Monday, June 16, 2025

Hume – Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (09)

Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên

(Dialogues concerning Natural Religion)

David Hume

( ← ... tiếp theo )

 

 


PHẦN XI

 

Tóm Tắt

 

1.

Cleanthes cuối cùng nhận ra rằng ông đã gặp một trở ngại khá lớn với thuyết tin có gót duy nghiệm của ông, và ông cố gắng vượt qua trở ngại này bằng buông bỏ “tính vô hạn” của Gót. Ông nói, Gót có thể chỉ là toàn hảo hữu hạn. Điều này có thể giải thích tại sao ngài đã không thể tạo ra vũ trụ đúng như ý muốn: vì như một Gót toàn hảo nhưng hữu hạn, ngài phải tiến hành với thỏa hiệp hay nhượng bộ nào đó. Nhân ái của ngài muốn thực hiện những tốt lành tuyệt đối, nhưng đã không thể, chính sự khôn ngoan thận trọng của ngài đã đặt ra những giới hạn cần thiết.

 

Tuy nhiên, Philo cho Cleanthes thấy rằng nhượng bộ này sẽ không giúp được gì cho Cleanthes. Ngay cả với loại Gót này (một vị toàn hảo nhưng hữu hạn) cũng vẫn không thể suy ra được trên những bằng chứng chúng ta có. Có thể là đúng rằng thế giới của chúng ta là một thế giới tốt nhất Gót có thể sáng tạo cho chúng ta, nhưng khi nhìn vào thế giới, chúng ta không thể thấy được “thế giới tốt nhấtđó, và do đó, bằng chứng không đem cho chúng ta cơ sở nào hầu dựa trên đó để kết luận rằng Gót thì toàn hảo. Để minh họa, Philo đã đưa ra một so sánh giữa vũ trụ của chúng ta và một cung điện rất xấu xí. Có thể đúng là nhà Kiến trúc chịu trách nhiệm là người có tay nghề cao và ông ta đã xoay xở để tạo dựng không gian sống tuyệt diệu nhất vốn ông có thể tạo dựng, khi xét đến những giới hạn về vật liệu và không gian của ông. Nhưng dù vậy, khi chúng ta nhìn vào cung điện và chỉ thấy rằng nó cực kỳ xấu xí, chúng ta không có cơ sở nào để suy ra rằng nhà Kiến trúc đó có tài năng.

 

Sau đó, Philo cho chúng ta thấy vũ trụ của chúng ta giống như cung điện được xây dựng tồi tệ như thế nào. Ông xác định bốn nguồn gốc của khốn khổ trên thế giới và cho thấy rằng (theo như chúng ta có thể thấy) tất cả chúng đều không cần thiết. Đầu tiên, có sự hiện hữu của đau đớn thể xác. Mục đích của đau đớn là thúc đẩy chúng ta tránh một số hành động nhất định và dự vào một số hành động khác. Nhưng chính mục tiêu này chỉ có thể đạt được chỉ bằng vui sướng: Gót có thể sắp xếp thế giới theo cách mà những hành động tốt gây cho cho chúng ta vui sướng, và những hành động xấu cho chúng ta vẫn gây ra vui sướng nhưng giảm bớt. Ví dụ, thay vì cảm giác bỏng rát, lửa có thể chỉ khiến chúng ta cảm thấy ít dễ chịu hơn so với khi chúng ta không cảm thấy như vậy. Sau đó, đau đớn thể xác có thể bị loại bỏ hoàn toàn khỏi bức tranh thế giới khốn khổ.

 

Nguồn gốc thứ hai của sự khốn khổ là sự kiện rằng thế giới được những quy luật tổng quát của tự nhiên điều hành. Mặc dù những quy luật này mang lại trật tự và nhất quán, nhưng chúng cũng có thể dẫn đến tác hại lớn. Philo cho rằng sẽ tốt hơn cho chúng ta nếu Gót cai quản thế giới không qua những quy luật cố định, nhưng qua những quyết định cụ thể, từng khoảnh khắc – hoặc ít nhất là nếu Ngài thỉnh thoảng can thiệp để đình chỉ hoặc thay đổi những quy luật tổng quát đó để ngăn chặn những đau khổ không cần thiết. Ví dụ, bất cứ khi nào xảy ra có một đứa trẻ vô tình trên đường bay của một viên đạn ngẫu nhiên bất ngờ, Gót có thể phá vỡ những định luật vật lý và thay đổi quỹ đạo của viên đạn, hoặc khiến viên đạn biến mất vào không khí, hoặc làm tất cả những ggif cần thiết khác để ngăn chặn sự xảy ra việc “lạc đạn” bi thảm cho đứa trẻ vô tội.

 

Nguồn gốc thứ ba của sự khốn khổ là những khả năng giới hạn của từng loài cụ thể. Gót chỉ ban cho mỗi loài những gì chúng cần để sống còn; Ngài không ban cho bất kỳ loài nào những gì chúng cần để thực sự phát triển và thoải mái, an toàn và hạnh phúc. Thí dụ, tất cả những gì con người cần để cải thiện đáng kể sddowif ống của họ là một ta siêng năng hơn một chút – một khuynh hướng tự nhiên mạnh mẽ hơn để chú ý, kỷ luật và chăm ch. Nếu Gót ban tặng món quà này cho chúng ta thì chúng ta sẽ là những sinh vật vượt trội về đạo đức, trí tuệ và thực tế là những sinh vật ưu việt, và hầu hết những vấn đề của chúng ta sẽ biến mất.

 

Philo nói rằng nguồn gốc thứ ba của sự khốn khổ nằm ở khả năng giới hạn của mỗi loài. Có vẻ như Gót đã ban cho mọi sinh vật vừa đủ để tồn tại – đủ để sống còn , nhưng không đủ để thực sự phát triển. Không có loài nào, kể cả con người, được trang bị những phẩm chất giúp đời sống an toàn, thoải mái và thực sự hạnh phúc.Tuy nhiên, vì lý do nào đó không rõ, món quà này như đã bị giữ lại.

 

Nguồn gốc cuối cùng của sự khốn khổ là bản chất mong manh của vũ trụ. Để thế giới của chúng ta hoạt động tốt nhất, những điều kiện cần phải là vừa đúng. Quá ít một gì đó thì sẽ có một thảm họa; quá nhiều thì sẽ có một thảm họa. Thí dụ, nếu không đủ mưa thì sẽ có hạn hán và thực vật và động vật bị chết; nếu có quá nhiều mưa thì sẽ có lũ lụt và thực vật và động vật bị chết. Điều tương tự cũng có thể nói về gió, nhiệt, chất dịch trong cơ thể ((như máu, mật và đờm).và vô số những biến số trần gian khác.

 

Chúng ta có thể kết luận gì từ một thế giới với bốn đặc điểm gồm bốn đặc điểm đáng lo ngại này – những đặc điểm dường như không cần thiết và có thể tránh được? Philo nói với những người bạn đồng hành của ông rằng nếu ai đó đã tin vào một vị Gót tốt lành và nhân từ, thì những sự thật về thế giới này không bác bỏ tin tưởng đó. Ông nói rằng chúng ta luôn có thể cho rằng có một lý do nào đó chưa biết tại sao một vị Gót tốt lành lại cho phép xảy ra những đau khổ như vậy. Trong trường hợp đó, tin tưởng tôn giáo được sự bí ẩn bảo tồn.

 

Nhưng chúng ta phải nói rõ: mặc dù những điều xấu xa tà ác này không bác bỏ được sự tốt lành của Gót, nhưng chúng chắc chắn cũng không ủng hộ sự tốt lành đó. Nếu chúng ta cố gắng lý luận về tính cách của Gót chỉ dựa trên những gì chúng ta quan sát được trên thế giới – vốn chính Philo cho rằng là một sai lầm – thì chúng ta không thể kết luận rằng Gót thì tốt lành. Trên thực tế, kết luận trung thực duy nhất mà chúng ta có thể rút ra từ bằng chứng là Gót không tốt lành cũng không xấu ác, nhưng chỉ đơn giản là thờ ơ – không quan tâm đến hạnh phúc hay đau khổ của con người. Trong trường hợp đó, Gót sẽ là trung lập về đạo đức, vượt ra ngoài tất cả phạm trù đạo đức của tốt và xấu vốn chúng ta quan tâm.

 

Đến đây, Demea thực sự bối rối trước lập luận của Philo và xin rời khỏi trò chuyện.

 

2.

đây, lập luận của Philo về bản chất đạo đức của nguyên nhân đầu tiên, hay Gót là một trong những phần nổi bật và giàu có nhất về triết học trong những đàm thoại. Tại sao Philo lại nghĩ rằng sự trung lập về mặt đạo đức của Gót là kết luận duy nhất mà chúng ta có thể rút ra một cách hợp lý từ bằng chứng? Ông giải thích rằng có bốn khả năng chính liên quan đến bản chất đạo đức của nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ – và ba trong số đó có thể bị loại trừ chỉ bằng cách quan sát. Ông không giải thích nhiều, vì vậy, chúng ta nên xem xét kỹ lưỡng lý luận.

 

Sau đây là bốn lựa chọn:

 

(a)     Gót hoàn toàn tốt lành – đây là điều mà những người theo thuyết tin có gót duy nghiệm (như Cleanthes) hy vọng suy ra từ thế giới.

(b)    Gót hoàn toàn độc ác – một quan điểm mà hầu như không ai chấp nhận.

(c)     Gót là sự pha trộn giữa thiện và ác (hoặc có hai thế lực đối lập, một thiện, một ác – giống như quan điểm của giáo phái Mani vốn Philo nhắc đến).

(d)    Gót thờ ơ về mặt đạo đức – không thiện cũng không ác.

 

Philo lập luận rằng hai lựa chọn đầu tiên rõ ràng bị loại trừ bởi bản chất hỗn hợp của thế giới. Nếu Gót hoàn toàn tốt lành, tại sao lại có quá nhiều tà ac và đau khổ? Nếu Gót hoàn toàn độc ác, tại sao lại có cái đẹp, vui sướng và tốt lành? Sự có mặt đồng đều giữa thiện và ác trên thế giới khiến cả hai thái cực đều không hợp lý.

 

Lựa chọn thứ ba – một Gót hỗn hợp về đạo đức, hoặc hai thế lực đấu tranh – có vẻ hứa hẹn hơn. Xét cho cùng, một vũ trụ có cả thiện và ác có thể gợi ý một loại đấu tranh vũ trụ nào đó. Đây là giải thích phổ biến trong nhiều truyền thống tôn giáo và thần thoại, thường mô tả thế giới là kết quả của một xung đột thần thánh giữa thiện và ác.

 

Nhưng Philo cũng phản bác ý tưởng này. Ông lưu ý rằng chúng ta không thấy bất kỳ bằng chứng nào của một đấu tranh như thế. Thế giới vận hành theo những quy luật tổng quát, ổn định. Mưa rơi, dịch bệnh lan truyền, tai nạn xảy ra – không phải do sự can thiệp đột ngột nào đó của thần thánh, nhưng là do những tiến trình tự nhiên. Không có dấu hiệu nào cho thấy có một bên nào đang cố gắng giúp đỡ người tốt hoặc làm hại kẻ xấu. Người tốt và người xấu đều đau khổ như nhau, không phải vì bất kỳ sự tính toán đạo đức nào, mà chỉ đơn giản là vì họ phải chịu cùng những điều kiện sống trong tự nhiên. Nếu có hai thế lực đạo đức đối lập đang hoạt động, chúng ta có thể mong đợi thấy phép màu, sự đảo ngược hoặc ngoại lệ – dấu hiệu của một can thiệp giữa xung đột. Nhưng chúng ta không thấy.

 

Vậy là chúng ta còn lại giả thuyết thứ tư: rằng Gót thì trung lập về đạo đức. Cấu trúc của thế giới cho thấy không có sự thiên vị về đạo đức. Những luật tự nhiên mà Gót tạo ra đối xử với mọi người như nhau, bất kể tính cách hay hành vi. Nếu Gót tốt, chúng ta có thể mong đợi những luật đó ít nhất sẽ ưu ái người công chính theo một cách nào đó. Nhưng chúng ta không thấy bằng chứng nào về điều đó.

 

Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng: Chúng ta nên tin tưởng vào bằng chứng của kinh nghiệm thực tại đến mức nào? Bản thân Philo tuyên bố rằng chúng ta không nên dựa vào kinh nghiệm để tìm hiểu về bản chất đạo đức của Gót – rằng chỉ có sự vén lên cho thấy huyền bí mới có thể cho chúng ta biết điều đó. Nhưng điều này dường như đi ngược lại tinh thần của toàn bộ đàm thoại – và đi ngược lại với những tin tưởng, giả định, nguyên tắc cơ bản định hình và hướng dẫn lý luận triết học sâu xa của Hume (qua Philo: (a) duy nghiệm / empiricism: tin tưởng rằng tất cả kiến ​​thức phải đến từ kinh nghiệm và quan sát. (b) thuyết hoài nghi / Skepticism: i: khuynh hướng nghi ngờ hoặc giữ lại sự phán xét khi không thể chắc chắn. (c) Thuyết tự nhiên / Naturalism: Ý tưởng rằng thiên nhiên hoạt động theo những qui luật và những nguyên nhân có thể được nghiên cứu mà không cần đưa ra những giải thích siêu nhiên. (d) Từ chối thuyết nhân hóa/ anthropomorphism: Một cam kết tránh phóng chiếu những đặc điểm, tính cách của con người (như đạo đức hoặc ý định) lên thần thánh nhưng không có bằng chứng rõ ràng.

 

Hume tin tưởng mạnh mẽ rằng chúng ta chỉ nên đặt tin tưởng của chúng ta vào những gì chúng ta có thể quan sát và kinh nghiệm, thay vì chỉ dựa trên những suy đoán, thẩm quyền tôn giáo hay lý luận trừu tượng. Ý tưởng này là cốt lõi trong triết lý của Hume, đặc biệt trong Enquiry Concerning Human Understanding (Một Điều Tra Về Những Khả Năng Nhận Thức Của Con Người) của ông, trong đó ông lập luận rằng người khôn ngoan là người cân bằng tin tưởng với bằng chứng một người khôn ngoan nên tỷ lệ tin tưởng với bằng chứng. Nói cách khác: hãy tin tưởng mạnh mẽ hơn khi chúng ta có bằng chứng mạnh mẽ và hãy nghi ngờ khi bằng chứng yếu. Theo quan điểm này, lập luận của Philo trở nên mạnh mẽ hơn. Philo không chỉ nói rằng, “Nếu chúng ta ngu dại để cố gắng phán đoán Gót bằng kinh nghiệm, chúng ta sẽ kết luận rằng Ngài là trung lập về đạo đức”. Philo đang gợi ý một gì sâu xahơn: Với những bằng chứng chúng ta có, sự tin tưởng hợp lý nhất là nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ thì vô cảm về mặt đạo đức.

 

Kết luận đó, mặc dù không công khai là không tin có gót, nhưng rất gần với nó. Nếu nguyên nhân của vũ trụ là trung lập về đạo đức – không thiện cũng không ác– thì đó là loại Gót nào? Có thể đó không phải là “Gót” theo bất kỳ nghĩa tôn giáo truyền thống nào cả. Có thể đó chỉ là một sức mạnh không-nhân hóa hay quy luật của tự nhiên. Và tất nhiên, điều đó phù hợp với quan điểm triết học rộng hơn của Hume. Mặc dù Philo và những người khác trong đàm thoại vẫn tiếp tục nói như thể họ tin vào Gót, nhưng có thể Hume, qua Philo, đang âm thầm chỉ cho chúng ta một lập luận tinh tế về thuyết không tin có gót.

 

Phần XI.

 

D 11.1, KS 203

Tôi không ngần ngại nhìn nhận, Cleanthes nói, rằng tôi có khuynh hướng nghi ngờ việc thường xuyên lặp lại từ vô hạn, vốn chúng ta gặp trong tất cả những người viết về gót học, nghe giống như ca ngợi khoa trương hơn là triết học chân chính, và rằng bất kỳ mục đích của lý luận nào, và ngay cả của tôn giáo, sẽ được phục vụ tốt hơn, nếu như chúng ta hài lòng với những cách diễn đạt chính xác hơn và ôn hòa hơn. Những thuật ngữ, đáng ngưỡng mộ, tuyệt diệu, vĩ đại vô cùng, khôn ngoan thánh thiện; những từ này đã đủ lấp đầy trí tưởng tượng của con người. Vượt ra ngoài những thuật ngữ đó không chỉ dẫn đến sự nhầm lẫn và phi lý và không có tác động thực sự nào đến cảm xúc hoặc lòng tin tưởng của chúng ta. Bây giờ, trong trường hợp chúng ta đang thảo luận, nếu chúng ta bác bỏ tất cả so sánh tương tự của con người, như có vẻ là ý định của bạn, Demea, tôi e rằng chúng ta từ bỏ từ bỏ tôn giáo, và không giữ lại bất kỳ khái niệm có ý nghĩa nào về Đấng tối cao vốn chúng ta tuyên bố tôn thờ. Nhưng nếu chúng ta duy trì phép loại suy với trí thông minh của con người, thì chúng ta phải nhìn nhận rằng chúng ta không bao giờ có thể dung hòa sự hiện diện của cái Ác trên thế giới với ý tưởng về những thuộc tính vô hạn. Và ngay cả còn hơn thế nữa, chúng ta không bao giờ có thể chứng minh những thuộc tính như vậy dựa trên thế giới mà chúng ta quan sát.Tuy nhiên, nếu chúng ta giả định Tác giả của Tự nhiên là toàn hảo hữu hạn, đúng hơn là có được một mức độ hoàn hảo cao, mặc dù giới hạn, vượt xa con người, thì chúng ta có thể bắt đầu giải thích sự hiện diện của cả cái Ác trong tự nhiên và cái Ác trong đạo đức. Mọi phương diện không may hoặc khó hiểu của thế giới sau đó có thể được giải thích: một cái Ác nhỏ hơn có thể được cho phép để ngăn chặn một cái Ác lớn hơn; một số bất tiện nhất định có thể được dung thứ để đạt được sự việc tốt đẹp hơn; và nhìn chung, một thế giới như thế giới của chúng ta có thể là kết quả của một bản chất nhân ái được hướng dẫn bởi trí tuệ nhưng bị giới hạn bởi sự cần thiết. Philo, bạn luôn nhanh chóng đưa ra những cái nhìn, suy ngẫm và loại suy mới – tôi thực sự muốn nghe suy nghĩ của bạn về lý thuyết mới này. Nếu nó xứng đáng với sự chú ý của chúng ta, chúng ta có thể dành nhiều thời gian hơn sau đó để phát triển nó thành một lập luận đầy đủ hơn.

 

D 11.2, KS 203-4

Cảm nghĩ của tôi, Philo trả lời, không có gì đáng để làm thành một bí ẩn; và do đó, không rào đón, tôi sẽ trình bày những gì diễn ra trong tôi, liên quan với đề tài đang bàn luận. Tôi nghĩ chúng ta phải nhìn nhận rằng: nếu giả định có một người với trí tuệ thông minh rất giới hạn, lại hoàn toàn xa lạ, không quen thuộc gì với vũ trụ, nhưng được đoan chắc rằng vũ trụ đã là tạo phẩm của một hữu thể rất thánh thiện, rất trí tuệ khôn ngoan, và rất quyền năng (dù không vô hạn). Người này, từ những phỏng đoán riêng của ông, sẻ hình thành một ý tưởng trước tiên về vũ trụ rất khác biệt với những gì chúng ta thấy qua kinh nghiệm; cũng sẽ không bao giờ người này tưởng tượng được, chỉ từ những thuộc ính của nguyên nhân đầu tiên vốn được cho biết, rằng kết quả có thể là đầy rẫy tệ nạn, đau khổ và hỗn loạn như những gì xuất hiện trong đời sống này. Bây giờ giả định, rằng nhân này được đưa vào trong thế giới này, [1] vẫn được đoan chắc, rằng đó là công trình của một một Hữu thể tối cao và nhân ái như vậy. Có lẽ, người này sẽ ngạc nhiên trước sự thất vọng , nhưng sẽ không bao giờ rút lại tin tưởng trước đây của mình, nếu như đã dựng trên trên bất kỳ lập luận rất vững chắc nào; vì một trí tuệ thông minh hạn hẹp như vậy phải cảm nhận được sự mù qáng và thiếu hiểu biết của chính mình, và sẽ phải thừa nhận rằng có thể có nhiều những giải pháp cho những hiện tượng này , vốn sẽ mãi mãi nằm ngoài sự hiểu biết của chính người này. Nhưng sự giả định, vốn là trường hợp thực liên quan đến con người, rằng sinh vật này không được thuyết phục trước về một trí tuệ thông minh tối cao, nhân ái và quyền năng, nhưng được để tự nhiên thu tập tin tưởng tôn giáo như vậy từ những gì quan sát được bên ngoài sự vật; điều này hoàn toàn thay đổi trường hợp, và người này sẽ không bao giờ tìm thấy bất kỳ lý do nào cho kết luận như vậy. Người này có thể hoàn toàn bị thuyết phục về những giới hạn hẹp của sự hiểu biết của mình; nhưng điều này sẽ không giúp người này hình thành suy luận về sự tốt lành của những quyền năng siêu việt, vì người này phải hình thành suy luận đó từ những gì người này biết, không phải từ những gì người này không biết. Bạn càng phóng đại sự yếu đuối và sự thiếu hiểu biết của người này, bạn càng khiến người này trở nên thiếu tự tin và khiến người này nghi ngờ nhiều hơn rằng những đề tài như vậy nằm ngoài tầm với của những khả năng của người này. Do đó, bạn buộc phải lý luận với người này chỉ từ những hiện tượng đã biết và loại bỏ mọi giả định hay phỏng đoán tùy tiện. [2]

 

D 11.3, KS 204-5

Tôi đã chỉ cho bạn một tòa nhà hay cung điện, nơi không có một căn phòng nào thuận tiện hay dễ chịu; ơ đó những cửa sổ, cửa ra vào, lò sưởi, lối đi, cầu thang và toàn bộ kiến trúc của tòa nhà là nguồn gốc của tiếng ồn, sự hỗn loạn, mệt mỏi, bóng tối và cực nóng và cực lạnh; bạn chắc chắn sẽ đổ lỗi cho sự sắp đặt, không cần thêm bất kỳ xem xét nào xa hơn. Cho dù nhà kiến ​​trúc có tinh tế hay khéo léo đến đâu, thì cũng chẳng đạt được gì. Sẽ là vô ích, thất bại nếu người này cố gắng phô trương sự tinh tế của ông, và chứng minh với bạn rằng nếu cửa ra vào hay cửa sổ này bị thay đổi, những tồi tệ hơn sẽ xảy ra. Những gì ông nói, có thể hoàn toàn đúng: Việc thay đổi một chi tiết cụ thể, trong khi những phần khác của tòa nhà vẫn giữ nguyên, chỉ có thể làm tăng thêm sự bất tiện. Nhưng nhìn chung, bạn vẫn sẽ khẳng định rằng, nếu nhà kiến trúc có tài năng và ý định tốt, ông có thể đã hình thành một thiết kế như vậy cho toàn bộ, và có thể đã điều chỉnh những phần theo cách như vậy, để khắc phục tất cả hay hầu hết những bất tiện này. Sự kém cỏi của ông ta, hay ngay cả với sự thiếu hiểu biết của chính bạn về một thiết kế như vậy, sẽ không bao giờ thuyết phục bạn về sự không thể thực hiện được cho tốt đẹp hơn của nó. Nếu bạn tìm thấy nhiều bất tiện và dị dạng, xấu xí trong tòa nhà, bạn sẽ luôn luôn chỉ trích người kiến trúc, không cần đi sâu thêm vào bất kỳ chi tiết nào khác.

 

D 11.4, KS 205

Vắn tắt, tôi xin hỏi lại: Liệu thế giới, khi chúng ta nhìn nhận nó như một tổng thể và khi chúng ta thực sự kinh nghiệm nó, có thực sự là những gì chúng ta mong đợi một vị Gót toàn năng, thông thái và tốt lành tạo ra không? Để nói “có” sẽ đòi hỏi sẽ đòi hỏi một tiên kiến ​​rất kỳ lạ. Vì vậy, tôi kết luận: Ngay cả khi chúng ta có thể khiến thế giới có vẻ hợp lý với ý tưởng về một vị Gót như vậy – bằng cách đưa ra một số giả định hoặc phỏng đoán – chúng ta vẫn không thể dùng điều đó để hợp lý suy ra rằng vị Gót này thực sự hiện hữu.Tôi không nói rằng sự hợp lý này (hoặc “sự nhất quán”) là không thể được – chỉ là chúng ta không thể rút ra bất kỳ kết luận chắc chắn nào từ nó. Những phỏng đoán này (đặc biệt là nếu chúng ta không cho rằng Gót là vô hạn) có thể đủ để chứng minh rằng không có mâu thuẫn nào giữa thế giới và một vị Gót như vậy, nhưng chúng không bao giờ có thể là những nền tảng cho bất kỳ suy luận nào về sự hiện hữu của ngài.

 

D 11.5, KS 205

Có vẻ như có bốn hoàn cảnh, vốn tất cả, hay phần lớn những xấu xa, tai họa cho những sinh vật có cảm thức, và có thể là tất cả những hoàn cảnh này có thể là cần thiết và không thể tránh được. Chúng ta biết rất ít ngoài đời sống thông thường, hay ngay cả đời sống thông thường, nhìn theo hướng liên quan đến cấu trúc và hoạt động của một vũ trụ, không có phỏng đoán nào, dù hoang đường đến đâu, vốn có thể là không đúng; cũng như không có phỏng đoán nào, dù hợp lý đến đâu, cũng có thể là không sai lầm. Tất cả những gì thuộc về sự hiểu biết của con người, trong sụ ngu dốt sâu xa và tối tăm này, là phải hoài nghi, hay ít nhất là thận trọng, và đừng có chấp nhận bất kỳ giả thuyết nào, bất kể là gì; lại càng ít hơn, đặc biệt là giả thuyết không có dấu hiệu củathể xảy ra. Bây giờ, tôi khẳng định đây là trường hợp liên quan đến tất cả những nguyên nhân gây ra cái Ác và những hoàn cảnh vốn nó tùy thuộc. Không một nào trong số chúng hiện ra với lý trí con người, trong mức độ tối thiểu, là tất yếu hay không thể tránh ; chúng ta cũng không thể giả định chúng như vậy, nếu không dùng đến tưởng tượng tối đa.

 

D 11.6, KS 205-6

Hoàn cảnh đầu tiên đưa đến cái Ác, là sự sắp đặt hay cấu trúc và hoạt động của sự sáng tạo sinh vật, qua đó những đau đớn, cũng như những vui sướng, được dùng để kích thích mọi sinh vật hành động, và khiến chúng cẩn mật trong nỗ lực liên tục để tự sống còn Bây giờ, chỉ riêng vui sướng, trong nhiều những mức độ khác nhau của nó, dường như với sự hiểu biết của con người là đủ cho mục đích này. Tất cả những sinh vật có thể là vĩnh viễn trong một trạng thái vui sướng; nhưng khi bị thúc đẩy bởi bất kỳ nhu cầu nào của tự nhiên, chẳng hạn như khát, đói, mệt mỏi; thay vì đau đớn, chúng có thể cảm thấy một giảm bớt của vui sướng, qua đó chúng có thể được thúc đẩy tìm kiếm đối tượng cần thiết cho sự sinh tồn của chúng. Con người theo đuổi vui sướng cũng hăng hái như họ tránh đau đớn; ít nhất, có thể đã được cấu tạo như thế. Do đó, có vẻ rõ ràng là có thể tiếp tục sống với không bất kỳ đau đớn nào. Vậy tại sao bất kỳ động vật nào cũng có khả năng có cảm giác đau đớn như vậy? Nếu động vật có thể thoát khỏi nó trong một giờ, chúng có thể được miễn trừ vĩnh viễn khỏi nó; và cần phải có một sự sắp đặt đặc biệt của những cơ quan của chúng để tạo ra cảm giác đó, giống như để ban cho chúng thị giác, thính giác hay bất kỳ giác quan nào khác Chúng ta có nên phỏng đoán rằng một sự sắp đặt như vậy là cần thiết, với không cần bất kỳ lý do hiển nhiên nào không? và chúng ta có nên xây dựng trên sự phỏng đoán đó như trên sự thật chắc chắn nhất không?

 

D 11.7, KS 206

Nhưng chỉ có khả năng cảm thấy đau đớn sẽ không tự nó gây ra đau đớn, nếu không có hoàn cảnh thứ hai, tức là thế giới được vận hành theo những quy luật tổng quát; và không rõ rằng một thực thể toàn hảo (như Gót) sẽ cần phải vận hành thế giới bằng những quy luật tổng quát này. Đúng vậy; nếu mọi sự vật việc được điều khiển bởi những ý chí thần thánh, thì tiến trình của tự nhiên sẽ bị phá vỡ liên tục, và không một người nào có thể dùng lý trí của người này để hướng dẫn đời sống của họ. Nhưng liệu những quyết định thần thánh cụ thể khác có thể giải quyết được vấn đề đó không? Tóm lại, liệu Gót có thể loại bỏ mọi điều ác bất cứ khi nào chúng xuất hiện và tạo ra điều tốt ngay lập tức mà không cần một chuỗi nguyên nhân và kết quả để tạo ra nó không?

 

D 11.8, KS 206-7

Bên cạnh đó, chúng ta phải xem xét, rằng theo cấu trúc hiện tại vốn thế giới vận hành, trình tự diễn biến của Tự nhiên, dù được giả định là qui củ chính xác, nhưng không hiện ra như thế với chúng ta, và nhiều sự kiện rủi ro, không chắc chắn, và nhiều sự kiện không đáp ứng được những kỳ vọng của chúng ta. Sức khỏe và bệnh tật, thời tiết yên bình và bão tố, cùng vô số những ngẫu nhiên khác, vốn những nguyên nhân của chúng đều không biết được và khác nhau, có một ảnh hưởng lớn lao đến cả vận mệnh của những cá nhân cụ thể và sự thịnh vượng của toàn bộ xã hội: và thực sự, theo một cách nào đó, tất cả đời sống của con người đều tùy thuộc vào những bất ngờ như vậy.Do đó, một hữu thể, người biết được những nguồn bí mật của vũ trụ, có thể dễ dàng, bằng những ý chí cụ thể, biến tất cả những bất ngờ này thành tốt lành cho loài người, và khiến cả thế giới hạnh phúc, nhưng không tiết lộ bản thân trong bất kỳ hành động nào. Nếu một đoàn tàu đi với mục đích có lợi cho xã hội, luôn có thể được thuận buồm xuôi gió. Những nhà cai trị tốt có thể được khỏe mạnh và sống lâu. Những cá nhân, sinh ra trong quyền lực và ở vị trí lãnh đạo có thể tự nhiên được hình thành với tính khí tốt và khuynh hướng đạo đức. Một vài sự kiện như thế này, được tiến hành thường xuyên và khôn ngoan, sẽ thay đổi bộ mặt của thế giới; và dường như không làm xáo trộn trình tự diễn biến của Tự nhiên, hay làm rối loạn hành vi của con người, hơn là cấu trúc hiện tại vận hành mọi sự vật việc, nơi có những nguyên nhân đã trở nên bí mật, bất ổn và phức tạp. Ngay cả những thay đổi nhỏ cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Một thay đổi nhỏ trong não của Caligula khi ông còn nhỏ đa có thể đã biến ông từ một bạo chúa tàn ác thành một nhà cai trị khôn ngoan và công chính như hoàng đế Trajan. Một con sóng, chỉ lớn hơn một chút so với những con sóng khác, bằng cách nhấn chìm Caesar cùng với giàu có và quyền lực của ông xuống đáy đại dương, có thể đã cứu được tự do cho một phần lớn của loài người. Có thể, với những gì chúng ta biết, có những lý do chính đáng, tại sao Gót với sự hướng dẫn thiêng liêng hoặc trật tự có mục đích trong vũ trụ. không can thiệp theo cách này; nhưng chúng ta không biết chúng: và mặc dù chỉ giả định rằng những lý do như vậy hiện hữu, có thể đủ để cứu vãn kết luận liên quan đến những thuộc tính của thần thánh, nhưng chắc chắn nó không bao giờ có thể đủ để thiết lập kết luận đó. [3]

 

D 11.9, KS 207-8

Nếu mọi sự vật việc trong vũ trụ đều được những qui luật cơ bản, phổ quát của tự nhiên điều hành, và nếu động vật có khả năng cảm nhận đau đớn, thì dường như không thể tránh khỏi việc một số đau khổ, bất hạnh phải phát sinh từ nhiều va chạm hoặc tác động dữ dội của những vật thể vật lý và từ nhiều cách thức những quy luật tự nhiên hoặc kết hợp hoặc xung đột với nhau. Nhưng đau khổ, bất hạnh này sẽ rất hiếm, nếu không có hoàn cảnh thứ ba, vốn tôi đã nhắc ở trước, tức là sự giới hạn nghiêm ngặt vốn thiên nhiên phân bổ sức mạnh và khả năng cho mọi sinh vật sống. Mỗi loài động vật chỉ được trang bị những gì tối thiểu cần thiết để tồn tại. Những cơ quan và khả năng của tất cả những loài động vật được điều chỉnh rất tốt, và rất phù hợp với sự bảo tồn của chúng, đến nỗi, theo như lịch sử hay truyền thống, dường như không có loài nào bị tuyệt chủng trong vũ trụ. Mọi loài động vật đều có những năng khiếu cần thiết; nhưng những năng khiếu này được ban tặng một cấu trúc và hoạt động rất tỉ mỉ, đến nỗi bất kỳ sự suy giảm đáng kể nào cũng sẽ hủy diệt hoàn toàn sinh vật đó. Bất cứ nơi nào một sức mạnh được tăng lên, thì những sức mạnh khác cũng giảm đi tương ứng. Những loài động vật, loài nào vượt trội về nhanh nhẹn, đều thường khiếm khuyết sức mạnh thể chất. Những loài có cả hai, hoặc thường bất toàn trong một số giác quan của chúng, hoặc đều bị những nhu cầu mãnh liệt và liên tục đè nặng. Loài người, vốn lý trí và sự khôn ngoan là ưu điểm chính, loài phụ thuộc nhiều nhất vào hỗ trợ bên ngoài và thiếu hụt nhất về lợi thế thể chất tự nhiên: sinh ra không có quần áo tự nhiên, vũ khí, thức ăn hoặc nơi trú ẩn, và thiếu tất cả những tiện nghi cơ bản của cuộc sống, ngoại trừ những gì mà họ buộc phải tạo ra qua kỹ năng và sự cần cù của chính họ. Tóm lại, Tự nhiên dường như đã hình thành một phép tính chính xác về những nhu cầu của những sinh vật của nó; và giống như một người chủ nghiêm khắc, đã ban cho chúng một chút quyền năng hay năng khiếu nhiều hơn những gì đủ để đáp ứng những nhu cầu đó. Một bậc cha mẹ hào phóng hoặc chu đáo sẽ ban cho con cái mình nhiều khả năng hoặc nguồn lực để bảo vệ chúng khỏi tai nạn và đảm bảo hạnh phúc cũng như sự an lành, ngay cả trong những trường hợp bất hạnh nhất xảy ra cùng một lúc. Mọi trình tự của sự sống đã không những vực thẳm bao quanh, đến nỗi chỉ một lệch hướng nhỏ nhất khỏi con đường đúng, do nhầm lẫn hay cần thiết, cũng đủ khiến chúng ta rơi vào khốn khổ và hủy hoại. Một số tài nguyên, một số dự phòng nào đó được cung cấp để bảo đảm hạnh phúc; và những khả năng và nhu cầu thiết yếu cũng đã phải điều chỉnh, nhưng không phải theo một cấu trúc và hoạt động cứng nhắc như vậy. Tác giả của Thiên nhiên được cho là có sức mạnh không thể tưởng tượng nổi, sức mạnh của ông được cho là vô cùng lớn, nếu không muốn nói là vô hạn. Và dựa trên những gì chúng ta có thể quan sát, có vẻ như không có lý do gì một quyền năng như vậy lại phải quá keo kiệt trong những đối xử với những sinh vật của ông. Nếu sức mạnh của ông thực sự bị giới hạn, thì việc tạo ra ít những loài động vật hơn ban cho mỗi loài nhiều khả năng hơn vì hạnh phúc và sự sống còn của chúng, sẽ là hợp lý hơn.Không ai nghĩ rằng một người xây dựng là khôn ngoan nếu người này đảm nhận một dự án lớn hơn những nguồn lực vốn có để hoàn tất. Tương tự như vậy, sẽ không khôn ngoan khi một người sáng tạo thiết kế một thế giới đầy rẫy những sinh vật có quá ít khả năng sinh tồn, trừ khi quyền năng của ông bị giới hạn.

 

D 11.10, KS 208-9

Để chữa trị cho hầu hết những căn bệnh của đời sống con người trở nên khó khăn hoặc bất hạnh, tôi không đòi hỏi con người phải có đôi cánh của đại bàng, sự nhanh nhẹn của con nai, sức mạnh của con bò, móng vuốt của sư tử, vảy cá sấu hay da tê giác; tôi càng không đòi hỏi những đặc điểm thể chất siêu phàm hay trí thông minh thiên thần. Tôi sẽ hài lòng với chỉ một cải thiện khiêm tốn về một khả năng tinh thần hay đạo đức. Hãy để toàn thể loài người tự nhiên có được một khuynh hướng mạnh mẽ hơn để làm việc chăm chỉ, nhiều năng lượng và sự sống động của não thức, và tập trung vững chãi vào nỗ lực và trách nhiệm. Hiện tại, chỉ một số ít cá nhân có thể đạt được mức độ siêng năng này qua thói quen và kỷ luật. Nhưng nếu toàn bộ loài người tự nhiên có phẩm chất này, kết quả sẽ là ngay lập tức và hoàn toàn có lợi, không gây bất kỳ tác hại nào. Hầu như tất cả những tệ nạn do hành vi của con người, cũng như bản chất của đời sống con người gây ra đều phát sinh từ sự nhàn rỗi lười biếng; và nếu loài người chúng ta, theo cấu tạo ban đầu của cơ thể, được miễn trừ khỏi tệ nạn hay sự yếu đuối này, thì việc canh tác đất đai toàn hảo, cải thiện nghệ thuật và sản xuất, thực hiện chính xác mọi công vụ và bổn phận, ngay lập tức theo sau; và con người có thể ngay lập tức đạt đến trạng thái xã hội đó, trạng thái vốn một chính phủ được quản lý tốt nhất có thể đạt được nhưng vẫn chưa toàn hảo. Nhưng vì sự cần cù là một sức mạnh, và là sức mạnh có giá trị nhất trong mọi sức mạnh, nên Tự nhiên dường như quyết tâm, vừa vặn với những quy tắc thông thường của nó, đã ban tặng cho con người với một bàn tay rất tiết kiệm; và thà trừng phạt khắc nghiệt con người vì thiếu sót cần cù, hơn là thưởng cho những thành tựu của con người. Tự nhiên đã tạo ra hình hài con người như thế, khiến chỉ những nhu cầu mạnh nhất và cấp bách nhất mới có thể buộc con người làm việc; và thiên nhiên dùng mọi nhu cầu khác của con người để chống lại, ít nhất một phần, sự thiếu hụt của sự siêng năng, và để ban cho con người một phẩn nhỏ của khả năng (như siêng năng) vốn Tự nhiên đã nghĩ là thuận hợp tự nhiên để từ chối không ban cho con người ngay từ đầu. Ở đây, những đòi hỏi của chúng ta có thể được chấp nhận rất khiêm tốn, và do đó hợp lý hơn. Nếu chúng ta đòi hỏi những ban tặng của sự thấu hiểu và khả năng phán đoán vượt trội, một thẩm khiếu tinh tế hơn về cái đẹp, một sự nhạy cảm tốt đẹp hơn với nhân ái và tình bạn; chúng ta có thể bị buộc tội là cố gắng làm đảo lộn trật tự của Tự nhiên, rằng chúng ta muốn nâng cao tự thân vượt quá vị trí thích hợp của hiện hữu, rằng những món quà vốn chúng ta đòi hỏi, không phù hợp với trạng thái và điều kiện của chúng ta, sẽ chỉ gây hại cho chúng ta. Nhưng thật khó khăn; tôi dám nói lại lần nữa, thật khó khăn, khi chúng ta bị đặt trong một thế giới đầy rẫy những thèm muốn và nhu cầu thiết yếu như thế, nơi hầu như mọi hữu thể và yếu tố quanh chúng ta hoặc đều chống lại hoặc từ chối giúp đỡ chúng ta. Nhưng trên hết, chúng ta cũng phải tranh đấu với tính khí của chính chúng ta, vì chúng ta đã bị từ chối một khả năng quan trọng, sự siêng năng, sức mạnh duy nhất có thể bảo vệ chúng ta khỏi tất cả những xấu xa này.

 

D 11.11, KS 209-10

Hoàn cảnh thứ tư, nguồn gốc phát sinh đau khổ và khiếm khuyết của vũ trụ, nằm ở thiết kế sai sót hay không chính xác của tất cả những sức mạnh và nguyên lý thúc đẩy và chi phối guồng máy vĩ đại của tự nhiên. Phải nhìn nhận rằng có một ít phần của vũ trụ dường như không phục vụ cho mục đích nào đó, và loại bỏ chúng sẽ không tạo ra một khiếm khuyết và hỗn loạn có thể nhìn thấy được trong toàn bộ. Những phần đều gắn kết với nhau; không thể chạm vào một phần nào nhưng không ảnh hưởng đến phần còn lại, ở mức độ lớn hơn hay nhỏ hơn. Nhưng đồng thời, phải quan sát thấy rằng không có phần nào hay nguyên lý nào trong số này, dù hữu ích đến đâu, được điều chỉnh chính xác đến đâu, trong những ranh giới vốn bao gồm sự hữu ích của chúng; nhưng tất cả chúng, trong mọi trường hợp, đều có khả năng rơi vào thái cực này hay thái cực khác. Người ta có thể hình dung rằng tác phẩm vĩ đại này chưa nhận được sự hoàn thiện cuối cùng của người sáng tạo; mọi phần đều chưa được hoàn thiện và những nét vẽ được thực hiện rất thô sơ..Vì vậy, gió là cần thiết để vận chuyển hơi nước dọc theo bề mặt của quả địa cầu và hỗ trợ con người trong việc điều hướng: nhưng bao nhiêu lần, khi nổi lên thành bão và bão tố, chúng trở nên có hại? Mưa là cần thiết để nuôi dưỡng tất cả những loài thực vật và loài động vật trên trái đất: nhưng chúng thường bị khiếm khuyết như thế nào? bao nhiêu lần quá mức? Nhiệt là cần thiết cho mọi sự sống và thảm thực vật; nhưng không phải lúc nào cũng tìm thấy ở tỷ lệ thích hợp. Sức khỏe và sự thịnh vượng của động vật tùy thuộc vào sự pha trộn và tiết dịch của cơ thể : nhưng những phần không thực hiện chức năng thích hợp của chúng một cách thường xuyên. Còn gì hữu ích hơn tất cả những đam mê của não thức, tham vọng, phù phiếm, tình yêu, sự tức giận? Nhưng bao nhiêu lần chúng phá vỡ ranh giới của chúng và gây ra những biến động lớn nhất trong xã hội? Không có gì có lợi như vậy trong vũ trụ, ngoài những gì thường trở nên có hại, do sự dư thừa hay khiếm khuyết của nó; và Tự nhiên cũng không bảo vệ, với độ chính xác cần thiết, chống lại mọi sự hỗn loạn hay nhầm lẫn. Sự bất thường có lẽ không bao giờ lớn đến mức hủy diệt bất kỳ loài nào; nhưng thường đủ để khiến những cá thể rơi vào diệt vong và đau khổ.

 

D 11.12, KS 210-11

Vậy thì, tất cả, hay phần lớn cái Ác tự nhiên đều tùy thuộc vào sự cùng nhau xảy ra của bốn hoàn cảnh này. Nếu tất cả những sinh vật sống đều không có khả năng cảm nhận đau đớn, hoặc nếu thế giới được những lựa chọn cụ thể, có chủ ý được ý chí thần thánh điều hành trực tiếp, thay vì theo những quy luật phổ quát, thì cái Ác sẽ không bao giờ xâm nhập vào vũ trụ: và nếu những loài động vật được ban tặng một kho lớn sức mạnh và khả năng, vượt quá những gì vốn sự cần thiết nghiêm ngặt đòi hỏi; hay những nguồn và nguyên lý khác nhau của vũ trụ được định hình chính xác đến mức luôn duy trì được tính khí và môi trường công bằng; hẳn là có rất ít điều xấu khi so sánh với những gì chúng ta cảm thấy hiện tại. Vậy thì chúng ta sẽ tuyên bố gì trong dịp này? Chúng ta có sẽ nói, rằng những hoàn cảnh này là không cần thiết và chúng có thể dễ dàng bị thay đổi trong tiến trình sắp đặt của vũ trụ? Quyết định này có vẻ quá tự phụ với những sinh vật mù quáng và thiếu hiểu biết như chúng ta. Chúng ta hãy khiêm tốn hơn trong những kết luận của chúng ta. Chúng ta hãy nhìn nhận rằng, nếu sự tốt lành của Thần thánh (ý tôi là lòng tốt lành giống như con người) có thể được thiết lập trên bất kỳ lý do nào có thể chấp nhận được tiên nghiệm, thì những hiện tượng – những không hoàn hảo và đau khổ – này, dù có bất lợi đến đâu, cũng sẽ không đủ để lật đổ nguyên lý đó; nhưng có thể dễ dàng, trong một cách nào đó chưa biết, có thể hòa giải được với nó. Nhưng chúng ta vẫn khẳng định rằng, vì sự tốt lành này không được thiết lập trước nhưng phải suy ra từ những sự kiện có thể quan sát được, nên không thể có căn cứ cho một suy luận như vậy trong khi có quá nhiều xấu xa trong vũ trụ, và trong khi những sai sót này có thể dễ dàng được sửa chữa—ít nhất là trong chừng mực sự hiểu biết của con người có khả năng phán đoán trong những vấn đề như vậy. Tôi đủ hoài nghi để thừa nhận rằng những hiện tượng xấu này trên thế giới, bất chấp mọi lập luận của tôi, vẫn có thể không trực tiếp mâu thuẫn với những thuộc tính thiêng liêng vốn bạn tuyên bố, chẳng hạn như sự tốt lành hay trí tuệ. Nhưng chắc chắn chúng không bao giờ có thể chứng minh được những thuộc tính này. Một kết luận như vậy không thể xuất phát từ thuyết Hoài nghi ; nhưng phải phát sinh từ những hiện tượng và từ sự tự tin của chúng ta vào những lý lẽ vốn chúng ta suy ra từ những hiện tượng này.

 

D 11.13, KS 211

Hãy nhìn quanh vũ trụ này. Thật là một sự phong phú vô cùng của những sinh vật, hoạt động và có tổ chức, nhạy cảm và năng động! Bạn ngưỡng mộ sự đa dạng và khả năng sinh sản phi thường này. Nhưng hãy xem xét kỹ hơn một chút những sinh vật sống này, những sinh vật duy nhất đáng được quan tâm. Thật thù địch và phá hoại lẫn nhau! Tất cả chúng đều không đủ cho hạnh phúc của chính chúng! Thật đáng khinh hay đáng ghét với người xem! Toàn bộ không trình bày gì ngoài ý tưởng về một Tự nhiên mù quáng, được thụ thai bởi một nguyên lý sống động vĩ đại, và tuôn ra từ lòng nó, không có bất kỳ suy nghĩ và hay quan tâm chăm sóc nào, những đứa con thương tật và non yếu thui chuột của nó. [4]

 

D 11.14, KS 211-2

Ở đây, hệ thống như những tín đồ của Mani trình bày đã xuất hiện như một giả thuyết thích hợp để giải quyết khó khăn: và không nghi ngờ gì nữa, trong một số phương diện, nó rất hợp lý và có nhiều xác xuất xảy ra hơn giả thuyết thông thường, bằng đưa ra một lý giải hợp lý về sự pha trộn kỳ lạ giữa thiện và ác, xuất hiện trong đời sống. Nhưng nếu chúng ta xem xét, mặt khác, sự đồng nhất và thống nhất toàn hảo của những phần của vũ trụ, chúng ta sẽ không phát hiện ra trong đó bất kỳ dấu hiệu nào của cuộc chiến giữa một sinh vật độc ác với một sinh vật nhân từ. Thực sự có sự đối lập giữa đau đớn và khoái lạc trong cảm xúc của những sinh vật có cảm giác: nhưng không phải tất cả những hoạt động của Tự nhiên đều được thực hiện bởi sự đối lập của những nguyên lý đối lập, nóng và lạnh, ẩm và khô, nhẹ và nặng sao? Kết luận đúng đắn là, nguồn gốc ban đầu của mọi sự vật việc hoàn toàn thờ ơ với tất cả những nguyên lý này, và không quan tâm đến điều thiện hơn điều ác, không quan tâm đến nhiệt hơn lạnh, không quan tâm đến khô hơn ẩm, hoặc nhẹ hơn nặng [5]

 

D 11.15, KS 212

Có thể có bốn giả thuyết được đưa ra liên quan đến những nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ [6] ; rằng chúng được ban tặng sự tốt lành toàn hảo, rằng chúng có sự độc ác toàn hảo, rằng chúng đối lập và có cả sự tốt lành và độc ác, rằng chúng không có sự tốt lành cũng không có sự độc ác. Những hiện tượng hỗn hợp không bao giờ có thể chứng minh được hai giả thuyết không hỗn hợp trước đó. Và tính đồng nhất và ổn định của những định luật phổ quát dường như đối lập với giả thuyết thứ ba. Do đó, giả thuyết thứ tư có vẻ có khả năng xảy ra nhất.

 

D 11.16, KS 212

Những gì tôi đã nói về cái Ác tự nhiên - những đau khổ phát sinh từ trình tự bình thường của tự nhiên, như bệnh tật, nạn đói và những tai họa khác - sẽ áp dụng cho cái Ác đạo đức, - những đau khổ do hành động của con người gây ra, như tàn ác, bất công hoặc bạo lực - với ít hoặc không có sự thay đổi; và chúng ta không có lý do gì để suy ra rằng sự ngay thẳng của đấng tối cao giống với sự ngay thẳng của con người hơn là lòng nhân ái của ngài giống với lòng nhân ái của con người. Không, người ta sẽ nghĩ rằng chúng ta có lý do mạnh mẽ hơn nữa để loại trừ khỏi ngài những tình cảm đạo đức, như chúng ta kinh nghiệm của chúng ta; vì cái Ác về mặt đạo đức, theo quan điểm của nhiều người, chiếm ưu thế hơn nhiều so với cái thiện về mặt đạo đức so với cái Ác tự nhiên so với cái thiện tự nhiên.

 

D 11.17, KS 212

Nhưng ngay cả nếu giả định này được thừa nhận, và ngay cả nếu đức hạnh, vốn có trong loài người, sẽ được nhìn nhận là cao hơn nhiều so với tệ nạn; nhưng chừng nào còn có bất kỳ tệ nạn nào trong vũ trụ, thì những người theo thuyết Nhân hóa sẽ rất bối rối, làm thế nào để giải thích cho nó. Bạn phải gán cho nó một nguyên nhân, vốn không cần phải viện đến nguyên nhân đầu tiên. Nhưng vì mọi kết quả đều phải có một nguyên nhân, và nguyên nhân đó lại là nguyên nhân cho một nguyên nhân khác; nên bạn chỉ còn lại hai lựa chọn: hoặc tiếp tục chuỗi nguyên nhân này vô tận, hoặc cuối cùng truy nguyên về nguyên lý ban đầu đó, nónguyên nhân sau cùng của mọi sự vật việc – – – – – -

 

D 11.18, KS 212-3

Dừng lại! Dừng lại! Demea kêu lên : Trí tưởng tượng của bạn đẩy bạn đi đâu vậy? Tôi đã liên minh với bạn, để chứng minh bản chất khó hiểu của đấng thiêng liêng, và bác bỏ những nguyên lý của Cleanthes, người sẽ đo lường mọi sự vật theo một quy luật và tiêu chuẩn của con người. Nhưng bây giờ tôi thấy bạn đang bước vào chính loại lập luận vốn những người vô đạo nhất những người hoài nghi về đạo đức nhất thường đưa ra. và phản bội lại chính nghĩa thánh thiện vốn bạn dường như đã ủng hộ. Vậy thì, có phải bạn bí mật là một kẻ thù nguy hiểm hơn cả chính Cleanthes không?

 

D 11.19, KS 213

Và có phải bạn nhận ra điều đó quá muộn không? Cleanthes trả lời. Tin tôi đi, Demea; bạn Philo của bạn, ngay từ đầu, đã chế giễu cả hai chúng ta suốt thời gian qua, trong khi giả vờ đồng ý.; và phải thú nhận rằng, lý luận thiếu khôn ngoan và bất cẩn của gót học tầm thường của chúng ta đã cho ông một cái cớ chính đáng để chế giễu nó. Sự yếu đuối hoàn toàn của lý trí con người, tuyên bố rằng Bản chất Thần thánh hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, sự khốn khổ lớn lao và phổ quát cùng sự gian ác còn lớn hơn của con người. Đây chắc chắn là những đề tài kỳ lạ vốn những nhà thần học và học giả tôn giáo chính thống nhiệt tình đón nhận. Trong những đại của u tối và mê tín, có lẽ những quan điểm như vậy có thể được chấp nhận một cách an toàn; và có lẽ, không có quan điểm nào về sự vật việc phù hợp hơn để thúc đẩy mê tín, hơn là những quan điểm khuyến khích sự kinh ngạc mù quáng, sự thiếu tự tin và u sầu của loài người.

 

D 11.20, KS 213

Philo xen vào, đừng đổ lỗi quá nhiều cho sự thiếu hiểu biết của những quý ngài đáng kính này. Họ biết cách thay đổi phong cách của họ theo thời đại. Trước đây, đề tài gót học phổ biến nhất là duy trì rằng đời sống con người là phù phiếm và khốn khổ, và phóng đại những xấu xa và đau khổ vốn là những gì xảy ra với con người. Nhưng trong những năm gần đây, những nhà gót học, chúng ta thấy, bắt đầu rút lại lập trường này và duy trì, mặc dù vẫn còn một chút do dự, rằng có nhiều tốt lành hơn xấu xa, nhiều vui sướng hơn đau khổ, ngay cả trong đời sống này. Khi tôn giáo hoàn toàn dựa vào khuynh hướng cảm xúc và cách nuôi dạy từ nhỏ, thì việc thúc đẩy quan điểm u sầu về cuộc sống là điều hợp lý - xét cho cùng, mọi người có nhiều khả năng tìm đến sự giúp đỡ của thần thánh khi họ cảm thấy buồn bã hoặc tuyệt vọng. Nhưng bây giờ, khi mọi người bắt đầu dựa nhiều hơn vào những nguyên tắc và lý luận, những nhà học đã phải thay đổi chiến thuật. Họ cần những lập luận ít nhất có thể đứng vững trước một số mức độ giám sát hợp lý. Sự thay đổi này giống nhau (và xuất phát từ cùng một nguyên nhân) với sự thay đổi vốn tôi đã nhận xét trước đây liên quan đến thuyết hoài nghi.

 

D 11.21, KS 213

Như vậy Philo tiếp tục cho đến cuối tinh thần phản đối và sự chỉ trích của ông về những quan điểm đã được thiết lập. Nhưng tôi có thể nhận thấy rằng Demea không hề thích phần sau của phát biểu; và ngay sau đó, ông ta đã lấy cớ này hay cớ khác để rời khỏi nhóm.

 

 

 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(May/2025)

(Còntiếp... →)

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Trong nội dung này, “được đưa vào thế giới” không nhất thiết có nghĩa là sinh ra theo nghĩa thông thường của con người, cũng không có nghĩa đen là được đưa đến từ một hành tinh khác. Đây là một thí nghiệm tư tưởng triết học: Hume yêu cầu chúng ta tưởng tượng một trí thông minh hạn chế (không nhất thiết là con người) không biết gì về vũ trụ, và sau đó đột nhiên được đưa vào thế giới – tức là để quan sát nó trực tiếp.

[2] Đoạn văn này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đàm thoại này của Hume, khi Philo áp dụng phương pháp duy nghiệm của chính Cleanthes để phản lại lập luận về thiết kế. Nếu chúng ta lý luận từ kinh nghiệm – tức là từ những đặc điểm thực tại có thể quan sát được của thế giới – và suy ra bản chất nguyên nhân của nó, chúng ta thấy tự đối mặt không phải với một thế giới phản ánh rõ ràng sự khôn ngoan hay lòng tốt của thần linh, nhưng một thế giới đầy rẫy đau khổ, hỗn loạn và mơ hồ về đạo đức.

Quan điểm của Philo không phải là phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của một đấng sáng tạo, nhưng để lập luận rằng nếu tin tưởng vào một thần linh nhân ái được đặt trên sự quan sát duy nghiệm, khi đó bằng chứng phải hỗ trợ cho tin tưởng đó. Và bằng chứng đó là gì? Đó là thế giới như chúng ta thấy: đầy rẫy cái ác trong tự nhiên và đạo đức, đau đớn, hủy diệt và sự thờ ơ rõ ràng. Trừ khi người ta bổ sung bức tranh này với những giả định mang tính suy đoán – chẳng hạn như những mục đích ẩn giấu, những tốt lành không biết được, hay sự hài hòa tương lai – thì việc suy luận về một thần linh toàn năng và toàn thiện là không có cơ sở.

Đoạn văn này báo trước vấn đề về cái ác, về bằng chứng, thời nay: ý tưởng cho rằng quy mô và bản chất tuyệt đối của đau khổ trên thế giới được coi như bằng chứng mạnh mẽ phản lại thuyết tin có gót truyền thống. Hume, qua Philo, chuyển gánh nặng của bằng chứng: nếu tin tưởng tôn giáo tuyên bố được hỗ trợ bởi trật tự tự nhiên (gót học duy nghiệm), thì nó phải trả lời cho những khiếm khuyết và sự tàn ác trong trật tự đó. Gót học không thể chỉ đơn giản kêu gọi sự bí ẩn nếu nó bắt đầu bằng kêu gọi kinh nghiệm.

[3] Caligula: Hoàng đế Roma từ năm 37 đến năm 41 AD, khét tiếng vì tàn ác và điên rồ. Triều đại ngắn ngủi của ông được đánh dấu bằng chính thể độc tài chuyên chế. Trajan: Hoàng đế Roma từ năm 98 đến năm 117 AD, được ca ngợi vì sự lãnh đạo sáng suốt và mở rộng đế quốc đến quy mô lớn nhất. Julius Caesar: Tướng lĩnh và nhà độc tài Roma đã chấm dứt chính thể Cộng hòa qua việc tập trung quyền lựcdành quyền chuyên chế.; bị ám sát năm 44 BC.

[4] Đoạn văn này phản ảnh một cái nhìn về thiên nhiên ban đầu, như giàu sự sống nhưng cũng khắc nghiệt, thờ ơ lãnh đạm,  và đầy đau khổ. Mặc dù viết trước Darwin, nhưng nó dự đoán ý tưởng về sự đấu tranh để sinh tồn. Thay vì đưa ra một lý thuyết khoa học, nó nêu lên những hoài nghi triết học về cứu cánh hoặc sự tốt lành trong thế giới tự nhiên.

[5] Hệ thống Mani được nhà tiên tri Mani sáng lập vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên và trở thành một phong trào tôn giáo lan rộng khắp những đế quốc Rôma, Persia, Trung Á và một số vùng nước Tàu. Đây là một triết lý nhị nguyên giải thích sự tồn tại của thiện và ác là kết quả của đấu tranh vũ trụ giữa hai nguyên lý vĩnh cửu và đối lập: một thế lực tinh thần tốt lành gắn liền với ánh sáng và sự trong sạch, và một thế lực vật chất xấu xa gắn liền với bóng tối và sự khiếm khuyết cố hữu và sự không tinh khiết của vật chất. Mani dạy rằng thế giới vật chất về cơ bản là sai lầm vì nó là chiến trường của hai thế lực này, điều này giải thích cho sự pha trộn giữa đau khổ, cái ác và cái thiện được quan sát thấy trong cuộc sống. Thế giới quan này hoàn toàn trái ngược với những truyền thống độc thần coi một vị thần nhân từ duy nhất là đấng sáng tạo tối thượng.

[6] “first causes”: Hume cố tình dùng từ này số nhiều “những nguyên nhân đầu tiên” để tránh giả định một nguồn duy nhất, thống nhất của vũ trụ (chẳng hạn như chỉmột vị Gót duy nhất). Cách diễn đạt này cho phép có nhiều giải thích có thể có —từ nhiều nguyên lý hoặc năng lượng, đến những định luật tự nhiên phi nhân hóa—nhưng không cam kết với bất kỳ quan điểm gót học hay siêu hình nào. Dạng số nhiều phản ánh sự thận trọng về mặt nhận thức học rộng hơn của Hume: chúng ta không ở vị trí có thể xác định chắc chắn liệu nguyên nhân cuối cùng của vũ trụ là chỉ một, hay nhiều, giống như con người (nhân hóa có nhân tính), hay không thể nhân hóa.