mẹo lừa này hàng tỉ năm trước những y sĩ khoa nhi. Với đau đớn
đến mức không thể nào chịu nổi của những phụ nữ trải qua lúc sinh con, bạn có
thể nghĩ rằng sau khi đi trải qua nó một lần, không có người phụ nữ trí óc tỉnh
táo nào sẽ lại từng bao giờ đồng ý làm điều đó một lần nữa. Tuy nhiên, ở cuối của
đau đẻ và trong những ngày tiếp sau, hệ thống nội tiết đã tiết ra cortisol và
beta-endorphins, giúp làm giảm sự đau đớn và tạo ra một cảm giác của nhẹ nhõm
và đôi khi ngay cả của hứng khởi. Thêm nữa, tình yêu ngày càng tăng đối với đứa
con, và ca ngợi từ bạn bè, gia đình, những tin tưởng tôn giáo và tuyên truyền của
chủ nghĩa dân tộc, toa rập để biến sinh nở từ một chấn thương khủng khiếp thành
một ký ức tích cực.
Trong hầu hết những nền
văn hóa, sinh con được kể lại như một kinh nghiệm tuyệt vời hơn là một chấn
thương.
Một
nghiên cứu đã tiến hành tại Trung tâm Y khoa Rabin ở Tel Aviv cho thấy ký ức về
đau đẻ khi sinh nở phản ảnh chủ yếu là cao điểm và kết thúc, trong khi tổng thể
thời gian kéo dài gần như không có tác động gì tất cả. [29] Trong một chương
trình nghiên cứu khác, đã hỏi 2.428 phụ nữ Sweden để kể lại ký ức của họ về đau
đẻ, hai tháng sau khi họ sinh con. Chín mươi phần trăm tường trình rằng kinh
nghiệm đã hoặc là tích cực hoặc là rất tích cực. Họ không nhất thiết phải quên sự
đau đớn – 28,5 phần trăm mô tả nó như là sự đau đớn nhất có thể tưởng tượng được
– nhưng nó không ngăn cản họ đánh giá kinh nghiệm như là tích cực. Tự ngã thuật
kể duyệt qua từ đầu đến cuối kinh nghiệm của chúng ta với một cái kéo nhọn và một
cái bút đánh dấu mực đen dày. Nó kiểm duyệt ít nhất một số những khoảnh khắc
kinh hoàng, và xếp vào trong kho lưu trữ một truyện kể với một kết thúc hạnh
phúc [30]
Hầu
hết những lựa chọn đòi hỏi quyết định quan trọng trong đời sống chúng ta – vợ
chồng, người yêu, nghề nghiệp, nơi cư trú và đi chơi xa nhà trong dịp nghỉ việc
– đều được tự ngã thuật kể của chúng ta thực hiện. Giả sử bạn có thể lựa chọn
giữa hai chuyến đi chơi xa nhà trong những dịp nghỉ hàng năm. Bạn có thể đi đến
Jamestown, Virginia, và thăm thị trấn lịch sử thời thuộc địa, nơi định cư đầu
tiên của những người England trên lục địa Bắc America, được thành lập năm 1607.
Hay bạn có thể thực hiện chuyến đi chơi mơ ước số một của bạn, hoặc là đi bộ đường
dài thử sức chịu đựng ở Alaska, hoặc tắm nắng biển thỏa thích ở Florida, hay có
một trận ăn uống say sưa thả cửa không kiềm chế gồm cả tình dục, ma túy lẫn cờ
bạc ở Las Vegas. Nhưng có một điều kiện phải lưu ý được báo trước: nếu bạn chọn
chuyến đi chơi xa nhà mơ ước của bạn, sau đó đúng trước khi bạn lên máy bay về
nhà, bạn phải uống một viên thuốc, nó sẽ xoá sạch tất cả những kỷ niệm của bạn
về chuyến đi chơi trong những ngày nghỉ này. Những gì xảy ra ở Vegas sẽ mãi mãi
ở lại Vegas. Như thế, bạn sẽ chọn chuyến đi chơi nào? Hầu hết mọi người sẽ chọn
đi thăm thị trấn lịch sử thời thuộc địa Jamestown, vì hầu hết mọi người đều
giao hết vốn liếng của họ cho tự ngã thuật kể, vốn nó chỉ quan tâm đến những
truyện kể và sự quan tâm của nó với những kinh nghiệm ngay cả đến mức mê mẩn sững
sờ nhất cũng vẫn là con số không, nếu nó không thể nhớ được chúng.
Sự
thật mà nói, tự ngã trải nghiệm và tự ngã thuật kể đều không phải là những thực
thể hoàn toàn riêng biệt nhưng đan quyện vào nhau chặt chẽ. Tự ngã thuật kể dùng
những kinh nghiệm của chúng ta như những nguyên liệu quan trọng (nhưng không độc
quyền) cho những truyện kể của nó. Những truyện kể này, đến lượt chúng, định hình
dạng cho những gì tự ngã trải nghiệm thực sự cảm nhận. Chúng ta có kinh nghiệm về
đói khác nhau, khi chúng ta nhịn ăn trong tháng Ramadan [31], khi chúng ta nhịn
ăn để chuẩn bị cho một khám nghiệm y khoa, và khi chúng ta đói, đơn giản là không
có gì ăn, vì không có tiền chẳng hạn. Những ý nghĩa khác biệt được gán cho cái đói
của chúng ta do tự ngã thuật kể tạo ra những trải nghiệm thực tại rất khác biệt.
Thêm
nữa, tự ngã trải nghiệm thường là đủ mạnh để chủ ý phá hoại những kế hoạch được
trù định tốt nhất của tự ngã thuật kể. Lấy thí dụ, tôi có thể làm một quyết tâm
nhân dịp năm mới để bắt đầu ăn kiêng và đến phòng tập thể dục mỗi ngày. Những quyết
định lớn như vậy là độc quyền của tự ngã thuật kể. Nhưng một tuần sau, đến giờ
đi tập thể dục, tự ngã trải nghiệm dành quyền điều khiển. Tôi cảm thấy không
thích tập thể dục, và thay vào đó, tôi ở nhà gọi pizza đem giao, ngồi chờ trên
ghế sofa và mở TV xem.
Tuy
nhiên, hầu hết mọi người đều đồng nhất chính mình với tự ngã thuật kể.của họ.
Khi người ta nói “Tôi”, họ muốn nói với nghĩa là những truyện kể trong đầu của
họ, không phải là dòng những kinh nghiệm mà họ trải qua. Chúng ta đồng nhất
mình với hệ thống bên trong vốn đem sự hỗn loạn điên rồ của đời sống và quay cuốn
dài ra thành những chuyện huyên thuyên bịa đặt nhưng xem dường như hợp lý và nhất
quán. Nó không quan trọng nếu cốt truyện thì đầy những dối trá và những khoảng
trống và những kẽ hở, và rằng nó đã được viết đi viết lại nhiều lần, vì vậy truyện
kể của ngày hôm nay thì thẳng thừng mâu thuẫn của ngày hôm qua; điều quan trọng
là chúng ta luôn giữ được cảm giác rằng chúng ta có một bản sắc cá nhân duy nhất
không thay đổi từ khi sinh ra cho đến khi chết (và có lẽ thậm chí còn kéo dài
như thế sau cả nấm mộ). Điều này dẫn đến nghi ngờ tin tưởng tự do rằng tôi là một
cá nhân, và rằng tôi có một tiếng nói bên trong nhất quán và rõ ràng, vốn nó
cung cấp ý nghĩa cho toàn thể vũ trụ.[32]
Ý nghĩa của Đời sống
Tự
ngã thuật kể là nhân vật tán tụng trong truyện kể ‘Một Vấn Nạn’ của Jorge Luis
Borges. [33] Truyện kể bận tâm với
Don Quixote, người anh hùng cùng tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Miguel
Cervantes. Don Quixote tạo cho chính mình một thế giới tưởng tượng, trong đó
ông là một nhà vô địch hoang đường, tiến lên để chiến đấu với những người khổng
lồ và cứu ‘tôn nữ’ Dulcinea del Toboso. Trong thực tế, Don Quixote là Alonso
Quixano, một ‘quí ông’ tuổi đã già sống ở miền quê; Dulcinea ‘quý phái’ là một
cô gái trang trại thô kệch từ một ngôi làng gần đó; và những người khổng lồ là những
cối xay gió. Sẽ xảy ra điều gì, Borges tự hỏi, nếu thoát ra từ tin tưởng của
mình vào những chuyện tưởng tượng ly kỳ này, Don Quixote tấn công và giết chết
một người thực? Borges hỏi một câu hỏi nền tảng về đời người: những gì sẽ xảy
ra khi những tơ sợi đan dệt do tự ngã thuật kể của chúng ta quay guồng quấn
thành, đi đến gây thiệt hại lớn cho bản thân chúng ta hoặc những người quanh
chúng ta? Có ba trường hợp lựa chọn chính có thể xảy ra, Borges nói.
Một
lựa chọn là không xảy ra gì nhiều cho lắm. Don Quixote sẽ không bị phiền nhiễu gì
hết tất cả vì giết chết một người thực. Những ảo tưởng của ông thì áp đảo quá mạnh
mẽ khiến ông không thể nhận biết được sự khác biệt giữa tai nạn này và trận đọ
sức tay đôi tưởng tượng của ông với những cối xay gió khổng lồ. Một lựa chọn
khác là một khi ông nhập lấy một đời sống thực, Don Quixote sẽ rất kinh hoàng khiến
ông sẽ bị rũ sạch khỏi những ảo tưởng của mình. Đây là giống như một người lính
trẻ mới tuyển, những người đi vào chiến tranh tin rằng để chết cho quê hương của
mình là điều tốt, để rồi hoàn toàn bị vỡ mộng chỉ bởi những thực tế của chiến
tranh.
Và
có một lựa chọn thứ ba, phức tạp và sâu xa hơn. Cho đến chừng nào ông chiến đấu
chống lại những khổng lồ tưởng tượng, Don Quixote chỉ đóng vai trò-người diễn
xuất, nhưng một khi ông ta thực sự giết một ai đó, ông sẽ bám vào những hoang
tưởng của mình cho tất cả những gì ông đáng giá, vì chúng là điều duy nhất đem
lại ý nghĩa cho tội ác khủng khiếp của ông. Nghịch lý thay, càng nhiều hy sinh
hơn chúng ta tạo cho một truyện kể tưởng tượng, truyện kể càng trở nên mạnh mẽ
hơn, vì chúng ta khẩn thiết muốn mang lại ý nghĩa cho những hy sinh này và cho
đau khổ chúng ta đã gây ra.
Trong
chính trị điều này được gọi là hội chứng “Đám trẻ của chúng ta đã không chết vô
ích”. Năm 1915, Italy bước vào Thế chiến thứ Nhất ở phe của những cường quốc
Entente. Mục đích tuyên bố của Italia là để ‘giải phóng’ Trento và Trieste –
hai vùng lãnh thổ ‘thuộc Italy’ nhưng đế quốc Austro-Hungary đã ‘bất chính’ chiếm
giữ. Những nhà chính trị Italy đã phát biểu bốc lửa trong quốc hội, thề sẽ ‘uốn
lại cho đúng’ lịch sử và hứa hẹn sự trở lại với những vinh quang của Rome thời
cổ. Hàng trăm ngàn những người lính vừa mới tòng quân đã tiến ra chiến trường hét
lớn, “Vì Trento và Trieste!” Họ nghĩ rằng nó sẽ là một chiến thắng dễ dàng.
Nó
đã là bất cứ gì nhưng không là chiến thắng. Quân đội Austria-Hungary đã tổ chức
một tuyến phòng thủ mạnh mẽ dọc theo sông Isonzo. Những người lính Italy lao
mình vào đường dây phòng thủ trong mười một trận đánh đẫm máu, nhiều nhất là
chiếm được một vài cây số, nhưng chưa bao giờ có được một đột phá thành công.
Trong trận chiến đầu tiên, họ đã mất 15.000 người. Trong trận chiến thứ hai, họ
mất 40.000 người. Trong trận chiến thứ ba, họ mất 60.000 người. Như thế, nó đã tiếp
tục kéo dài trong hơn hai năm khủng khiếp cho đến lần giao chiến thứ mười một,
khi Austria cuối cùng đã phản công, và trong trận Caporreto, đã đánh bại Italy
hoàn toàn, và đẩy Italy trở lại gần như về tận cửa ngõ của Venice. Cuộc phiêu
lưu tưởng vinh quang đã trở thành một cuộc tắm máu. Đến khi chiến tranh chấm dứt,
gần 700.000 binh sĩ Italy bị giết, và hơn một triệu người bị thương. [34]
Sau
khi thua trận chiến Isonzo đầu tiên, những nhà chính trị Italy đã có hai lựa chọn.
Họ có thể thú nhận sai lầm của mình và ký một hiệp ước hòa bình. Austria-Hungary
đã không có tuyên đòi nào chống Italy, và có lẽ đã rất vui mừng để ký một hiệp
ước hòa bình, vì nó đang bận rộn chết sống chiến đấu chống lại Russia hùng mạnh
hơn nhiều. Thế nhưng làm sao những nhà chính trị có thể đi đến những cha mẹ, vợ
con của 15.000 binh sĩ Italy đã chết, và nói với họ: “Xin lỗi, đã xảy ra sai lầm.
Chúng tôi hy vọng ông/bà không đón nhận tin buồn quá nặng nề, nhưng Giovanni của
ông/bà đã chết vô ích, và Marco của hai cụ cũng thế,… Thay vào đó họ cũng có thể
nói: ‘Giovanni và Marco là những anh hùng! Họ chết để Trieste sẽ là đất nước
Italy, và chúng ta sẽ bảo đảm rằng họ đã không chết vô ích. Chúng ta sẽ tiếp tục
chiến đấu cho đến khi chiến thắng là của chúng ta!” Không ngạc nhiên, những nhà
chính trị ưa thích lựa chọn thứ hai. Vì vậy, họ đã chiến đấu một trận chiến thứ
hai, và mất thêm 40.000 người. Những nhà chính trị lại quyết định điều tốt nhất
sẽ là tiếp tục chiến đấu, vì “đám thanh niên của chúng ta đã không chết vô
ích”.
Tuy
nhiên, bạn không thể đổ lỗi chỉ cho những nhà chính trị. Quần chúng cũng chủ
trương ủng hộ giải pháp chiến tranh. Và sau chiến tranh, khi Italy đã không lấy
được tất cả những vùng đất nó đòi, nước Italy dân chủ đã đặt Benito Mussolini
và đảng phát xít của ông lên trên đầu, người đã hứa rằng họ sẽ đạt được cho Italy,
một đền bù xứng đáng cho tất cả những hy sinh đã thực hiện đó. Trong khi thật
khó cho một nhà chính trị nói với những cha mẹ rằng con trai của họ đã chết chẳng
vì một lý do tốt đẹp hay chính đáng nào, là điều khó khăn hơn nhiều cho những
cha mẹ nói điều này với chính mình – và thậm chí còn là điều khó khăn nhiều hơn
nữa cho những nạn nhân để tự nói như thế. Một người lính què bị cụt cả hai chân
thà nói với chính mình, “Tôi đã hy sinh bản thân mình cho vinh quang đời đời của
dân tộc Italy!” hơn là nói “Tôi bị cụt cả hai chân tôi, vì tôi đã đủ ngu ngốc để
tin vào những nhà chính trị chỉ biết quyền lợi của riêng họ” Là điều dễ dàng hơn
nhiều để sống với tưởng tượng những gì không thể, vì hoang tưởng đem lại ý
nghĩa cho sự đau khổ.
Những
nhà chăn chiên đã khám phá ra nguyên tắc này từ ngàn năm trước. Nó là nền tảng của
rất nhiều những nghi lễ và những giới răn tôn giáo. Nếu bạn muốn làm cho mọi
người tin vào những thực thể tưởng tượng như những vị gót và những dân tộc, bạn
nên làm cho họ phải hy sinh một gì đó có giá trị. Hy sinh càng nhiều đau đớn bao
nhiêu, người ta càng tin tưởng hơn vào sự là-có của đối tượng tưởng tượng thụ nhận
hy sinh. Một nông dân nghèo hy sinh một con bò đực hết sức quí giá cho Jupiter
sẽ trở nên tin tưởng rằng gót Jupiter thực sự là-có, nếu không làm sao ông ta có
thể tha thứ cho sự ngu đần của chính mình? Người nông dân sẽ hy sinh một con bò
đực khác, và một con khác nữa, và lại thêm một con khác nữa, chỉ cần đúng như
thế khiến ông ta sẽ không phải thú nhận rằng tất cả những con bò đực trước đó
đã bị phí phạm vô ích. Đích xác với cùng một lý do, nếu tôi đã hy sinh một đứa
con cho vinh quang của dân tộc Italy, hoặc một chân của tôi cho sự nghiệp cách
mạng Cộng sản, đó là đủ để biến tôi thành một người Italy theo chủ nghĩa dân tộc
sốt sắng, hay một người cộng sản nhiệt tình. Vì nếu huyền thoại quốc gia Italy
hoặc tuyên truyền của cách mạng cộng sản là một lừa dối, khi đó tôi sẽ bị buộc
phải thú nhận rằng cái chết của con tôi hoặc sự tàn tật của chính tôi đã hoàn
toàn vô nghĩa. Rất ít người có đủ ruột gan để thú nhận một điều loại như vậy.
Cùng
một lôgích cũng hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Năm 1999 chính phủ Scotland
đã quyết định xây một tòa nhà quốc hội mới. Theo kế hoạch ban đầu, công trình
xây dựng được tính sẽ mất hai năm và phí tổn 40 triệu £. Trong thực tế, nó đã kéo
dài năm năm và phí tổn 400 triệu £. Mỗi lần những nhà thầu gặp khó khăn và phải
chi phí bất ngờ, họ đã đi đến chính phủ Scotland xin thêm tiền và thời gian. Mỗi
khi điều này xảy ra, chính phủ tự nói: “Vâng, chúng ta đã dìm 40 triệu £ vào việc
này và chúng ta sẽ hoàn toàn mất uy tín nếu chúng ta ngưng lại và kết thúc với
một bộ khung kèo cột xây dở dang. Hãy ký thêm cho 40 triệu £ nữa”; Sáu tháng
sau điều tương tự lại xảy ra, lúc đó áp lực để tránh kết thúc với một tòa nhà dở
dang lại còn lớn hơn nữa; và sáu tháng sau đó vẫn lập lại cùng câu chuyện, và tiếp
tục như vậy cho đến khi phí tổn thực tế thành gấp mười lần ước tính ban đầu.
Không
phải chỉ những chính phủ rơi vào cái bẫy này. Những tập đoàn kinh doanh thường cũng
nhận chìm hàng triệu bạc vào trong những doanh nghiệp thất bại, trong khi những
cá nhân ở những đời riêng vẫn bám víu vào những hôn nhân rối loạn, trong đó vợ chồng
không ai hiểu ai, hay những công việc làm ăn không lối thoát. Vì tự ngã thuật kể
rất muốn trong tương lai cứ tiếp tục chịu đựng đau khổ, chỉ cần đúng như vậy khiến
nó sẽ không phải thú nhận rằng quá khứ đau khổ của chúng ta là không có ý nghĩa
nào tất cả. Cuối cùng, nếu chúng ta muốn đi đến rũ sạch những sai lầm quá khứ, tự
ngã thuật kể của chúng ta phải bịa đặt ra một số những ‘thêm mắm thêm muối’, gốc
rễ và bất ngờ trong cốt truyện vốn sẽ gài đặt trong những sai lầm này với ý
nghĩa. Lấy thí dụ, một cựu chiến binh kêu gọi hòa bình có thể nói với chính
mình, “Vâng, tôi đã bị mất chân tôi vì một sai lầm. Nhưng nhờ vào sai lầm này,
tôi hiểu rằng chiến tranh là hỏa ngục, và từ bây giờ trở đi tôi sẽ dâng hiến cuộc
đời mình để tranh đấu cho hòa bình. Như thế, thương tật của tôi đã có một số ý
nghĩa tích cực: nó đã dạy tôi đánh giá cao hòa bình”.
Chúng
ta thấy, khi đó, rằng tự ngã cũng thế, là một câu chuyện tưởng tượng, giống như
những quốc gia, những vị gót và tiền bạc. Mỗi người chúng ta có một hệ thống phức
tạp, nó vứt đi hầu hết những kinh nghiệm của chúng ta, giữ chỉ một vài mẫu chọn
lọc, trộn chúng với những mẩu từ những phim cinê chúng ta đã xem, những tiểu
thuyết chúng ta đọc, những bài nói chuyện chúng ta nghe, và từ những mơ mộng
riêng của chúng ta, và từ mớ bòng bong tất cả như thế thêu dệt ra thành một
truyện kể xem dường có vẻ mạch lạc về tôi là ai, đã từ đâu đến, và đang đi về đâu.
Truyện kể này nói với tôi để yêu những gì, để ghét những ai, và để phải làm gì
với bản thân mình. Truyện kể này thậm chí có thể gây ra cho tôi phải hy sinh chính
sự sống của tôi, nếu đó là những gì tình tiết trong cốt truyện đòi hỏi. Chúng
ta đều có thể loại của chúng ta. Một số người sống một bi kịch, những người
khác cư trú trong một vở kịch tôn giáo không bao giờ kết thúc, một số tiếp cận đời
sống như thể nếu nó là một phim cinê hành động, và không phải là ít người hoạt
động như trong một hài kịch. Nhưng sau cùng, chúng tất cả đều chỉ là những truyện
kể.
Vậy,
sau đó, ý nghĩa của cuộc sống là gì? Chủ nghĩa nhân bản tự do chủ trương rằng
chúng ta không nên mong đợi một thực thể nào ở bên ngoài để cung cấp cho chúng
ta một số ý nghĩa đã làm sẵn. Thay vào đó, mỗi cá nhân cử tri, khách hàng và
người đứng xem phải dùng ý chí tự do của mình để tạo nên ý nghĩa không chỉ cho
cuộc sống của mình, nhưng cho cả toàn thể vũ trụ.
Khoa
học sự sống làm suy yếu nền móng của chủ nghĩa nhân bản tự do, lập luận rằng cá
nhân tự do chỉ là một truyện kể hư cấu được pha chế bởi một kết tập gồm những
algorithm sinh hóa. Mỗi khoảnh khắc, những cơ chế sinh hóa của não tạo ra một nháy
loé sáng của kinh nghiệm, vốn ngay lập tức biến mất. Sau đó, nhiều nháy loé
sáng xuất hiện và mờ dần, xuất hiện và mờ dần, trong kế tục nhanh chóng. Những
kinh nghiệm thoáng qua, nhất thời này không gộp lại thành một bất kỳ yếu tính
lâu dài nào. Tự ngã thuật kể cố gắng áp đặt trật tự trên sự hỗn loạn này bằng
cách quay guồng sợi kéo ra một truyện kể không bao giờ kết thúc, trong đó mỗi
kinh nghiệm loại như thế có chỗ của nó, và do đó mọi kinh nghiệm có một số ý
nghĩa nào đó vững bền. Nhưng vì cũng thuyết phục và cám dỗ lôi cuốn như nó cũng
có thể, truyện kể này là một hư cấu. Những thập tự quân viễn chinh trung cổ tin
rằng Gót và ‘cao xanh’ đã cung cấp ý nghĩa cho đời sống của họ. Những người
nhân bản tự do ngày nay tin rằng những lựa chọn tự do cá nhân cung cấp ý nghĩa
cho đời sống. Họ đều tất cả là ảo tưởng như nhau.
Nghi
ngờ về sự là-có của ý chí tự do và của những cá nhân (trong xã hội) là không có
gì mới, dĩ nhiên. Những nhà tư tưởng ở India, Tàu và Hellas đã lập luận rằng “tự
ngã cá nhân là một ảo tưởng” đã hơn 2.000 năm trước. Tuy nhiên, những nghi ngờ
như vậy không thực sự thay đổi lịch sử, trừ khi chúng có một ảnh hưởng thực tế
về kinh tế, chính trị và cuộc sống hằng ngày. Con người là bậc thầy của sự bất
hòa về nhận thức, và chúng ta cho phép mình tin một điều trong phòng thí nghiệm
và một điều hoàn toàn khác biệt khi ở tòa án hoặc trong quốc hội. Cũng như đạo
Kitô đã không biến mất trong ngày Darwin đã xuất bản Về Nguồn gốc của những Chủng loại [35] vì vậy chủ nghĩa tự do sẽ không biến mất chỉ vì những nhà
khoa học đã đi đến kết luận rằng không có những cá nhân tự do.
Thật
vậy, ngay cả Richard Dawkins, Steven Pinker và những nhà quán quân tranh đấu
khác của thế giới quan khoa học mới đều không chịu buông bỏ chủ nghĩa tự do.
Sau khi cống hiến hàng trăm những trang sách uyên bác để giải cấu trúc tự ngã và
tự do của ý chí, họ thực hiện những nhào lộn trí thức ngoạn mục vốn một cách kỳ
diệu đã đặt họ trở lại thế kỷ XVIII, như thể tất cả những khám phá tuyệt vời của
sinh học tiến hóa và khoa học não đã tuyệt đối không có liên quan gì với đạo đức
và những ý tưởng chính trị của Locke, Rousseau và Thomas Jefferson.
Tuy
nhiên, một khi những viễn kiến khoa học có nội dung phản tôn giáo được chuyển đổi
vào trong kỹ thuật công nghệ hàng ngày, những hoạt động thường xuyên và những cơ
cấu kinh tế, điều là sẽ trở nên ngày càng khó khăn hơn để duy trì trò chơi nước
đôi này, và chúng ta – hoặc những người thừa kế chúng ta – sẽ có lẽ đòi hỏi một
gói dán nhãn hiệu mới của những tin tưởng tôn giáo và những thể chế chính trị.
Vào lúc bắt đầu của nghìn năm thứ ba, chủ nghĩa tự do đang bị đe dọa không phải
bởi ý tưởng triết học rằng ‘không có những cá nhân tự do’ nhưng đúng hơn bởi kỹ
thuật công nghệ vững chắc và cụ thể. Chúng ta sắp phải chạm mặt với một trận lụt
của những thiết bị vô cùng hữu ích, những dụng cụ và những cấu trúc vốn không dành
chỗ đứng nào cho ý chí tự do của con người cá nhân. Có thể nào dân chủ, thị trường
tự do và nhân quyền sống qua được trận lũ này?
(Oct/2016)
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Big Brother: nhân vật trong tiểu thuyết 1984 của George Orwell.
[2] [ For a detailed discussion see
Michael S. Gazzaniga, Who’s in
Charge?: Free Will and the Science of the Brain (New York: Ecco, 2011).]
[3]
Sub-atomic
[4] [Chun Siong Soon et al., ‘Unconscious
Determinants of Free Decisions in the Human Brain’, Nature Neuroscience 11:5 (2008), 543–5. See
also Daniel Wegner, The Illusion of Conscious
Will (Cambridge, MA: MIT
Press, 2002); Benjamin Libet, ‘Unconscious Cerebral Initiative and the
Role of Conscious Will in Voluntary Action’, Behavioral
and Brain Sciences 8 (1985), 529–66.]
[5] [Sanjiv K. Talwar et al., ‘Rat Navigation
Guided by Remote Control’, Nature 417:6884 (2002),
37–8; Ben Harder, ‘Scientists “Drive” Rats by Remote Control’, National Geographic, 1 May 2012, accessed 22
December 2014, http://news.nationalgeographic.com/news/2002/05/0501_020501_roborats.html;
Tom Clarke, ‘Here Come the Ratbots: Desire Drives Remote-Controlled Rodents’, Nature, 2 May 2002,
accessed 22
December 2014, http://www.nature.com/news/1998/020429/full/news020429-9. html; Duncan Graham-Rowe, ‘“Robo-rat”
Controlled by Brain Electrodes’, New Scientist, 1 May
2002, accessed 22 December 2014,
http://www.newscientist.com/article/dn2237-roborat-controlled-by-brain-electrodes.html#.UwOPiNrNtkQ.]
[6] [ http://f
usion.net/story/204316/darpa-is-implanting-chips-in-soldiers-brains/;
http://www.theverge.com/2014/5/28/5758018/darpa-teams-begin-work-on-tiny-brain-implant-to-treat-ptsd.]
[7] [ Smadar Reisfeld, ‘Outside of the
Cuckoo’s Nest’, Haaretz, 6 March 2015.]
[8] Transcranial direct current stimulation
(tDCS)
[9] Human
Effectiveness Directorate
[10] drone: máy bay và tàu thuỷ điều khiển từ
xa (không phải chỉ máy bay, và cũng không phải ‘không người lái’)
[11] [Dan Hurley, ‘US Military Leads Quest for
Futuristic Ways to Boost IQ’, Newsweek, 5 March
2014,
http://www.newsweek.com/2014/03/14/us-military-leads-quest-futuristic-ways-boost-iq-247945.html, accessed 9 January 2015;
Human
Effectiveness Directorate, http://www.wpafb.af.mil/afrl/rh/index.asp; R. Andy
McKinley et al., ‘Acceleration of Image Analyst Training with Transcranial
Direct
Current Stimulation’, Behavioral
Neuroscience 127:6 (2013), 936–46; Jeremy T. Nelson et al., ‘Enhancing
Vigilance in Operators with Prefrontal Cortex Transcranial Direct Current
Stimulation (TDCS)’, NeuroImage 85
(2014), 909–17; Melissa Scheldrup et al., ‘Transcranial Direct Current
Stimulation Facilitates Cognitive Multi-Task Performance Differentially Depending on Anode
Location and Subtask’, Frontiers in Human Neuroscience 8 (2014); Oliver
Burkeman, ‘Can I Increase my Brain Power?’, Guardian, 4 January 2014,
http://www.theguardian.com/science/2014/jan/04/can-i-increase-my-brain-power,
accessed 9 January 2016; Heather Kelly,‘Wearable Tech to Hack Your Brain’, CNN,
23 October 2014,
http://www.cnn.com/2014/10/22/tech/innovation/brain-stimulation-tech/,
accessed 9 January 2016]
[12] [Sally Adee, ‘Zap Your Brain into the
Zone: Fast Track to Pure Focus’, New Scientist, 6
February 2012, accessed 22 December 2014,
http://www.newscientist.com/article/mg21328501.600-zap-your-brain-into-the-zone-fast-track-to-pure-focus.html.
See also: R. Douglas Fields, ‘Amping Up Brain Function: Transcranial Stimulation Shows
Promise in Speeding Up Learning’, Scientific American, 25 November 2011, accessed 22 December
2014,
http://www.scientificamerican.com/article/amping-up-brain-function.]
[13] [ Sally Adee, ‘How Electrical Brain
Stimulation Can Change the Way We Think’, The Week, 30 March 2012, accessed 22 December 2014,
http://theweek.com/article/index/226196/how-electrical-brain-stimulation-can-change-the-way-we-think/2.]
[14] placebo effect
[15] individual = Latin individuus = not + divisible = không+phân chia được
[16] [E. Bianconi et al., ‘An Estimation of the
Number of Cells in the Human Body’, Annals of Human
Biology 40:6 (2013), 463–71.]
[17] tư tưởng cổ xưa nhất về tôn giáo còn ghi
chép lại trong The Egyptian Book of the
Dead (đúng hơn là Sách Tang lễ của người Egypt, khoảng 1550 TCN) - không có
từ ngữ chỉ ‘hồn người’, không có sự phân biệt hồn và xác. Một người là tất cả
những gì gồm trong khối xương thịt được cha mẹ sinh ra, thế nên họ ướp xác
chết, chăm sóc, gìn giữ nó, nuôi dưỡng nó trong thế giới ‘bên kia’ (lòng/dưới
đất), vì nếu xác tan huỷ, thì mất hết, không có ‘hồn’ nào ‘linh thiêng’ nào tồn
tại mãi mãi.
[18] Easter Bunny
[19] stroke: đột quị, tai biến mạch máu não
[20] [Oliver Sacks, The Man Who Mistook His Wife for a Hat (London: Picador, 1985), 73–5.]
[21] epilepsy
[22] [Joseph
E. LeDoux, Donald H. Wilson and Michael S. Gazzaniga, ‘A Divided Mind:
Observations on the Conscious Properties of the Separated Hemispheres’, Annals of Neurology 2:5 (1977), 417–21.
See also: D. Galin, ‘Implications for Psychiatry of Left and Right Cerebral
Specialization: A Neurophysiological Context for Unconscious Processes’, Archives of General Psychiatry 31:4
(1974), 572–83; R. W. Sperry, M. S. Gazzaniga and J. E. Bogen,
‘Interhemispheric Relationships: The Neocortical Commisures: Syndromes of
Hemisphere Disconnection’, in Handbook of
Clinical Neurology, ed. P. J. Vinken and G. W. Bruyn (Amsterdam: North
Holland Publishing Co., 1969), vol. 4.]
[23]
[Michael S. Gazzaniga, The Bisected Brain (New York: Appleton-Century-Crofts,
1970); Gazzaniga, Who’s in Charge?; Carl Senior, Tamara Russell and Michael S.
Gazzaniga, Methods in Mind (Cambridge, MA: MIT Press, 2006); David Wolman, ‘The
Split Brain: A Tale of Two Halves’, Nature 483 (14 March 2012), 260–3]
[24] [Galin,
‘Implications for Psychiatry of Left and Right Cerebral Specialization’, 573–4.
[25] [Sally
P. Springer and Georg Deutsch, Left
Brain, Right Brain, 3rd edn (New York: W. H. Freeman, 1989), 32–6]
[26]
behavioral economics: the study of how real people actually make choices, which
draws on insights from both psychology and economics
[27]
Experiencing self và Narrating self, cũng có những tác giả khác gọi là
Experiencing self và remembering self
[28]
Kahneman, Thinking, Fast and Slow,
377–410. See also Gazzaniga, Who’s in
Charge?, ch. 3.
[29] [Eran
Chajut et al., ‘In Pain Thou Shalt Bring Forth Children: The Peak-and-End Rule
in Recall of Labor Pain’, Psychological
Science 25:12 (2014), 2266–71.]
[30] [Ulla
Waldenström, ‘Women’s Memory of Childbirth at Two Months and One Year after the
Birth’, Birth 30:4 (2003), 248–54; Ulla Waldenström, ‘Why Do Some Women Change
Their Opinion about Childbirth over Time?’, Birth
31:2 (2004), 102–7.]
[31] Người Muslim nhịn ăn (ban ngày) một tháng
mỗi năm, tháng thứ 9 theo lịch Islam, gọi là tháng Ramadan.
[32] [Mark
Thompson, The White War: Life and Death
on the Italian Front, 1915–1919 (New York: Basic Books, 2009).]
[33] [Jorge
Luis Borges, Collected Fictions,
trans. Andrew Hurley (New York: Penguin Books, 1999), 308–9. For a Spanish
version see: Jorge Luis Borges, ‘Un problema’, in Obras completas, vol. 3 (Buenos Aires: Emece Editores, 1968–9),
29–30.]
“ A Problem
Let us imagine that a piece of paper with a text in
Arabic on it is discovered in Toledo, and that paleographers declare the text
to have been written by that same Cede Hamete Benengeli from whom Cervantes
derived Don Quixote. In it, we read that the hero (who, as everyone knows,
wandered the roads of Spain armed with a lance and sword, challenging anyone
for any reason) discovers, after one of his many combats, that he has killed a
man. At that point the fragment breaks
off; the problem is to guess, or hypothesize, how don Quixote reacts.
So far as I can see, there are three possibilities.
.....”
[34] [Mark
Thompson, The White War: Life and Death
on the Italian Front, 1915–1919 (New York: Basic Books, 2009).]
[35] Về Nguồn gốc của những Chủng loại bằng những
phương thức của sự Chọn lọc trong Tự nhiên (On the Origin of Species by Means of Natural Selection) , xuất bản
ngày 24/Nov/1859