Tuesday, January 12, 2010

Phản-kitô - The Antichrist (2)


Phản-kitô 
Lời nguyền rủa đạo Kitô
Friedrich Nietzsche (1844 – 1900)
(tiếp theo . . . )

Der Antichrist (1895)

Fluch auf das Christenthum.






24.
Ở đây, tôi chỉ mới chạm vào vấn đề nguồn gốc của đạo Kitô. Nguyên tắc thứ nhất cho giải pháp của nó là: đạo Kitô chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ của mảnh đất nó đã từ đó lớn dậy – nó không phải là một phong trào phản lại với bản năng Do thái, nó đích thực là hệ quả của chúng, một suy luận thêm trong lô gich gây đậm ấn tượng của nó. Trong công thức của vị Cứu thế “Cứu rỗi linh hồn là của người Do thái”. Nguyên tắc thứ hai là; mẫu thức tâm lý của dân Galilean vẫn còn nhận ra được; nhưng chỉ trong sự thoái hóa hoàn toàn của nó (nó đồng thời là một sự hủy hình cắt dạng và một sự chồng chất quá đầy những đặc trưng xa lạ) mà nó đã có thể phục vụ trong phương cách vốn nó đã được xử dụng: như một kiểu cứu thế cho nhân loại.

Dân Dothái là một dân tộc kỳ lạ nhất trong lịch sử thế giới bởi vì, khi đã đối đầu với câu hỏi – nên là, hay không nên là – họ đã chọn, với một sự cố ý có chủ tâm hoàn toàn kỳ lạ, nên là với bất cứ giá nào; cái giá này đã là sự xuyên tạc bóp méo tất cả tự nhiên, tất cả tính chất bẩm sinh, tất cả thực tại, của toàn thể thế giới bên trong cũng như thế giới bên ngoài. Họ đã sắc bén định nghĩa chính họ chống lại tất cả những điều kiện trong đó, một dân tộc cho đến nay đã có thể sống còn, đã được phép cho sống còn; từ chính họ, họ đã sáng tạo ra một phản-khái niệm về những điều kiện tự nhiên: họ đã xoay tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức, lịch sử, tâm lý, cái này tiếp cái khác, vào thành sự trái nghịch không chữa được, mâu thẫn với những giá trị tự nhiên của họ. Chúng ta lại gặp cũng hiện tượng này một lần nữa và trong kích thước thật lớn rộng đến mức không lường nổi, dẫu vậy vẫn chỉ là một sao chép; Hội Nhà Thờ Kitô không thể xưng dẫu chỉ thật nhỏ nhặt nhất về tính chất sáng tạo, khi so sánh với “dân tộc sùng đạo Gót đã chọn”. Chính đó là lý do tại sao dân Dothái là dân tộc chịu thảm hoạ định mệnh bậc nhất trong lịch sử thế giới: bởi hậu của hậu quả mà họ đã làm toàn nhân loại đến hết mực quá đỗi sai lầm, cho đến nỗi ngày nay một người Kitô có thể cảm thấy bài-Dothái mà không tự nhận biết chính anh ta là cái kết quả tối hậu của đạo Do thái.

Trong “Genealogy of Morals”của tôi, tôi đã cống hiến phân tích tâm lý thứ nhất của sự phản khái niệm về một nền đạo đức cao thượng và một nền đạo đức của những phẫn uất oán giận[1] – cái sau sinh ra từ nói Không với cái trước: nhưng đây là đạo đức Dothái-Kitô thuần tuý và đơn giản. Như thế nó có thể nói Không với tất cả những gì trên mặt đất này tiêu biểu cho khuynh hướng đi lên của đời sống, với tất cả những gì rồi thành nên tốt đẹp, với sức mạnh, với cái đẹp, với sự tự quyết;  bản năng của phẫn uất, oán giận vốn nó đã trở nên thiên tài, đã phải sáng tạo ra một thế giới khác, từ thế giới đó có quan điểm nhìn sự xác định sự sống này như tà ác, như đáng quở trách. 

Xét về mặt tâm lý, dân tộc Dothái là một dân tộc đã được phú cho một năng lực sống còn mạnh mẽ cứng rắn nhất, những người này, đặt họ trong những hoàn cảnh quá quắt không thể tưởng được, một cách tự nguyện và thoát ra từ sự cẩn thận sâu sa nhất của tự bảo toàn, đứng cùng về phe với tất cả những bản năng của suy đồi – không phải như là nhận chúng làm chủ nhân, nhưng vì họ đã thần đoán ra một sức mạnh trong các bản năng này, với chúng, người ta có thể chiến thắng chống lại “thế giới”. Người Dothái là phản đề của tất cả mọi suy đồi, họ đã phải biểu hiện mọi suy đồi tới mức ảo tưởng, với một toàn bích không thể hơn được nữa [2] của thiên tài lịch sử, họ đã biết làm sao đặt chính họ dẫn đầu tất cả những phong trào vận động của suy đồi (như Kitô của Paul), ngõ hầu tạo ra một gì đó từ chính họ, nó sẽ mạnh mẽ hơn tất cả bất kỳ tập đoàn nào “nói Có” với cuộc đời. Sự suy đồi chỉ là những phương tiện cho cái loại, mẫu người muốn đòi có sức mạnh trong đạo Judaism và đạo Kitô, cái loại giáo sĩ, thày chăn chiên; cái loại người này có quyền lợi cả trọn một đời, quan tâm vào sự làm loài người ốm đau, và như thế đã bẻ vặn những khái niệm tốt và xấu, đúng và sai, làm nguy hiểm đời sống và phỉ báng thế giới.


25.
Lịch sử của Israel [3] thì vô giá vô giá nếu xét nó như một lịch sử điển hình của một nỗ lực phản tự nhiên, biến tính tất cả mọi giá trị tự nhiên. Tôi nêu ra năm điểm:

Nguyên thủy, đặc biệt tại “thời của các vua”, Israel đã đứng cũng về bên phải, nghĩa là, phía của tự nhiên, trong quan hệ với tất cả mọi sự việc.  Gót Yahweh của họ đã là sự biểu tả của một ý thức về quyền lực, của niềm vui trong chính mình, của hy vọng của một người: qua ông, đã mong cầu chiến thắng và phúc lợi; qua ông, đã tin cậy thiên nhiên đem cho con người điều cần thiết – hơn trên tất cả: mưa. Yahweh là gót của Israel và do đó là gót của công lý. Lô gích của tất cả những dân tộc có sức mạnh trong tay và có ý thức sáng xuốt tốt đẹp. Trong hội lễ tín ngưỡng, hai mặt của sự tự xác quyết của một dân tộc tìm được sự diễn tả: họ biết ơn trước  những vận mệnh lớn lao đã nâng họ lên đỉnh cao; họ biết ơn đối với vận hành tuần hoàn hàng năm của mùa màng và với tất cả mọi may mắn trong chăn nuôi gia súc cùng canh nông.

Tình trạng này đã được giữ làm lý tưởng một thời gian lâu, ngay cả trong một cách hoài tưởng sau khi nó đã bị hủy hoại: bên trong hỗn loạn, bên ngoài Assyrian (xâm lăng). Tuy nhiên, dân tộc bám chặt lấy viễn ảnh, ở mức mong cầu tha thiết cao nhất, một vị vua vừa cầm quân giỏi và vừa là quan tòa nghiêm khắc:  Vượt trên tất cả, vị tiên tri điển hình (đó là, phê phán và chê trách thời điểm ấy), là Isaiah [4].

Nhưng tất cả hy vọng đọng lại đều không thành. Vị gót cũ không còn có thể làm những gì một thời ông đã có thể làm. Dân chúng nên bỏ ông ta đi. Điều gì đã xảy ra? Họ đã thay khái niệm về ông – họ làm khái niệm về ông thành mất tự nhiên [5]: họ đã bám lấy ông (nhưng) với cái giá này. Yahweh là gót của “công lý” – không còn là một với Israel nữa, một phát biểu của lòng tự tin dân tộc: bây giờ chỉ là gót trong những điều kiện đặc thù nào đó.

Khái niệm về gót trở nên một dụng cụ trong tay của những kẻ kích động giới tăng lữ, những người này bây giờ diễn giải tất cả mọi hạnh phúc như là phần thưởng, tất cả mọi bất hạnh như là trừng phạt vì đã không tuân lệnh Gót, như là “tội” (“sin”): khí cụ dối trá nhất của diễn giải đó, Cái giả thử là “trật tự đạo đức toàn thế giới”, trong nó, những quan hệ nhân quả tự nhiên đã bị lộn ngược một lần và mãi mãi. Một khi, thông qua chuyện ban thưởng và trừng phạt, người ta đã hủy hoại luật nhân quả tự nhiên, một luật nhân quả phản-tự-nhiên cần phải có: bây giờ tất cả mọi sự việc gì khác mà là không tự nhiên sẽ kéo đến theo. Một gót, ông ta đòi hỏi – thay vì một gót, ông ta giúp đỡ, ông ta tạo ra những phương cách, ông ta ở dưới đáy cái thế giới chứa đựng tất cả mọi hứng khởi lạc quan của can đảm và tự tin.

Đạo đức – không còn là sự diễn tả của những điều kiện cho đời sống và cho sự lớn mạnh của con người nữa, không còn là bản năng cơ bản nhất của sự sống nữa. Nhưng trở thành trừu tượng, trở thành phản đề của sự sống – đạo đức như là hệ thống làm giảm giá trị của sự tưởng tượng, như là “con mắt tà ác” (xoi xét) với tất cả mọi sự vật.  Đạo Dothái là gì, đạo Kitô là gì, về đạo đức? Cơ duyên ngẫu tạo đã bị lấy đi mất sự ngây thơ trong sạch của nó, bất hạnh đã bị bôi nhơ bẩn với khái niệm về “tội lỗi”; lành mạnh xem như một nguy hiểm, một “cám dỗ”. Đau ốm nhỏ nhặt tâm sinh lý đã bị đầu độc bằng con sâu của lương tâm.


26.
Khái niệm về Gót đã giả tạo, khái niệm của đạo đức đã giả tạo; nhưng tăng lữ Dothái đã không dừng ở đây. Toàn bộ lịch sử của Israel đã không có thể xử dụng được nữa; ném bỏ nó đi! Những tăng lữ này đã thành tựu được một phép lạ về sự giả tạo, và một phần lớn của thánh kinh bây giờ nằm trước mắt chúng ta như một chứng cớ bằng giấy mực. Với một sự miệt thị không gì sánh nổi, đối với hết tất cả mọi truyền thống, với hết tất cả mọi thực tại lịch sử , họ đã thông dịch quá khứ của chính dân tộc họ vào trong những thuật ngữ tôn giáo, nghĩa là, họ đã chuyển nó vào thành một động cơ ngu xuẩn của cứu rỗi, trong đó, tất cả mọi xúc phạm trước Yahweh đã bị trừng phạt; và tất cả mọi sùng bái kính tín trước Yahweh đã được ban thưởng. Chúng ta sẽ kinh nghiệm về hành động vô ơn bậc nhất này của giả tạo lịch sử như một điều gì xấu hổ, đau đớn hơn nhiều, nếu như sự diễn dịch lịch sử của giới tăng lữ đã không gì khác ngoài việc làm chúng ta, trong ròng rã hàng nghìn năm, đã điếc đi, không còn nghe gì trước những đòi hỏi về sự vẹn toàn chính trực trong lịch sử [6]. Và Hội Nhà Thờ đã còn đứng hàng thứ nhì sau các triết gia: sự dối trá về một “trật tự đạo đức toàn cầu” chạy dọc xuốt toàn bộ phát triểncủa triết học hiện đại. “Trật tự đạo đức toàn cầu” là cái quái quỉ gì vậy?. Đó là – có một cái gọi là ý chí của Gót, một và cho tất cả, với những gì một người nên làm và những gì một người không nên làm; rằng giá trị của một dân tộc, hay của một cá nhân, được đo lường theo mức nhiều bao nhiêu, hay ít bao nhiêu, đã có tuân thủ ý chí của Gót hay không; rằng ý chí của Gót tự thế hiện qua định mệnh một dân tộc, một cá nhân, như là hệ số thống trị, nói thế nghĩa là, như sự trừng phạt hay sự ban thưởng tương ứng theo mức độ của sự tuân thủ phục tùng.

Thay vào chỗ trí trá đáng tởm này, trên thực tế là: một loại ăn bám kiểu mẫu của loài người, chỉ sinh sôi nảy nở mạnh mẽ bằng sự tổn hại của tất cả mọi dạng thức lành mạnh của đời sống, giáo sĩ, dùng cái danh Gót đến khản cổ rỗng tuếch: ông ta gọi một tình huống của sự việc trong đó giáo sĩ  phân định giá trị cho tất cả mọi sự là “vương quốc của Gót”; ông ta gọi những phương cách qua đó một tình huống kiểu như thế, được đạt đến hay được bảo trì  là “ý chí của Gót”. Bằng thứ máu lạnh tanh cay độc, giáo sĩ đo xét các sắc dân, các lớp tuổi, các cá nhân, tùy ứng với sự có hay không, những đối tượng này làm lợi cho, hay chống lại cương vị chúa tể của những giáo sĩ. Người ta nên xem các thày giảng này làm việc: Trong tay những giáo sĩ Do thái, thời đại huy hoàng của lịch sử Dothái đã trở thành một thời đại của mục nát; thời Lưu đày, giai đoạn bất hạnh dài, đã được chuyển hóa thành ra một sự trừng phạt vĩnh cửu đối với thời huy hoàng – thời đại vốn trong đó, các giáo sĩ đã vẫn chưa là gì cả. Tùy vào những nhu cầu riêng họ, từ những khuôn mặt quyền uy, thường rất dũng cảm trong lịch sử Israel, họ tạo nên hoặc những kẻ hợm hĩnh nhu mì đến thảm hại và ngọt xớt hay “những kẻ vô thần”; họ đơn giản hóa mặt tâm lý tất cả mỗi biến cố trọng đại, bằng cách thu nhỏ nó lại trong cái công thức ngu xuẩn, “vâng lời hay không vâng lời Gót”.

Một bước xa hơn: cái “ý chí của Gót” (nghĩa là những điều kiện để bảo tồn quyền lực tăng lữ) phải được biết đến; một một “vén-lên-cho-biết” (mạc khải) đã cần phải có cho mục đích này. Trong ngôn ngữ không hoa hòe: một sự giả mạo avwn chương vĩ đại trở nên cần thiết, một “kinh thánh linh thiêng” được phát kiến, nó được đem ra công chúng với đầy đủ bộ lệ lớp lang phô trương long trọng, với những ngày của ăn năn và những tiếng kêu của than  khóc “tội lỗi” lâu dài. Cái “ý của Gót” đã định từ lâu; tất cả bất hạnh nằm ở chỗ  mỗi người đã rời ra “kinh thánh linh thiêng”. Cái “ý của Gót” đã được tiết lộ cho Moses. Điều gì đã xảy ra?  Với nghiêm khắc và thông thái rởm, nhà giáo sĩ đẫ đặt công thức cho một lần và cho mãi mãi, chi tiết xuống đến tận những món thuế lớn và nhỏ phairnopj cho ông ta (đừng quên những miếng thịt ngon nhất, vì các giáo sĩ là những kẻ ăn thịt bò tươi [7]), những gì ông ta muốn có, là “những gì ý Gót là đấy”. Kẻ từ giwof trở đi, tất cả mọi sự việc trong đời  sống thật ngăn nắp trật tự đến mức nhà giáo sĩ thành không thể thiếu được ở khắp mọi nơi; ở những sự kiện tự nhiên quan trọng trong đời, sinh nở, hôn lễ, ốm đau, tử vong, đó là không nói đến những đồ “cúng tế’ (các thức ăn), con ký sinh trùng linh thiêng  này [8] xuất hiện ngõ hầu làm chúng mất tự nhiên – trong ngôn ngữ của ông ta: “thánh hoá” chúng.

Một người phải hiểu điều này: tất cả mọi phong tục tự nhiên, tất cả cơ cấu thể chế tự nhiên (nhà nước, trật tự hình pháp, hôn nhân, săn sóc người bệnh và người nghèo), tất cả đòi hỏi dấy lên từ bản năng của đời sống – vắn tắt – tất cả mọi điều, mọi sự trong có chứa giá trị tự thân của nó, thì bị làm nên thành vô giá trị tất cả, phản-giá trị tất cả, bởi vị giáo sĩ (hay “trật tự đạo đức toàn thế giới”): giờ đây nó đòi một chuẩn y  sau mỗi sự kiện – phải có một quyền lực tấn phong giá trị, cần thiết để phủ định những gì là tự nhiên trong đó và tạo ra một giá trị qua cách thức thực hành như thế. Người giáo sĩ phá giá trị, làm mất tính thiêng liêng [9]của tự nhiên: đây là cái giá độc nhất để cho ông ta hiện hữu. Không tuân phục Gót, đó là, không tuân phục giáo sĩ, không tuân phục “Luật Gót”, bây giờ được gọi là “Tội Lỗi”[10] (“sin”); những phương cách để “ hòa giải với Gót” là, như chúng thành tựu, có nghĩa chỉ đơn giản bảo đảm  vẫn còn phải có nhiều trước sau phục tùng hoàn toàn với vị giáo sĩ: vị giáo sĩ , mình ông thôi, mới “cứu chuộc tội “ được!

Xét về tâm lý, “tội lỗi” trở thành không thể thiếu vắng trong bất cứ xã hội nào giáo sĩ đã xếp đặt, tổ chức; Chúng là cán dao thực sự của quyền lực. Giáo sĩ, thày chăn chiên, sống trên những tội lỗi, thiết yếu với đám này là tất cả mọi người, ai ai cũng “tội lỗi”. Nguyên tắc tối thượng: “Gót tha thứ cho những kẻ ăn năn” – trong ngôn ngữ rõ ràng: cho những kẻ phục tùng giáo sĩ.


27.
Trên mảnh đất sai trái cùng cực như thế, nơi tất cả những gì là tự nhiên, tất cả những giá trị tự nhiên, tất cả thực tại, đều bị chống nghịch lại bằng những bản năng thâm sâu nhất của giai cấp thống trị, đạo Kitô đã lớn dậy – một hình thức của thù hằn chết sống đã chưa bao giờ từng bị vượt qua.

Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất


(Jan/2010)


[1] ressentiment
[2] non plus ultra 
[3] Dân tộc Israel (cũng thường gọi là “dân tộc Dothái – Jewish People”) truy gốc của họ về Abraham, là người đã thiết lập tín ngưỡng độc thần, tin chỉ có một Gót, vị sáng tạo vũ trụ (xem kinh Cựu ước). Abraham, con trai Yitshak (Isaac), và cháu nôi Jacob (Israel), là những tổ phụ của dân Israelites. Cả ba vị này sống ở vùng Đất Canaan, sau mang tên Đất của dân Israel.
Tên gọi Israel là gốc từ tên của Jacob (Israel). Ông này có 12 con, tạo thành 12 bộ lạc, sau phát triển thành quốc gia Jewish.  Còn tên gọi Jew có gốc từ tên của một trong 12 người con này – là Yehuda (Judah) Như thế, Israel, Israeli hay Jewish đều chỉ cùng một sắc dân, chỉ những người có cùng một gốc.
Khoảng năm 1300 TCN, sau khi họ chạy khỏi Egypt (gọi là “Exodus”) dưới sự lãnh đạo của Moses (hay Moshe trong tiếng Hebrew) những người xưng có dòng dõi từ Abraham đã thành lập một quốc gia. Không lâu sau vụ đào thoát Exodus, Moses đem đến cho dân tộc của quốc gia mới này, kinh thánh Torah, và Mười điều Răn. Sau 40 năm lang thang tại sa mạc Sinai, Moses dắt dân theo mình về hướng Bắc, đến vùng Đất của Israel, là “đất hứa” nói trong kinh thánh, vì Gót (“Yahweh”) đã “hứa” cho con cháu của Abraham, Isaac and Jacob.
Dân Dothái sống tại vùng đất này, chỉ vẻn vẹn khoảng 500 năm. Đây là “thời của các vua”. Nhà vua nổi tiếng nhất là David (1010-970 TCN), đã dựng kinh đô Jerusalem, và con ông, vua Solomon (Shlomo, 970-931 TCN), đã dựng ngôi đền quốc gia đầu tiên tại đây.
Năm 587 TCN, hoàng đế Babylon là Nebuchadnezzar chiếm thành Jerusalem, phá Đền Thiêng, đày rất đông dân Dothái sang Babylon (Iraq). Kể từ đó đến tận 1945, người Dothái mất đất tổ, vùng này bị những lực lương ngoại quốc chiếm đóng và cai trị, kể lần lượt theo thứ tự: Babylonian, Persian, Greek Hellenistic, các đế quốc La mã và  Byzantine, Islamic và Christian crusaders, đế quốc Ottoman, và đế quốc Anh.
Kể từ thời đế quốc La mã, người Dothái đã di cư đi khắp nơi, bắt đầu với châu Âu, rồi châu Phi. Giai đoạn lịch sử lưu vong này của họ gọi là Diaspora. Ở khắp các quốc gia nơi họ sinh sống, có hai sự kiện nổi bật: Họ luôn luôn bị kỳ thị, chịu ngược đãi, và họ luôn luôn có những thành công rất lớn về tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật, kinh tế – làm giàu cho các xã hội họ  sinh sống, và họ luôn luôn giữ tập tục cổ truyền, tín ngướng, tôn giáo của mình dù đó là một trong những nguyên nhân đưa đến các ngược đãi, thảm sát.
Thảm sát Holocaust trong thế chiến II tại châu Âu, là vết nhơ mãi không tan, không bao giờ xoả nổi trong lương tâm người da trắng Kitô, và chấn động lương tâm toàn nhân loại.  Sau khi thế chiến này chấm dứt, dân Dothái từ khắp nơi bắt đầu kéo về Palestine, và dưới sự lãnh đạo của David Ben-Gurion, năm 1948, khi lực lượng Anh tại đây rút đi, họ đã thành lập một quốc gia Israel mới. Liền lập tức, những người Ả Rập đang sống tại đây và khối Ả Rập bao quanh tuyên chiến ngay, và từ đó là địch thủ mới của họ. Lịch sử dân tộc Dothái sang trang, những trang mới, nhưng đến nay vẫn chưa thấy viễn ảnh hoà bình cho dân tộc này.
[4] Isaiah (c. 740-681 TCN)
[5] denatured
[6] Nguyên văn  historicis
[7] steak eater
[8] Holy parasite
[9] desecrate
[10] Sin: một khái niệm khùng khiếp và ghê gớm, do đạo Kitô sáng chế – vũ khí trấn áp tinh thần, bôi đen cuộc sống kỳ diệu – các phù thủy tôn giáo đã sáng chế một cách tuyệt vời và đem áp đặt vào đời một cách ma quái kỳ diệu – Tự nhận mình là có tội – tội là gì? Là không làm theo “thánh ý” – ý Chúa, ý Gót- Ai biết “thánh ý”? – chỉ có các nhà chăn chiên.
Tha hồ hành hạ, bóc lột!  – có tội, xưng tội; bắt đầu với “rửa tội” ngay từ lọt lòng, … miên viễn là món mồi ngon béo bở cho các ký sinh trùng hàng nghìn năm nay!.