Tuesday, August 23, 2011

Robert Frost - Dăm bài Thơ ngắn

Robert Frost - Dăm bài Thơ ngắn

Acquainted with the night.
Fire and Ice
Acceptance
Desert Places
Nothing Gold Can Stay
Birches





Lời Frost nói về thơ, theo ông, “Một bài thơ … bắt đầu với một ứ đọng trong cổ, có cái gì đó sai, không phải;  một nỗi nhớ nhà, một nỗi nhớ tình. Nó là một vươn ra đến sự diễn tả; nó là một cố gắng tìm sự thực hiện trọn đầy. Một bài thơ toàn vẹn là một bài trong đó một xúc cảm tìm thấy tư tưởng, và tư tưởng tìm thấy những lời, những chữ”. (“A poem...begins as a lump in the throat, a sense of wrong, a homesickness, a lovesickness. It is a reaching-out toward expression; an effort to find fulfillment. A complete poem is one where an emotion finds the thought and the thought finds the words”.)


1.
Đã quen với đêm

Tôi đã từng là một người quen với đêm.
Tôi đã ra đi trong mưa - và đã về lại trong mưa.
Tôi đã đi quá khỏi ánh sáng xa nhất của thành phố
Tôi đã nhìn xuống đường phố buồn nhất.
Tôi đã đi qua người gác đêm trong ca tuần
Và tôi nhắm mắt, vì không muốn giải thích.


Tôi đã đứng bất động và đã ngừng tiếng chân
Khi từ thật xa tiếng kêu chen đến
Vượt qua khu nhà từ một đường phố khác,

Nhưng không gọi tôi trở lại hoặc nói giã biệt;
Và còn cao nữa ở chiều ngoài trái đất,
Ô chiếc đồng hồ sáng dựng bầu trời

Tuyên đòi thời gian là không sai cũng chẳng đúng.
Tôi đã từng là một người quen với đêm.

(Lê Dọn Bàn tạm dịch)
Robert Frost
(West-Running Brook -1928)


(Acquainted with the night.

I have been one acquainted with the night.
I have walked out in rain -- and back in rain.
I have outwalked the furthest city light.
I have looked down the saddest city lane.
I have passed by the watchman on his beat
And dropped my eyes, unwilling to explain.

I have stood still and stopped the sound of feet
When far away an interrupted cry
Came over houses from another street,

But not to call me back or say good-bye;
And further still at an unearthly height,
O luminary clock against the sky

Proclaimed the time was neither wrong nor right.
I have been one acquainted with the night.)

Một người đi cô độc trong đêm – không ai gọi từ sau – không ai chờ từ trước - không nói được với ai.
Trên cao là vầng trăng – thành phố chỉ mình ông – ông không đòi (kéo dài) thời gian đâu, không đòi phải có một thời gian đúng với mình – không, chỉ riêng ông thôi; ông chỉ là một người đã quen với bóng tối, với một mình, với u uẩn không nói được cùng ai. Lạc lõng là chốn này, không phải thời gian, vì - cùng thời gian, vẫn còn một mảnh trăng, nhưng ngoài không gian vời vợi kia 

Bài thơ buồn –  mang hình ảnh chính đời ông, đi mãi trong đêm như một kẻ không nhà.
Trăng khuya là chút thiên nhiên duy nhất của bài thơ, xót lại từ thơ ấu, nhưng với ông, giờ đây xa quá, không thuộc về trần gian này. 


2.
Lửa và Băng

Một số người nói thế giới sẽ tận cùng trong lửa,
Một số người nói trong băng giá.
Với những gì tôi đã nếm từ dục vọng
Tôi theo những người ủng hộ lửa.
Nhưng nếu phải chịu tàn hoại hai lần,
Tôi nghĩ tôi biết đủ về sự thù ghét
Để nói rằng với băng giá hủy diệt
Cũng là tuyệt
Và đủ.

(Lê Dọn Bàn tạm dịch)
Robert Frost
(New Hampshire - 1923)

(Fire and Ice
Some say the world will end in fire,
Some say in ice.
From what I've tasted of desire
I hold with those who favour fire.
But if it had to perish twice,
I think I know enough of hate
To say that for destruction ice
Is also great
And would suffice.)

Không bàn luận về thế giới như các nhà vật lý, hay tôn giáo (quả đất sẽ chấm dứt nguội lạnh hay nóng nổ tung); Frost nói về thế giới con người – nó có thể tận diệt trong lửa nóng dục vọng cháy, hay chết lạnh trong căm ghét băng giá.

Thế giới như thể ông đã biết và sống trải, đã nếm mùi lòng người - tận cùng nào cũng có thể, cũng hay và và cũng đủ.

Ông là một người vô thần, đâu đó ông đã nói: “Tôi quay sang định nói với Gót về những tuyệt vọng của thế giới; nhưng việc vốn xấu lại khiến còn thành tệ hơn, tôi tìm thấy không có Gót trong đó” (“I turned to speak to God About the world's despair; But to make bad matters worse, I found God wasn't there”).


Đây có lẽ là bài thơ “tự do” hiếm hoi của Frost, vốn là người không làm nhiều thơ tự do, ông nói là viết thơ tự do cũng như – “đánh tennis với lưới bỏ xuống” (“Writing free verse is like playing tennis with the net down”). Theo tôi, bài thơ được nhắc nhở nhiều vì ý tưởng có phần mới lạ của nó. Nếu chép bài thơ thành văn xuôi – không có gì đặc sắc, nhất là bỏ đi chấm câu, xuống hàng, ba câu cuối mất hết sức mạnh, thành một câu nói thản nhiên tầm thường và không còn độc đáo - (Fire and Ice - Some say the world will end in fire,… To say that for destruction ice ís also great and would suffice.)


3.
Chấp Nhận

Khi trời tàn ném tia sáng ngược lên mây
Đương cháy và chìm xuống vực sâu bên dưới,
Thiên nhiên lặng im không nghe tiếng kêu lớn
xảy ra gì. Loài chim, ít nhất phải biết
Đó là bóng tối chuyển sang thay bầu trời.
Thì thầm một điều gì lặng yên trong ngực,
Một con chim bắt đầu nhắm một mắt mờ;
Hoặc chợt đã bắt kịp quá xa với tổ,
liệng thấp trên khu rừng, vài con lang thang
Vút nhanh đúng vừa kịp đến cây mình nhớ.
Nhiều nhất nó nghĩ, hay líu lo nhẹ nhàng “Yên rồi!
giờ hãy để đêm tối tất cả cho tôi.
Hãy để đêm thật đen tối cho tôi nhìn
Vào tương lai. Hãy để những gì sẽ là, là”.

(Lê Dọn Bàn tạm dịch)
Robert Frost
(West-Running Brook – 1928)

(Acceptance
When the spent sun throws up its rays on cloud
And goes down burning into the gulf below,
No voice in nature is heard to cry aloud
At what has happened. Birds, at least must know
It is the change to darkness in the sky.
Murmuring something quiet in her breast,
One bird begins to close a faded eye;
Or overtaken too far from his nest,
Hurrying low above the grove, some waif
Swoops just in time to his remembered tree.
At most he thinks or twitters softly, “Safe!
Now let the night be dark for all of me.
Let the night be too dark for me to see
Into the future. Let what will be, be.”)


Đâu đó, chính ông nói: “Luôn luôn xuôi thuận với những gì bạn phải chấp nhận. Nhận những gì được cho, rồi làm nó theo lối của bạn. Mục đích của tôi trong đời luôn luôn là giữ riêng những gì của tôi với dù gì đương xảy ra. Không nghịch: nhưng  thuận (với chúng) -  (Always fall in with what you're asked to accept. Take what is given, and make it over your way. My aim in life has always been to hold my own with whatever's going. Not against: with.)


4.
Những chốn sa mạc

Tuyết đương rơi và đêm đương rơi nhanh, ô, nhanh
Xuống một cánh đồng tôi nhìn lúc đi qua,
Và nền đất gần như phủ mịn dưới tuyết,
Trừ vài cỏ dại và gốc rạ cuối cùng còn thấy.

Khu rừng quanh nó có tuyết – nó là của chúng.
Tất cả những con thú trốn kín trong hang.
Tôi với đầu óc mông lung quá không kể;
Sự cô đơn bao gồm cả tôi không hay biết.

Và cô độc như thế đó, sự cô đơn ấy
Sẽ hiu quạnh hơn trước khi nó sẽ giảm bớt - 
Một vùng trống trắng tinh của tuyết trong tối tăm
Khống diễn tả, không có gì bày tỏ,

Chúng chẳng thể làm tôi lo sợ những trống không của chúng
Giữa những vì sao – không có loài người trên những vì sao
Tôi có nó trong tôi thật gần hơn nhiều với nơi tôi ở
Sợ hãi chính mình với những chốn sa mạc của riêng tôi.

(Lê Dọn Bàn tạm dịch)
Robert Frost
(A Further Range -1936)
  
(Desert Places
Snow falling and night falling fast, oh, fast
In a field I looked into going past,
And the ground almost covered smooth in snow,
But a few weeds and stubble showing last.

The woods around it have it—it is theirs.
All animals are smothered in their lairs.
I am too absent-spirited to count;
The loneliness includes me unawares.

And lonely as it is, that loneliness
Will be more lonely ere it will be less—
A blanker whiteness of benighted snow
With no expression, nothing to express.

They cannot scare me with their empty spaces
Between stars—on stars where no human race is.
I have it in me so much nearer home
To scare myself with my own desert places.)



Lời Frost:  “Với những người viết lớn, cũng chỉ có một khoảnh khắc ở đây và một khoảnh khắc ở kia” – Với bài thơ này, khoảnh khắc ở đây là tuyết rơi trắng cánh đồng mênh mông, khoảnh khắc ở kia là sa mạc trong lòng còn bao la hơn những khoảng trống giữa những vì sao.

Và khoảng trống chốn không người không thể nào đáng sợ bằng khoảng trống giữa con người, trong mỗi người.
Một người một mình giữa tuyết bao la và sa mạc trong lòng.

5.
Không gì vàng có thể ở lại.

Thiên nhiên xanh đầu tiên là vàng
Sắc nàng khó cầm giữ nhất
Lá nàng mới chồi là hoa
Nhưng thế chỉ một giờ thoáng qua
Rồi lá bớt nhạt thành lá
Nên thiên đường quị xuống thành thương tiếc
Nên bình minh chìm xuống thành ngày
Không gì vàng có thể ở lại .

(Lê Dọn Bàn tạm dịch)
Robert Frost
(New Hampshire - 1923)

(Nothing Gold Can Stay
Nature's first green is gold,
Her hardest hue to hold.
Her early leafs a flower;
But only so an hour.
Then leaf subsides to leaf.
So Eden sank to grief,
So dawn goes down to day.
Nothing gold can stay.)

Bài thơ tuy ngắn, nhưng có thể có rất nhiều diễn dịch – tuy nhiên Frost có nói “đừng có quá chắt ép để lấy ý của bài thơ”, “ý đúng thực là cái ý hiển nhiên nhất” ("Don't press the poem too hard.", "The real meaning is the most obvious meaning.") nhất là thơ của ông – ông muốn đơn giản và dễ hiểu, ông không làm thơ mà người đọc phải cần chú thích mới hiểu được. Vậy tôi chọn lối hiểu bài này cách thật hiển nhiên đơn giản nhất.

Vùng New England – và cả vùng Năm Hồ Lớn ở Bắc Mỹ - khi xuân về - sắc đầu tiên của cỏ cây là (xanh) lục đậm, dưới nắng xuân lộng lẫy, sắc ấy trông như hơi vàng. Bao giờ cũng vậy, giữa những thân cây khô trơ cành mùa đông vừa mới qua, tuyết còn chưa tan sạch, tôi cũng thấy sắc liễu chớm vàng nhìn từ rất xa. Và khi xuân mới về, mỗi nụ lá trên cành non là một đóa hoa, nói chung – Có những loại quen thuộc như những bụi Forthysia vàng báo xuân về, chúng ra hoa trước khi ra lá. Rồi Magnolia cũng chỉ ra hoa, chưa lá. Đây là một hiện tượng thiên nhiên đặc biệt của vùng này, và Frost là một người rất yêu thiên nhiên; cây cỏ, hoa lá, đất đá,... trong thơ ông được nói đến nhiều hơn con người.

Sau đó lá non như hoa thành lá xanh – như thiên đàng thành thương tiếc, như bình minh rực rỡ thành ngày tầm thường, không vàng nào giữ đọng mãi mãi. Frost dùng những “subsides, sank, goes down” chỉ sự đi xuống, mất mát, giảm giá, và đó có thể xem là một felix culpa – một sa ngã chăng? có thể! nhưng là một sa ngã may mắn hạnh phúc 


Chúng ta hiểu ông nói - Có thế mới có sự sống, có Thơ.
Ở đây, đời này.



6.

Những cây birch

Khi tôi thấy những cây birch cong sang trái và phải
Vắt ngang những đường cây thẳng và thẫm màu hơn,
Tôi thích nghĩ vài đứa trẻ đã từng đánh đu chúng.
Tuy nhiên, đánh đu không uốn cây nằm quằn xuống
Như những cơn bão băng đá làm. Thường bạn ắt phải đã nhìn thấy chúng
Đầy băng đóng một buổi sáng nắng mùa đông
Sau một cơn mưa. Chúng va lanh tanh vào nhau
Khi gió nhẹ nổi lên, và biến thành muôn màu
Lúc khuấy động làm nứt và rạn vỡ lớp đá đóng như men bọc chúng.
Không lâu sau đó, mặt trời ấm làm chúng trút sạch những vỏ pha lê
Vỡ vụn và đổ tung trên lớp tuyết dày -
Những đống thủy tinh vỡ giống như thế khi quét chúng đi
Bạn đã nghĩ rằng vòm trong của bầu trời đã đổ ụp xuống.

Những cây birch bị kéo hàng loạt xuống đám dương xỉ đã héo,
Và dường như chúng không gãy; mặc dù một khi chúng chúi xuống
Thật thấp lâu như thế, chúng không bao giờ tự thẳng lên nữa:
Bạn có thể thấy thân chúng cong trong rừng
Nhiều năm sau đó, lá chúng quét dài trên đất
Giống như những cô gái quì gối chống tay vung tóc
qua đầu họ ra đằng trước để hong khô dưới nắng mặt trời.

Nhưng tôi sắp sửa nói khi Sự Thật đột nhập
Với tất cả thực tế lạnh lẽo của nó về trận bão băng đá
Tôi thà thích hơn để có vài đứa trẻ đã uốn quằn chúng
Khi nó đi qua rồi đi về ngang để cho đàn bò ăn
Những đứa trẻ nhà quê quá xa thành phố không học chơi baseball,
Những đứa trẻ chỉ biết chơi những trò nó tự tìm thấy,
Mùa hè hay đông, và có thể chơi một mình.
Cây này qua cây kia nó đã chinh phục đám cây của cha mình
Bằng cách cưỡi đè chúng xuống như thế rồi rồi lại cứ thế nữa
Cho đến khi đứa trẻ tước hết cứng cỏi khỏi chúng,
Và không cây nào nhưng chỉ cành treo, không còn lại cây nào
Để đứa trẻ chinh phục. Nó đã học tất cả được có những gì
Để học về đừng có bắt đầu ném văng cây quá sớm
Và đừng có lôi cây như vậy cho đến
Rạp sạch xuống đất. Nó luôn luôn giữ thế thăng bằng của mình
Tới những cành ngọn, trèo lên một cách cẩn thận
Với cùng những gắng gỏi cẩn thận như bạn đã từng rót đầy một cái cốc
Đến tận vành miệng, và thậm chí cả quá trên vành miệng.
Sau đó, nó lao tung ra, chân trước, với một tiếng vun vút,
Vẫy đạp xuốt khi nó hạ thấp từ trên không đến mặt đất.

Như thế, chính tôi một lần đã là một trẻ đu những cây birch.
Và như thế tôi mơ về trở lại làm một.
Đó là khi tôi mệt mỏi với những cân nhắc,
Và cuộc đời thì quá giống như một khu rừng không lối
Trong đó mặt bạn bị bỏng và ngứa vì những bẫy lưới
Dăng vỡ ngang nó, và một mắt thì đương ứa nước
Vì một cành con chõi ra giữa khoảng không.

Tôi thích đi xa khỏi trái đất một thời gian
Và sau đó quay trở lại nó, và bắt đầu lại từ đầu.
Xin đừng có số mạng nào cố tình hiểu sai tôi
Rồi ban cho tôi một nửa những gì tôi ước và chộp tôi đi
Không cho quay trở lại. Trái đất là chỗ đúng cho tình yêu:
Tôi không biết chỗ nào có thể đi đến tốt hơn.
Tôi thích đi bằng cách trèo lên một cây birch,
Và trèo những nhánh đen cao đến tận một thân cây trắng như tuyết
Hướng tới trời cao, cho đến khi cây không có thể chịu được nữa,
trừ cách nhúng đầu nó thấp và đặt tôi xuống lại.
Thế sẽ là tốt cho cả hai vừa ra đi và trở về.

Người ta có thể làm tệ hơn là một người đánh đu với những cây birch.

(Lê Dn Bàn tm dch)
Robert Frost
(Mountain Interval.  1920)

(Birches
When I see birches bend to left and right
Across the lines of straighter darker trees,
I like to think some boy's been swinging them.
But swinging doesn't bend them down to stay
As ice-storms do. Often you must have seen them
Loaded with ice a sunny winter morning
After a rain. They click upon themselves
As the breeze rises, and turn many-colored
As the stir cracks and crazes their enamel.
Soon the sun's warmth makes them shed crystal shells
Shattering and avalanching on the snow-crust—
Such heaps of broken glass to sweep away
You'd think the inner dome of heaven had fallen.
They are dragged to the withered bracken by the load,
And they seem not to break; though once they are bowed
So low for long, they never right themselves:
You may see their trunks arching in the woods
Years afterwards, trailing their leaves on the ground
Like girls on hands and knees that throw their hair
Before them over their heads to dry in the sun.
But I was going to say when Truth broke in
With all her matter-of-fact about the ice-storm
I should prefer to have some boy bend them
As he went out and in to fetch the cows—
Some boy too far from town to learn baseball,
Whose only play was what he found himself,
Summer or winter, and could play alone.
One by one he subdued his father's trees
By riding them down over and over again
Until he took the stiffness out of them,
And not one but hung limp, not one was left
For him to conquer. He learned all there was
To learn about not launching out too soon
And so not carrying the tree away
Clear to the ground. He always kept his poise
To the top branches, climbing carefully
With the same pains you use to fill a cup
Up to the brim, and even above the brim.
Then he flung outward, feet first, with a swish,
Kicking his way down through the air to the ground.

So was I once myself a swinger of birches.
And so I dream of going back to be.
It's when I'm weary of considerations,
And life is too much like a pathless wood
Where your face burns and tickles with the cobwebs
Broken across it, and one eye is weeping
From a twig's having lashed across it open.
I'd like to get away from earth awhile
And then come back to it and begin over.
May no fate willfully misunderstand me
And half grant what I wish and snatch me away
Not to return. Earth's the right place for love:
I don't know where it's likely to go better.
I'd like to go by climbing a birch tree,
And climb black branches up a snow-white trunk
Toward heaven, till the tree could bear no more,
But dipped its top and set me down again.
That would be good both going and coming back.
One could do worse than be a swinger of birches.)


Khi  tác giả nhìn thấy những cây birch cong – một loại cây cao – lá thưa nhỏ - thân tương đối mảnh khảnh – đặc biệt có vỏ trắng mềm, thường thấy ở Bắc Mỹ - ông nghĩ chúng bị cong vì trẻ con đánh đu (chúng trèo lên tận ngọn cây, cây mềm cong oằn xuống thấp, dập dình, đợi khi gần đất, chúng nhảy xuống). Nhưng thực sự chúng bị cong vì mùa đông mưa tuyết đóng băng trĩu cây nặng.  Nhưng ông thích nghĩ về trò chơi trẻ con, những trẻ miền quê, cô độc, sống xa thành phố không biết chơi trò đánh bóng gậy (baseball) phổ thông, và lãng mạn- (lãng mạn của một thi sĩ Mỹ hiện đại) - ước mình trở lại trò chơi mà chính ông đã có lần làm đó.

Sau đó đưa đến những suy nghĩ về cuộc đời – như rừng không lối, đầy cạm bẫy – Tuy vậy, dù có lúc muốn bỏ đi xa, ai trong chúng ta không có lúc – muốn: “... đi xa khỏi trái đất một thời gian”, nhưng “sau đó quay trở lại nó, và bắt đầu lại từ đầu.” – vì ông vẫn muốn trở lại trần gian – Sự sống và Tình Yêu là ở đây – không tin vào một  thiên đường hứa hẹn nào cả. Và trong trò chơi này – đưa kẻ đu cây birch - ra khỏi rồi lại về mặt đất.

Bài thơ "Birches" là một thí dụ - hình ảnh bình thường của đời sống và tình cảm liên hệ đưa tới những suy nghĩ trong thơ Frost về cuộc đời. Những suy nghĩ cũng bình thường, nhưng không thiếu chiều sâu. Thí dụ khi ông nói mặt đất là đúng chỗ cho Tình Yêu  -“ Earth's the right place for love”, đó là một suy nghĩ thâm trầm không phải thoáng qua bất chợt, vì tình yêu không thể có ở chốn nằm ngoài thời gian – vì một cách nào đó tình yêu là thử thách với thời gian, chẳng hạn; và tình yêu phải cũng phải thể hiện qua máu thịt – qua sự sống – nghĩa là tại trần gian này. Thế nên, mong ra khỏi trần gian một chốc - là bình thường; rồi mong về lại trần gian cũng khá bình thường, nhưng lý do của ông có phần sâu xa, độc đáo. Thế nên, những suy nghĩ như thế của ông, chúng có thể được diễn giải rất nhiều cách, tôi xin nhường lại cho những tác giả khác. Bài thơ có nhiều hình ảnh – cái đẹp của trần gian, đá đóng băng trên cành cây long lanh như pha lê muôn màu dưới nắng sáng mùa đông, nhưng cái đẹp mong manh, chỉ cơn gió nhẹ là vỡ tan. Hình ảnh những cây birch (thân chúng trắng) cong thân như những người con gái quì xõa tóc, và cả hình ảnh cuộc đời như khu rừng không lối, chúng ta phải tự tìm lối mà đi, vướng bao nhiêu cạm bẫy, bỏng mặt đổ nước mắt. Và cả ảnh tượng đứa trẻ leo cây, đu cành, đón nhận những cảm xúc đến từ những phần kín đáo của thân xác, cũng có thể xem như ẩn những ý tình dục. Giới thiệu bài này, tôi chỉ muốn trình bày một quan niệm sáng tác của ông, như dẫn lời ông nói ở trên “ Một bài thơ toàn vẹn là một bài trong đó một xúc cảm tìm thấy tư tưởng, và tư tưởng tìm thấy những lời, những chữ”.  Nhân đó cũng nói thêm, tôi tìm đọc thơ ông, một phần vì trong thơ chúng ta ngày nay không có nhiều tư tưởng



Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Aug/2011)