Wednesday, April 11, 2012

Sigmund Freud - Tôtem và Tabu (5)

Tôtem và Tabu
Những giống nhau giữa đời sống tâm lý của người sơ khai và của người bệnh nhiễu loạn nơ rô

Sigmund Freud







Chương IV.   Hệ tin tưởng tôtem tái diễn trong Tuổi thơ

6 .

Tôi chịu tác động của nhiều lý do mạnh vốn giữ tôi đừng cố sức để bàn luận về sự phát triển xa nữa của những tôn giáo, từ khởi đầu của chúng trong hệ tin tưởng tôtem đến tận trạng thái hiện tại của chúng. Tôi sẽ đi đến kết luận chỉ với hai mối dây như tôi thấy chúng xuất hiện với sự khác biệt đặc biệt chạy xuyên ngang là: lý do của sự hy sinh totem, và quan hệ của đứa con trai với người cha [1].

Robertson Smith đã cho chúng ta thấy lễ tiệc tôtem cũ quay lại trong dạng nguyên thủy của lễ hy sinh. Ý nghĩa của nghi lễ là cùng như nhau: sự thánh hóa thông qua sự tham dự vào bữa ăn chung. Cảm thức về tội lỗi, nó chỉ có thể được làm nguôi ngoai qua sự đoàn kết của tất cả những người tham dự, cũng đã được giữ lại. Thêm vào điều này, có thần linh của bộ lạc trong giả định là sự hiến sinh đã diễn ra với sự có mặt của vị này, là vị nhận phần trong bữa ăn như một thành viên của bộ lạc, và đồng hóa nhân cách với vị này có tác dụng qua hành vi ăn thịt vật hy sinh. Gót đi vào trong tình huống này như thế nào, vốn khởi nguyên là xa lạ với ông?

Câu trả lời có thể là ý tưởng về gót khi đó đã xuất hiện rồi, - không ai biết từ lúc nào - và đã chi phối toàn bộ đời sống tôn giáo, và rằng lễ tiệc tôtem, giống như tất cả những gì nào khác muốn tồn tại, đã bị buộc phải tự phù hợp vào trong hệ thống mới. Tuy nhiên, khảo cứu Phân tích Tâm lý của cá nhân có hướng dẫn với nhấn mạnh đặc biệt rằng gót trong tất cả mọi trường hợp được mô phỏng theo người cha, và rằng quan hệ cá nhân của chúng ta với gót thì tùy thuộc trên quan hệ của chúng ta với người cha bằng xương bằng thịt của chúng ta, biến động và thay đổi với ông ta, và rằng gót ở dưới đáy cùng thì không là gì khác nhưng chỉ là một người cha cao vời.[2] Ở đây cũng vậy, như trong trường hợp của hệ tin tưởng tôtem, phân tâm học khuyên chúng ta để tin người có tin tưởng, người gọi gót là cha giống đúng như họ đã gọi tôtem là tổ tiên của họ. Nếu phân tâm học có đáng hưởng bất kỳ một quan tâm nào tất cả đi nữa, vậy thì phần chia (vai trò) của người cha trong ý tưởng của một vị gót phải là rất quan trọng, hoàn toàn nằm riêng ra khỏi với tất cả những nguồn gốc khác, và những ý nghĩa của gót vốn phân tâm học không thể chiếu ánh sáng vào chúng. Nhưng sau đó người cha sẽ được tượng trưng hai lần trong sự hy sinh nguyên thủy, thứ nhất là gót, và thứ hai là động vật-tôtem hy sinh, và chúng ta phải hỏi, do phương diện số lượng hạn chế của những giải pháp vốn phân tâm học đã cung cấp, liệu điều này là có thể có được hay không, và ý nghĩa của nó có thể là những gì.


Chúng ta biết rằng có một số những quan hệ của gót với con vật linh thiêng (tôtem và con vật hiến sinh):
1. Thường thường, một loài vật là thiêng liêng với một gót, đôi khi ngay cả nhiều loài động vật.
2. Trong một số những lễ hiến sinh, đặc biệt linh thiêng, lễ được gọi là những lễ hy sinh “thần bí”, chính ngay con vật đã được thánh hóa bằng vị gót, đã đem hy sinh cho ông ta [3].
3. Gót đã thường được tôn kính trong dạng của một động vật, hoặc nhìn từ một góc độ khác, lâu dài sau thời kỳ của hệ tin tưởng tôtem loài động vật được hưởng một sự tôn kính giống như với gót.
4. Trong những thần thoại, gót đã thường xuyên biến đổi thành một con vật, thường vào thành động vật vốn là thiêng liêng với ông ta. Từ điều này, giả định đã rõ ràng rằng chính gót đã là động vật, và rằng gót đã tiến hóa từ động vật tôtem ở giai đoạn sau của tình cảm tôn giáo. Nhưng sự ngẫm nghĩ lại rằng tôtem chính nó không là gì, nhưng là một thay thế cho người cha làm nhẹ gánh chúng ta khỏi tất cả thảo luận thêm. Do đó, tôtem có thể là hình thức đầu tiên của người cha-thay thế, và gót là một hình thức về sau, trong đó người cha lấy lại hình dạng con người của mình. Một sự tạo lập mới từ gốc của tất cả tiến hóa tôn giáo thuộc loại giống thế, cụ thể là, sự khao khát về người cha, có thể trở thành khả hữu, nếu trong tiến trình thời gian một thay đổi quan trọng đã xảy ra trong quan hệ với người cha, và có lẽ cũng với con vật.

Những thay đổi như vậy có thể dễ dàng đoán được, ngay cả nếu chúng ta bỏ qua sự khởi đầu của một tâm lý ghẻ lạnh từ động vật, cộng thêm với sự tan rã của hệ tin tưởng tôtem qua sự thuần hóa động vật [4]. Tình huống được tạo ra bởi việc loại bỏ người cha đã chứa một yếu tố mà trong tiến trình đi tới của thời gian phải đã tạo ra một sự gia tăng khác thường của lòng khao khát với người cha. Đối với những anh em, những người đã góp sức để giết người cha, mỗi người đã bị phấn khích bởi ước muốn trở thành giống như người cha, và ước muốn này đã đem cho bày tỏ bằng sự sát nhập những phần của cái-thay thế cho ông trong lễ tiệc tôtem. Trong hệ quả của áp lực vốn những ràng buộc của thị tộc anh em thực hiện trên mỗi thành viên, ước muốn này phải giữ không được cho thực hiện. Không ai có thể, hoặc được cho phép để đạt được sự hoàn hảo quyền lực của người cha, vốn đó là điều tất cả họ đã tìm kiếm. Thế nên, cảm xúc cay đắng đối với người cha vốn đã xúi dục đưa đến hành vi có thể giảm dần theo tiến trình thời gian, trong khi sự khao khát, mong có ông lớn lên, và một lý tưởng có thể phát sinh có như một nội dung sự là sự trọn vẹn quyền lực và sự tự do khỏi sự ngăn cấm của người cha nguyên thủy đã chinh phục, cộng thêm với sự sẵn lòng của chính họ phục tùng ông ta. Tính bình đẳng dân chủ nguyên thủy của mỗi thành viên của bộ lạc không còn có thể được giữ lại trên lý do của sự can thiệp của những thay đổi văn hóa, trong hậu quả của nó có phát sinh một khuynh hướng để phục hồi lý tưởng người cha xưa cũ trong việc sáng tạo ra những vị gót thông qua sự tôn kính về những cá nhân là những người đã tự họ  phân biệt chính họ ở trên phần đông còn lại. Rằng một người nên trở thành một vị gót, và rằng một vị gót nên bị chết, vốn ngày nay xem dường như với chúng ta một giả định thái quá, vẫn còn không có nghĩa là xúc phạm đến những quan niệm của cổ đại cổ điển. [5] Nhưng sự sùng bái thánh hóa của người cha đã bị sát hại, người mà bộ lạc bây giờ có được nguồn gốc xuất xứ của nó, đã là một nỗ lực nghiêm trọng hơn nhiều ở sự chuộc tội hơn so với giao ước trước đây với tôtem.

Trong quá trình tiến hóa này, tôi bị rối trí để chỉ ra địa điểm của những vị thần mẹ vĩ đại, những người có lẽ khắp mọi nơi đã trước những vị thần cha. Nhưng xem dường chắc chắn rằng sự thay đổi trong quan hệ với người cha đã không giới hạn với tôn giáo, nhưng mở rộng lô gích đến mặt khác của đời sống con người đã chịu ảnh hưởng của việc loại bỏ người cha, cụ thể là tổ chức xã hội. Với tổ chức của những vị thần cha, xã hội không có cha dần dần thay đổi thành một xã hội phụ quyền. Gia đình là một xây dựng lại bầy đàn nguyên thủy trước đây, và cũng đem trở lại một phần lớn những quyền cũ trước đây của chúng cho những người cha. Bây giờ lại có những tộc trưởng, nhưng những thành tựu về xã hội của thị tộc anh em đã không bị buông bỏ, và sự khác biệt thực sự giữa những tộc trưởng gia đình mới và người cha không hạn chế nguyên thủy đã là đủ lớn đủ để đảm bảo sự tiếp nối của nhu cầu tôn giáo, sự duy trì của lòng khao khát không được thỏa mãn với người cha.

Do đó, người cha thực sự xuất hiện hai lần trong cảnh tượng của lễ hy sinh trước vị gót của bộ lạc, một lần như vị gót, và một lần nữa như động vật tôtem hiến tế. Nhưng trong cố gắng để hiểu tình huống này chúng ta phải cẩn thận đề phòng những diễn giải vốn nông cạn bề mặt tìm để thông dịch nó như là một câu chuyện ngụ ngôn, và quên những giai đoạn lịch sử trong tiến trình. Sự hiện diện hai lần của người cha tương ứng với hai ý nghĩa kế tiếp của cảnh tượng. Thái độ mâu thuẫn hướng về người cha cộng thêm với chiến thắng của những tình cảm dịu dàng trên những tình cảm thù địch, ở đây đã tìm thấy biểu hiện co dãn. Cảnh tượng của người cha biến mất, sự suy thoái lớn nhất của ông ta, ở đây đem cung cấp vật liệu để trình bày khải hoàn lớn nhất của ông. Ý nghĩa vốn sự hy sinh đã hầu như thu tập được nói chung tìm thấy trong sự kiện rằng trong cùng một hành động vốn vẫn tiếp diễn ký ức về hành vi bất chánh này, nó đem lại sự hài lòng cho người cha trên sự ô nhục đã đặt lên ông.

Trong phát triển xa hơn thêm nữa, con vật mất đi linh thiêng của nó và sự hy sinh (trong) quan hệ của nó với sự kỷ niệm của tôtem; nghi lễ trở thành một hiến tế đơn giản cho vị thần, một sự tự-thiệt hại, tự-giảm thiểu để cho thấy sự thiên trọng vị gót. Gót chính tự thân ông giờ đây là quá cao vời với con người khiến con người chỉ có thể truyền thông với ông qua một nhà tư tế như là trung gian. Vào cùng thời gian đó, đẳng cấp xã hội tạo ra những nhà vua giống-như-gót, người chuyển hệ thống tộc trưởng sang nhà nước. Phải nói rằng sự báo thù cho người cha bị lật đổ và được phục hồi đã là rất tàn nhẫn, nó lên tới đỉnh cao trong sự thống trị của uy quyền. Những đứa con trai bị chinh phục đã dùng quan hệ mới để làm tự nhẹ gánh cho cảm thức của họ về tội lỗi vẫn còn nhiều. Sự hy sinh, như bây giờ được dựng lập, là hoàn toàn vượt ngoài trách nhiệm của họ. Gót tự thân đã đòi hỏi và ban phong nó. Những huyền thoại, trong đó gót tự mình giết con vật vốn linh thiêng với ông ta, vốn tự thân ông thực sự là (con vật), thuộc về giai đoạn này. Đây là sự phủ nhận có thể có lớn nhất của hành vi bất chính lớn vốn xã hội và ý thức tội lỗi bắt đầu với nó. Có một ý nghĩa thứ hai không thể nhầm lẫn được trong sự trưng bày hy sinh này. Nó biểu hiện sự hài lòng với sự kiện là cái-gì thế chỗ người cha trước đó đã bị buông bỏ để nghiêng sang chuộng khái niệm cao hơn về gót. Sự diễn dịch theo lối ngụ ngôn bề ngoài của cảnh tượng ở đây gần như tương ứng với diễn giải tâm lý của nó bằng cách nói rằng gót được đại diện như sự thắng vượt phần động vật trong bản chất của gót. [6]

Nhưng nó sẽ là sai lạc để tin rằng trong thời kỳ này của làm mới lại uy quyền người cha, những xung lực thù địch thuộc về mặc cảm với người cha đã hoàn toàn giảm xuống. Mặt ngược lại, những giai đoạn đầu tiên trong sự thống trị của hai hình thành mới thế chỗ người cha, những hình thành của những vị gót và những vị vua, rõ ràng cho thấy sự biểu hiện mạnh mẽ nhất của sự mâu thuẫn đó vốn nó là đặc trưng của tôn giáo.

Trong tác phẩm vĩ đại của ông, “The Golden Bough,” Frazer đã nói rõ ức đoán rằng những nhà vua đầu tiên của những bộ tộc Latin đã là những người xa lạ, những người đóng vai một vị thần và đã được nghiêm trọng hy sinh trong vai trò này vào những ngày nghỉ lễ theo qui định. Sự hy sinh hàng năm (tự hy sinh là một biến thái) của một vị gót dường như đã là một đặc trưng quan trọng của những tôn giáo Trung Đông [7]. Nghi lễ của sự hy sinh con người trong những phần khác biệt của thế giới có con người sinh sống làm thành điều chắc chắn rằng những con người này đã chấm dứt đời sống của họ như những đại diện của thần linh. Tập tục hy sinh này vẫn có thể truy tìm được dấu trong những thời sau này, trong sự thay thế của một vật giả vô tri giác (hình nhân nhỏ) cho người sống. Sự hy sinh gót người-gót [8] - mà tiếc là tôi không thể đi vào với với thông xuốt chi tiết cũng như của sự hy sinh động vật đã được giải thích ném lên ánh sáng rõ ràng nhất trên ý nghĩa của những dạng thức cổ hơn của sự hy sinh. Điều thừa nhận với sự ngay thực không thể vượt hơn được, rằng đối tượng của hành động hy sinh luôn luôn là cùng như nhau, là đúng hệt với tư cách của những gì giờ đây được tôn kính như một vị gót, cụ thể là với người cha. Câu hỏi về phần liên hệ của hy sinh động vật với hy sinh con người giờ đây có thể được phân giải dễ dàng. Sự hy sinh động vật ban đầu đã là một thay thế rồi cho một sự hy sinh của con người, cho sự giết chết nghiêm trọng người cha, và khi vật thế chỗ người cha đã lấy lại hình dạng con người của nó, động vật thế chỗ cũng có thể được tái-chuyển dạng vào thành một sự hy sinh con người.

Như thế, ký ức về hành vi lớn lao đầu tiên đó của sự hy sinh đã chứng tỏ là không thể hủy hoại được, bất chấp tất cả mọi nỗ lực để quên nó, và đúng vào giây phút khi con người ra sức để được càng xa càng tốt khỏi những động cơ của nó, sự lập lại không biến dạng của nó đã phải xuất hiện trong hình thức của sự hy sinh gót. Tôi không cần phải chỉ ra đầy đủ ở đây những phát triển của tư tưởng tôn giáo làm điều này có thể trở lại dưới hình thức của những hợp lý hóa. Robertson Smith, dĩ nhiên, là người hết sức xa biệt với ý tưởng truy tìm sự hy sinh ngược trở lại đến biến cố lớn lao này của lịch sử con người nguyên thủy, nói rằng buổi lễ của những lễ hội mà trong đó những dân tộc Semites cổ đã tổ chức kỷ niệm cái chết của một vị thần được hiểu như là một “lễ truy điệu kỷ niệm của một bi kịch huyền thoại” và rằng than khóc của những người tham dự đã không phải là đặc trưng bởi sự thương cảm đột phát, nhưng đã trưng bày một nét đặc sắc ép buộc, một gì đó đã bị áp đặt bởi sự sợ hãi về một cơn thịnh nộ của thần linh [9]. Chúng ta ở một vị trí để xác nhận rằng sự diễn giải này là chính xác, những cảm xúc của những người dự lễ hội đã được giải thích rất đúng khéo từ tình huống cơ bản.

Chúng ta bây giờ có thể chấp nhận như một sự kiện là trong sự phát triển thêm nữa của những tôn giáo, hai yếu tố kích động này, cảm thức của đứa con trai về tội lỗi và thách thức của nó, đã không bao giờ bị lụi tắt. Tất cả mỗi giải pháp gắng thử của vấn đề tôn giáo và tất cả mọi loại hòa giải của hai sức mạnh tâm lý đối lập dần dần thất bại rơi xuống đất, có lẽ dưới ảnh hưởng kết hợp của những thay đổi văn hóa, những sự kiện lịch sử, và những biến thái tâm lý bên trong.

Nỗ lực của đứa con trai để đặt chính nó vào vị trí của gót người cha, đã xuất hiện với tính khác biệt càng lớn và càng lớn hơn. Với nông nghiệp đưa vào (xã hội), tầm quan trọng của con trai trong gia đình theo chế độ tộc trưởng tăng lên. Hắn đã được khuyến khích để đem cho sự biểu hiện mới cho ham muốn tình dục loạn luân của hắn vốn tìm thấy sự thỏa mãn tượng trưng trong sự cày xới trên mẹ đất. Chỗ này đã đi vào những chân dung hiện hữu của những vị thần như Attis, Adonis, Tammuz [10], và những thần khác, những thần của thực vật, cộng thêm là những thần linh trẻ trung, là những người vui hưởng những ưu đãi của những vị thần mẹ và phạm vào loạn luân với người mẹ trong thách thức với người cha. Nhưng cảm thức về tội lỗi mà không lắng xuống qua những sáng tạo này, nhưng đã được thể hiện trong thần thoại, trong đó nó viếng thăm những người yêu trẻ trung của những nữ thần mẹ với đời sống ngắn và sự trừng phạt qua sự bị thiến hoặc qua những cuồng nộ của gót người-cha xuất hiện trong dạng động vật. Adonis bị con lợn rừng giết chết, con vật thiêng liêng của Aphrodite; Attis, người yêu của Cybele, chết vì bị thiến dương vật. [11] Sự than khóc cho những vị gót này và niềm vui trước sự sống lại của họ đã được tiếp nhận đặc biệt vào nghi lễ của một đứa con trai khác mà tính chất thần thánh đã được định mệnh để cho tồn tại lâu dài.

Khi đạo Kitô đã bắt đầu sự du nhập của nó vào thế giới cổ đại (Lamã), nó đã gặp sự cạnh tranh của tôn giáo của Mithras [12], và đã nghi ngờ trong một thời gian dài là không biết thần của đạo nào sẽ là kẻ chiến thắng.

Chân dung tươi sáng của vị gót trẻ trung xứ Persia đã vượt thoát sự hiểu biết của chúng ta. Có lẽ chúng ta có thể kết luận từ những minh họa Mithras giết con bò mộng rằng Mithras đại diện cho người con trai tự mình thực hiện sự hy sinh người cha và như thế đã giải thoát những anh em của mình khỏi mặc cảm tòng phạm trong hành vi (đồng lõa). Có một cách khác để làm dịu cảm thức này về tội lỗi và đây là cách mà  Christ đã làm. Ông đã hy sinh mạng sống chính mình và như thế chuộc được những anh em khỏi tội nguyên thủy.

Lý thuyết về tội lỗi nguyên thủy là cơ nguồn gốc của Orphic; nó đã được gìn giữ trong những bí ẩn và từ đó xâm nhập vào những trường phái triết học Hylạp thời cổ. [13] Đàn ông là những con cháu của những gót Titan, những người đã giết và phân thây gót trẻ Dionysos-Zagreus, sức nặng của tội phạm này đè nặng lên họ. Một mảnh (ghi chép còn xót) của Anaximander nói rằng sự thống nhất của thế giới đã bị phá hủy bởi một tội phạm nguyên thủy và tất cả những gì đã từ nó phát ra phải tiếp tục thực hiện sự trừng phạt cho tội phạm này. [14] Mặc dù những đặc tính của kết bầy với nhau, giết chết, và chặt chân tay như thể hiện trong hành động của những Titan gợi lại rất rõ ràng lễ hy sính totem được thánh-Nilus đã mô tả - cũng như nhiều huyền thoại cổ xưa, lấy thí dụ, cái chết của chính Orpheus – dù sao đi nữa, sự biến thái theo đó một vị gót trẻ đã bị ám sát vẫn làm chúng ta ở đây băn khoăn, không yên.

Trong huyền thoại của đạo Kitô, tội nguyên thủy của con người thì chắc chắn là một hành động vi phạm chống lại Gót người Cha, và nếu như Christ cứu chuộc loài người khỏi gánh nặng của tội nguyên thủy bằng sự hy sinh mạng sống riêng mình, ông buộc chúng ta đến kết luận rằng tội này đã là tội giết người. Theo luật của sự trả đũa [15] bắt rễ sâu trong tình cảm con người, một sự giết người chỉ có thể được chuộc tội bằng sự hy sinh của một mạng sống khác; sự tự hy sinh trỏ hướng về một tội lỗi-đẫm-máu người [16]. Và nếu sự hy sinh này của mạng sống riêng một người có mang lại một sự hòa giải với gót, với người cha, sau đó tội phạm phải được chuộc chỉ có thể đã là sự giết chết người cha.

Thế nên, trong giáo lý đạo Kitô loài người thừa nhận một cách phơi mở nhất hành vi tội lỗi của thời nguyên thủy vì bây giờ nó đã tìm thấy sự chuộc tội hoàn toàn nhất cho hành vi này trong cái chết hy sinh của đứa con trai. Sự hòa giải với người cha là thông xuốt chu đáo hơn vì đồng thời với sự hy sinh này theo sau nó có sự từ bỏ hoàn toàn về người phụ nữ, vốn chỉ vì họ đã khiến loài người nổi loạn chống lại người cha. Nhưng bây giờ tâm lý tai ương của sự mâu thuẫn vừa yêu vừa ghét cũng đòi hỏi quyền lợi của nó. Trong cùng một hành động vốn đem cho sự chuộc tội có thể có được lớn nhất với người cha, đứa con trai cũng đạt được mục tiêu của những mong muốn của nó ngược lại với người cha. Hắn trở nên một gót chính hắn, bên cạnh hay có phần đúng hơn trong vị trí của cha hắn. Tôn giáo của đứa con trai thành công kế tiếp tôn giáo của người cha [17]. Như một dấu hiệu của sự thay thế này, lễ tiệc ăn thịt tôtem cũ được làm sống lại lần nữa trong hình thức của lễ bí tích thánh thể [18], trong đó bầy anh em trai bây giờ ăn thịt và uống máu của đứa con trai, và thôi không còn (ăn thịt và uống máu) của người cha nữa, những đứa con trai do đó đồng hóa nhân cách chúng với người con trai đã hy sinh và tự chúng trở thành thánh thiện. Như vậy qua những thời đại, chúng ta thấy dạng-định-tính của lễ ăn thịt tôtem với sự hiến tế động vật, sự hy sinh con người nửa-người-nửa-thần, và lễ ban thánh thể của đạo Kitô [19], và trong tất cả những dịp nghiêm trọng này, chúng ta nhận được những tác động-đến sau của tội phạm đó vốn nó hết sức đè nén con người, nhưng những người này cũng phải là hết sức tự hào với nó. Tuy nhiên, ở dưới đáy của lễ hiệp thông trong đạo Kitô là một vị trí mới bên cạnh của người cha, một sự lập lại của của tội phạm vốn phải được chuộc tội. Chúng ta thấy xác đáng đến như thế nào, câu châm ngôn của Frazer rằng “lễ bí tích thánh thể trong đạo Kitô đã hấp thụ chính bên trong nó một bí tích không nghi ngờ gì là rất cổ xưa còn hơn cả đạo Kitô” [20].


7.
Một quá trình như sự loại bỏ người cha nguyên thủy của bầy anh em trai đã phải để lại những dấu vết không thể nhổ xóa được trong lịch sử loài người, và phải biểu hiện chính nó càng thường xuyên hơn bao nhiêu trong đông đảo những dạng thức hình thành thay thế thì chính nó lại càng được ghi nhớ ít hơn bấy nhiêu [21]. Tôi đang tránh để dừng bị lôi cuốn vào việc chỉ ra những dấu vết này trong thần thoại, nơi mà chúng không phải là khó tìm, và tôi đang quay sang một lĩnh vực khác khi theo sau một ám chỉ của S. Reinach trong nghiên cứu gợi ý của ông về cái chết của Orpheus [22].

Có một tình huống trong lịch sử của nghệ thuật Hylạp vốn nó xem quen thuộc đến sững sờ với cảnh diễn của một lễ tiệc ăn thịt tôtem, được Robertson Smith khám phá, ngay cả nếu có trệch hướng sâu xa. Đó là tình huống của bi kịch Hylạp cổ xưa nhất [23]. Một nhóm người, tất cả có cùng tên và mặc quần áo cùng một lối, bao quanh một khuôn mặt độc nhất, vốn nhóm người này phụ thuộc vào những lời nói và hành động của khuôn mặt này, đó là đóng vai cho dàn diễn viên hợp xướng và cho vai duy nhất nguyên thủy của người anh hùng. Những phát triển tiếp sau đó, tạo ra một một diễn viên thứ hai và thứ ba nhằm để đóng vai những đối thủ trong màn kịch, và những đứa con của người anh hùng, nhưng nhân vật anh hùng cũng như quan hệ của ông với dàn diễn viên hợp xướng giữ không thay đổi. Người anh hùng của bi kịch đã phải chịu khổ nạn đau đớn, điều này cho đến ngày nay vẫn là nội dung yếu tính của một bi kịch. Ông ta đã tự nhận vào mình điều được gọi là sự “phạm tội bi thảm,” vốn không phải luôn luôn dễ dàng giải thích được; nó thường không phải là một sự phạm tội theo nghĩa thông thường. Hầu như luôn luôn nó gồm một sự nổi loạn chống lại một thần linh hoặc con người uy quyền, và dàn diễn viên hợp xướng đi kèm cùng người anh hùng với sự thương cảm đồng tình của họ, khi cố gắng kiềm chế và báo trước nguy hiểm cho ông ta, và đã khóc thương số phận của ông sau khi ông đã gặp những gì đã được xem là sự trừng hình phù hợp với toan tính táo bạo của ông.

Nhưng tại sao người anh hùng của bi kịch phải chịu đau khổ, và ý nghĩa của sự phạm tội “bi thảm” của ông là gì? Chúng ta sẽ cắt ngắn bàn luận bằng một trả lời nhanh chóng. Ông đã phải chịu khổ đau vì ông đã là người cha nguyên thủy, người anh hùng của bi kịch nguyên thủy đó, sự nó lập lại của những gì ở đây phục vụ một khuynh hướng nhất định nào đó, và tội lỗi bi thảm là tội lỗi mà ông đã phải tự gánh lấy vảo mình ngõ hầu dàn diễn viên hợp xướng được sạch tội lỗi của họ. Màn kịch trên sân khấu đi đến thành hình qua sự bóp méo có chủ đích từ màn kịch lịch sử, hay người ta bị lôi cuốn để nói, nó là kết quả của sự giả hình tinh tường tế nhị. Trên thực tế, trong tình huống xưa, chính là những thành viên của dàn hợp xướng đã gây ra sự đau khổ cho người anh hùng; ở đây, về mặt khác, chính họ lại đã khóc kiệt nước mắt trong sự cảm thông và ân hận, và người anh hùng là chính ông chịu tội về đau khổ của ông. Tội phạm đã đánh tráo với ông, cụ thể là sự quả quyết tự phụ và sự nổi loạn chống lại một uy quyền lớn lao, thì cũng là một giống như điều trong quá khứ đã đàn áp những đồng bọn của dàn hợp xướng, cụ thể là, bầy đoàn những anh em trai. Thế nên, người anh hùng bi kịch, dù vẫn ngược với ý định ông, đã được làm thành người cứu chuộc cho dàn hợp xướng.

Khi một người mang trong não thức sự đau khổ của vị thần (có dạng) con dê Dionysos trong màn trình diễn của bi kịch Hylạp và sự than khóc của đoàn dê tùy tùng, vốn chúng đồng hóa chính chúng với ông ta, người ta có thể dễ dàng hiểu tấn tuồng gần như tuyệt tích đã được xem lại như thế nào ở thời Trung cổ trong tích Khổ nạn của Christ [24].

Khi đóng lại bài nghiên cứu này, vốn đã được thực hiện dưới hình thức cực kỳ cô đọng, tôi muốn phát biểu kết luận rằng những khởi đầu của tôn giáo, đạo đức, xã hội, và nghệ thuật cùng gặp trong mặc cảm Oedipus. Điều này nằm trong phù hợp hoàn toàn với những khám phá của phân tâm học, cụ thể là hạt nhân của tất cả những chứng nhiễu loạn nơ-rô, xa đến mức như kiến thức hiện nay của chúng ta đạt đến về chúng, là mặc cảm Oedipus. Nó đến với tôi như là một bất ngờ lớn rằng những vấn đề này của tâm lý học chủng tộc cũng có thể được giải quyết qua một trường hợp cụ thể duy nhất, tới mức độ như là quan hệ với người cha. Có lẽ một vấn đề tâm lý khác phải được gồm vào ở đây. Chúng ta đã quá thường xuyên có dịp cho thấy tính mâu thuẫn của những xúc cảm trong ý nghĩa đích thực của nó, đó là để nói rằng sự trùng hợp của yêu và ghét hướng về cùng một đối tượng, tại gốc của những cấu trúc văn hóa quan trọng. Chúng ta không biết gì về nguồn gốc của sự mâu thuẫn này. Nó có thể được giả định là một hiện tượng cơ bản của đời sống tình cảm của chúng ta. Nhưng xem dường với tôi, điều có thể có được khác có thể cũng đáng xem xét: rằng sự mâu thuẫn đó, gốc ban đầu là xa lạ với đời sống tình cảm của chúng ta, đã được loài người tiếp nhận từ mặc cảm với người cha, [25] nơi mà điều tra phân tâm của cá nhân ngày nay vẫn còn phơi bày những biểu hiện mạnh nhất của nó [26].

Trước khi đóng lại, chúng ta phải lưu tâm rằng sự hội tụ đáng ghi nhận đạt đến được trong những minh họa này, trỏ hướng về một quan hệ bao gồm duy nhất, phải không nên che mù chúng ta với những không chắc chắn của những giả định của chúng ta, và với những khó khăn của những kết luận của chúng ta. Trong số những khó khăn này, tôi sẽ chỉ ra chỉ có hai vốn chúng hẳn đã phải tự đẩy chúng đến với nhiều người đọc.

Trước hết, khó có thể thoát khỏi một người nào, rằng chúng ta căn cứ tất cả mọi sự việc trên giả định về một tâm lý của đám đông, trong đó những tiến trình tâm lý diễn ra cũng như trong đời sống tâm lý của cá nhân. Hơn nữa, chúng ta để cho cảm thức về tội lỗi của một hành vi sống sót qua hàng ngàn năm, tác động còn lại trong những thế hệ vốn không thể biết được bất cứ gì về hành vi này. Chúng ta cho phép một tiến trình cảm xúc loại giống thế nổi lên giữa những thế hệ của những con trai đã bị những người cha họ đối xử tàn tệ, được tiếp tục sang những thế hệ mới vốn đã thoát khỏi đối xử giống vậy, bằng chính sự dời bỏ đi người cha. Những điều này thực vậy, xem dường là những phản đối nặng nhiều, và bất kỳ giải thích nào khác mà có thể tránh khỏi những giả định giống vậy sẽ xem dường đáng được chuộng hơn.

Nhưng xem xét thêm nữa cho thấy rằng chính chúng ta không phải gánh toàn bộ trách nhiệm cho sự táo bạo dường thế. Nếu không có giả thiết về một tâm lý quần chúng, hay sự liên tục trong đời sống tình cảm của loài người vốn cho phép chúng ta làm ngơ trước những gián đoạn của những hành vi tâm lý qua sự vi phạm của những cá nhân, tâm lý xã hội không có thể nào hiện hữu được. Nếu những tiến trình tâm lý của một thế hệ đã không tiếp tục trong thế hệ kế tiếp, nếu mỗi thế hệ đã phải thu tập thái độ của nó hướng về đời sống mới lại từ đầu, sẽ không có tiến bộ trong lĩnh vực này, và hầu như không có phát triển. Chúng ta giờ đây phải đối mặt với hai câu hỏi mới: chừng bao nhiêu có thể gán được cho sự liên tục tâm lý bên trong những chuỗi dài gồm những thế hệ, và những cách nào và những phương tiện gì mà một thế hệ dùng để chuyển trạng thái tâm lý của mình sang qua thế hệ sau? Tôi không tuyên bố rằng những vấn đề này đã được giải thích đầy đủ, hoặc là sự liên lạc truyền thông trực tiếp và truyền thống, vốn người ta lập tức nghĩ đến chúng, là thỏa đáng với công việc. Tâm lý xã hội trong tổng quát là ít quan tâm đến cách thức trong đó sự liên tục đòi hỏi trong đời sống tâm lý của những thế hệ tiếp nối được thiết lập. Một phần của công việc này dường như được thực hiện bởi sự di truyền của những phân bố tâm lý trong đó, tuy nhiên, cần những khuyến khích ưu đãi nhất định trong đời sống cá nhân để trở thành có hiệu quả. Điều này có thể là ý nghĩa của những từ ngữ của nhà thơ: Phấn đấu để bạn có những gì bạn đã thừa hưởng từ tổ tiên của bạn. Vấn đề sẽ hiện ra khó khăn hơn nếu chúng ta có thể thú nhận rằng có những xung động tâm lý vốn chúng có thể bị trấn áp hoàn toàn đến nỗi chúng không để lại dù cho là dấu vết gì hết cả ở sau chúng. Nhưng rằng điều đó không hiện hữu. Sự trấn áp lớn nhất phải để lại chỗ cho những thay thế bị bóp méo và những phản ứng hậu quả của chúng. Nhưng trong trường hợp đó, chúng ta có thể giả định rằng không thế hệ nào có khả năng che giấu những tiến trình tâm lý quan trọng hơn của nó với thế hệ tiếp theo. Vì phân tâm học đã dạy chúng ta rằng trong hoạt động tâm lý vô thức của hắn, mỗi người sở hữu một bộ máy cho anh ta khả năng giải thích những phản ứng của người khác, đó là để nói, để uốn thẳng ra những biến dạng mà người khác đã thực hiện trong những diễn tả những xúc cảm của người ấy. Bằng phương pháp này của hiểu biết vô thức về tất cả những phong tục, nghi lễ, và pháp luật vốn quan hệ nguyên thủy với người cha nguyên khai đã để lại đằng sau, những thế hệ sau này cũng có thể có thành công trong việc tiếp quản di sản của những xúc cảm này.

Còn có một phản đối nữa vốn phương pháp phân tích về tư tưởng tự nó có thể nêu lên.

Chúng ta đã thông dịch những qui tắc đầu tiên của đạo đức và những ngăn cấm về đạo đức của xã hội nguyên thủy như là những phản ứng với một gì đó được đem làm vốn nó đã cho những tác giả của nó khái niệm về tội ác. Họ đã hối hận vì một gì đó được đem làm này, và quyết định rằng nó không nên được lập lại, và sự thực hiện của nó phải không đem lại lợi lộc gì. Ý thức sáng tạo này về tội lỗi đã không trở thành tắt ngấm với chúng ta. Chúng ta tìm thấy những tác dụng phi-xã hội của nó trong những người bệnh nhiễu loạn nơ rô tạo ra những qui tắc mới của đạo đức, và đã tiếp tục những ngăn cấm, trong sự chuộc tội cho những gì-đó-được-đem-làm sai lạc đã nhúng tay vào, hoặc như những biện pháp phòng ngừa chống lại những hành vị sai lạc sẽ tái phạm. [27] Nhưng khi chúng ta duyệt xét những người bệnh nhiễu loạn nơ rô về những hành động vốn đã gây ra những phản ứng như vậy, chúng ta đã thất vọng. Chúng ta không tìm thấy những hành động, nhưng chỉ những xung lực và xúc cảm vốn chúng đi tìm tà ác nhưng chúng đã bị kềm giữ không cho mang ra thực hiện. Chỉ những thực tại tâm lý và không phải những thực tại (vật lý) ở tại cơ sở của cảm thức về tội lỗi của những người bệnh nhiễu loạn nơ rô. Nó là đặc trưng của chứng nhiễu loạn nơ-rô để đặt một thực tại tâm lý lên trên một thực tại (vật lý) và để phản ứng như là nghiêm trọng với suy nghĩ như người bình thường phản ứng chỉ với những thực tại (vật lý).

Có thể nào được là không đúng rằng trường hợp đã phần nào cũng giống như với người nguyên thuỷ? Chúng ta đã giải thích được lý do khi gán cho họ một sự quá-lượng giá khác thường của những hành vi tâm lý của họ như là một sự biểu hiện một phần của tổ chức chỉ-yêu-mình của họ. [28] Theo như điều này, chỉ những xung lực thù địch đối với người cha và sự hiện hữu của ước muốn huyễn tưởng để giết và nuốt ông ta có thể đã đủ để mang lại phản ứng đạo đức vốn đã tạo ra hệ tin tưởng tôtem và tabu. Thế nên, chúng ta sẽ thoát khỏi sự cần thiết phải truy tìm ngược về khi chúng ta bắt đầu có văn hóa, với nó chúng ta có quyền rất tự hào, đến một tội ác khủng khiếp làm tổn thương tất cả những xúc cảm của chúng ta. Những kết nối quan hệ nhân quả, từ thời điểm bắt đầu đó kéo dài đến hiện tại, sẽ không bị hư hại suy giảm, vì thực tại tâm lý sẽ là quan trọng đủ để giải thích cho tất cả những hệ quả này. Có thể đồng ý được rằng một sự thay đổi đã thực sự diễn ra trong hình thức của xã hội, từ bầy đàn có cha tới thị tộc anh em. Đây là một lập luận mạnh mẽ, nhưng nó không phải là kết luận. Sự thay đổi có thể đã được hoàn thành trong một cách thức ít bạo lực hơn, và vẫn tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những phản ứng đạo đức. Miễn là chừng nào áp lực của người cha nguyên thủy cảm thấy được, những xúc cảm thù địch chống lại ông thì biện minh được, và sự hối cải về những xúc cảm này đã phải chờ một cơ hội khác. Trong số có giá trị ít là phản đối thứ hai, rằng tất cả mọi thứ bắt nguồn từ quan hệ mâu thuẫn với người cha, cụ thể là những tabu, và những quy tắc về sự hy sinh, thì được đặc trưng bởi mức độ nghiêm trọng nhất và bởi thực tế hoàn toàn. Những nghi thức và ngăn cấm của những thúc ép của người bệnh nhiễu loạn nơ rô cũng trưng bày đặc trưng này, và tuy thế chúng truy ngược về lại một chỉ thuần là thực tế tâm lý, đến giải quyết và không phải đến hành xử. Chúng ta phải cẩn thận coi chừng về sự giới thiệu sự khinh miệt vào cho những gì chỉ đơn thuần là nghĩ hoặc muốn vốn đặc trưng cho thế giới tỉnh táo của chúng ta trong đó có chỉ những giá trị vật chất, vào trong thế giới của người nguyên thủy và người bị rối loạn thần kinh, vốn đầy những giàu có nội tâm mà thôi.

Chúng ta đối diện một quyết định ở đây vốn thực sự không dễ dàng. .Nhưng chúng ta hãy cùng bắt đầu bằng thừa nhận rằng sự khác biệt vốn có thể xem ra nền tảng với những người khác, trong phán đoán của chúng ta, không chạm đến phần quan trọng nhất của chủ đề. Nếu những ước muốn, và những xung lực có đầy giá trị của sự kiện cho con người nguyên thủy, điều dành cho chúng ta là đi theo một cách thông minh một khái niệm giống như thế, thay vì điều chỉnh nó ứng theo tiêu chuẩn của chúng ta. Nhưng trong trường hợp đó chúng ta phải xem xét chi ly chặt chẽ hơn mẫu thức của chính chứng nhiễu loạn nỏ-rô vốn nó có trách nhiệm đã nêu lên nghi ngờ này. Điều là không đúng rằng những người bị chứng ám ảnh neurosis, những người ngày nay bị dưới áp lực của quá-đạo đức, tự vệ chống lại chỉ những thực tại tâm lý của những cám dỗ và trừng phạt chính mình vì những xung lực mà họ chỉ cảm thấy. Một mảnh của thực tại lịch sử cũng can dự; trong thời thơ ấu của họ, những người này không có gì nhưng chỉ những xung lực tà ác và cho đến mức sự bất lực trẻ con của họ cho phép, họ đem đặt chúng vào hành động. Mỗi người trong những người quá-sức-tốt này đã có một giai đoạn thuộc về sư xấu xa trong thơ ấu của mình, và một thời kỳ hư hỏng như một dẫn-đường và một tiền đề của quá-đạo-đức về sau này. Sự tương tự giữa người nguyên thuỷ và người bệnh nhiễu loạn nơ rô do đó được thiết lập nền tảng nhiều hơn, nếu chúng ta giả định rằng với người kể trước cũng thế, thực tại tâm lý, liên quan đến cấu trúc mà không có nghi ngờ, ban đầu trùng hợp với thực tại thực sự, và rằng con người nguyên thủy thực sự đã làm những gì theo như tất cả lời chứng, họ đã có ý định làm.

Nhưng chúng ta phải đừng để phán đoán của chúng ta về những người nguyên thủy bị ảnh hưởng quá xa bởi sự tương tự với những người bị chứng nhiễu loạn nơ rô. Những khác biệt cũng phải được đem vào nhân nhắc xem xét. Dĩ nhiên sự phân chia rõ ràng giữa nghĩ và làm như chúng ta đã vẽ nên không hiện hữu trong những người sơ khai hoặc với những người bệnh nơ rô. Nhưng người bệnh nơ rô trên tất cả, bị cấm đoán trong những hành động của người ấy, với anh ta suy nghĩ thế chỗ hoàn toàn cho một gì đó được đem làm [29]. .Người nguyên thủy thì không bị cấm đoán, suy nghĩ trực tiếp chuyển thành một gì đó được đem làm, có thể nói đúng hơn với anh ta một gì đó được đem làm là một thay thế cho suy nghĩ, và vì lý do đó tôi nghĩ chúng ta có thể giả sử vững vàng trong trường hợp chúng ta đang thảo luận, mặc dù không có bảo đảm cho sự chắc chắn tuyệt đối của quyết định, rằng, “Ở khởi đầu đã là một gì đó được đem làm”.

Sigmund Freud (1856–1939) 

Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất 
(Mar/2012) 
(còn tiếp ...) 
http://chuyendaudau.blogspot.com/ 
http://chuyendaudau.wordpress.com


[1] So sánh với “Transformations and Symbols of the Libido,” của C. G. Jung, trong đó đã trình bày một số quan điểm bất đồng.
[2] Tôi nhấn mạnh và in nghiêng.
[3] [Robertson Smith, “Religion of the Semites.”]
[4] See above, p. 127.
[5] [“Đối với chúng ta hiện đại, với những người mà hành vi vi phạm vốn đã phân chia con người và thần linh đã sâu xa xuống thành một vực biển không thể vượt qua, sự bắt chước như vậy có thể hiện ra bất kính tín, không tín ngưỡng, nhưng về mặt khác nó đã là thế với những người cổ xưa. Đối với suy nghĩ của họ, những gót và người đã là như nhau, vì nhiều gia đình truy nguồn gốc của họ từ một thần linh, và sự thần thánh hóa một con người có thể xem ra cũng  một chút khác thường với họ như là sự phong thánh (cho một người thành thánh) với một tín đồ Catô hiện  đại.” Frazer, “The Golden Bough,” I; “The Magic Art and the Evolution of Kings,” II, p. 177.]
[6] [Đã được biết rằng sự chiến thắng của một thế hệ các vị gót với một thế hệ khác các vị gót trong huyền thoại đại diện cho quá trình lịch sử của sự thay thế một hệ thống tôn giáo với một hệ thống tôn giáo khác, hoặc như kết quả của chinh phục của một chủng tộc khác lạ, hoặc bằng những phương tiện của một sự phát triển tâm lý. Trong trường hợp sau, huyền thoại đi đến gần “hiện tượng chức năng”,  trong ý nghĩa của H. Silberer. Rằng vị gót giết con vật là một biểu tượng của libido - ham muốn tình dục - như khẳng định của CG Jung, đã giả định trước một khái niệm libido khác biệt với những gì trước đó đến nay đã chủ trương, và với tôi có dù ở mức nào xem dường có câu hỏi đặt ra.]
[7] Semitic – tuy ngày nay thường chỉ những gì Do-thái, nhưng nguyên nghĩa - ở đây – chỉ những gì thuộc về các sắc dân Trung Đông – và về cả ba tôn giáo của họ: Juda, Kitô và Islam.
[8] Theanthropic: thần có dạng hình người.
[9] [“Religion of the Semites,” pp. 412–413. “Tang tóc không phải là một sự diễn tả tự phát của cảm thông với bi kịch thần linh, nhưng là bị bắt buộc và bị băt tuân hành bởi sự sợ hãi của sự tức giận siêu nhiên. Và một đối tượng chính của những người than khóc tang lễ là để từ chối trách nhiệm với cái chết của thần linh -  một điểm đã đến với chúng ta rồi trước đây, trong  liên kết với  những  hy sinh con người , chẳng hạn như “kẻ giết hại con bò” tại Athens.”]
[10] Attis, Adonis, Tammuz: các vị gót trẻ và đẹp, và là những gót canh nông; và có liên hệ tình dục với mẹ: Attis với Cybele / Adonis với Aphrodite. Tammuz là thần canh nông Summer – có rất nhiều huyền thoại với mẹ là nữ gót Ninsun. Các vị gót này đều chết đi rồi sống lại – như cây cỏ tàn lụi rồi hồi sinh trong các mùa thu/xuân.
[11] [Sợ hãi bị thiến dương vật đóng một vai trò cực kỳ lớn trong việc gây nhiễu loạn những quan hệ với người cha trong trường hợp những bệnh nhân trẻ bị chứng neurosis của chúng ta. Trong nghiên cứu xuất sắc của Ferenczi, chúng ta đã xem thấy đứa bé trai nhận ra được tôtem của mình trong con vật đã táp dương vật nhỏ bé của mình như thế nào. Khi trẻ em hiểu về lễ cắt bao quy đầu, chúng đồng hóa nó với sự thiến dương vật. Theo như  hiểu biết của tôi, sự song hành trong tâm lý của các chủng tộc về  thái độ này của  con em chúng ta đã chưa được vẽ nên. Cắt bao quy đầu vốn đã quá thường xảy ra trong những thời nguyên khai giữa các chủng tộc nguyên thủy thuộc về giai đoạn dẫn nhập bắt đầu, trong đó ý nghĩa của nó đã được tìm thấy, nó đã chỉ bị hạ xuống hàng thứ yếu với  một thời gian sớm hơn trước đó của đời sống. Điều đáng chú ý là giữa những người nguyên thủy, cắt bao quy đầu nam giới được kết hợp với, hoặc thay thế bằng sự cắt tóc và cà răng, và rằng trẻ em của chúng ta, những người không có thể biết bất cứ điều gì về điều này, thực sự đối đãi với hai hoạt động này như những tương đương với sự thiến dương vật khi chúng trưng bày sợ hãi của chúng về hai hoạt động này.]
[12] Mithras: đạo Mithra (Mithraism), thờ gót Mithra, gót mặt trời, gót công bằng, gót (của những) hợp đồng, và gót chiến tranh ở Iran thời trước Zoroastria. Trong đế quốc La Mã thế kỷ thứ 2 và 3, được biết là gót Mithras, vị gót này được tôn thờ như gót đỡ đầu cho lòng trung thành với hoàng đế.
Mithra, vị thần cổ xưa của PersiaIndia (nơi ông được gọi là Mitra). Cho đến khi thế kỷ thứ 6. TCN, Mithra rõ ràng là một gót trong hệ thống Zoroastrian. Dưới vương triều Achaemenids, Mithra đã trở nên ngày càng quan trọng, cho đến khi xuất hiện trong thế kỷ thứ 5. TCN là vị gót chính của Persia, vị thần của ánh sáng và sự khôn ngoan, chặt chẽ kết hợp với mặt trời. Giáo phái này phát triển rộng qua Trung Đông sang châu Âu và trở thành một tôn giáo toàn thế giới, được gọi là Mithraism. Nó đã là một trong những tôn giáo lớn của đế quốc Lamã, và trong thế kỷ 2 CN, nó phổ quát hơn đạo Kitô. Đạo Mithra được ủng hộ rộng rãi nhất trong những quân đoàn Lamã, vốn Mithra (hoặc Mithras trong tiếng Latin và tiếng Hylạp) cũng là thần lịnh lý tưởng của chiến hữu và chiến sĩ. Khía cạnh cơ bản của hệ thống tin tưởng Mithra là sự đấu tranh nhị nguyên giữa các lực lượng của thiện và ác. Mithra, người đã cho những tín đồ của ông sự hy vọng của bất tử may mắn, đại diện cho kẻ đối kháng không sợ hãi chống lại quyền lực của bóng tối. Câu chuyện Mithra bắt và sự hy sinh của một con bò thiêng liêng, từ cơ thể của con bò mọc tất cả những điều lợi ích của trái đất, là một huyền thoại trung tâm của tín ngưỡng. Đạo đức của đạo Mithra rất nghiêm ngặt, quy định mạnh mẽ chay tịnh và tiết dục. Những nghi lễ, rất bí mật và hạn chế, chỉ phái nam mà thôi, gồm nhiều hình thức bí tích phổ biến với các tôn giáo bí ẩn (ví dụ, phép rửa tội và bữa tiệc linh thiêng). Sau khi hoàng đế Constantine chấp nhận đạo Kitô trong những năm đầu thế kỷ thứ 4, Mithraism nhanh chóng bị suy tàn..
[13] [Reinach, “Cultes, Mythes, et Religions,” II, p. 75.]
[14] [“sorte de péché proethnique,” l. c., p. 76.]
[15] Thực ra là “luật” theo tâm lý của dân Dothái, vẫn nhắc nhở “lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng”.
[16] [Những xung lực tự tử của những bệnh nhân neurotics của chúng ta thường xuyên chứng minh là để tự trừng phạt với những mong muốn cái chết đã, hướng sang chống lại những người khác.]
[17] Đạo Kitô thay thế đạo Juda – và Jesus cũng thành Gót (Chúa Con vs Chúa Cha hay Gót Con vs Gót Cha).
[18] Communion: bí tích thánh thể hay hành động tham dự vào lễ này - hay vẫn dịch là “Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa” – các tín đồ tin như lời Jesus trong kinh Thánh: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Sự “hiệp thông” này trong bản chất cũng vẫn là một với của lễ tiệc tôtem, chỉ có tên gọi khác nhau - lễ tiệc tôtem, những người ăn thịt sống con vật tôtem trong tác động tâm lý đồng hóa nhân cách với gót của bộ lạc vốn con vật tôtem là hiện thân.
[19] Eucharist: một bí tích đạo Kitô, nội dung là kỷ niệm bữa ăn cuối cùng của Jessus, trong đó ông tuyên bố bánh và rượu là thịt và máu ông.
[20] [“Ăn thịt Gót - Eating the God,)” p. 51…. Không ai quen thuộc với các tài liệu về chủ đề này sẽ giả định rằng sự truy tầm dấu vết của lễ hiệp thông của đạo Kitô ngược về đến lễ tiệc tôtem là một ý tưởng của tác giả của tập sách này.]
[21]  [Ariel trong “The Tempest”:
                Dưới năm  sải nước sâu, cha ngươi nằm:
xương của ông đã thành san hô ;
Những viên ngọc trai đó đã là mắt của ông;
Không có gì của ông đã mất đi
Nhưng đã chịu một thay đổi biển cả
Vào thành một gì đó phong phú và lạ lùng ….]

[22] La Mort d’Orphée, “Cultes, Mythes, et Religions,” Vol. II, p. 100.
[23] Những bi kịch Hylạp thường trình diễn hàng năm ở những nhà hát lộ thiên, riêng tại tại thành Athens  nhà hát lớn có chỗ cho khoảng 12,000 người – tổ chức vào cuối tháng Ba, đầu tháng Tư – dịp đông dứt/xuân về, hàng năm để kỷ niệm và vinh danh Dionysos, chính yếu là gót của mùa màng, rượu nho, kịch nghệ.  
[24] Passion of Christ: Trong tích Khổ nạn của Christ, vẫn còn thấy diễn ở những khu có đông tín đồ Catô ở thành phố tôi sống - (khu phố lao động người Ý chẳng hạn) trong dịp lễ Phục Sinh (Easter).  Người anh hùng của màn kịch là Jesus - do một thanh niên tiều tụy sống áo tả tơi nhuốm máu, đội vòng gai, vác một giá gỗ kéo lê trên đường phố. Như thế màn kịch có những yếu tố:  máu đổ để chuộc tội máu, có đứa con trai tự tử, hy sinh mạng sống để chuộc tội cho anh em. Những yếu tố đó vẫn còn rất xa lạ với phương Đông, vì nền tảng của nó là cấu trúc văn hóa trong đó chuyên chở nội dung là những huyền thoại sâu xa và cổ xưa nhất của phương Tây và Trung Đông, chúng chìm sâu trong vô thức tập thể của dân chúng ở đây.  Sự chết đi rồi sống lại - “phục sinh” - đó là sự sống lại của cây cỏ - chúng bừng dậy sau mùa đông dài. Chỉ khoảng một tuần – cây bừng hoa, trổ lá, cỏ xanh, thiên nhiên như sống lại sau mùa đông ngập tràn tuyết trắng  – “spring” – mùa xuân - có nghĩa gốc là bừng lên, bắn ra, đột nhiên và bất ngờ - giữa trắng/xanh, khô/tươi, bất động/linh động, giá lạnh/ấm áp, tối/sáng, chết/sống; Những mô thức trong câu chuyện về Jesus quá giống những huyền thoại, nên cũng có quan điểm rằng Jesus không hề là một nhân vật lịch sử có thực, nhưng chỉ là sản phẩm của những huyền thoại – đó là quan điểm nghiên cứu về sử tính của chân dung tôn giáo lớn lao này (historicity of Jesus).
[25] [Đó là để nói – mặc cảm đối với cha mẹ (the parent complex).]
[26] [Tôi đã quen với (việc mình) bị hiểu lầm và do đó tôi không nghĩ rằng không thừa thãi để phát biểu rõ ràng rằng khi đưa ra những diễn dịch này tuyệt không có nghĩa là tôi không biết gì về bản chất phức tạp của hiện tượng vốn phát sinh chúng; điều nói lên duy nhất là một yếu tố mới - qua kinh nghiệm phân tâm học đem cho - đã được thêm vào những ngồn gốc của tôn giáo, đạo đức, và xã hội đã được biết hoặc vẫn không được nhận biết. Sự tổng hợp về sự giải thích toàn bộ phải chừa lại cho người khác. Nhưng điều là trong bản chất của đóng góp mới này mà nó không có thể đóng vai gì khác ngoài vai trò trung tâm trong một tổng hợp như vậy, mặc dù sẽ là cần thiết để vượt qua những chống cự hữu hiệu lớn lao trước khi sẽ thừa nhận cho nó sự quan trọng loại như như vậy.]
[27] So sánh với Chương II.
[28] Xem Chương III.
[29] Deed: tôi tạm dịch là - một gì đó được đem làm – thay vì vẫn thông thường dịch là “hành động”, vì deed có khi chỉ là ý tưởng chưa làm, nhưng có thể đã có hiệu quả, mới chỉ  “nghĩ” đến một gì đó được đem làm – đã làm chúng ta hồi hộp, lo sợ, hay sung sướng