Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần III. Triết học cổ thời sau Aristotle
Chương 29 – Đế quốc Lamã trong Quan hệ với Văn hóa
Đế quốc Lamã
đã ảnh hưởng lịch sử văn hóa, nhiều hơn hoặc ít hơn, trong nhiều thứ khác nhau,
và trong những cách riêng biệt.
Thứ
nhất: có ảnh hưởng trực tiếp của Rome trên tư tưởng Hylạp. Điều này không phải
là rất quan trọng, hay sâu xa.
Thứ hai:
ảnh hưởng của Hylạp và phương Đông vào một nửa phía tây của đế quốc. Điều này
là rất sâu xa và lâu dài, vì nó bao gồm cả đạo Kitô [1].
Thứ ba:
tầm quan trọng của hòa bình Lamã lâu dài trong khuếch tán văn hóa và trong sự
làm quen con người với ý tưởng về một văn minh duy nhất, kết hợp với một chính
phủ duy nhất [2].
Thứ tư:
việc truyền tải của nền văn minh Hylạp đến những tín đồ của Mohammed, và từ đó
cuối cùng là tới Tây Âu.
Trước
khi xem xét những ảnh hưởng này của Lamã, một tóm tắt rất ngắn gọn về lịch sử
chính trị sẽ là hữu ích.
Những
chinh phục của Alexander đã để phía tây Địa Trung Hải lại không bị ảnh hưởng;
vào đầu thế kỷ thứ ba TCN, hai đô thị nhà nước, Carthage và Syracuse, đã thống
trị vùng này. Trong chiến tranh lần thứ nhất và thứ hai của những cuộc chiến
Punic (264-241 và 218-201) [3], Rome
đã chinh phục Syracuse và đẩy Carthage giảm xuống thành không đáng kể. Trong
thế kỷ thứ hai, Rome chinh phục những chế độ quân chủ của Macedonia – còn Egypt,
đúng vậy, vẫn còn nán lại như một nước chư hầu cho đến cái chết của Cleopatra
(30 TCN). TâyBanNha đã bị chinh phục như là một sự ngẫu nhiên trong cuộc chiến
với tướng Hannibal; Caesar đã chinh phục Pháp vào giữa thế kỷ thứ nhất TCN, và
nước Anh đã bị chinh phục khoảng một trăm năm sau đó. Những biên giới của đế
quốc, trong những ngày huy hoàng của nó, là sông Rhine và sông Danube ở châu
Âu, sông Euphrates tại châu Á, và sa mạc ở Bắc Phi.
Chủ nghĩa đế quốc Lamã, có lẽ, ở cao điểm tốt đẹp
nhất của nó là tại Bắc Phi (quan trọng trong lịch sử đạo Kitô vì đó là quê
hương của những thánh chiên Cyprian và Augustine), những khu vực rộng lớn ở
đấy, trước đó không canh tác, và sau thời đế quốc Lamã, đã được đem lại màu mỡ
và cấp dưỡng hỗ trợ những đô thị đông dân. Đế quốc Lamã trên toàn bộ đã được ổn
định và hòa bình trong hơn hai trăm năm, từ khi Augustus (30 TCN) lên ngôi cho
đến những thảm họa ở thế kỷ thứ ba.
Trong
khi đó, hiến pháp của Nhà nước Lamã đã trải qua những phát triển quan trọng.
Ban đầu, Rome là một đô thị nhà nước nhỏ, Nhà nước, không phải là rất không
giống như những đô thị nhà nước của Hylạp, đặc biệt chẳng hạn như, giống như
Sparta, không phụ thuộc vào thương mại với bên ngoài. Những vị vua, giống như
trong Homer Hylạp, đã được kế tục bởi một nước cộng hòa quý tộc. Dần dần, trong
khi yếu tố quý tộc, thể hiện ở Thượng viện, vẫn mạnh mẽ, những yếu tố dân chủ
đã được thêm vào; kết quả thỏa hiệp được nhà Stoics Panaetius (quan điểm của
ông được Polybius và Cicero mô phỏng lại) xem như là một sự kết hợp lý tưởng
của quân chủ, quý tộc, và những yếu tố dân chủ. Nhưng chiến tranh chinh phục
đánh mất sự cân bằng mong manh, nó mang lại giàu có mới hết sức bao la vào lớp
thượng nghị sĩ, và ở một mức độ hơi thấp hơn, với những “hiệp sĩ”, như lớp
trung lưu tầng trên đã được gọi. Nông nghiệp ở đất Ý, vốn đã nằm trong tay của
những nhà tiểu nông trồng lúa bằng lao động của mình và của gia đình, đã đi đến
thành một vấn đề về bất động sản to lớn thuộc tầng lớp quý tộc Lamã, trong đó
nho và ô liu được trồng tỉa bằng sức lao động của nô lệ. Kết quả là sự toàn
năng thực sự của Thượng viện, được sử dụng không chút hổ thẹn để làm giàu cho
những cá nhân, không quan tâm gì đến lợi ích của Nhà nước, hay phúc lợi của dân
chúng của nó.
Một
phong trào dân chủ, do anh em nhà Gracchi [4] khởi đầu
trong nửa sau của thế kỷ thứ hai TCN, đã dẫn đến một loạt những cuộc nội chiến
và cuối cùng – giống như rất thường xảy ra ở Hylạp – đi đến sự thành lập một
chế độ “độc tài”. Đáng là hiếu kỳ tò mò để thấy sự lập lại của những phát
triển, trên quy mô rộng lớn như vậy, vốn ở Hylạp, đã được giới hạn vào một khu
vực nhỏ hơn. Augustus, người thừa kế và con trai nuôi của Julius Caesar, người
đã trị vì từ 30 TCN đến CN 14, chấm dứt xung đột dân sự bên trong, và (với số
ngoại lệ) những cuộc chiến viễn chinh ở bên ngoài. Lần đầu tiên kể từ những
khởi đầu của văn minh Hylạp, thế giới cổ đại được vui hưởng hòa bình và an
ninh.
Hai điều
đã làm hủy hoại hệ thống chính trị Hylạp: thứ nhất, tuyên đòi của mỗi đô thị
với chủ quyền tuyệt đối; thứ hai, những xung đột ác liệt và đẫm máu giữa giàu
và nghèo bên trong hầu hết những đô thị. Sau sự chinh phục Carthage và những
vương quốc Hylạp, điều đầu tiên của những nguyên nhân này đã thôi không còn ảnh
hưởng thế giới, bởi vì không kháng cự hiệu lực nào với Rome có thể có nữa.
Nhưng nguyên nhân thứ hai vẫn còn. Trong những cuộc nội chiến, một tướng quân
sẽ tự xưng mình là nhà bênh vực, chiến đấu cho Thượng viện, một tướng quân kia
là cho người dân. Chiến thắng đến với ai là người hứa thưởng công nhiều nhất
cho những người lính. Những người lính không chỉ muốn được trả tiền và cướp
bóc, nhưng chuyển nhượng đất đai, do vậy mỗi cuộc nội chiến kết thúc trong sự
trục xuất hợp pháp chính thức của nhiều chủ đất hiện giờ, những người trên danh
nghĩa là những người thuê đất của Nhà nước, để nhường chỗ cho những quân sĩ
trong đoàn binh của phe chiến thắng. Những chi phí của cuộc chiến, trong khi
tiến hành, được đài thọ bằng cách hành hình những người giàu và tịch thu tài
sản của họ. Hệ thống này, tai hại như vậy, không thể dễ dàng kết thúc; đến cuối
cùng, trước ngạc nhiên của tất cả mọi người, Augustus đã hoàn toàn chiến thắng
khiến không đối thủ nào còn lại để thách thức ông về quyền lực.
Đối với
thế giới Lamã, sự khám phá rằng thời kỳ của cuộc nội chiến đã kết thúc đã đến
như là một bất ngờ, nó là một nguyên nhân của vui mừng cho tất cả, ngoại trừ
một đám nhỏ thượng nghị sĩ. Đối với tất cả mọi người khác, đó là một nhẹ nhõm
sâu xa, khi Rome, dưới Augustus, cuối cùng đạt được sự ổn định và trật tự mà
những người Hylạp và những người Macedonia đã tìm cách nhưng vô hiệu, và chính
Rome, trước Augustus, cũng đã thất bại không đem lại được. Tại Hylạp, theo
Rostovtseff, cộng hòa Lamã đã “không đưa đến được gì mới, ngoại trừ sự phá sản,
sự bần cùng hóa và sự đình chỉ của tất cả những hoạt động chính trị độc lập” [5].
Triều
đại Augustus là thời kỳ hạnh phúc của đế quốc Lamã. Chính quyền của những tỉnh
cuối cùng đã được tổ chức với một số quan tâm đến phúc lợi của dân chúng, và
không phải trên một hệ thống thuần túy con người săn mồi ăn thịt lẫn nhau.
Augustus không chỉ chính thức được phong thần sau cái chết của ông, nhưng đã tự
phát được xem là một vị gót ở những đô thị khác nhau trong các tỉnh. Những nhà
thơ ca ngợi ông, những giai cấp thương mại tìm thấy nền hòa bình phổ quát là
tiện lợi, và thậm chí cả Thượng viện, vốn ông đối xử với tất cả những hình thức
bên ngoài của sự tôn trọng, đã không mất cơ hội để chất đống những danh dự và
chức vụ lên đầu ông.
Mặc dù thế giới đã hạnh phúc, nhưng một vài hương
vị đã mất, không còn với đời sống nữa, bởi vì sự an toàn đã được ưa chuộng hơn
sự phiêu lưu. Trong những thời trước đó, tất cả mỗi con người Hylạp tự do đã có
cơ hội của phiêu lưu; Philip và Alexander đã chấm dứt tình trạng này, và trong
thế giới Hylạp chỉ giới lĩnh đạo cầm quyền Macedonia mới được hưởng tự do không
phải chịu lệnh ai. Thế giới Hylạp đã mất sự trẻ trung của mình, và trở thành
hoăc là một trong hai: hoài nghi hay tôn giáo. Hy vọng của sự thể hiện những lý
tưởng vào trong những tổ chức trần thế đã bị mờ nhạt, và cùng với nó, những con
người tài giỏi nhất mất đi say mê của họ. Thiên đường, đối với Socrates, đã
thành là một nơi mà ông có thể tiếp tục tranh luận mãi, đối với những triết gia
sau Alexander, nó là một cái gì khác hơn so với sự hiện hữu của họ ở đây, dưới
này.
Tại
Rome, một sự phát triển tương tự đến muộn hơn, và trong một hình thức ít đau
đớn hơn. Rome đã không bị chinh phục, như Hylạp đã bị, nhưng, trái lại, đã có
sự phấn khích của chủ nghĩa đế quốc thành công. Trong suốt thời gian của những
cuộc nội chiến, chịu trách nhiệm cho những rối loạn là những người Lamã. Hylạp
đã không được bảo đảm hòa bình và trật tự bằng sự tùng phục Macedonia, trong
khi đó cả hai, Hylạp và Lamã đã được bảo đảm cả hai điều bằng sự tùng phục
Augustus. Augustus là một người Lamã, người mà hầu hết người Lamã tự nguyện
tùng phục, không chỉ trên lý
do về quyền lực cao cấp của ông, hơn nữa ông chịu hết mọi cách để che giấu
nguồn gốc quân sự của chính phủ của ông, và đặt cơ sở của nó trên những nghị
định của Thượng viện. Những nịnh nọt được Thượng viện thể hiện, không nghi ngờ
gì, phần lớn là không thành thật, nhưng bên ngoài giai tầng thượng nghị sĩ,
không có ai cảm thấy bị hổ thẹn.
Tâm
trạng của những người Lamã đã giống như của một jeune
homme rangétrong thế kỷ XIX ở Pháp, những người,
sau một cuộc sống phiêu lưu tình ái, ổn định xuống với một hôn nhân vì lý trí.
Tâm trạng này, mặc dù được hài lòng, không phải là sáng tạo. Những nhà thơ lớn
của thời đại Augustus đã được hình thành trong những thời nhiều khốn đốn khó
khăn hơn; Horace bỏ chạy tại Philippi, và cả ông cùng Vergil đã mất điền trang
của họ vì bị tịch thu cho quyền lợi của những người lính phe chiến thắng.
Augustus, vì lợi ích của sự ổn định, đặt định để làm việc, có phần nào không
thành thực, nhằm khôi phục lòng kính tín [6] cổ đại,
và vì thế nhất thiết đã phải có phần nào có ác cảm với nghiên cứu tự do. Thế
giới Lamã đã bắt đầu trở thành rập khuôn, và tiến trình đã tiếp tục dưới thời
những hoàng đế nối tiếp về sau.
Những vị
kế tục trực tiếp của Augustus đã đắm mình trong những tàn bạo kinh khủng với
những thượng nghị sĩ, và với những đối thủ có thể tranh dành ngôi hoàng đế. Đến
mức độ nào đó, những sự quản lý tồi tệ trong chính phủ của thời kỳ này lan rộng
đến những tỉnh, nhưng trong chủ yếu guồng máy hành chính do Augustus tạo ra, đã
tiếp tục hoạt động khá tốt đẹp.
Một giai
đoạn tốt đẹp hơn bắt đầu với sự lên ngôi của Trajan vào năm 98 CN, và tiếp tục
đến tận cái chết của Marcus Aurelius vào năm 180 CN. Trong thời gian này, chính
phủ của đế quốc cũng đã tốt đẹp như bất kỳ một chính phủ chuyên chế nào có thể
tốt đẹp được. Thế kỷ thứ ba, trái lại, là một thế kỷ của những thảm họa kinh
hoàng. Quân đội nhận ra sức mạnh của nó, đã đưa lên và giáng xuống những hoàng
đế để đổi lấy tiền của và hứa hẹn về một đời sống không chiến tranh, và hậu quả
là nó thôi không là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu. Những người “man rợ”[7], từ
phía bắc và phía đông, xâm chiếm và cướp phá lãnh thổ Lamã. Quân đội, vì bận
tâm với lợi lộc riêng tư và bất hòa dân sự, đã bất lực về quốc phòng. Toàn bộ
hệ thống tài chính bị đổ vỡ, bởi vì có một giảm thiểu lớn lao về tài nguyên, và
đồng thời, một gia tăng chi tiêu rộng lớn trong chiến tranh thua bại, và trong
hối lộ của quân đội. Bệnh dịch, cộng thêm với chiến tranh, đã làm suy giảm dân
số rất nhiều. Đã có vẻ như đế quốc đương sụp đổ đến nơi.
Kết quả
này đã tránh khỏi nhờ hai con người đầy khí lực mạnh mẽ, Diocletian (286-305
CN) và Constantine, người có triều đại không bị thách thức, kéo dài từ năm
312-337. Do hai người này, đế quốc đã được chia thành hai nửa: một phía đông và
một phía tây, tương ứng, khoảng chừng với sự phân chia giữa những vùng ngôn ngữ
Hylạp và Latinh. Do Constantine, kinh đô của nửa phía đông được thành lập ở
Byzantium, nơi ông cho tên mới là Constantinople. Diocletian đã kiềm chế quân
đội, trong một thời gian, bằng cách thay đổi tính cách của nó, từ thời của ông
trở đi, những lực lượng chiến đấu hữu hiệu nhất đã được cho bao gồm những dân
rợ, chủ yếu là người Đức, tất cả những chức vị tư lệnh cao nhất đã được mở rộng
với những người này. Điều này đã rõ ràng là một mưu chước nguy hiểm, và đến đầu
thế kỷ thứ năm, nó đã trổ quả tự nhiên của nó. Những người “man rợ” quyết định
rằng họ được nhiều lợi nhuận hơn nếu đánh nhau cho chính họ thay vì cho một ông
chủ Lamã. Tuy nhiên thủ đoạn này phục vụ mục đích của nó trong hơn một thế kỷ.
Cải cách hành chính của Diocletian thành công tương tự trong một thời gian, và
cũng tương tự, không kém tai hại về lâu dài. Hệ thống Lamã đã cho phép chính
quyền địa phương của những thị trấn tự chủ, và để những viên chức của họ thu thập
những loại thuế, trong đó chính quyền trung ương chỉ ấn định tổng số tiền thu
từ một thị trấn nào đó. Hệ thống này đã làm việc khá tốt trong những thời thịnh
vượng, nhưng bây giờ, trong tình trạng kiệt sức của đế quốc, yêu cầu thuế đã
quá cao hơn nhiều so với mức có thể được mà không có gian khổ quá mức. Những
nhà chức trách thành phố đã chịu trách nhiệm cá nhân về những khoản thuế, và đã
trốn chạy để thoát nợ thanh toán. Diocletian đã buộc những công dân giàu có dư
giả phải chấp nhận chức vụ của thành phố, và ra luật làm sự đào nhiệm là bất
hợp pháp. Từ những động cơ tương tự, ông chuyển dân cư nông thôn thành nông nô,
buộc chân họ với với mảnh đất đương cày cấy, và cấm di dân. Hệ thống này được
những hoàng đế sau này tiếp tục.
Đổi mới
quan trọng nhất của Constantine đã là sự chấp nhận đạo Kitô như là tôn giáo của
Nhà nước, hiển nhiên vì có một tỉ lệ lớn trong những binh sĩ đã theo đạo Kitô [8]. Hậu
quả của việc này đã là, trong thế kỷ thứ năm, khi những người Đức phá hủy đế
quốc Lamã phương Tây, thanh thế của nó đã khiến họ chấp nhận đạo Kitô, do đó
bảo tồn cho Tây Âu rất nhiều những gì của văn minh cổ đại như nó đã được Nhà
Thờ hấp thụ.
Sự phát
triển của vùng lãnh địa được giao cho nửa phía đông của Đế quốc đã khác biệt.
Đế quốc Đông, mặc dù liên tục bị thu giảm dần phạm vi (ngoại trừ những cuộc
chinh phục ngắn ngủi của Justinian vào thế kỷ thứ sáu), đã tồn tại đến tận năm
1453, khi những người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục Constantinople. Nhưng hầu hết những
gì đã là những tỉnh Lamã ở phía đông, bao gồm cả Châu Phi, và Tây Ban Nha ở
phía tây, đã trở thànḥ theo Islam. Những người ẢRập, không
giống như người Đức, bác bỏ tôn giáo, nhưng tiếp nhận văn minh, của những người
mà họ đã chinh phục. Đế quốc Đông đã là Hylạp, không phải Latin, trong văn minh
của nó; tương ứng theo đó, từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ mười một, nó là văn
minh Hylạp, và những người ẢRập là những người đã được bảo tồn văn chương Hylạp
và bất cứ những gì còn sống sót của văn minh Hylạp, như trái ngược với văn minh
Latin. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, lúc đầu tiên dã là thông qua ảnh hưởng
của Moorish, phía Tây (châu Âu) mới dần dần phục hồi những gì nó đã mất của di
sản Hylạp.
Bây giờ
tôi đi đến với bốn phương cách trong đó đế quốc Lamã đã ảnh hưởng trên lịch sử
văn hóa.
I. Tác
động trực tiếp của Rome trên tư tưởng Hylạp.
Điều này
bắt đầu trong thế kỷ thứ hai TCN, với hai người, sử gia Polybius, và triết gia
Stoics là Panaetius. Thái độ tự nhiên của Hylạp với Lamã đã là một thái độ của
khinh miệt có trộn lẫn sợ hãi, những người Hylạp cảm thấy mình văn minh hơn,
nhưng chính trị kém, không mạnh mẽ bằng. Nếu những người Lamã đã thành công hơn
trong chính trị, điều đó chỉ cho thấy rằng chính trị là một sự theo đuổi không
cao thượng. Người Hylạp trung bình của thế kỷ thứ hai TCN, đã là yêu lạc thú, nhanh
trí, thông minh trong kinh doanh, và phi đạo đức trong tất cả mọi sự việc. Tuy
nhiên, vẫn đã có những con người có khả năng về triết học. Một số những người
này – đặc biệt là những người phái hoài nghi, như Carneades – đã cho phép sự
thông minh phá hủy sự hệ trọng nghiêm trang. Một số, như những triết gia phái
theo Epicurus và một tầng lớp những nhà Stoics, đã rút lui toàn bộ về một đời
sống riêng tư im lặng. Nhưng một số ít, với cái nhìn sâu sắc hơn là của
Aristotle đã cho thấy trong quan hệ với Alexander, đã nhận ra rằng sự vĩ đại
của Rome là do những phẩm chất nhất định nào đó vốn những người Hylạp đã thiếu
xót.
Sử gia
Polybius, sinh tại Arcadia khoảng 200 TCN, đã bị gửi đến Rôma như một tù nhân,
và ở đó, đã có may mắn lớn trở thành bạn của Scipio người-trẻ-hơn [9], người
mà ông tháp tùng trong nhiều chiến dịch hành quân của vị tướng này. Đã không
phải là một điều phổ thông nếu có một người Hylạp biết tiếng Latin, mặc dù hầu
hết những người Lamã có học thức đều biết tiếng Hylạp; những cảnh ngộ của
Polybius, tuy nhiên, đã dẫn ông đến một hiểu biết thấu đáo tiếng Latin. Ông đã
viết, vì lợi ích của người Hylạp, lịch sử của những cuộc chiến tranh Punic cuối
cùng, vốn nó đã đem cho Rome khả năng để chinh phục thế giới. Sự ngưỡng mộ của
ông về hiến pháp Lamã, dù đã trở thành lỗi thời khi ông viết, nhưng cho đến
thời của ông, nó đã được so sánh rất thuận lợi, về sự ổn định và hiệu quả, với
những hiến pháp thay đổi liên tục của hầu hết những đô thị Hylạp. Người Lamã dĩ
nhiên đọc lịch sử của ông với thích thú, còn người Hylạp, không biết có như vậy
hay không, thì còn nhiều nghi ngờ.
Panaetius,
triết gia Stoics, đã được đã được xem xét trong chương trước. Ông là một người
bạn của Polybius, và, cũng như ông này, là một người được Scipio người-trẻ-hơn
đỡ đầu. Trong thời Scipio còn sống, ông thường xuyên ở Rome, nhưng sau cái chết
của Scipio, năm 129 TCN, ông ở lại tại Athens như là người đứng đầu của trường
phái những triết gia Stoics. (Ở tại) Rome vẫn có, những gì vốn Hylạp đã bị mất,
là hy vọng kết nối được với những cơ hội cho hoạt động chính trị. Tương ứng như
thế, học thuyết của Panaetius đã ít giống như của những người trong phái
Cynics, nhưng nhiều chính trị hơn là so với của những của Stoics sớm hơn trước
đó. Có lẽ sự ngưỡng mộ Plato mà những người Lamã có văn hóa cảm thấy đã ảnh
hưởng ông trong sự bỏ rơi những giáo điều chật hẹp của những người Stoics đi
trước ông. Trong hình thức rộng rãi hơn do ông và Posidonius kế nhiệm ông, đã
đem cho nó, học thuyết Stoicism có sức quyến rũ mạnh mẽ với những người quan
trọng hơn trong số những người Lamã.
Ở một
thời điểm muộn hơn về sau, Epictetus, mặc dù là một người Hylạp, đã sống hầu
hết đời của ông tại Rome. Rome đã cho ông hầu hết những minh họa của ông, ông
luôn cổ vũ con người khôn ngoan đừng có run sợ trước sự hiện diện của Hoàng đế.
Chúng ta biết ảnh hưởng của Epictetus trên Marcus Aurelius, nhưng ảnh hưởng của
ông với những người Hylạp thì khó khăn để dõi tìm.
Plutarch
(khoảng CN 46-120), trong Đời
của những người Hylạp và Lamã cao thượng [10], dõi
theo sự song hành giữa những con người nổi tiếng nhất của hai xử sở. Ông đã
sống một thời gian đáng kể ở Rome, và đã được hoàng đế Hadrian và Trajan tuyên
dương vinh dự. Ngoài tập Những
đời sống của ông,
ông đã viết nhiều tác phẩm về triết học, tôn giáo, lịch sử tự nhiên, và đạo
đức. Tập sách Đời
của những người Hylạp và Lamã cao thượng của ông
rõ ràng đã chú tâm để làm hoà hợp Hylạp và Lamã trong những tư tưởng của những
con người.
Trên
toàn bộ, ngoài những con người đặc biệt khác thường như thế, Rome đã tác động
giống như một thứ vi-khuẩn-chết-cây trên phần của đế quốc nói tiếng Hylạp. Tư
tưởng và nghệ thuật giống nhau, đều suy tàn. Cho đến tận cuối thế kỷ thứ hai
CN, đối với những người sung túc, đời sống đã là được tươi vui và thong thả dễ
chịu; không có động cơ khuyến khích cho sự hăng hái tích cực hơn, và ít có cơ
hội cho thành tựu lớn lao. Những trường phái triết học được nhìn nhận – Học
viện Plato (Academy), những triết gia Peripatetics [11], những
triết gia Epicurus, và những triết gia Stoics – tiếp tục tồn tại cho đến khi họ
bị hoàng đế Justinian đóng cửa trong năm CN 529, vì ông này theo đạo Kitô, đã
cố chấp. Tuy nhiên, không ai trong số này, cho thấy có bất kỳ sức sống nào
trong suốt thời gian sau Marcus Aurelius, ngoại trừ những người trong học phái
Tân-Plato (Neoplatonists) trong thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nhưng người mà
chúng ta sẽ xem xét trong chương kế tiếp, và những người này đã khó gọi là chịu
ảnh hưởng của Lamã. Hai nửa của đế quốc – Latin (Tây) và Hylạp (Đông) – càng
trở nên tách xa khác nhau; những kiến thức của Hylạp đã trở thành hiếm ở phía
Tây, và sau Constantine, ở phía Đông, Latin sống sót duy nhất trong pháp luật,
và trong quân đội.
II. Ảnh
hưởng của Hylạp và phương Đông trên Rome.
Ở đây có
hai sự việc rất khác nhau để xem xét: thứ nhất, ảnh hưởng của văn học, nghệ
thuật và triết học Hylạp với những người Lamã có văn hóa cao nhất; thứ hai, sự
lan rộng của những tôn giáo, và những mê tín dị đoan của những gì phi-Hylạp
trong khắp thế giới phương Tây.
(1) Đẩu
tiên, khi người Lamã tiếp xúc với người Hylạp, họ đã trở nên ý thức về chính họ
là tương đối còn dã man và thô kệch. Người Hylạp đã vô cùng vượt cao trên họ
trong nhiều những phương thức: trong sản xuất và trong kỹ thuật nông nghiệp;
trong những loại kiến thức vốn cần thiết cho một viên chức chính quyền tốt;
trong đàm thoại và nghệ thuật vui hưởng đời sống; trong nghệ thuật và văn học
và triết học. Chỉ có những điều duy nhất mà người Lamã đã vượt cao lên trên là
những chiến thuật quân sự và sự gắn kết chặt chẽ xã hội. Mối quan hệ của người Lamã
với người Hylạp đã là một-cái-gì-đó tương tự như của người Phổ với người Pháp,
trong những năm 1814 và 1815, nhưng đó đã chỉ là tạm thời, trong khi giữa Lamã
và Hylạp đã tồn tại trong một thời gian dài. Sau những cuộc chiến tranh Punic,
thanh niên Lamã ôm ấp một sự ngưỡng mộ đối với Hylạp. Họ đã học ngôn ngữ Hylạp,
họ đã sao chép kiến trúc Hylạp, họ đã thu dụng những nhà điêu khắc Hylạp. Những
vị thần Lamã đã được đồng nhất hoá với những vị thần Hylạp. Nguồn gốc Trojan
của người Lamã được đặt ra để tạo một kết nối với những huyền thoại Homer.
Những nhà thơ Latin thu nhận vận luật thơ Hylạp, triết gia La-tinh thừa tiếp
những học thuyết Hylạp. Cho đến tận cùng, Rome đã là thứ ký sinh trùng văn hóa
trên Hylạp. Những người Lamã đã không phát minh ra hình thức nghệ thuật nào,
không xây dựng một hệ thống độc đáo nguyên thủy triết học nào, và đã không tạo
được những khám phá khoa học nào. Họ đã tạo đường giao thông tốt, hệ thống hóa
điển lệ pháp luật, và quân đội thiện chiến; những phần còn lại họ trông vào Hylạp.
Sự Hylạp-hóa
của Rome đã mang theo nó một sự mềm dịu nhất định nào đó trong những cách cư
xử, vốn đáng ghê tởm với Cato Scipio người-cao-tuổi [12]. Cho
đến thời những cuộc chiến tranh Punic, những người Lamã đã là một đám dân quê,
với những đức tính và tật xấu của người nông dân: khắc khổ, cần cù, tàn bạo, cố
chấp, và ngu xuẩn. Đời sống gia đình của họ đã được ổn định và vững chắc, xây
dựng trên patria
potestas [13] ; phụ nữ
và thanh thiếu niên đã hoàn toàn vị lệ thuộc (người cha là chủ gia đình). Sự
tràn ngập của giàu có đột nhiên thay đổi tất cả điều này. Những điền trang nhỏ
biến mất, và dần dần được thay thế bằng những bất động sản khổng lồ, trong đó
sử dụng nô lệ lao động để thực hiện những loại khoa học mới về nông nghiệp. Một
giai cấp đông đảo gồm những thương nhân lớn dậy, và một số lượng lớn những
người làm giàu bằng cướp bóc, giống như những nhà triệu phú làm giàu ở xứ Ấn
trong thế kỷ mười tám của nước Anh. Phụ nữ, những người đã bị nô lệ về đạo
hạnh, trở thành tự do và phóng đãng vô hạnh; ly hôn đã trở thành phổ biến, người
giàu ngưng có con. Người Hylạp, những người đã trải qua phát triển tương tự như
thế trong những thế kỷ trước đây, đã được khuyến khích, bởi những thí dụ của Lamã,
về những gì những sử gia gọi sự phân rã của đạo đức. Ngay cả trong những thời
gian vô hạnh nhất của đế quốc, người Lamã trung bình vẫn nghĩ đến Rome như nơi
dương cao một tiêu chuẩn đạo đức tinh khiết hơn, ngược lại với sự tham nhũng,
suy đồi của Hylạp.
Ảnh
hưởng văn hóa của Hylạp vào Đế quốc Tây suy giảm nhanh chóng từ thế kỷ thứ ba
CN trở đi, chủ yếu là vì văn hóa nói chung bị suy đồi. Đối với điều này có
nhiều nguyên nhân, nhưng phải đề cập một nguyên nhân đặc biệt. Trong những thời
cuối cùng của đế quốc Lamã phương Tây, chính phủ đã là một chế độ độc tài quân
sự và càng ít che dấu trá hình hơn, không như trước nữa; và quân đội thường
chọn một vị tướng quân thành công như là hoàng đế; nhưng quân đội, ngay cả
trong những cấp bực cao nhất của nó, đã thôi không còn bao gồm những người Lamã
có văn hóa, nhưng gồm cả những dân bán khai, một-nửa-rợ, từ vùng biên cương.
Những người lính võ biền này đã không cần đến văn hóa, và coi những công dân
văn minh chỉ không hơn gì khác ngoài những nguồn thu thuế. Những tư nhân đã quá
nghèo để hỗ trợ cho được nhiều trong đường lối giáo dục, và Nhà nước coi giáo dục
không cần thiết. Hậu quả là ở phương Tây, chỉ có một ít người có học vấn lỗi
lạc khác thường còn tiếp tục học để đọc Hylạp.
(2)
Những tôn giáo và mê tín dị đoan có gốc phi-Hylạp, trái lại, với thời gian trôi
qua, dành được một chỗ đứng vững chắc và càng vững chắc hơn tại phương Tây.
Chúng ta đã thấy những chinh phục của Alexander đã đem giới thiệu như thế nào
vào thế giới Hylạp những tín ngưỡng của Babylon, Persia, và Egypt. Tương tự như
thế, những chinh phục của Lamã làm thế giới phương Tây quen thuộc với những học
thuyết này, và cũng quen thuộc với những học thuyết của những người DoThái và
những người Kitô. Tôi sẽ xem xét những gì liên quan đến DoThái và đạo Kitô ở
giai đoạn sau; giờ đây, tôi sẽ hạn chế mình càng nhiều càng tốt chỉ vào những
mê tín ở ngoài Kitô giáo [14].
Tại
Rome, tất cả mỗi giáo phái và tất cả mỗi giáo chủ tiên tri đều có đại diện, và
đôi khi dành được ưu đãi trong những giới chính phủ cao nhất. Lucian, người
đứng đại diện cho chủ nghĩa hoài nghi lành mạnh, bất chấp sự nhẹ dạ tuổi tác
của ông, kể một câu chuyện vui, nói chung được chấp nhận rộng rãi như là sự
thật, về một vị tiên tri và người tạo phép lạ tên là Alexander Paphlagonian.
Người này chữa lành người bệnh, và tiên đoán tương lai, với những đâm thọc sang
tống tiền. Tên tuổi của ông lọt đến tai của Marcus Aurelius, lúc đó đương chiến
đấu với dân Marcomanni trên sông Danube. Hoàng đế hỏi ý kiến ông làm thế nào để
thắng cuộc chiến, và được bảo rằng nếu ném hai con sư tử xuống sông Danube, sẽ
cho kết quả là một chiến thắng lớn. Ông đã làm theo lời khuyên của nhà tiên
tri, nhưng đã là Marcomanni mới là những người chiến thắng lớn. Mặc dù rủi ro
này, tiếng tăm của Alexander tiếp tục lớn dậy. Một vị nắm chức chấp chính tối
cao Lamã lỗi lạc, Rutilianus, sau khi tham khảo ý kiến ông về nhiều điểm, cuối
cùng đã tìm lời ông này khuyên về việc chọn một người vợ. Alexander, cũng như
Endymion, được vui hưởng những ưu đãi xác thịt thầm kín của phái nữ, và bởi thế
đã có một người con gái, người mà lời tiên tri đẫ đề nghị với Rutilianus.
“Rutilianus, kẻ lúc ấy đã ở tuổi sáu mươi, tuân thủ ngay lập tức mệnh lệnh của
thần linh, và tưng bừng cử hành hôn nhân của mình bằng cách tế giết toàn bộ một
trăm trâu bò hy sinh [15] dâng
nhạc mẫu trên trời cao”.
Quan
trọng hơn sự nghiệp của Alexander Paphlagonian, là triều đại của hoàng đế
Elogabalus hay Heliogabalus (218-222 CN), là người, cho đến khi được quân đội
chọn đưa lên cao, là một thày tu thờ thần mặt trời Syria [16]. Trong
tiến trình chậm chạp của ông từ Syria đến Rome, chân dung của ông đã được gửi
đi trước, như một món quà cho Thượng viện. “Ông đã được vẽ trong áo khoác tăng
lữ của ông bằng tơ và vàng, theo thời trang mặc lối rộng, thả chảy dài như của
những người Medes và người Phoenicia; một vương miện cao ngất phủ đầu, rất
nhiều cổ áo và vòng tay của ông được trang trí với bảo ngọc vô giá. Lông mày vẽ
đen đậm, và má vẽ bằng sơn nhân tạo màu đỏ và trắng Những thượng nghị sĩ từ tốn
thú nhận với một thở dài, rằng sau khi đã có kinh nghiệm lâu dài về sự chuyên
chế khắc khổ của những đồng hương của mình, Rome đã khiêm nhường quá thấp dưới
sự sang trọng ẻo lả của chế độ chuyên quyền phương Đông” [17]. Được
ủng hộ của một thành phần lớn trong quân đội, ông tiến hành với nhiệt tình
cuồng tín, để giới thiệu những thực hành tôn giáo của phương Đông tại Rome, tên
của ông là tên của thần mặt trời thờ tại Emesa [18], nơi
ông đã là một thày tu tế trưởng. Mẹ của ông, hay bà của ông, người đã là vị cai
trị thực, nhận thấy rằng ông đã đi quá xa, và đã truất chức ông để ủng hộ cháu
trai của bà là Alexander (222-35) lên thay thế, vốn là người có thiên vị về
phương Đông nhưng có phần ôn hòa hơn. Sự hỗn hợp của những tín ngưỡng đã có thể
có được trong thời của ông đã được minh họa trong nhà nguyện riêng của ông,
trong đó ông đặt những tượng của Abraham, Orpheus, Apollonius của Tyana, và của
Christ.
Tôn giáo
thờ Mithras [19], vốn có
nguồn gốc Persia, đã là một đối thủ cạnh tranh ngang ngửa với đạo Kitô, đặc
biệt là trong nửa sau của thế kỷ thứ ba CN. Những hoàng đế, những người đã làm
những nỗ lực tuyệt vọng để kiểm soát quân đội, cảm thấy rằng tôn giáo có thể
đem lại một sự ổn định rất cần thiết như thế, nhưng nó sẽ phải là một trong
những tôn giáo mới, vì những binh sĩ ưa thích những tôn giáo này. Giáo phái này
đã được giới thiệu mở đầu tại Rome, và đã có nhiều thứ để đề nghị nó với não
thức quân sự. Mithras là một thần mặt trời, nhưng không ẻo lả nhu nhược như
đồng nghiệp Syria của ông, ông là một vị thần bận tâm về chiến tranh, cuộc
chiến lớn giữa thiện và ác, vốn nó đã là phần của tín ngưỡng của Persia kể từ
Zoroaster. Rostovtseff [20] hồi
phục một mảng tranh tường đắp nổi trình bày sự thờ phụng Mithras, đã được tìm
thấy trong một khu bảo tồn dưới lòng đất tại Heddernheim ở Đức, và cho thấy
những học trò của thần này phải có rất nhiều trong số những binh sĩ, không chỉ
ở phương Đông, nhưng cũng ở phương Tây.
Sự chấp
nhận đạo Kitô của Constantine đã thành công về chính trị, trong khi những nỗ
lực trước đó để đem vào giới thiệu một tôn giáo mới đã thất bại; nhưng những nỗ
lực trước đó, từ một quan điểm chính quyền, đã rất giống với của ông ta. Tất cả
đều giống nhau, đều rút được cơ hội của thành công của chúng từ sự bất hạnh và
mệt mỏi của thế giới Lamã. Những tôn giáo truyền thống của Hylạp và Lamã đã phù
hợp với những con người quan tâm đến thế giới trần gian, và hy vọng có sự hạnh
phúc trên mặt đất. Châu Á, với một kinh nghiệm dài lâu hơn với sự tuyệt vọng,
đã tiến hóa thành công hơn những thuốc hóa giải trong hình thức của những hy
vọng về thế-giới-khác; trong tất cả đám này, đạo Kitô đã là hiệu quả nhất trong
việc mang lại sự an ủi. Nhưng đạo Kitô, cho đến thời nó trở thành tôn giáo Nhà
nước, đã hấp thụ nhiều từ Hylạp, và truyền tải điều này, cùng với yếu tố của
đạo DoThái, đến những thời đại tiếp nối của phương Tây.
III. Sự thống
nhất của chính quyền và văn hóa.
Trước
tiên, chúng ta nợ Alexander, và sau đó đến Rome, khiến những thành tựu của thời
đại huy hoàng của Hylạp đã không bị mất với thế giới, như những gì của thời đại
Minoan. Trong thế kỷ thứ năm TCN, một Khan Genghiz, nếu một như đã xảy ra là
nổi lên, đã có thể xóa sạch tất cả những gì là quan trọng trong thế giới Hylạp;
Xerxes, nếu với một khả năng hơn chút nữa, đã có thể đã làm nền văn minh Hylạp
thấp kém hơn rất nhiều nếu so với những gì nó đã trở thành sau khi ông bị đẩy
lùi. Xem xét thời kỳ từ Aeschylus đến Plato: tất cả những gì đã được thực hiện
trong thời gian này, đã được thực hiện bởi một thiểu số dân chúng của một số
nhỏ những đô thị thương mại. Những đô thị này, như tương lai cho thấy, đã không
có khả năng lớn để chống trả những chinh phục từ bên ngoài, nhưng do một nhát
gươm may mắn đặc biệt khác thường từ những kẻ chiến thắng họ, người Macedonia
và người Lamã, đã là những người ái mộ Hylạp, và đã không phá hủy những gì họ
đã chinh phục, như Xerxes hoặc Carthage đã có thể làm. Sự kiện chúng ta quen
thuộc với những gì đã được những người Hylạp thực hiện trong nghệ thuật, và văn
học, và triết học, và khoa học là do sự sự kiên định giới thiệu của kẻ chinh
phục từ phương Tây. Những người đã có ý thức tốt để ngưỡng mộ nền văn minh mà
họ cai trị, nhưng đã làm hết sức tối đa của họ để bảo tồn.
Trong một
số khía cạnh nào đó, về chính trị và đạo đức, Alexander và những người Lamã đã
là những nguyên nhân của một triết lý tốt hơn so với bất kỳ triết lý nào những
người Hylạp đã tự nhận theo trong những ngày còn tự do của họ. Những nhà
Stoics, như chúng ta đã thấy, tin tưởng vào tình huynh đệ của con người, và đã
không giới hạn sự cảm thông của họ chỉ với những người Hylạp. Sự thống trị lâu
dài của Rome đã làm con người quen với ý tưởng về một nền văn minh duy nhất
dưới một chính phủ duy nhất. Chúng ta biết rằng có những phần quan trọng của
thế giới không phải là thuộc địa của Rome – đặc biệt hơn cả là India và nước
Tàu. Nhưng với những người Lamã dường như bên ngoài đế quốc, hoặc ít hay nhiều,
đã chỉ có những bộ lạc man rợ, những người có thể bị chinh phục bất cứ khi nào
nếu khi ấy là bõ công để nỗ lực. Về bản chất và trong ý tưởng, trong não thức
của người Lamã, đế quốc đã là toàn thế giới. Quan niệm này truyền xuống cho Nhà
Thờ, nên lấy tên là “Catô” [21], mặc dù
còn có Đạo Phật, Khổng giáo, và (sau này) Islam. Securus
judicat Orbis terrarium [22] là một
châm ngôn Nhà Thờ lấy từ những nhà Stoics thời sau, nó có được sự lôi cuốn của
nó từ sự phổ quát hiển nhiên của Đế quốc Lamã. Trong suốt thời Trung cổ, sau
thời của Charlemagne, Nhà Thờ và đế quốc thần thánh Lamã đã là toàn thế giới
trong ý tưởng, mặc dù mọi người đều biết rằng chúng đã không phải là như vậy
trong thực tế. Quan niệm về một gia đình nhân loại, một tôn giáo Catô, một nền
văn hóa hoàn vũ, và một nhà nước cho toàn thế giới, đã ám ảnh những suy nghĩ
của con người kể từ khi Rome thực hiện đã được gần như thế.
Phần
Rome đã đóng trong sự mở rộng diện tích của văn minh đã là quan trọng vô cùng.
Bắc Italy, Tây Ban Nha, Pháp, và những vùng miền tây nước Đức, đã văn minh như
là một kết quả của chinh phục bằng vũ lực của những quân đoàn Lamã. Tất cả
những khu vực này đã chứng minh bản thân chúng cũng có khả năng ở mức độ văn
hóa cao đúng như chính Rome. Trong những ngày cuối cùng của Đế quốc Tây, xứ
Gaul sản xuất những người đã ít nhất là ngang bằng với những người đương thời
của họ trong khu những vực có văn minh cổ hơn. Đó là do sự khuếch tán văn hóa
của Rome khiến những người man rợ chỉ tạo ra được nhật thực tạm thời, không
phải là đêm tối vĩnh viễn. Có thể tranh luận rằng chất
lượng của văn
minh đã không bao giờ tốt lại như ở Athens của Pericles, nhưng trong một thế
giới của chiến tranh và hủy hoại, về lâu dài, số lượng là gần như cũng quan
trọng như chất lượng, và số lượng đã là do Rome.
IV. Những
tín đồ Islam như cỗ xe chuyên chở của văn hóa cổ Hylạp.
Trong
thế kỷ thứ bảy, những môn đồ của đấngTiên tri [23] đã chinh
phục Syria, Egypt, và Bắc Phi, trong những thế kỷ tiếp sau, họ đã chinh phục
Tây Ban Nha. Họ đã dễ dàng chiến thắng, với chiến trận nhẹ nhàng. Ngoại trừ có
thể trong vài năm đầu tiên, họ đã không cuồng tín; Những tín đồ Kitô và DoThái
đã không bị quấy nhiễu, miễn là họ nộp cống lễ. Rất nhanh chóng, người ẢRập đã
tiếp thu văn minh của Đế quốc Đông, nhưng với sự hy vọng của một chính thể đi
lên thay vì của sự mệt mỏi của suy tàn. Những trí thức của họ đọc những tác giả
Hylạp qua bản dịch, và đã viết những bình luận. Danh tiếng của Aristotle chủ
yếu là do họ, trong thời cổ, ông đã không được xem là cùng một bậc với Plato.
Là thông
tin hữu ích để xem xét một số từ mà chúng ta lấy từ tiếng ẢRập, chẳng hạn như: algebra,
alcohol, alchemy, alembic, alkali, azimuth, zenith [24]. Với
ngoại lệ của “alcohol” – vốn nó có nghĩa, không phải một thứ đồ uống,
nhưng một chất được sử dụng trong hóa học – những từ này sẽ đưa ra một tấm ảnh
tốt về một số trong những sự vật chúng ta mượn của những người ẢRập. Đại số học
đã được người Hylạp ở Alexandria phát minh, nhưng đã được những người theo
Mohammed phát triển xa thêm nữa. “Thuật giả kim”, “nồi cất rượu”, “chất kiềm”
là những từ được kết nối với nỗ lực để biến những kim loại cơ bản thành vàng,
vốn những người ẢRập đã tiếp nhận từ những người Hylạp, và trong việc theo đuổi
đó họ đã bị triết học Hylạp lôi cuốn [25]. “Góc
phương vị” và “đỉnh cao đúng ngọ” là những thuật ngữ thiên văn học, chủ yếu là
hữu ích với những người ẢRập trong lieeh hệ với chiêm tinh học.
Phương
pháp từ nguyên đã che dấu những gì chúng ta nợ từ những người ẢRập về lĩnh vực
kiến thức của triết học Hylạp, bởi vì khi nó được nghiên cứu trở lại ở châu Âu,
những thuật ngữ kỹ thuật cần thiết đã lấy từ Hylạp hay Latin. Trong triết học,
người ẢRập đã là những nhà bình luận giỏi hơn là những nhà tư tưởng độc đáo. Sự
quan trọng của họ, đối với chúng ta, là chính họ, chứ không phải những người
Kitô, mới đã là những người thừa kế trực tiếp của những phần của truyền thống Hylạp,
vốn chỉ Đế quốc Đông đã giữ tồn tại. Tiếp xúc với những tín đồ Islam, ở Tây Ban
Nha, và đến một mức độ nhỏ hơn ở Sicily, đã làm phương Tây biết đến Aristotle,
cũng như biết về chữ số của ẢRập, đại số, và hóa học. Đã là từ sự tiếp xúc này
bắt đầu sự hồi sinh của nghiên cứu học thuật trong thế kỷ thứ mười một, dẫn đến
học thuật kinh viện (Scholastic). Phải chờ muộn hơn về sau, từ thế kỷ thứ mười
ba trở đi, nghiên cứu về Hylạp mới khiến có những người đủ khả năng để đi trực
tiếp tới những tác phẩm của Plato và Aristotle, và những tác giả khác của Hylạp
cổ đại. Nhưng nếu như người ẢRập đã không bảo tồn truyền thống, những con người
thời Phục Hưng có thể đã không băn khoăn tự hỏi sẽ gặt hái được nhiều đến đâu
bằng hồi sinh sự nghiên cứu về học thuật cổ điển.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(May, 2011)
[1] Ba tôn
giáo gọi chung là những tôn giáo Abraham – gồm DoThái, Kitô, và Islam đều phát
xuất từ phương Đông, chính xác là vùng Trung Đông, châu Á
[2] Người Hylạp đã rất tự hào là văn minh, xem tất cả các
dân tộc xung quanh là “man rợ” – dù đó là những dân tộc rất văn minh, có văn
hóa, kỹ thuật từ lâu đời và không thua kém gì họ, như Ai cập, và Persia. Sau
đó, Lamã tiếp nối quan điểm này, những ai, nhưng gì nằm ngoài biên cương của đế
quốc Lamã là “man rợ”; dù đó là những dân tộc có quân đội thiện chiến lần lượt
từng đánh bại Lamã : Germanic, Huns, Turks. Quan điểm đó, kéo dài đến tận nay;
trong các thế kỷ trước qua chế độ thực dân châu Âu, đi khắp thế giới mở thuộc địa
vì những lý do kinh tế, chính trị ,và đó đây tuyên xưng “sứ mạng truyền bá văn
minh” – như Pháp tại Đông dương; trong đó có các đoàn truyền giáo; hiện nay vẫn
tiếp tục đi khắp thế giới để gieo truyền tôn giáo của họ, mà họ tin là duy nhất
đúng, là “phổ quát” cho toàn nhân loại.
[3] Từ giữa thế kỷ 3 đến giữa thế kỷ 2 TCN, đô thị Carthage
(Bắc Phi-Tunisia) của những người Phoenician đã chiến đấu một loạt các cuộc chiến
tranh với Rome. Những cuộc chiến tranh, được gọi là các cuộc chiến tranh Punic,
kết thúc trong bại trận hoàn toàn của những người Phoenician; Rome triệt
hạ và san phẳng Carthage. Nổi tiếng nhất là tướng Hannibal củaCarthage.
[4] Anh em
nhà Gracchi: Tiberius và Gaius.
[5] CTTG – Lịch sử thế giới cổ đại, Vol. II, trang
255.
[6] Piety
[7] “man rợ” – trước đây trong thời Hylạp, chỉ những dân tộc,
quốc gia không-Hylạp, nay dưới thời đế quốc Lamã, chỉ những dân tộc, quốc gia
chưa bị, hay vẫn còn nằm ngoài biên cương chinh phục chính trị và văn hóa của
Lamã.
[8] CTTG – Xem Rostovtseff, Lịch sử
thế giới cổ đại, Vol. II, trang 332.
[9] Hai tướng quân của Rome trùng
tên: Scipio người-trẻ-hơn (185/184-129 TCN) – nổi tiếng trong cuộc chiến Punic
thứ ba– qua đó ông đã chiếm Spain.
Scipio người-già-hơn, (236-183 TCN), nổi tiếng
đã chiến thắng Hannibal trong trận chiến Zama (202 TCN), chấm dứt cuộc chiến Punic thứ
nhì.
[10] Lives of the Noble Greeks and Romans, thường được
gọi là Parallel Lives hay vắn tắt hơn Plutarch's Lives
[11] Peripatetic
hay Aristotelian – những triết gia trung thành với triết học Aristotle.
[12] Marcus
Porcius Cato (234- 49 TCN): Chính trị gia Lamã, phân biệt với một chính trị gia
nổi tiếng khác của Lamã là Cato người-trẻ-hơn, Marcus Porcius Cato Uticensis
(95 – 46 TCN) vốn là cháu nội của ông.
[13] “patria potestas” (Latin; “uy quyền của người
cha”) – Ở Lamã cổ đại,patria potestas là quyền
cá nhân hoặc quyền thống trị của một người cha đối với những người phụ thuộc
vào ông, đó là quyền mà người đứng đầu của một gia đình có trên tất cả vợ, con
cháu, và nô lệ, để phân biệt với quyền của chính quyền (được gọi là Imperium).
Khái niệm patria
potestas thiết yếu
là quyền tối thượng của gia trưởng – bao gồm quyền ra hình phạt từ thấp đến cao
như giết/đánh chết, hay kiểm soát, và xử lý – trong những thời cổ xưa hơn, chủ
hộ gia đình nói chung được phép thực hiện. Nó có gốc trên cơ sở đối tượng của
nhà nước là gia đình thay vì cá nhân. Thế nên, chủ gia đình có toàn quyền với những
người trong gia đình, và đồng thời chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi phạm
tội của các thành viên của gia đình, và do đó, nhà nước không can thiệp với ông
ta về sự thi hành kỷ luật của ông. Do đó, potestas thường
được sử dụng như là tương đương với jus hoặc đúng,
phải, những người là đối tượng của chủ gia đình, hoặc thuộc quyền của một
người khác, được cho là alieni
juris – và những
người không phải như thế là sui
juris, sinh sống với quyền riêng của mình.
[14] CTTG – Xem Cumont, Tôn
giáo phương Đông trong Ngoại giáo Lamã.
[15] hecatomb : Một lễ hy sinh cúng thần thời cổ Hy La, khởi
nguyên giết 100 trâu hay bò.
[16] Syrian
sun god.
[17] CTTG – Benn, Những triết gia Hylạp, Vol. II,
trang 226.
[18] god El-Gabal tại thành
Emesa.
[19] Mithraism là một
tôn giáo thần bí thịnh hành ở đế quốc Lamã trong các thế kỷ 2 và 3 CN. Ngày nay
không còn nữa, nên vẫn không biết nhiều về tôn giáo này, tín đồ thờ thần
Mithras, một vị thần mặt trời của xứ Persia.
[20] CTTG – Lịch sử thế giới cổ đại, II, trang
343.
[21] Từ “catholic” (gốc Latin “catholicus”, gốc từ Hylạp καθολικός
(katholikos), có nghĩa là “phổ quát” – “universal” – “trong toàn thể”,“theo như
toàn thể”, hay vắn tắt “trong tổng quát”. Trong Việt ngữ có nhiều cách giải
thích chủ quan – khi dịch từ này thành “công giáo” – để tránh điều ấy, tôi nghĩ
hãy phiên âm – “Catô” – thay vì dịch.
Sau khi được Constantine I thừa nhận
năm 311, đạo Kitô đợi đến triều đại Theodosius I (379-395) mới chính thức thành
tôn giáo hợp pháp (legal religion) của đế quốc. Kể từ thời điểm đó trở đi, Kitô là tôn giáo chính thức và hợp pháp duy
nhất, tất cả các tôn giáo khác bị tuyên xử là không hợp pháp, trái luật.
“It is our desire that all the
various nation which are subject to our clemency and moderation, should
continue to the profession of that religion which was delivered to the Romans
by the divine Apostle Peter, as it has been preserved by faithful tradition and
which is now professed by the Pontiff Damasus and by Peter, Bishop of
Alexandria, a man of apostolic holiness. According to the apostolic teaching
and the doctrine of the Gospel, let us believe in the one diety of the father,
Son and Holy Spirit, in equal majesty and in a holy Trinity. We authorize the
followers of this law to assume the title Catholic
Christians; but as for the others, since in out judgment they are foolish
madmen, we decree that they shall be branded with the ignominious name of
heretics, and shall not presume to give their conventicles the name of
churches. They will suffer in the first place the chastisement of divine condemnation
and the second the punishment of out authority, in accordance with the will of
heaven shall decide to inflict.” (Theodosian Code XVI.1.2) – Henry Bettenson,
ed., Documents of the Christian Church,
(London: Oxford University Press, 1943).
[22] “Securus judicat orbis terrarum”: “Phán xét vững
bền cho toàn thế giới” – “The secure judgment of the whole world" – chỉ sự
phán xét của hội nhà thờ Kitô.
[23] The Prophet – chỉ Muhammad
ibn ‘Abdullāh cũng có khi viết Muhammed hay Mohammed
[24] Trong Anh ngữ: – đại số, rượu, thuật giả kim, nồi cất rượu,
chất kiềm, phương vị, thiên đỉnh – Ở đây, Russell chỉ kể một vài điển hình phổ
thông nhất, thực ra còn rất nhiều hơn nữa (algorithm, guitar,
lute, nadir, tariff, zero, …)
[25] CTTG – Xem Alchemy, đứa con của Triết học Hylạp, bởi John
Arthur Hopkins, Columbia, năm 1934.