Thursday, April 12, 2012

Sigmund Freud - Tôtem và Tabu (6)

Tôtem và Tabu
Những giống nhau giữa đời sống tâm lý của người sơ khai và của người bệnh nhiễu loạn nơ rô
Sigmund Freud

Tôtem và Tabu (1918)
Sigmund Freud (1856-1939)


Lời bạt  của người dịch bản tiếng Việt

1.
Tôtem và Tabu xuất bản lần đầu tiên, bằng tiếng Đức, năm 1913. Tập sách gồm 4 bài tiểu luận đã được phổ biến từ trước trên chuyên san Phân tâm “Imago”, 1912-1913. Dựa trên những khảo cứu của Herbert Spencer, J. G. Frazer, Andrew Lang, E. B. Tylor, Wilhelm Wundt và đặc biệt của Darwin và Robertson Smith trong các lĩnh vực khảo cổ, tâm lý, nhân chủng, và dân tộc học, Freud đã ứng dụng phân tâm học, như chúng ta biết, là sáng tạo của ông, vào tâm lý của đám đông - qua hiện tượng đặc biệt của nó thể hiện trong xã hội là tín ngưỡng. Đây cũng là công trình hiếm hoi nghiên cứu về tâm lý tập thể của ông. Từ đấy, phương pháp tiếp cận của Freud, đường lối giải thích những hiện tượng lịch sử văn hóa dưới ánh sáng tâm lý, đã thành nổi tiếng và có ảnh hưởng quan trọng, trong ngành học con người văn hóa và ngành học con người xã hội (cultural và social anthropology) – đặc biệt trong lĩnh vực so sánh xã hội và phát triển xã hội giữa những chủng tộc.


2.
Trước hết, về từ ngữ, từ “taboo” – /ta bu/ – “cấm kị” – thuật ngữ có nguồn gốc Polynesia và lần đầu tiên được thuyền trưởng James Cook ghi nhận, trong chuyến thăm Tonga năm 1771, ông đã giới thiệu nó vào tiếng Anh, sau đó phổ biến rộng rãi. Mặc dù những tabu thường gắn liền với những nền văn hóa Polynesian của Nam Thái Bình Dương, chúng đã chứng tỏ có mặt hầu như trong tất cả những xã hội quá khứ và hiện tại.

Freud dùng trong tác phẩm này để chỉ định tabu như một tính từ với ý nghĩa ngược lại, chỉ một đối tương vừa đồng thời thiêng liêng và thánh hiến, cũng vừa đồng thời nguy hiểm, bị cấm, không tinh khiết. Tabu là tên cho những điều cấm đã được tự áp đặt cùng với những biện pháp trừng phạt đi kèm với chúng trong trường hợp phạm giới, và không có ý nghĩa hay ám chỉ bất kỳ rõ ràng. Bất cứ ai vi phạm một tabu cũng là tabu, minh họa sức mạnh truyền nhiễm của tabu.

Tôtem /tô tem/ có nguồn gốc từ otôteman của dân tộc Ojibwa, có nghĩa là “họ hàng anh chị em của cùng một người.” Gốc ngữ pháp, ote, có nghĩa một quan hệ máu mủ giữa anh chị em có cùng mẹ và là những người không có thể kết hôn với nhau. Trong tiếng Anh, từ tôtem đã được giới thiệu năm 1791. Theo Peter Jones, là một người Ojibwa, “Hồn Linh Lớn” (“Great Spirit”) đã đem toodaims (“tôtems”) cho những thị tộc Ojibwa, và vì hành động này, không bao giờ được quên rằng những thành viên của nhóm có liên hệ với nhau và không thể kết hôn với nhau .

Totemism  là hệ thống tin tưởng trong đó con người được cho là có quan hệ họ hàng, hoặc một quan hệ bí ẩn với một hữu thể-tinh thần, chẳng hạn như là một động vật hoặc thực vật. Thực thể, hoặc tôtem, được cho là tương tác với một nhóm người có liên hệ họ hàng, hoặc một cá nhân, và tôtem được dùng như là huy hiệu hoặc biểu tượng của họ. Totemism đã được dùng để mô tả một nhóm những đặc điểm về tôn giáo và trong những tổ chức xã hội của nhiều dân tộc. Totemism được thể hiện dưới những hình thức khác nhau và những loại trong những nội dung khác nhau và thường được tìm thấy trong số những quần thể dân chúng có nền kinh tế truyền thống dựa vào săn bắn và hái lượm, và canh tác hỗn hợp với săn bắn và hái lượm, hoặc nhấn mạnh trên chăn nuôi gia súc. Ngoài hiện tượng tôtem tập thể, và cũng còn có tôtem cá nhân.

Do đó tôi nghĩ nên mượn từ bằng phiên âm – tabu -  cấm kị hay điều cấm kị, đều không hoàn toàn đồng nghĩa với nội dung hiện tại như chúng ta biết của nó. Hơn nữa, ngay từ đầu, trong những ngôn ngữ Anh, Pháp đã có từ chỉ sự cấm kị rồi, nhưng họ đã không dùng, nhưng phải vay từ gốc Polynesia đặc biệt này, vậy thêm một lý do chúng ta nên dùng từ tabu.

Cũng tương tự như vậy, với tôtem  totem,  Totemism  hệ thống tin tưởng tôtem, hay vắn tắt hệ tin tưởng tôtem,  tôtem không phải chỉ là, hay hoàn toàn là tục lệ,  hay ngay cả tín ngưỡng nữa, nhất là sau những thành quả đến từ những diễn dịch của Lévi-Strauss.


3.
Với thời gian, đến nay Totem and Taboo  đã được xem như một trong những công trình phê bình văn hóa lớn nhất của Freud, nhưng khi xuất bản lần đầu, năm 1913, tập sách mỏng này đã gây chấn động phẫn nộ trong học giới. Freud đã đưa ra những luận chứng rất sáng tạo nhưng cũng rất táo bạo, dù trong đó đã khéo léo kích thích suy nghĩ người đọc. Cuối đời, quan tâm của ông nghiêng sang tôn giáo – và Totem and Taboo trình bày có lẽ trọn vẹn nhất một số những khái niệm quen thuộc của Freud. Đặt tâm lý loài người trên chiếc ghế sofa quen thuộc, nổi tiếng của ông tại thành Vienna, ông đã dẫn chúng ta về nguồn gốc của tôn giáo trong mặc cảm Oedipus quen thuộc của ông.

Lập luận chính của ông là: “khởi đầu của tôn giáo, đạo đức, xã hội, và nghệ thuật gặp nhau trong mặc cảm Oedipus”. Dựa trên suy đoán của Charles Darwin về trạng thái của một xã hội loài người nguyên thủy, đó là hình thức kết hợp bầy đàn với một alpha-nam dẫn đầu, có nhiều phụ nữ bao quanh, (tương tự như các nhóm vượn người gorilla còn thấy hiện nay), thêm với diễn dịch đặc biệt của William Robertson Smith về lễ hy sinh của những sắc dân sa mạc Trung Đông, phân tích lễ tiệc hiến sinh của một cộng đồng để cho thấy yếu tính của mọi giáo phái cổ xưa, và rằng sự hy sinh đó có nguồn gốc truy ngược được về với sự kiện toàn thể một thị tộc đã giết và ăn thịt sống, uống máu tươi con vật tôtem của nó, vốn được xem như là thân thích với thị tộc và là gót của thị tộc, vốn ngày thường vẫn có những  nghiêm cấm không được ăn giết con vật tôtem này. Sau đó, Freud đã đặt câu hỏi - về “ngăn cấm những thành viên của cùng một thị tộc không được kết hôn với nhau, hoặc cấm không được có bất cứ loại quan hệ tình dục nào, dù là gì đi nữa. Đây là sự liên kết nổi tiếng và khó hiểu của hôn chế dị tộc với hệ tin tưởng totem”  - Freud chuyển hướng chú ý của chúng ta về một sự kiện xã hội là khiếp hãi việc ăn nằm với người cùng máu huyết – chúng ta gọi là loạn luân – bên trong thị tộc (là nội dung tiểu luận I - The Savage’s Dread of Incest).

Đến đây, Freud đưa ra giải thích của mình và qua đó xác định nguồn gốc của hệ tin tưởng tôtem trong một biến cố lịch sử độc nhất, xảy ra trong thị tộc người nguyên thủy. Theo đó một đám anh em trai vừa mới lớn, đã bị người cha ghen tị, tham lam và bạo lực - alpha-nam nói trên – trục xuất khỏi bầy đàn. Những đứa con này đã kết bầy, trở lại đàn, và hợp sức giết người cha, người mà chúng vừa căm ghét vừa kính sợ, rồi chuyện phải xảy ra đã xảy ra, là chúng ăn nằm với những người nữ trong đàn, những người mẹ và chị em gái.  Như thế, Freud đã đặt chỗ cho mặc cảm Oedipus – giết cha, ngủ với mẹ - một vị trí xuất hiện trong xã hội loài người nguyên thủy, và đã đưa giả thuyết rằng trong thực tại, tất cả mỗi tôn giáo đã là một hình thức tập thể và mở rộng của xúc cảm hối hận về tội giết cha, và xúc cảm mâu thuẫn (yêu trộn ghét) với người cha - mà ông xem mới thực sự là tội nguyên thủy. Từ những xúc cảm tội lỗi và mâu thuẫn này đã đưa đến hai tabu nền tảng của hệ tin tưởng tôtem: tabu ngăn cấm quan hệ tình dục với người cùng thân tộc, và tabu ngăn cấm giết hại con vật tôtem, vốn là hình ảnh sau đó được đem thay thế vào chỗ của người cha. Bản năng tình dục bị áp chế, đòi hỏi tự nhiên không được thỏa mãn nên giết, nhưng giết xong, ghét hận thỏa mãn xong, thì thương kính lại sống dậy, nên những đứa con quay sang thờ phụng người cha qua hình ảnh thay thế (con vật tôtem), và rồi từ chối những gì dành được (những người nữ trong thị tộc – cấm lấy nhau).

Huyền thoại có những mô típ chung, chúng tồn tại vì đáp ứng những câu hỏi của con người vẫn dai dẳng trong vô thức – những câu đố bí hiểm về đời người – như câu đố con quái vật Sphinx đã hỏi những người dân thành Thèbes – trong đó có Oedipus trên đường đi đến hoàn tất định mệnh chính mình  – Từ chỗ này, Freud tuyên bố về một tôn giáo quen thuộc – đạo Kitô, theo ông Gót chỉ là hình ành người cha phóng lên cao cho lớn, Jesus chỉ là đứa con phỏng theo một huyền thoại hy sinh, và tội nguyên thủy là không gì khác nhưng chính là tội giết cha của loài người khi còn sống theo bầy đàn nguyên thủy. Chẳng phải những tín đồ vẫn gọi “Cha chúng ta ở trên Thiên đàng” – chẳng phải tín đồ vẫn “ăn thịt uống máu” đứa con hy sinh trong mỗi dịp lễ thánh thể hay sao? – ông quả quyết:

“Trong huyền thoại của đạo Kitô, tội nguyên thủy của con người thì chắc chắn là một hành động vi phạm chống lại Gót người Cha, và nếu như Christ cứu chuộc loài người khỏi gánh nặng của tội nguyên thủy bằng sự hy sinh mạng sống riêng mình, ông buộc chúng ta đến kết luận rằng tội này đã là tội giết người. Theo luật của sự trả đũa bắt rễ sâu trong tình cảm con người, một sự giết người chỉ có thể được chuộc tội bằng sự hy sinh của một mạng sống khác; sự tự hy sinh trỏ hướng về một tội lỗi-đẫm-máu người. Và nếu sự hy sinh này của mạng sống riêng một người có mang lại một sự hòa giải với gót, với người cha, sau đó tội phạm phải được chuộc chỉ có thể đã là sự giết chết người cha.”

4.
Một hiện tượng nhân văn phức tạp như tôn giáo – dĩ nhiên nguồn gốc của nó không thể đơn giản như vậy. Đó chính là lời mở đầu của Freud, ông cũng nhấn mạnh là giải thích của ông chỉ là một trong những giải thích có thể có, và cũng không có tham vọng được hơn những giải thích nào khác. Nhưng Sigmund Freud có lẽ cung cấp lời giải thích sáng tạo nhất cho chúng ta, đến nay, về bản chất dường như phi lý của những tabu, giả thuyết rằng chúng đã được tạo ra bởi những thái độ xã hội mâu thuẫn, và chúng thực sự là mặt nổi đại diện cho những hành vi bị cấm kị nhưng dù sao đi nữa vẫn tồn tại một khuynh hướng mạnh mẽ trong vô thức chúng ta. Ông đã nói khiêm tốn – chiếu lên một ánh sáng – lúc ấy là duy nhất - vào một tabu phổ quát, tabu về loạn luân, vốn ngăn cấm quan hệ tình dục giữa thân tộc. Từ tabu đó với lễ tiệc totem, Freud khéo léo đưa ra giải thích tâm lý sáng tạo – tâm lý mâu thuẫn vừa yêu vừa ghét, thái độ vừa kính sợ vừa oán giận, những xung lực libido – những bản năng tình dục tự nhiên và mạnh mẽ không thể dập tắt của những đứa con trai mới lớn –mặc cảm Oedipus vô thức trong nội tâm thực tại tâm lý đưa đến thực tại ngoại cảnh vật lý – là bi kịch giết cha lấy mẹ, rồi từ đó đi đến lễ tiệc hiến sinh ăn thịt tôtem, đến những huyền thoại như Attis, Adonis, Tammuz - để đưa đến thành hình những tôn giáo như Orpheus, Mithra và cuối cùng là Kitô.

Những phi lý ông nêu ra trong hiện tượng tabu và totem – cũng là những phi lý, hay đến nay chúng ta có thể gọi là mê tín, vì chúng là những tin tưởng trên những điều không thể có trong thực tại, bất chấp lý trí; hay nói theo Freud, đó là những thực tại tâm lý – vốn với trẻ con hay với những người bị chứng nhiễu loạn nơ rô - chúng là thực tại. Những người này đặt thực tại tâm lý lên trên thực tại vật lý – chúng ta gọi là đặt niềm tin lên trên khoa học. Đến đây chúng ta hiểu tại sao Freud gọi những tín đồ - những người đáng thương với lòng tin tôn giáo sâu đậm chết người – là những người tin vào những ảo tưởng, xem chúng là như thực – là những người bị bệnh loạn nơ rô – thế nên, Freud xem tôn giáo - những tôn giáo lấy Abraham làm thủy tổ - là một chứng loạn nơ rô tập thể.  Và chúng ta có thể hiểu lý do tại sao một tôn giáo vốn xây dựng chỉ trên những huyền thoại nhưng vẫn dai dẳng tồn tại mãi với đám đông nhân loại. Trong tôn giáo đó, như tôi nhắc ở trên - ẩn chứa những trả lời cho những khát vọng thầm kín, sâu thẳm và cổ xưa nhất của con người – tôn giáo có máu thịt quằn quại với một ý thức về tội lỗi bệnh hoạn luôn luôn đè nén dục tính, khiếp sợ chuyển thành khinh miệt phụ nữ; và với truyền thuyết về tội lỗi nguyên thủy, và bí hiểm đến phi lý hơn nữa về truyền thuyết một người cha, vị này tuy rất đỗi thương yêu, nhưng lại như được thỏa mãn khi chính đứa con mình phải đổ máu mất mạng, với giải thích là để chuộc một cái tội xem ra khá mù mờ – thế nên, theo Freud, tội nguyên thủy đó là tội giết cha, và tôn giáo đó là một dạng trá hình của một khát vọng về một người cha – nay đã đem đặt trên cao vời, thay thế cho người cha nguyên thủy đã bị giết, vốn trong một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp của những xà hội với tabu và tôtem, người cha đó đã được thay thế bằng con vật tôtem cho toàn thị tộc. Ngày nay, con người đã tiến hóa, xã hội đã văn minh, chúng ta đã mất xã hội nguyên thủy, hình ảnh con người sơ khai đó không còn nữa; nhưng trong tâm lý con người – hay của một số người, của một văn hóa nhất định - ở đây là xã hội phương Tây, khởi nguyên đã pha trộn văn hóa với các dân tộc Trung Đông; người cha đó vẫn mãi mãi được cảm nhận là một cần thiết, trong vai trò đỡ đầu, tha thứ, hướng dẫn, bảo bọc cho đám con cái khổ đau, chúng sống giữa đời người vẫn tràn đầy những bất công, thất bại, giữa người đời vẫn bệnh tật, bất toàn, trong những tổ chức con người ngày càng phản tự nhiên. Và trước những thất bại, những bất toàn đó, đám con vẫn cần có chốn để đến khóc than, tìm an ủi; hay van xin tha thứ những lỗi lầm cả thực lẫn không thực; hay cầu nguyện những bảo bọc, hy vọng những ân huệ cho những tham lam vốn tự thân không bao giờ thỏa mãn được cho đủ. Và để nhận một lời hứa hẹn linh thiêng về một cõi không thực không thể biết – đằng sau cái chết không thể tránh. Thất bại, bất toàn, cái chết là những thực tại vật lý. Hình ảnh một người cha Gót cao vời, chân dung một đứa con ông xuống trần cứu chuộc anh em - là những thực tại tâm lý, chúng là những ảo tưởng do một hệ thống tôn giáo dựng lên, đáp ứng nhu cầu tâm lý của con người, khiến những nhu cầu tâm lý đó được thỏa mãn, những tín đồ chỉ phải trả với giá đánh đổi là một lòng tin cao thượng tinh khiết thiêng liêng, nhưng thực sự là sự nô lệ tinh thần đen tối, là “Mea culpa” – Như một tội nhân phủ phục xuống thật thấp, thú tội với cuộc đời này “Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi đàng!” để mong được tha bổng, được lên “nước thiên đường” thật cao, ở đời sau – Chúng không thực, nhưng mạnh mẽ, và sống động, và tồn tại, vì thế. Con người rất đỗi tầm thường, rất đáng thương, khiếp sợ cái chết, ở đây chỉ biết ôm lấy ảo tưởng mù lòa của chính mình.

Con người sơ khai không còn, nhưng tâm lý con người sơ khai đó vẫn còn, nên tôn giáo như thế vẫn còn, tâm lý thời mông muội, nếu “ăn thịt uống máu” một ai thì được đồng hóa, sẽ có sức mạnh hay nhiễm được tinh thần của kẻ ấy, tâm lý ấy vẫn còn, vẫn tồn tại đến ngày nay, chỉ chuyển dạng sang hình thức mới là “ăn bánh nếm rượu hiệp thông”; nên tôn giáo như thế thực sự chỉ là hiện tượng xã hội thể hiện tâm lý của những người bị loạn nơ rô tập thể.

Những quan niệm và ngay cả phần lớn những khám phá trong những ngành khảo cổ học, nhân loại học, nhân chủng học trong thời của ông; đến nay, sau gần hai thế kỷ, hầu như đã được đánh giá lại, hoặc thay đổi gần hết; nhưng thành tựu của Freud cô đọng trong một giả thuyết hết sức quan trọng trong tư tưởng của ông, giả thuyết đó vẫn còn sắc bén như lúc đầu ông đã dùng nó ở đây, như một con dao giải phẫu cơ bản để mổ xẻ, phê phán tôn giáo – xem nó là một hiện tượng xã hội – với tâm lý tập thể tương ứng - ông phơi mở cho chúng ta thấy nội dung cốt lõi của nó là khái niệm về Gót:

“Gót trong mọi trường hợp thì được mô hình theo người cha, và quan hệ cá nhân của chúng ta với gót thì tùy thuộc trên quan hệ của chúng ta với người cha bằng xương bằng thịt của chúng ta, luôn biến động và thay đổi với ông ta, và rằng gót, ở dưới đáy cùng, thì không là gì khác nhưng chỉ là một người cha cao vời”.

Chúng ta đều mặc nhiên nhìn nhận những tôn giáo do con người tạo ra, chúng ta nhìn quanh sẽ thấy những tôn giáo khác biệt tồn tại vì những nhu cầu tâm lý khác biệt của con người. Freud nhắc chúng ta thêm – Cốt lõi của tôn giáo – cụ thể là những tôn giáo độc thần Abraham - là một khái niệm  - khái niệm đó là Gót - và Gót cũng là một sản phẩm của con Người. Lịch sử cho chúng ta thấy có những thế lực, những tổ chức, muốn chúng ta quên đi sự kiện này.

5.
Trong tập sách này - Tôtem và Tabu  - có thể nói xoay quanh hình ảnh người cha bạo ngược, ghen tương, dâm dục đó, ông cho chúng ta thấy đã bị đám con lật đổ, giết chết, ăn thịt uống máu như thế nào trong xã hội nguyên thủy, để sau đó kéo dài cho đến nay đã ngàn năm, chúng dựng tượng, lập nhà thờ, thống hối tôn kính ông – Totem and Taboo cho chúng ta giải thích lịch sử của ông về nguồn gốc tôn giáo. Khái niệm đó Freud sẽ mở rộng sau này trong Tương lai của một Ảo tưởng (The Future of an Illusion); trong đó ông đưa thêm một giải thích khác về nguồn gốc tôn giáo, có thể gọi là giải thích tâm lý. Tôn giáo chắn đường tiến bộ của nhân loại, nô lệ tinh thần con người; trong bản chất là sản phẩm của vô thức, phóng chiếu của ảo ảnh. Nên tôi giới thiệu ở đây, trước hết, tiểu luận cuối cùng, Hệ tin tưởng tôtem tái diễn trong Tuổi thơ - dài nhất và quan trọng nhất trong Tôtem và Tabu này, vì sự liên hệ của nó, và để xem như phụ lục cho tập Tương lai của một Ảo tưởng tôi đã dịch và giới thiệu trước đây.

Lê Dọn Bàn
(Mar/2012)