Sunday, May 23, 2010

Bertrand Russell - Lịch sử Triết học phương Tây (8)

Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây

Quyển Một – Triết học Cổ thời






Chương 9. Những triết gia của thuyết Atom (Atomists)

Những người sáng lập thuyết triết học Atom (atoms – atomism) [1] là hai vị, Leucippus và Democritus. Rất khó khăn mà tách gỡ họ ra, vì họ thường được nhắc đến cùng với nhau, và hiển nhiên có một số những công trình của Leucippus đã về sau được quy cho Democritus.

Leucippus, người dường như đã nổi tiếng khoảng 440 TCN [2], đến từ Miletus, và đã tiếp tục nền triết lý của những nhà duy lý khoa học được liên kết với thành phố này. Ông đã chịu nhiều ảnh hưởng từ Parmenides và Zeno. Quá ít ỏi được biết về ông, khiến Epicurus (một người đi theo Democritus, ở thời muộn hơn về sau) đã nghĩ đến gạt bỏ đi hoàn toàn sự hiện hữu của ông, và một vài người trong thời hiện đại đã trở lại lý thuyết này. Tuy nhiên, có một số nhắc nhở gián tiếp về ông trong Aristotle, và nó có vẻ khó tin rằng những điều này (trong đó bao gồm trích dẫn văn từ) đã có thể xảy ra, nếu ông đã chỉ đơn thuần là một huyền thoại.

Democritus là một khuôn mặt xác định hơn nhiều. Ông sinh quán ở Abdera tại Thrace; về phần niên đại của ông, ông đã phát biểu rằng vào lúc ông còn trẻ thì Anaxagoras đã già, nói khoảng năm 432 TCN , và ông đã được nhận như đã nổi tiếng khoảng 420 TCN. Ông đã du hành rộng rãi ở những vùng đất phương Nam, và phương Đông trong sự tìm kiếm kiến thức; ông có lẽ đã dành một thời gian đáng kể tại Egypt, và ông chắc chắn đã đi thăm Persia. Sau đó ông trở về Abdera, nơi đấy, ông ở lại. Zeller gọi ông là “vượt trên tất cả những triết gia trước đó và cùng thời, trong sự giàu có kiến thức, và nhất là trong sự chính xác và hợp lý của suy tưởng”.

Democritus đã là một người cùng thời với Socrates và những Sophists, và đáng lẽ ra, trên cơ sở thuần tuý biên niên, nên được bàn đến có phần về sau hơn trong lịch sử của chúng ta. Khó khăn là thật khó tách biệt ông với Leucippus. Trên nền đứng này, tôi xem xét ông trước Socrates và Sophists, mặc dù một phần triết lý của ông được đã chủ định như là một trả lời với Protagoras, người cùng thành phố với ông, và là người nổi tiếng lỗi lạc nhất trong những Sophists. Protagoras, khi ông viếng thăm Athens, đã được đón tiếp nhiệt tình; Democritus, mặt khác, nói: “Tôi đã đi Athens, và không ai biết tôi”. Trong một thời gian dài, triết lý của ông đã bị xem như không biết ở Athens; “không phải là điều rõ ràng,” Burnet nói, “rằng Plato đã có biết bất cứ điều gì về Democritus.... Aristotle, mặt khác, biết rõ Democritus; bởi vì ông cũng là một người Ionia từ phương Bắc” [3]. Plato không bao giờ đề cập đến ông trong những Đàm thoại (Dialogues), nhưng đã được Diogenes Laertius nói là vị này không thích ông ta nhiều đến muốn tất cả những sách của ông ta nên bị đốt. Heath kính mến ông rất cao như là một nhà toán học [4].

Những ý tưởng cơ bản trong triết lý chung của Leucippus và Democritus đã là từ vị kể trước, về phần khai thác nó ra chi tiết thì khó có thể tách biệt họ ra được, nhưng đối với những mục đích của chúng ta, điều ấy cũng không phải là quan trọng để cố làm thử. Leucippus, nếu không thì Democritus, đã được dẫn đến chủ thuyết Atom trong nỗ lực trung gian dàn xếp giữa thuyết Nhất nguyên và Đa nguyên, như tương ứng đã đại diện bởi Parmenides và Empedocles. Quan điểm của họ – thật xuất sắc đáng chú ý – đã giống như của khoa học hiện đại, và đã tránh được hầu hết những lầm lỗi vốn suy đoán Hylạp đã dễ ngả vào. Họ đã tin rằng tất cả mọi-thứ-gì-gì là tạo thành của những atoms, chúng không thể phân chia được về vật lý, nhưng không phải là không về hình học; rằng giữa những atoms có không gian trống; rằng những atoms không thể bị phá huỷ, rằng chúng đã luôn luôn, và sẽ luôn luôn, trong chuyển động; rằng có một số lượng vô hạn của những atoms, và thậm chí cả những loại của atoms, chúng có khác biệt chăng là về phần hình dạng và kích cỡ. Aristotle [5]khẳng định rằng, cứ như những nhà theo thuyết Atom, những atoms cũng khác biệt xét về phần nhiệt, những atoms hình cầu, mà chúng gồm lửa, là nóng nhất; và về phần trọng lượng, ông đã trích dẫn Democritus như nói rằng “Vượt quá càng nhiều bất kỳ mức không-thể-phân-chia, càng nặng hơn”. Nhưng câu hỏi – liệu atoms ban đầu có trọng lượng hay không trong những lý thuyết của những nhà theo thuyết atom – là một câu hỏi nhiều tranh luận.

Những atoms đã luôn luôn trong chuyển động, nhưng có bất đồng ý kiến giữa những nhà bình luận về phần tính cách của chuyển động nguyên thuỷ. Một vài người, đặc biệt là Zeller, chủ trì những atoms đã được nghĩ là luôn luôn rơi xuống, và rằng những cái nặng rơi nhanh hơn; như vậy, chúng bắt kịp những cái nhẹ hơn. đã có những va chạm, và những atoms bị chệch hướng như những banh billiard. Điều này chắc chắn là quan điểm của Epicurus, người trong hầu hết phương diện, đã dựa những lý thuyết của ông trên những của Democritus, trong khi cố gắng, có phần không thông minh lắm, đã lưu tâm về những phê bình của Aristotle. Nhưng có lý do đáng kể để nghĩ rằng trọng lượng không phải là một thuộc tính nguyên thuỷ của những atoms của Leucippus và Democritus. Xem ra có vẻ có thể hơn là, trong quan điểm của hai vị này, những atoms ban đầu di chuyển một cách ngẫu nhiên, như trong lý thuyết động lực hiện đại về những chất khí [6]. Democritus đã nói đã không có lên mà chẳng có xuống trong khoảng trống không vô hạn, và đã so sánh sự chuyển động của atoms trong linh hồn với của những hạt bụi cực nhỏ trong tia nắng khi không có gió. Điều này là một quan điểm thông thái hơn nhiều so với của Epicurus [7], và tôi nghĩ rằng chúng ta có thể giả định nó đã là của Leucippus và Democritus. [8]

Như kết quả của những xung đột va chạm, những nhóm kết tập những atoms trở nên tạo thành những khối lực cuốn xoáy. Phần còn lại đã tiến hành giống nhiều như trong của Anaxagoras, nhưng nó đã là một tiến bộ để giải thích những khối lực cuốn xoáy một cách cơ động, hơn là gán về hành động của não thức.

Trong thời cổ đai, đã là sự phổ thông để chê trách những nhà theo thuyết atom với sự kết gán tất cả mọi thứ gì-gì với sự ngẫu nhiên [9]. Về mặt ngược lại, họ đã là những người theo thuyết tất định [10] nghiêm ngặt, những người tin rằng tất cả mọi thứ sẽ xảy ra theo như quy định của những luật tự nhiên. Democritus đã phủ nhận một cách dứt khoát rằng không có bất-cứ-gì có thể xảy ra bởi ngẫu nhiên [11]. Leucippus, mặc dù sự hiện hữu của ông được đặt dấu hỏi, được biết là có nói một điều: “không-gì xảy ra cho không-gì, nhưng tất cả mọi thứ từ một nền tảng và của sự tất yếu “. Đúng là ông đã không cho lý do giải thích tại sao thế giới lúc ban đầu lại đã nên là như nó đã là; điều này, có lẽ, có thể đã được quy cho ngẫu nhiên. Nhưng một khi thế giới đã tồn tại, sự phát triển xa hơn nữa của nó đã không chuyển đổi, nhưng được bố trí bởi những nguyên lý cơ học. Aristotle và những người khác đã chê trách ông và Democritus, vì đã không giải thích về sự chuyển động ban đầu của những atoms, nhưng trong vấn đề này, những nhà theo thuyết atom này đã khoa học hơn so với những nhà phê bình họ. Quan hệ nhân quả phải bắt đầu từ một cái gì đó, và tại bất cứ chỗ nào đi nữa mà nó bắt đầu, không có nguyên nhân nào có thể được gán cho dữ kiện ban đầu. Thế giới có thể được quy về một kẻ Sáng tạo, nhưng dẫu thế nào rồi sau đó, tự thân kẻ sáng tạo, cũng không thể giải thích được vì sao mà chính kẻ này [12] lại có đây. Lý thuyết của những nhà theo thuyết atom, trên thực tế, đã gần như của khoa học hiện đại nhiều hơn bất kỳ lý thuyết nào khác đã đề xuất trong cổ thời.

Những nhà theo thuyết atom, không giống như Socrates, Plato và Aristotle, đã tìm cách giải thích thế giới mà không đưa ra khái niệm về cứu cánh, haynguyên nhân cuối cùng. Cái “nguyên nhân cuối cùng” của một chuyện xảy ra là một biến cố trong tương lai, vì tiện ích của những-gì trong đó chuyện xảy ra diễn ra. Trong công việc của con người, trong sinh hoạt nhân sinh, quan niệm này áp dụng được. Tại sao thợ làm bánh làm bánh mì? Bởi vì người ta sẽ đói. Tại sao đường sắt được xây dựng? Bởi vì người ta sẽ muốn đi du lịch. Trong trường hợp loại như vậy, những sự việc, những-gì được giải thích bởi mục đích mà chúng phục vụ. Khi chúng ta hỏi “tại sao?” liên quan đến một biến cố, chúng ta có thể hàm nghĩa một trong hai điều. Chúng ta có thể hàm nghĩa là: “Cái gì đã là cứu cánh cho biến cố này phục vụ?” hoặc chúng ta có thể hàm nghĩa là: “Những hoàn cảnh gì, tình huống nào trước đó đã gây ra biến cố này?” Câu trả lời cho câu hỏi kể trước là một lời giải thích theo thuyết cứu cánh [13], hay là một lời giải thích bằng những nguyên nhân cuối cùng; câu trả lời cho câu hỏi thứ hai là một lời giải thích có tính máy móc cơ học theo sinh hay vật lý [14]. Tôi không thấy làm thế nào mà có thể đã biết trước câu nào trong hai câu hỏi này khoa học nên hỏi, hỏi, hoặc phải chăng nên hỏi cả hai. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng những câu hỏi máy móc cơ học dẫn đến kiến thức khoa học, trong khi những câu hỏi theo thuyết cứu cánh thì không. Những triết gia thuyết atom đã hỏi câu hỏi máy móc cơ học, và đã đưa ra một câu trả lời máy móc cơ học. Những người tiếp sau họ, cho đến thời Phục Hưng, đã quan tâm nhiều hơn đến câu hỏi theo thuyết cứu cánh, và do đó đã dẫn khoa học về một ngõ hẻm mù loà.

Đối với cả hai câu hỏi như nhau, có một giới hạn vốn thường bị làm ngơ, cả trong suy nghĩ phổ thông và trong triết học. Không câu hỏi nào có thể được hỏi một cách dễ hiểu về thực tại như một toàn bộ (bao gồm cả Gót), nhưng chỉ về những phần của nó. Về phương diện giải thích theo thuyết cứu cánh, nó thường thường đi đến, không lâu gì, tại một kẻ Sáng tạo, hoặc ít nhất, một tay Thợ Khéo, mà những cứu cánh của nó được nhận thức trong tiến trình của Tự nhiên. Nhưng nếu như có một người cứ khăng khăng theo thuyết cứu cánh để tiếp tục hỏi cứu cánh nào là của kẻ Sáng tạo phục vụ cho, nó trở nên rõ ràng là câu hỏi của ông ta là không tín ngưỡng, vô đạo. Đó là, hơn thế nữa, không-ý nghĩa, bởi vì, để làm cho nó có ý nghĩa, chúng ta đã cần phải giả sử kẻ Sáng tạo đã được tạo ra bởi một vài đấng Siêu-Sáng tạo, vốn là cứu cánh mà Ông phục vụ. Khái niệm về cứu cánh, do đó, chỉ áp dụng trong vòng thực tại nội tại, mà không với thực tại như một toàn thể.

Một luận chứng không phải là không tương tự, áp dụng cho những giải thích cơ học máy móc. Một biến cố có nguyên nhân từ một cái khác, từ cái kia bằng một phần ba, vv. Nhưng nếu chúng ta hỏi một nguyên nhân gây ra toàn bộ, chúng ta một lần nữa bị đưa đẩy đến kẻ Sáng tạo, người mà chính Ông phải là không có nguyên nhân. Tất cả mọi giải thích về nguyên nhân, do đó, phải có một khởi đầu tùy tiện. Đó là lý do tại sao nó không có thiếu xót trong lý thuyết của những nhà atomists, họ để động cơ ban đầu của những atoms lại không giải thích ra sao.

Phải không nên giả định là những lý do của lý thuyết của họ đã là hoàn toàn duy nghiệm. Lý thuyết atoms đã được làm sống lại trong thời hiện đại để giải thích những sự kiện của hóa học, nhưng những sự kiện này người Hylạp đã không được biết. Đã không có sự phân biệt rất rõ nét, trong thời cổ đại, giữa những quan sát thực nghiệm và lý luận lôgích. Parmenides, đúng là vậy, đã xem những sự kiện quan sát được với khinh thường, nhưng Empedocles và Anaxagoras đã sẽ kết hợp nhiều siêu hình học của họ với những quan sát đồng hồ nước và xô nước xoắn. Cho đến những nhà Sophists, không có triết gia nào xem ra như đã nghi ngờ rằng một siêu hình học hoàn toàn và vũ trụ học có thể được thiết lập bởi một sự kết hợp giữa nhiều lý luận và một số quan sát. Bởi may mắn, những atomists đã nhấn vào một giả thuyết mà, hơn hai nghìn năm sau đó, đã tìm thấy được một số bằng chứng, nhưng niềm tin của họ, trong thời của họ, đã là không có sự thiếu thốn của bất kỳ nền tảng vững chắc nào [15].

Cũng giống như những triết gia khác của thời đại mình, Leucippus đã quan tâm để tìm một cách để hoà hợp những luận chứng của Parmenides với sự kiện hiển nhiên của chuyển động và thay đổi. Như Aristotle nói [16]:

“Mặc dù những ý kiến này [của những Parmenides] xuất hiện ra như tuân theo lôgích trong một thảo luận biện chứng, thế nhưng nếu tin vào họ có vẻ như là sống cạnh sự điên rồ, khi một người xem xét những sự kiện. Vì thực vậy, không có kẻ mất trí nào lại là bỏ xa những giác quan của mình khi giả sử rằng lửa (nóng) và băng (lạnh) là ‘một’: nó chỉ là giữa những gì là đúng và những gì có vẻ như đúng từ thói quen mà một số người đủ điên dại, để không thấy sự khác biệt”.

Tuy nhiên, Leucippus nghĩ rằng ông đã có một lý thuyết, nó đã hài hoà với nhận thức từ giác quan, và sẽ không bãi bỏ hoặc cái-sắp-đương-là và cái-đương-qua-đi, hoặc chuyển động và tính đa dạng của những sự vật. Ông thực hiện những nhượng bộ này trước những sự kiện của sự nhận thức: Mặt khác, ông nhượng bộ với những triết gia theo thuyết Nhất nguyên (Monists) rằng không thể có chuyển động mà không có một trống không. Kết quả là một lý thuyết mà ông phát biểu như sau: “Trống không là một không-tồn-sinh, và không có phần của những gì hiện là là một không-tồn-sinh; bởi vì cái-gì là theo nghĩa chặt chẽ của từ này là một khoảng đầy tuyệt đối. Tuy nhiên, khoảng đầy này không phải là một; trái lại, nó là một nhiều những vô hạn trong số lượng, và vô hình do sự cùng cực nhỏ bé của khối gộp chúng. Cái nhiều di chuyển trong trống không (bởi vì có một trống không): và do tiến đến lại với nhau, chúng sản xuất cái-sắp-đương-là, trong khi tách rời nhau, chúng sản xuất cái-đương-qua-đi. Hơn nữa, chúng hoạt động và bị động bất cứ khi nào chúng có cơ hội để tiếp xúc được (bởi vì ở đấy chúng không phải là một), và chúng tạo ra bởi được đặt cùng bên nhau và trở thành quấn bện vào nhau. Về mặt khác, từ cái một đích thực, sẽ không bao giờ có thể đến được một sự vô số, cũng không thể có được từ nhiều một cái mộtđích thực: đó là một điều bất khả”.

Sẽ được nhìn thấy rằng có một điểm trên đó tất cả mọi người cho đến nay đã đồng ý, cụ thể rằng không có thể có chuyển động trong một khoảng đầy. Trong điều này, tất cả như nhau đều đã bị tưởng lầm. Có thể có chuyển độngxoay vòng cuốn (cyclic) trong một khoảng đầy, với điều kiện là nó đã luôn luôn có mặt. Ý tưởng là một cái-gì chỉ có thể di chuyển vào một nơi trống, và rằng, trong một khoảng đầy, không có những chỗ trống. Nó có thể dám cho rằng, có lẽ một cách hợp lệ, rằng chuyển động không bao giờ có thể bắt đầutrong một khoảng đầy, nhưng nó không thể được duy trì một cách hợp lệ rằng nó không thể xảy ra gì hết tất cả. Đối với người Hylạp, tuy nhiên, nó đã có vẻ rằng một người một trong hai hoặc phải mặc nhận trong thế giới không biến đổi của Parmenides, hoặc chấp nhận cái trống không.

Bây giờ những luận chứng của Parmenides đối nghịch với không-tồn-sinh đã xem ra không thể bác cách hợp lệ được đối nghịch với trống không, và chúng đã được làm mạnh thêm bởi sự phát hiện rằng, nơi có vẻ là không có gì lại có không khí. (Đây là một thí dụ về hỗn hợp nhầm lẫn của lôgích và quan sát, vốn đã được phổ biến) Chúng ta có thể đặt những vị thế của phe Parmenidean theo cách này: “Bạn nói rằng có trống không, thế nên trống không là không không-có-gì, do vậy nó không phải là trống không”. Không thể nói rằng những nhà atomists đã trả lời luận chứng này; họ đơn giản đã chỉ tuyên bố rằng họ đã đề nghị làm ngơ bỏ qua nó, trên nền tảng là chuyển động là một sự kiện của kinh nghiệm, và do đó phải có một trống không, mặc dù cho có thể khó khăn đến mấy để hình tượng ra nó [17].

Chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử tiếp theo của vấn đề này. Cách đầu tiên và rõ ràng nhất để tránh những khó khăn lôgích là phân biệt giữa vật chất vàkhông gian. Theo quan điểm này, không gian không phải là không có gì, nhưng về tính chất tự nhiên của một chỗ chứa đựng, mà có thể hoặc không thể có bất kỳ một phần nhất định nào được làm đầy với vật chất. Aristotle nói (Vật lý, 208 b):

“Lý thuyết rằng trống không hiện hữu liên quan đến sự hiện hữu của không gian: vì một người có thể định nghĩa trống không như là không gian lấy mất đi vật thể”. Quan điểm này được đặt ra với sụ rõ ràng tối đa của Newton, người đã khẳng định sự hiện hữu của không gian tuyệt đối, và theo đó phân biệt tuyệt đối với chuyển động tương đối. Trong sự tranh cãi Copernicus, cả hai bên (mặc dù rất ít mà họ đã có thể đã nhận thức ra nó) đã cam kết với quan điểm này, bởi vì họ nghĩ rằng đã có một sự khác biệt giữa nói “bầu trời xoay từ Đông sang Tây” và nói rằng “trái đất quay từ Tây sang Đông” . Nếu tất cả những chuyển động là tường đối, hai mệnh đề này là chỉ đơn thuần là hai cách nói khác nhau về cùng một điều, như “John là cha đẻ của James” và “James là con trai của John”. Nhưng nếu tất cả chuyển động là tương đối, và không gian là không-thực-thể, chúng ta bị bỏ lại với những luận chứng Parmenidean chống lại trống không trên tay chúng ta.

Descartes, mà những luận chứng của ông cũng cùng một loại đúng như của những triết gia Hylạp ban đầu, nói rằng, sự mở rộng là yếu tình của vật chất, và do đó có vật chất ở khắp mọi nơi. Đối với ông, mở rộng là một phẩm từ, không phải là một danh từ; danh từ của nó là vật chất, và với không có danh từ của nó, nó không thể tồn tại. Không gian trống không, đối với ông ta, là phi lý ngớ ngẩn như hạnh phúc mà không có một chúng sinh đang được hạnh phúc. Leibniz, trên những nền tảng có phần khác nhau, cũng tin vào khoảng đầy, nhưng ông đã duy trì rằng không gian chỉ đơn giản là một hệ thống của những mối quan hệ. Về chủ đề này đã có một tranh cãi nổi tiếng giữa ông và Newton, người sau đại diện bởi Clarke. Tranh cãi vẫn đã chưa quyết định cho đến tận thời của Einstein, mà lý thuyết của ông này đã đem lại kết luận chiến thắng cho Leibniz.

Nhà vật lý học hiện đại, trong khi ông vẫn tin tưởng rằng vật chất là trong một ý nghĩa nào đó là kết cấu atom, không tin vào không gian trống không. Trường hợp không có vật chất, vẫn có môt-cái-gì đó, đáng chú ý là những sóng-ánh-sáng. Vật chất không còn có tư cách cao cả mà nó giành được trong triết lý thông qua những luận chứng của Parmenides. Nó không phải là một thực thể không biến đổi, nhưng chỉ đơn giản là một cách của sự kết nhóm những biến cố. Một số biến cố thuộc về những nhóm có thể được coi là những-gì vật chất; những cái khác, chẳng hạn như sóng-ánh sáng, thì không. Chính là những biến cố mà chúng là cái chất liệu của thế giới, và mỗi một chúng là trong một khoảng thời gian ngắn. Trong phương diện này, vật lý hiện đại là ở cùng phía với Heraclitus, như chống lại với Parmenides. Nhưng nó đã ở phía của Parmenides cho đến khi có Einstein và lý thuyết quantum.

Về phần không gian, quan điểm hiện đại là – nó không phải là một thực thể, như Newton đã duy trì, và như Leucippus và Democritus phải nên đã nói, cũng không phải là một phẩm từ của một vật thể mở rộng, như Descartes đã nghĩ, – nhưng là một hệ thống của những quan hệ, như Leibniz đã chủ trương. Không có bất kỳ phương cách rõ ràng nào để xem biết quan điểm này có tương hợp với sự hiện hữu của những trống không hay không. Có lẽ, như là một vấn đề của lôgích trừu tượng, nó có thể tương thuận được với những trống không. Chúng ta có thể nói rằng, giữa bất kỳ hai cái-gì, có mộtkhoảng cách nhất định, lớn hơn hoặc nhỏ hơn, và khoảng cách đó không hàm ngụ sự hiện hữu của những-gì trung gian. Một cái nhìn loại như thế, tuy nhiên, sẽ không thể nào có thể sử dụng trong vật lý hiện đại. Kể từ Einstein, là khoảng cách giữa những biến cố, không phải giữa những sự-vật-gì, và liên quan đến cả thời gian cũng như cả không gian. Bản chất nó là một quan niệm nhân quả, và trong vật lý hiện đại, không có hành động từ một khoảng cách [18]. Tất cả điều này, tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm hơn là trên những nền tảng lôgích. Hơn nữa, quan điểm hiện đại không có thể phát biểu được, ngoại trừ trong những điều kiện của những phương trình vi phân, và do đó sẽ không có nghĩa hiểu được với những triết gia cổ đại.

Có vẻ như, theo đó, rằng sự phát triển hợp lý của những quan điểm của atomists là lý thuyết thuyết học Newton không gian tuyệt đối, đáp ứng những khó khăn của attributing thực tế để không-được. Để lý thuyết này không có đối hợp lý. Những đối chính là không gian tuyệt đối là hoàn toàn không thể biết, và do đó có thể không phải là một giả thuyết cần thiết trong một khoa học thực nghiệm. Những đối thực tế hơn là vật lý có thể nhận được trên mà không cần nó. Nhưng thế giới của atomists lôgích vẫn có thể, và có nhiều giống như với thế giới thực tế hơn là thế giới của bất kỳ khác của những triết gia cổ đại.

Democritus đã hoàn thành những lý thuyết của ông trong chi tiết đáng kể, và một số thành tựu là thú vị đáng chú ý. Mỗi atom, ông cho biết, là không thể thâm nhập được và không thể phân chia được, bởi vì nó không chứa trống không. Khi bạn sử dụng một con dao để cắt một quả táo, con dao đã phải tìm những chỗ trống không, nơi mà nó có thể đi vào trong; nếu táo đã không có trống không, sẽ là khó khăn đến vô tận, và do đó không thể phân chia về mặt vật lý được. Mỗi atoms nội thân không biến đổi, và trong thực tế, một Cái-Một theo Parmenidean. Những điều duy nhất mà những atoms làm là di chuyển và đụng vào lẫn nhau, và đôi khi kết hợp khi chúng xảy ra có những hình dạng vốn có khả năng cài khớp vào nhau. Chúng là tất cả mọi loại của những hình dạng; lửa thì gồm những atoms khối cầu, và linh hồn cũng giống như thế. Những atoms, do va chạm, sản xuất những khối lực cuốn xoáy, vốn chúng tạo ra những vật thể, và cuối cùng những thế giới [19]. Có nhiều những thế giới, một số đương tăng trưởng, một số đương suy tàn, một số có thể không có mặt trời hoặc không có mặt trăng, một số lại có nhiều (mặt trời/trăng). Mỗi thế giới có một bắt đầu và một kết thúc. Một thế giới có thể bị phá hủy bởi va chạm với một thế giới lớn hơn. Vũ trụ học này có thể được tóm tắt trong những lời của Shelley:

Những thế giới chồng trên những thế giới từng đang cuốn lăn
Từ sáng tạo đến phân rã,
Giống như những bong bóng trên một dòng sông
Lấp lánh, phát vỡ, mất đi.

Sự sống đã phát triển ra từ dung dịch nguyên sinh. Có một số lửa ở khắp mọi nơi trong một cơ thể sống, nhưng hầu hết trong não hoặc trong ngực. (Về điều này, những thẩm quyền có khác nhau) Tư tưởng là một loại chuyển động, và do đó có thể gây ra chuyển động ở nơi nào đó khác. Nhận thức và suy nghĩ là những tiến trình vật lý. Nhận thức thì có hai loại, một từ trong những giác quan, một từ trong sự hiểu biết. Những nhận thức thuộc loại kể sau chỉ tuỳ thuộc trên những-gì được nhận thức, trong khi nhận thức thuộc loại trước tuỳ thuộc trên cả những giác quan của chúng ta nữa, và như thế nên có khuynh hướng lừa dối. Giống như Locke, Democritus đã chủ trương rằng những phẩm tính như ấm áp, hương vị, màu sắc và không thực sự ở trong đối tượng, nhưng là có do từ những giác quan của của chúng ta, trong khi phẩm tính như trọng lượng, mật độ, và độ cứng thực sự ở trong đối tượng.

Democritus đã là một nhà duy vật triệt để trọn vẹn; với ông, như chúng ta đã thấy, linh hồn đã là kết tạo của những atoms, và suy nghĩ là một tiến trình vật lý. Không có cứu cánh trong vũ trụ; chỉ có những atoms cai quản bởi những luật cơ học. Ông đã không tin tưởng vào tôn giáo phổ thông, và ông lập luận chống lại nous của Anaxagoras. Trong đạo đức ông xem sự vui vẻ là mục đích của đời sống, và đã xem sự chừng mực điều độ và văn hóa như là những phương tiện tốt nhất để có điều ấy. Ông không thích tất cả mọi thứ bạo động và đam mê; ông không chấp thuận tính dục, bởi vì, ông nói, nó liên quan đến lạc thú tràn ngập ý thức tỉnh táo sáng suốt. Ông trân trọng tình bạn, nhưng nghĩ không tốt về phụ nữ, và đã không mong muốn có con trẻ, bởi vì giáo dục của chúng can thiệp vào triết lý. Trong tất cả những điều này, ông đã rất giống Jeremy Bentham [20]; ông đã cũng được bằng như thế trong tình yêu của ông với cái mà những người Hylạp gọi là dân chủ. [21]

Democritus – như thế, ít nhất, là quan điểm của tôi, là vị cuối cùng trong những triết gia Hylạp đã tránh khỏi một khuyết điểm nào đó nhất định vốn đã làm giảm giá trị của tất cả tư tưởng về sau này ở thời cổ và trung cổ. Tất cả những triết gia đã được chúng ta xem xét cho đến nay đã dấn mình vào một nỗ lực vô tư để tìm hiểu thế giới. Họ đã tưởng tìm hiểu thì dễ hơn, chứ không như thực, nhưng nếu như đã không có sự lạc quan này họ đã sẽ không có can đảm để làm một khởi đầu. Thái độ của họ, trong, chủ yếu, đã thật chân chính khoa học, bất cứ khi nào nó đã không chỉ đơn thuần là hiện thân của những định kiến thời đại của họ. Nhưng nó đã không chỉ là khoa học; nó đã là trí tưởng tượng và sức cường tráng mạnh mẽ, và dồn đầy thích thú của phiêu lưu. Họ đã quan tâm đến tất cả mọi thứ – thiên thạch và thiên thực, những giống cá và những bão lốc, tôn giáo và đạo đức; với một trí tuệ hăm hở thâm nhập, họ đã kết hợp với niềm say mê của trẻ thơ.

Từ điểm này trở đi, mặc dù với thành tích không gì sánh bằng trước đây, có những hạt giống đầu tiên của suy tàn, và sau đó một sự suy đồi dần dần. Cái là sai hỏng, ngay cả trong triết lý giá trị nhất sau Democritus, là một sự nhấn mạnh quá mức vào con người như đã so sánh với vũ trụ. Đầu tiên chủ nghĩa hoài nghi ra đời, với những nhà Sophists, dẫn đến một nghiên cứu về – chúng ta biết thế nào – hơn là cố gắng để tiếp thu kiến thức mới. Sau đó đến, với Socrates, sự nhấn mạnh về đạo đức; với Plato, sự từ chối thế giới của cảm giác để chuộng lấy thế giới tự-mình-tạo của các tư tưởng thuần khiết; với Aristotle, niềm tin vào cứu cánh như là khái niệm cơ bản trong khoa học. Mặc dù thiên tài của Plato và Aristotle, tư tưởng của họ đã có những tật xấu vốn chúng đã chứng tỏ tai hại vô cùng. Sau thời đại của họ, có một sự phân rã của sinh lực, và một sự dần dần tái phát về mê tín dị đoan phổ thông. Một phần viễn cảnh mới đã nảy sinh như là kết quả của sự chiến thắng của lý thyết Catô chính thống, nhưng đã không là mãi cho đến tận thời Phục hưng mà triết học mới lấy lại được sinh lực cường tráng và tinh thần độc lập, vốn là đặc trưng của những triết gia trước Socrates.


Lê Dọn Bàn tạm dịch    bản nháp thứ nhất
(May/2010)








[1] Từ “atom” (atomon), nghĩa đen là “không cắt được” (uncuttable), đã được hai nhà lập thuyết Atom đầu tiên Leucippus và Democritus, Russell bàn ở chương này, ghép lập nên, khoảng thế kỷ 5 TCN.
Như tên gọi, ý nghĩa tiên khởi của nó là những hạt nhỏ đến tận cùng không thể cắt nhỏ hơn được nữa. Và lý thuyết của họ hẳn đã là một lý thuyết vật lý, về cấu phần cuối cùng của những hiện tượng vật thể.
Những lý thuyết gia về sau cuối thế kỷ 4 TCN, đôi khi nói về những độ lượng hay vật thể “không phần” hay “cực thiểu” (‘partless’ or ‘minimal’) thiên về những khía cạnh toán học của các đối tượng xem xét. Xenocrates và Diodorus Cronus khai triển những lý thuyết như thế, mặc dù không rõ có hay không và đến đâu, chúng được áp dụng vào những vấn đề vật lý.
Các triết gia trường phái Epicureanism, sau đó, thế kỷ 3 TCN, đã tổng hợp các lý giải vật lý và toán học, đi đến thừa nhận những hạt atom vật lý là những hạt có thể được phân tích xa hơn nữa thành những mức độ, hay độ lượng (magnitudes ) tuyệt đối, cực nhỏ, không thể nhỏ hơn được nữa, những vẫn “có thể nhận thức được như toàn thể”.
(Routledge Encyclopedia of Philosophy, London and New York: Routledge (1998))
Trong Phật học, cũng có một trường phái chủ trương một thuyết Atom gọi là Buddhist atomism – thuyết Atom trong Phật học – có từ thế kỷ 4 TCN, nhưng phát triển với hai triết gia, luận sư Phật giáo Dharmakirti và Dignāga vào thế kỷ 7.
Trước đây, và cho đến tận nay, trong tiếng Viêt, đã được hầu hết hay không nói là tất cả, thuyết này thường dịch là “thuyết nguyên tử”. Tôi không chấp nhận từ này, và lối dịch này – vắn tắt đôi lý do sau: ngày nay các danh từ trong vật lý đã có khuynh hướng dùng thẳng các từ gốc châu Âu, thí dụ electron, proton,... nên tôi để nguyên atom không dịch bằng một từ Tàu. Hơn nữa từ ấy không đúng – không là hẳn là hạt (tử) mà cũng không “nguyên” nữa, chúng ta đã biết chúng gồm các đơn vị nhỏ hơn protons, electron, ... nay đi đến những photon, quarks, leptons, và thí dụ, trong trường hợp photon, theo quantum, thực là năng lượng, có khi là “hạt” có khi là “sóng”, và có lẽ sẽ còn nhiều dạng, lượng mới lạ sẽ khám phá thêm nữa. Như thế, dùng từ “nguyên tử” thành ngớ ngẩn, vô nghĩa, thực sự, muốn hiểu nghĩa phải trở lại liên hệ với nguyên từ gốc là “atom”, ở bên Tây, chứ không phải Tàu!
Vậy, Atomist – những triết gia thuyết Atom, và Atomism – thuyết Atom, hay thuyết triết học Atom (khi phải phân biệt với vật lý)
[2] CTTG – Cyril Bailey, The Greek Atomists and Epicurus, đã ước đoán là ông nổi tiếng khoảng 430 TCN, hay sớm hơn một chút.
[3] CTTG – From Thales to Plato, p. 193.
[4] CTTG – Greek Mathematics, Vol. I, p. 176.
[5] CTTG – On Generation and Corruption, 326
[6] Nguyên văn – Kinetic theory of gases.
[7] Epicurus: (Ἐπίκουρος, Epikouros) (341 – 270 TCN) triết gia Hylạp, người dựng trường phái triết học Duy lạc (Epicureanism).
[8] CTTG – Cách hiểu này cũng được Burnet nhận, và Bailey cũng thế, ít nhất về phần Leucippus, (op. cit. p. 83).
[9] Chance: sự tình cờ, may rủi, ngẫu nhiên, không định trước.
[10] Determinists.
[11] CTTG – xem Bailey, op. cit., p. 121, on the determinism of Democritus.
[12] Nghĩa là cái gì là nguyên nhân của nguyên-nhân-ban-đầu?
Tìm về nguyên nhân ban đầu – theo như giả định có quan hệ nhân quả – nhưng chính nguyên nhân này – đã đưa ra để nhằm giải thích cho tất cả – nguyên nhân “ban đầu’ này từ “nhân” nào mà ra? – tự nó (xem như một quả) không có nhân? – vậy là đến cuối cùng phủ nhận chính nguyên lý nhân quả!
Đây cũng là luận chứng vững chắc đánh đổ nguyên nhân ban đầu – phủ nhận Nguyên nhân đầu tiên (trong các tôn giáo độc thần phương Tây gọi là “gót”) – vì nếu tất cả đều có nguyên nhân, sao gót lại không có? – xem thêm Russell – Có God Hay Không? và Tại Sao Tôi Không là người Kitô? Tôi đã tạm dịch và giới thiệu trên cùng blog “chuyendaudau” (http://chuyendaudau.blogspot.com) này.
[13] Teleology: dùng cứu cánh hay thiết kế như phương tiện để giải thích các hiện tượng. Nền tảng tiềm ẩn là tin tưởng (nặng tính tôn giáo) vào vận hành của tự nhiên hay lịch sử nhân văn hướng về một điểm đến của lịch sử.
[14] Mechanism: lý thuyết chủ trương tất cả các hiện tượng tự nhiên có thể giải thích được bằng dựa trên những nguyên nhân vật chất và những nguyên lý cơ học. Đặc biệt có khuynh hướng giải thích các hiện tượng chỉ bằng dẫn giải về những nguyên nhân vật lý hay sinh hoá.
[15] CTTG – Về những nền tảng lôgích và toán học cho các lý thuyết của những atomists, xem Gaston Milhaud, Les Philosophes Géomètres de la Grèce, Ch. IV.
[16] CTTG – On Generation and Corruption, 325 a
[17] CTTG – Bailey (op. cit. p. 75) chủ trương ngược lại Leucippus đã có một lời đáp, đó là “hết sức tinh tế”. Nó chủ yếu gồm có trong chấp nhận sự hiện hữu của một-gì đó (cái trống không) vốn nó không hữu hình cụ thế. Tương tự, Burnet nói: “La một sự kiện kỳ lạ, những nhà Atom, thông thường họ được xem là những nhà duy vật lớn của thời cổ, đã thực sự là những người đầu tiên nói rành rọt rằng có cái-gì mà nó có thể là thực mà lại không là một vật thể.
[18] Nên tìm đọc thêm một luân văn rất nổi tiếng và có giá trị lịch sử – “On the Notion of Cause” 1912-1913, của Russell. Khi có thì giờ, tôi sẽ dịch và để giới thiệu Russell như một triết gia lỗi lạc của thế kỷ qua.
[19] Trên đường lối trong đó, đây là điều đã giả định xảy ra, xem Bailey, op. cit., p. 138 ff.
[20] Jeremy Bentham (1748-1832) – Triết gia người Anh, chủ trương chủ nghĩa công lợi (utilitarianism), cũng là nhà cải cách xã hội.
[21] “Nghèo khó trong một chế độ dân chủ thì đáng chuộng nhiều hơn so với cái gọi là phú cường dưới những bạo chúa, cũng giống như tự do so với nô lệ” ông nói.