Triết
học và Chính trị
Bertrand
Russell
Người Anh được nhìn nhận là khác biệt giữa
những quốc gia châu Âu hiện đại, một mặt bởi sự xuất sắc của những triết gia
của họ, và mặt khác bởi sự khinh miệt của họ với triết học. Về cả hai phương
diện, họ đều cho thấy sự khôn ngoan của họ. Nhưng sự khinh miệt với triết học,
nếu phát triển đến điểm ở đó nó trở thành hệ thống, thì tự nó là một triết lý;
nó là triết lý ở nước Mỹ, gọi là “thuyết Công cụ” [1] . Tôi sẽ đề nghị rằng
triết lý, nếu nó là triết lý xấu, có thể là nguy hiểm, và do đó xứng với mức độ
của sự tôn trọng tiêu cực mà chúng ta dành cho sét đánh và loài cọp. Phương
diện tích cực nào có thể là từ triết lý “tốt”, tôi sẽ chừa lại ở đây trong ngắn
ngủi, như một câu hỏi mở ngỏ.
Sự kết nối của triết học với chính trị, đó là
chủ đề của bài giảng của tôi, đã là kém hiển nhiên ở nước Anh hơn những nước
lục địa châu Âu. Thuyết triết học Duy nghiệm, nói rộng rãi, thì kết nối với
thuyết chính trị Tự do, nhưng Hume đã là một người đảng Bảo thủ; những gì những
triết gia gọi là “thuyết Duy ý”, nói tổng quát, có một kết nối tương tự với
thuyết bảo thủ, nhưng T. H. Green [2] đã là một người đảng Tự
do. Trên lục địa, sự phân biệt là đã nhiều tách bạch hơn, và đã từng có một sự
sẵn sàng lớn hơn, để chấp nhận hoặc từ chối, một khối những lý thuyết như một
toàn bộ, với không xem xét nghiêm nhặt với từng phần riêng biệt.
Trong hầu hết những nước văn minh ở hầu hết
mọi thời, triết học là một vấn đề mà trong đó những người cầm quyền đã có một
quan điểm chính thức, và trừ nơi nào chính sách dân chủ tự do giữ ưu thế,
điều này vẫn là trường hợp xảy ra. Hội nhà thờ Catô thì liên hệ với triết lý
của Aquinas, Chính phủ Sôviết với của Marx. Đảng Nazis ủng hộ chủ thuyết duy ý
Đức, dù mức độ trung thành đem cho Kant, Fichte hoặc Hegel tương ứng, đã không
được đặt định rõ ràng. Những người Catô, Cộng sản, và Nazis Đức, tất cả đều cho
rằng những cái nhìn của họ về chính trị thực tiễn đã buộc chặt với những cái
nhìn của họ về lý thuyết triết học. Chủ thuyết tự do dân chủ, trong thành công
ban đầu của nó, được liên hệ với triết lý duy nghiệm được Locke khai triển. Tôi
muốn xem xét sự liên hệ này của những triết lý với những hệ thống chính trị như
nó đã tồn tại trong thực tế, và để thăm dò xem nó là một liên hệ thuận hợp
lôgích xa đến đâu, và ngay cả khi không hợp lôgích, nó có một thứ thuộc tính
không-thể-tránh về tâm lý xa đến đâu. Chừng nào, dù một trong hai loại liên hệ
hiện hữu, triết lý của một người có tầm quan trọng thực tiễn, và một triết lý phổ
biến có thể có một liên hệ gần gũi với hạnh phúc hay đau khổ của những phần lớn
của nhân loại.
Từ “triết học” là một trong số mà ý nghĩa thì
không có cách nào không đổi. Giống như từ “tôn giáo”, nó có một lối hiểu khi
được dùng để mô tả những thuộc tính đặc trưng nhất định của những nền văn hóa
lịch sử, và một lối hiểu khác, khi được dùng để chỉ một môn học, hoặc một thái
độ của trí óc vốn được xem là đáng mong muốn trong thời nay. Triết học, như
theo đuổi trong những đại học của thế giới dân chủ phương Tây, ít nhất là trong
ý định, là phần của sự theo đuổi kiến thức, nhằm cùng một loại đứng ngoài,
khách quan như trong khoa học đã tìm, và không bị giới cầm quyền đòi hỏi phải
đi đến những kết luận thuận lợi cho chính phủ. Nhiều giáo sư dạy triết học sẽ phủ
nhận, không chỉ với ý định gây ảnh hưởng về chính trị của sinh viên của họ,
nhưng cũng cả với quan điểm rằng triết lý nên cấy trồng đức hạnh. Điều này, họ
sẽ nói, ít có dính dáng với những triết gia, cũng như với những nhà vật lý hay
hóa học. Kiến thức, họ sẽ nói, là mục tiêu duy nhất của giảng dạy đại học; đức
hạnh nên để cho cha mẹ, những ông giáo dạy trẻ, và những hội Nhà thờ.
Nhưng cái nhìn này về triết học, mà tôi có
nhiều cảm tình, thì mới mẻ, và là khác thường ngay cả trong thế giới hiện đại.
Có một cái nhìn hoàn toàn khác biệt, đã chiếm ưu thế từ thời cổ, và với nó,
triết lý đã có được sự quan trọng chính trị và xã hội của nó.
Triết học, trong ý nghĩa lịch sử quen dùng
này, đã là kết quả từ cố gắng để tạo thành một tổng hợp của khoa học và tôn giáo,
hoặc có lẽ chính xác hơn, để hợp chung thành một học thuyết về phần bản chất
của vũ trụ và vị trí của con người trong đó, với một đạo đức thực tiễn, cấy
trồng những gì được xem là đường lối tốt nhất cho đời sống. Triết lý đã được
phân biệt với tôn giáo bởi sự kiện, ít nhất trên danh nghĩa, là nó không gọi
đến uy quyền hay truyền thống; nó được phân biệt với khoa học bằng sự kiện là
một phần yếu tính của mục đích của nó đã là bảo con người sống thế nào. Những
lý thuyết về vũ trụ và đạo đức của nó đã gắn kết với nhau chặt chẽ: đôi khi
những động cơ đạo đức đã ảnh hưởng quan điểm của triết gia về phần bản chất của
vũ trụ, đôi khi quan điểm của ông về phần bản chất của vũ trụ đã dẫn ông đến
kết luận đạo đức. Và với hầu hết những triết gia, những ý kiến về đạo đức
liên quan đến những hệ quả chính trị: một số người đề cao chế độ dân chủ, một
số người khác đề cao chế độ tập đoàn lãnh đạo; một số người ca ngợi tự do, một
số người khác ca ngợi kỷ luật. Hầu như tất cả những loại triết lý đều đã được
người Greek phát minh, và những tranh cãi trong thời đại của chúng ta là đã sôi
nổi hùng hồn giữa những triết gia thời trước-Socrates.
Vấn đề nền tảng của đạo đức và chính trị là
tìm một vài cách của sự dung hòa những nhu cầu của đời sống xã hội với sự cấp
thiết của những ham muốn cá nhân. Điều này đã đạt được, trong chừng mực nó đã
đạt được, bằng những phương tiện của những sách lược khác nhau. Nơi nào có một
chính phủ tồn tại, pháp luật hình sự có thể được dùng để ngăn chặn hành động
chống lại xã hội về phần của những ai là người không thuộc về chính phủ, và
pháp luật có thể được tôn giáo làm vững mạnh, bất cứ nơi nào tôn giáo dạy rằng
bất tuân là nghịch đạo. Nơi nào có một giới thày chăn chiên ảnh hưởng đủ mạnh
vào sự thực thi qui luật đạo đức của nó trên những nhà cai trị thế tục, ngay cả
những nhà lĩnh đạo, đến một vài mức độ, trở thành đối tượng của pháp luật; có
thừa thãi những trường hợp về điều này trong Cựu Ước và trong lịch sử thời
Trung cổ. Những nhà vua đã chân thực tin vào chính phủ của Gót trên thế giới, và
vào một hệ thống những thưởng và phạt ở đời sau, cảm thấy bản thân họ không
toàn năng, và không có khả năng để phạm tội mà không bị trừng phạt. Tình cảm
này được nhà vua trong Hamlet diễn tả, khi ông đối chiếu sự
không nhân nhượng của công lý của Gót với sự tùng phục của thẩm phán trần gian
với quyền lực nhà vua.
Những triết gia, khi họ nắm lấy vấn đề của
bảo tồn sự gắn kết xã hội để tìm cách giải quyết, đã tìm những giải pháp rõ
ràng ít tuỳ thuộc trên giáo điều hơn của những gì được những tôn giáo chính thức
đem cho. Hầu hết triết lý đã là một phản ứng chống lại chủ thuyết hoài nghi; nó
đã nổi lên trong những thời đại khi uy quyền đã thôi không đủ để sản xuất tối
thiểu tin tưởng cần thiết cho xã hội, thế nên những luận chứng duy lý trên danh
nghĩa đã được phát minh để bảo đảm kết quả tương tự. Động cơ này đã dẫn đến một
sự không thành thật sâu xa, nhiễm lây hầu hết triết lý, cả thời xưa và ngày
nay. Đã từng có một sợ hãi, thường vô thức, rằng suy nghĩ minh bạch sẽ dẫn đến
trạng thái hỗn loạn vô chính phủ, và sợ hãi này đã dẫn những triết gia đến trốn
lánh trong sương mù của nguỵ biện và tối tăm.
Dĩ nhiên, đã có những trường hợp ngoại lệ;
đáng ghi nhận nhất là Protagoras trong cổ đại, và Hume trong hiện đại. Cả hai,
như một kết quả của chủ thuyết hoài nghi, đã là bảo thủ về chính trị.
Protagoras đã không biết liệu những vị gót có hiện hữu hay không, nhưng ông chủ
trương rằng dù trong trường hợp nào đi nữa, họ nên được tôn thờ. Triết học,
theo ông, không có gì giáo huấn để giảng dạy, và cho sự tồn tại của đạo đức,
chúng ta phải dựa trên sự thiếu-suy-nghĩ của đa số, và sự sẵn sàng của họ để
tin vào những gì họ đã được dạy. Do đó, phải đừng làm gì để suy yếu đi sức mạnh
phổ thông của truyền thống.
Cùng một loại sự việc, đến một điểm, có thể
cũng nói được về Hume. Sau khi giải thích rõ ràng những kết luận hoài nghi của
ông, ông thú nhận, vốn chúng không thuộc loại mà người ta có thể sống với được,
ông chuyển sang một mảnh nhỏ của khuyên bảo thực tiễn, nếu nghe theo, sẽ ngăn
bất kỳ một ai, khỏi đọc ông. “Sự vô tư, không quá cẩn thận và sự vô ý, đừng quá
chú ý”, ông nói, “một mình có thể đủ cung cấp cho chúng ta bất kỳ liều thuốc
chữa chạy nào. Vì lý do này tôi dựa hoàn toàn vào chúng”. Ông không, trong kết
nối này, giải thích những lý do của ông để là một người theo đảng Bảo thủ Anh,
nhưng đó là rõ ràng rằng “sự không quá cẩn thận và sự không chú ý”, trong khi
chúng có thể dẫn đến lưỡng lự chấp nhận tình trạng hiện có của
sự việc, nếu không có giúp đỡ, không thể dẫn một người đến ủng hộ chương trình
cải cách này hoặc kia. [3]
Hobbes, mặc dù ít hoài nghi hơn Hume, đã được
thuyết phục cũng bằng thế, rằng chính quyền thì không phải là có nguồn gốc thần
linh, và được dẫn dắt cũng ngang bằng không kém, bởi con đường của hoài nghi,
để ủng hộ chủ thuyết cực kỳ bảo thủ. [4]
Protagoras đã được Plato, và Hume đã được
Kant và Hegel “trả lời”. Trong mỗi trường hợp, giới triết học thở phào nhẹ
nhõm, và đã kiềm chế khỏi sự xem xét thoả đáng đến rất mực, về sự thuận lý vững
chắc trí thức của “trả lời”, vốn trong mỗi trường hợp đã có những hệ quả chính
trị cũng như lý thuyết – mặc dù trong trường hợp của “trả lời” với Hume, nó đã
không phải là Kant Tự do, nhưng Hegel phản động là người đã khai triển những hệ
quả chính trị.
Nhưng những người hoài nghi trước sau triệt
để, chẳng hạn như Protagoras và Hume, chưa bao giờ từng có ảnh hưởng, và đã
được xử dụng chủ yếu như những ông ngáo ộp, để giới phản động hù hoạ cho khiếp
hãi, đẩy người ta vào trong thuyết duy-giáo-điều phản-lý-trí. Những địch thủ
thật sự mạnh mẽ mà Plato và Hegel đã phải gắng gỏi chống lại, không phải là
những người của chủ thuyết hoài nghi, nhưng của chủ thuyết duy nghiệm,
Democritus trong một trường hợp, và Locke trong một trường hợp kia. Trong mỗi
trường hợp, chủ thuyết duy nghiệm [5] đã liên kết với sự
thực hành dân chủ, và nhiều hoặc ít, với một đạo đức công lợi [6]
. Trong mỗi trường hợp,
triết lý mới đã thành công trong việc trình bày chính nó như là cao thượng hơn
và sâu sắc hơn ý thức phải trái thông thường mà nó thay thế của con người bình
dân chân đất. Trong mỗi trường hợp, nhân danh của tất cả những gì cao cả nhất,
triết lý làm chính nó thành quán quân cho sự bất công, sự tàn bạo, và sự đối
lập với tiến bộ. Trong trường hợp của Hegel, điều này đã, ít hoặc nhiều hơn, đi
đến được nhìn nhận; trong trường hợp của Plato, nó vẫn là một gì đó của một
nghịch lý, mặc dù nó đã được biện hộ xuất sắc trong một quyển sách gần đây của
Tiến sĩ K. R. Popper. [7]
Plato, theo như Diogenes Laertius, đã bày tỏ
quan điểm rằng tất cả những sách của Democritus phải đem đốt bỏ. Ước muốn của
ông, đến một mức độ, đã được thực hiện, khiến không tác phẩm nào của Democritus
còn tồn tại. Plato, trong những Đàm thoại của ông, không bao
giờ đề cập đến Democritus; Aristotle đã cho một vài giải thích về học thuyết
của Democritus; Epicurus đã thô tục hoá ông; và cuối cùng Lucretius đặt những
học thuyết của Epicurus vào những vần thơ. Chỉ Lucretius sống sót, một ngẫu
nhiên may mắn. Để tái tạo lại Democritus từ những tranh cãi của Aristotle, và
thơ của Lucretius thì không dễ dàng; nó gần như là nếu chúng ta phải xây dựng
lại Plato từ sự bác bỏ của Locke về những ý tưởng bẩm sinh và thơ của Vaughan
“Tôi thấy vĩnh cửu một đêm kia” [8] .Tuy nhiên, đủ có thể
được lấy để giải thích và lên án sự thù hận của Plato.
Democritus chủ yếu nổi tiếng (cùng với
Leucippus) như người sáng lập ra thuyết nguyên tử [9], mà ông chủ trương, bất
chấp những phản đối của những nhà siêu hình học – những phản đối được những
người tiếp thừa của họ lập lại, xuống đến và gồm cả, Descartes và Leibniz.
Thuyết nguyên tử của ông, tuy nhiên, chỉ là một phần của triết lý tổng quát của
ông. Ông là một nhà duy vật, một nhà theo thuyết tất định, một nhà tư tưởng tự
do, một nhà theo thuyết công dụng, là người không thích tất cả những đam mê
mạnh mẽ, một người tin vào sự tiến hóa, trong cả thiên văn và sinh học.
Giống những người có những quan điểm tương
tự trong thế kỷ thứ mười tám, Democritus là một nhà dân chủ hăng hái. “Nghèo
túng trong một chế độ dân chủ”, ông nói, “thì được ưa thích nhiều hơn là với
những gì được gọi là thịnh vượng dưới chế độ độc tài, như tự do so với chế độ
nô lệ”. Ông là một người đồng thời với Socrates và Protagoras, và là người cùng
thành phố với vị sau; ông hưng thịnh mạnh trong những năm đầu của cuộc chiến
Peloponnesian, nhưng có thể đã chết trước khi nó kết thúc. Cuộc chiến đó đã cô
đọng sự tranh đấu vốn đang diễn ra trên khắp thế giới Hellenic, giữa thể chế
dân chủ và thể chế tập đoàn lãnh đạo. Sparta ủng hộ thể chế tập đoàn lãnh đạo;
đó cũng đã là của gia đình và bạn hữu của Plato, những người đã như thế cuối
cùng trở thành những phản quốc, cộng tác với xâm lược [10]. Sự phản bội của họ gây
thành nguyên nhân góp phần vào sự bại trận của Athens. Sau bại trận đó, Plato
đã bắt đầu hăng hái làm việc để hát những lời ca ngợi những kẻ chiến thắng,
bằng cách xây dựng một Utopia, một thứ xã hội không tưởng, vốn
những tính chất đặc biệt của nó đã được hiến pháp Sparta gợi ý. Dẫu thế, tuy
nhiên, đã là tài năng nghệ thuật của ông, khiến những người theo chủ thuyết Tự
do đã không bao giờ ghi nhận những khuynh hướng phản động của Plato, cho đến
khi Lenin và Hitler, những học trò của ông, đã cung cấp cho họ một chú giải phê
phán thực hành [11].
Rằng Republic của Plato nên
là đáng ngưỡng mộ, về mặt chính trị của nó, bởi những người chừng mực ôn hoà,
thì có lẽ là thí dụ đáng kinh ngạc nhất của chữ nghĩa trưởng giả hợm mình tự
gán lấy cao sang hơn người, trong tất cả lịch sử. Chúng ta hãy xem xét một vài
điểm trong chủ đề độc tài này. Mục đích chính của giáo dục, mà với nó mọi sự
việc khác đều phụ thuộc, là để sản xuất sự can đảm trong chiến trận. Đi đến cứu
cánh này, sẽ là một sự kiểm duyệt ngặt nghèo của những câu chuyện được những bà
mẹ và vú em kể cho trẻ nhỏ; sẽ không có đọc thơ của Homer, bởi người viết thơ
thoái hoá đó làm những anh hùng than thở và những gót cười cợt; kịch nghệ thì
bị cấm, bởi nó chứa những nhân vật phản diện xấu và những phụ nữ; âm nhạc thì
chỉ có những loại nhất định, vốn, trong những thuật ngữ hiện đại sẽ là (những
khúc quân hành như) “Rule Britannia” và “The British Grenadiers” [12]. Chính phủ nằm trong tay
một tập đoàn lãnh đạo gồm ít người, là những người thực hành thói bịp bợm và
gian dối – thủ đoạn quỷ quyệt trong thao túng sự rút thăm cho những mục đích
nhằm chọn lựa chỉ con người có nòi tốt bẩm sinh [13], và dối trá tinh vi để
thuyết phục dân chúng rằng có sự khác biệt sinh học giữa những những giai cấp
thượng lưu và hạ lưu. Cuối cùng, sẽ có sự giết trẻ sơ sinh trên quy mô lớn, khi
trẻ em được sinh ra nếu không như một kết quả của chính phủ lừa đảo trong sự
rút thăm ngẫu nhiên những phiếu chọn. [14]
Cho dù người ta có hạnh phúc hay không, trong
công xã không tưởng này, thì không quan trọng, chúng ta được bảo thế, vì sự
xuất sắc nằm trong toàn bộ, không trong những bộ phận. Thành phố của Plato là
một bản sao của thành phố vĩnh cửu đã đặt sẵn trên trời cao; may ra trên trời cao,
chúng ta sẽ vui hưởng thứ hiện hữu nó đem cho chúng ta, nhưng nếu chúng ta
không thích thú với nó ở đây trên mặt đất, mặc xác chúng ta với tồi tệ thêm hơn. [15]
Hệ thống này rút
ra được sức mạnh thuyết
phục của nó từ hôn nhân giữa thiên kiến quý tộc và “triết lý từ
Gót” [16]; không có
điều sau, nó rõ ràng
là gớm guốc đến nhờn tởm đẩy người ta phải
lùi lại. Nói hay kể khéo
về sự tốt lành và sự không-thay-đổi làm nó thành có thể làm được việc ru ngủ
người nghe vào trong sự ưng thuận học thuyết rằng kẻ khôn ngoan nên nắm quyền
cai trị, và rằng mục đích của họ nên là để bảo tồn hiện trạng (status quo),
như nhà nước lý tưởng trên trời cao làm thế. Với mỗi người có những tin tưởng
chính trị xác quyết mạnh mẽ – và người Greek đã có những đam mê chính
trị mãnh liệt đáng ngạc nhiên – điều là hiển nhiên rằng những “tốt
lành” nói đó là của đảng của riêng ông, và rằng, nếu họ có thể thiết lập hiến
pháp mà họ mong muốn, không thay đổi nào thêm nữa sẽ là cần thiết. Đó là tư
tưởng Plato, nhưng bằng che giấu tư tưởng của ông trong một màn sương siêu
hình, ông đã cho nó sự xuất hiện khách quan và vô tư, vốn đã đánh lừa thế giới
qua những thời đại.
Lý tưởng của sự toàn hảo tĩnh, vốn
Plato lấy nguồn từ Parmenides, và thể hiện trong thuyết về những ý
tưởng của ông [17] , là một thuyết mà bây
giờ được nhìn nhận chung là không áp dụng được cho những vấn đề nhân sinh. Con
người là một động vật không nghỉ yên, không hài lòng, không giống con trăn gió
khổng lồ, có một bữa ăn ngon mỗi tháng một lần, và rồi ngủ suốt phần thời gian
còn lại. Con người, cho hạnh phúc của nó, không chỉ hưởng thụ điều này hay vui
thú việc đó, nhưng cần hy vọng, và tất cả những gì – đang làm, đang có, đang
là, đang toan tính – và sự thay đổi. Như Hobbes nói: “diễm phúc gồm trong đang thịnh
vượng, không phải sau khi đã thịnh vượng”. Giữa những triết
gia hiện đại, lý tưởng về hạnh phúc bất tận và bất biến đã được thay thế bằng
lý tưởng của sự tiến hóa, trong đó giả định là có một sự tiến bộ trật tự, hướng
tới một mục tiêu, mà mục tiêu này thì không bao giờ đạt được hoàn toàn, hoặc
trong bất kỳ mức độ nào, đã chưa từng đạt ở thời điểm của bài viết. Sự thay đổi
này về triển vọng là phần của sự thay thế của động cho tĩnh,
bắt đầu với Galileo, và đã ngày càng tăng ảnh hưởng trên tất cả những suy nghĩ
hiện đại, cho dù khoa học hay chính trị.
Thay đổi là một việc, tiến bộ là một việc khác.
“Thay đổi” là thuộc khoa học, “tiến bộ” là thuộc đạo đức; thay đổi là không thể
nghi ngờ, trong khi tiến độ là một vấn đề của sự bất đồng vẫn tranh cãi. Trước
tiên, chúng ta hãy xem xét thay đổi, như nó xuất hiện trong khoa học.
Cho đến thời Galileo, những nhà thiên văn học, theo
Aristotle, đã tin rằng tất cả mọi thứ trên vòm trời, cao từ mặt trăng trở lên,
thì không thay đổi và không thể hư hỏng. Từ Laplace trở đi, không nhà thiên văn
học có uy tín nào còn giữ quan điểm này. Đám hơi-bụi-vũ-trụ (nebulae),
sao, và hành tinh, bây giờ chúng ta tin rằng, tất cả đã phát triển dần dần. Một
vài ngôi sao, lấy thí dụ, đồng hành của Sirius, đã “chết”; trước đây một thời
gian nào đó, chúng đã trải qua một biến cố vĩ đại và khủng khiếp [18] , đã làm suy giảm rất lớn
lượng ánh sáng và nhiệt độ tỏa ra từ chúng. Hành tinh của chúng ta, vốn với nó
những triết gia có khuynh hướng có một quan tâm địa phương và quá đáng, đã từng
là quá nóng để nuôi dưỡng sự sống, và sẽ đến thời là quá lạnh. Sau những niên
đại, trong đó quả đất sản xuất những triobites vô hại và những
loài bướm, sự tiến hóa tiến triển đến điểm mà tại đó nó tạo ra Neros, Genghis
Khans và những (người như) Hitler. Điều này, tuy nhiên, là một ác mộng đương đi
qua; đến thời, trái đất sẽ một lần nữa trở thành không có khả năng nuôi dưỡng
sự sống, và yên bình sẽ trở lại.
Nhưng tình trạng nhanh chóng thay đổi không mục
đích này, vốn là tất cả mà khoa học phải đem cho, đã không làm những triết gia
thoả mãn. Họ đã công khai tuyên bố để khám phá một công thức của sự tiến bộ,
cho thấy rằng thế giới đã dần dần trở thành, nhiều hơn và nhiều hơn nữa, theo ý
thích của họ. Công thức sản xuất cho một triết lý của loại hình này thì đơn
giản. Triết gia trước tiên quyết định đâu là những tính năng đặc biệt của thế
giới hiện tại cho ông vui sướng, và đâu là những tính năng cho ông đau đớn. Ông
sau đó, bằng một lựa chọn cẩn thận giữa những sự kiện, tự thuyết phục mình rằng
vũ trụ là đối tượng của một luật tổng quát dẫn đến sự gia tăng của những gì ông
thấy dễ chịu, và suy giảm những gì ông thấy khó chịu. Kế tiếp, sau khi đưa vào
dựng thành luật của ông về sự tiến bộ, ông quay sang công chúng và nói: “Đó là
định mệnh mà thế giới phải phát triển như tôi nói; do đó, những ai là người
mong ước ở về phía chiến thắng, và không màng gây một chiến tranh không kết quả
chống lại sự không-thể tránh, sẽ nhập phe của tôi”. Những ai là người phản đối
ông bị lên án như không triết lý, không khoa học và lỗi thời, trong khi những
ai đồng ý với ông, cảm thấy vững tâm về sự chiến thắng, vì vũ trụ đứng về phía
của họ. Đồng thời phía chiến thắng, vì những lý do vốn dẫu sao vẫn tối tăm khó
hiểu, thì được trình bày như phía của đức hạnh.
Người đầu tiên đã phát triển đầy đủ quan điểm này
là Hegel. Triết học của Hegel thì rất lạ lẫm khiến người ta đã không mong đợi
ông rồi có khả năng có được những người tỉnh trí để chấp nhận nó, nhưng ông đã
có được. Ông đã bắt đầu với quá nhiều tối tăm đến nỗi mọi người nghĩ rằng nó
phải là uyên thâm thăm thẳm. Nó có thể hoàn toàn dễ dàng được trình bày và giải
thích với chi tiết dễ hiểu rõ ràng trong những lời của một âm tiết, nhưng sau
đó sự phi lý của nó trở thành rõ ràng. Những gì sau đây không phải là một tranh
vẽ quá lố để nhạo cười, dẫu tất nhiên những người theo Hegel sẽ duy trì rằng nó
là một.
Triết học của Hegel, trong khái lược là như sau.
Thực tại thực thì không-đổi (bất biến với thời-gian), như
trong Parmenides và Plato, nhưng cũng có một thực tại trông thấy,
gồm thế giới của hàng-ngày trong không gian và thời gian. Cá tính đặc biệt của
thực tại thực có thể chỉ được xác định bởi một mình lôgích, vì có chỉ một loại
của thực tại có thể có mà là không tự mâu thuẫn. Đây được gọi là “Ý tưởng
Tuyệt đối”. Về điểm này, ông đưa ra định nghĩa sau: “Ý tưởng tuyệt đối.
Ý tưởng, như sự thống nhất của Ý tưởng chủ quan và khách quan, là ý niệm của Ý
tưởng – một khái niệm mà đối tượng của nó là Ý tưởng loại giống như
vậy, và vì nó (nên) khách thể là Ý tưởng – một Khách thể vốn nó ôm
trọn tất cả những cá tính đặc biệt trong sự thống nhất của nó”. Tôi ghét để
phải làm hỏng sự trong sáng long lanh của câu này bằng bất kỳ một bình luận
nào, nhưng trong thực tế, cùng một điều tương tự sẽ được diễn tả bằng cách nói
rằng” “Ý tưởng tuyệt đối là tư tưởng thuần tuý suy nghĩ về tư tưởng thuần tuý”.
Hegel đã chứng minh với sự hài lòng của ông rằng tất cả Thực tại là tư tưởng,
từ đó nó dẫn đến rằng tư tưởng không thể suy nghĩ về bất cứ gì khác ngoài tư
tưởng, vì không có gì khác để suy nghĩ về nữa. Một số người có thể tìm thấy điều
này tối-đụt một chút; họ có thể nói: “Tôi thích nghĩ về Cape Horn, và Nam Cực,
và đỉnh Everest và nebula lớn trong Andromeda; Tôi
thích thú suy ngẫm về những niên đại khi trái đất đã đang nguội đi, khi biển
còn sôi nóng, và núi lửa phun rồi tắt chỉ giữa ban đêm và ban sáng. Tôi tìm
thấy giới luật của ông, rằng tôi nên làm đầy não thức của tôi với những sáng
tác giáo huấn công phu của những giáo sư khoe chữ tràng giang đại hải, là ngột
ngạt không thể chịu được, và thực sự, nếu đó là ‘kết thúc có hậu’ của ông, tôi
không nghĩ rằng nó là đáng bõ công để lội qua tất cả những dài dòng đưa dẫn đến
nó”. Và với những lời này, họ sẽ nói lời giã biệt với triết học, và từ đó về
sau mãi mãi sống trong hạnh phúc. [19]
Nhưng nếu chúng ta đồng ý với những người này,
chúng ta tất đã làm một bất công với Hegel, vốn không xảy ra. Vì Hegel sẽ chỉ
ra rằng, trong khi Tuyệt đối, giống như Gót của Aristotle, không bao giờ nghĩ
về bất cứ gì nhưng chỉ chính nó, vì nó biết rằng tất cả những gì khác đều là ảo
tưởng, nhưng chúng ta, những người bị buộc phải sống trong thế giới hiện tượng,
như những nô lệ của tiến trình thời gian, thấy chỉ những bộ phận, và thấp thỏm
hiểu chỉ lờ mờ về toàn bộ, trong những khoảnh khắc của thị kiến thần bí, chúng
ta, những sản phẩm ảo tưởng của sự ảo tưởng, đã buộc đi đến nghĩ như nếu Cape
Horn đã là tự vừa đủ hiện hữu và không đơn thuần chỉ là một ý tưởng trong Não
thức của Gót. Khi chúng ta nghĩ chúng ta nghĩ về Cape Horn, những gì xảy ra
trong Thực tại là rằng Tuyệt đối thì có nhận biết về một tư tưởng về Cape-Horn.
Nó quả thực có một suy nghĩ loại giống như vậy, hay đúng hơn một phương diện
loại giống như vậy của một suy tưởng mà nó suy nghĩ, không bị ảnh hưởng của
thời gian, và là, và đây là thực tại duy nhất mà thuộc về Cape Horn. Nhưng vì
chúng ta không thể đạt đến những tầm cao loại giống như vậy, chúng ta gắng gỏi
hết sức mình, đến mức tốt nhất của chúng ta, khi suy nghĩ về nó, trong cách
thức địa lý thông thường [20].
Nhưng một ai đó có thể nói, tất cả điều này có liên
quan gì đến chính trị? Đầu tiên thoạt nhìn, có lẽ, không có gì là rất nhiều.
Với Hegel, tuy nhiên, sự kết nối thì rõ ràng. Nó dẫn đến theo sau từ siêu hình
học của ông rằng tự do đúng thực thì gồm trong sự vâng phục với một chính quyền
độc đoán, rằng tự do ngôn luận là một xấu ác, rằng chế độ quân chủ tuyệt đối là
tốt, rằng nhà nước đế quốc Prussia đã là hiện hữu tốt đẹp nhất đang có ở thời
điểm ông viết, rằng chiến tranh thì tốt, và rằng một tổ chức quốc tế để giải
quyết những tranh chấp trong hòa bình sẽ là một bất hạnh.
Điều cũng đúng có thể rằng một số giữa những người
đọc của tôi có thể không thấy ngay lập tức làm thế nào những hậu quả này lại
theo đến, vì vậy tôi hy vọng tôi có thể được tha lỗi vì nói một ít lời về những
bước trung gian.
Mặc dù thời gian thì không-thực, những chuỗi của
những gì hiện ra vốn chúng dựng lên thành lịch sử có một sự liên hệ lạ lẫm với
Thực tại. Hegel đã khám phá ra bản chất của Thực tại bằng một tiến trình thuần
tuý lôgích gọi là “biện chứng”, vốn bao gồm sự khám phá những mâu thuẫn trong
những ý tưởng trừu tượng và điều chỉnh chúng bằng cách làm chúng bớt trừu
tượng. Mỗi một ý tưởng trừu tượng này được hình thành như một giai đoạn trong
sự phát triển của “Ý tưởng'”, giai đoạn cuối cùng là “Ý tưởng Tuyệt đối”.
Thế chưa đủ lạ lẫm, vì một vài lý do nào đó mà
Hegel đã không bao giờ tiết lộ, tiến trình theo thời gian của lịch sử lập lại
sự phát triển lôgích của phép biện chứng. Điều đã có thể nghĩ, vì một hệ thống
siêu hình tự nhận là để áp dụng cho tất cả Thực tại, khiến tiến trình thời gian
vốn song song với nó sẽ mang tầm vũ trụ, nhưng không một chút nào của điều đó:
nó thì hoàn toàn trên mặt đất, giới hạn trong lịch sử đã được ghi chép, và (hết
sức không thể tin được như điều này có thể xem ra như thế) với lịch sử mà
Hegel, đã xảy ra với ông, là ông biết được. Những quốc gia khác nhau, vào những
thời điểm khác nhau, đã thể hiện những giai đoạn của Ý tưởng mà biện chứng đã
đạt đến vào những thời điểm đó. Về nước Tàu, Hegel biết chỉ những gì nó đã
là, do đó nước Tàu đã minh họa phạm trù của chỉ là mới Hữu thể.
Về India, ông chỉ biết được rằng những người theo đạo Phật tin vào Nirvana, do
đó India minh họa phạm trù của Không-gì. Người Greece và Rome đã
tiến khá xa hơn dọc theo danh sách của những phạm trù, nhưng tất cả những giai
đoạn cuối đã được dành lại cho người Đức, là những người, kể từ thời Rome sụp
đổ, đã là những người dương cờ đi đầu duy nhất của Ý tưởng, và đến năm 1830, đã
gần như thể hiện được Ý tưởng Tuyệt đối.
Với bất cứ ai là người vẫn ấp ủ hy vọng rằng con
người, dẫu nhiều hay ít, là một động vật lý trí, sự thành công của mớ hỗn tạp
hổ lốn của sự vô nghĩa này phải là đáng kinh ngạc. Trong thời của chính ông, hệ
thống của ông đã được chấp nhận bởi hầu như tất cả những người Đức trẻ tuổi có
học, mà có lẽ là giải thích được bởi thực tế là nó tâng bốc sự tự cao của người
Đức. Nhưng những gì là đáng ngạc nhiên hơn là thành công của nó ở bên ngoài
nước Đức. Khi tôi còn trẻ, hầu hết giáo sư triết học trong những đại học Anh và
Mỹ đã là những người theo Hegel, do đó, cho đến khi tôi đọc Hegel, tôi đã giả định
rằng phải có một vài sự thật trong hệ thống của ông; tôi đã được chữa khỏi sai
lầm này, tuy nhiên, do khám phá rằng tất cả mọi điều ông nói về triết lý toán
học thì hoàn toàn thẳng tuột rõ ràng chỉ là vô nghĩa. [21]
Lạ lùng gây tò mò nhất của tất cả đã là ảnh hưởng
của Hegel trên Marx, người đã tiếp nhận một số tôn chỉ không-thực, huyền ảo
nhất của ông, đặc biệt hơn cả là tin tưởng rằng lịch sử phát triển theo một kế
hoạch hợp lôgích, và là có quan tâm, như biện chứng thuần lý trừu tượng, để tìm
những cách tránh sự tự mâu thuẫn. Trên một phần đất lớn của địa cầu, bạn sẽ bị
thanh trừng nếu bạn đặt câu hỏi với tín điều này, và những con người phương Tây
nổi tiếng của khoa học, người có cảm tình về mặt chính trị với Russia, cho thấy
sự đồng cảm của họ bằng cách sử dụng từ “mâu thuẫn” trong những cách mà không
có nhà lôgích học tự trọng nào có thể chấp nhận.
Trong việc truy tìm một kết nối giữa chính trị và
siêu hình học của một con người như Hegel, chúng ta phải tự hài lòng với một số
những tính chất đặc biệt rất tổng quát của chương trình thực tiễn của ông. Rằng
Hegel tôn vinh Prussia là một cái gì đó xảy ra ngẫu nhiên; trong những năm
trước đó, ông đã hăng hái ngưỡng mộ Napoleon, và chỉ trở thành một người yêu
nước Đức khi ông trở thành một nhân viên của nhà nước Prussia. Ngay cả trong
hình thức mới nhất của Triết học về Lịch sử của ông, ông vẫn
nhắc nhở đến Alexander, Caesar, Napoleon và như những con người vĩ đại đủ để có
quyền tự coi mình là đứng ngoài những nghĩa vụ của luật đạo đức. Những gì triết
lý của ông gò ép ông ngưỡng mộ, không phải Đức như chống lại Pháp, nhưng là
trật tự, hệ thống, quy định và cường độ những kiểm soát của chính phủ. Sự thần
thánh hóa Nhà nước của ông sẽ cũng gây sốc đúng như sự kiện nếu Nhà nước được
đề cao đã là chế độ chuyên quyền Napoleon. Theo ý kiến riêng của ông, ông đã
biết những gì thế giới cần thiết, mặc dù hầu hết những người khác thì đã không;
một chính phủ mạnh có thể buộc con người phải hành động đến mức tốt nhất, vốn
chính thể dân chủ sẽ không bao giờ có thể làm được. Heraclitus, vốn Hegel mang
ơn vô cùng, nói: “Mỗi con thú được đưa tới đồng cỏ với những cú roi đánh”.
Chúng ta, trong mọi trường hợp, hãy làm sao cho chắc chắn rằng những roi đánh;
cho dù chúng dẫn đến một đồng cỏ hay không, là một vấn đề có tầm quan trọng
nhỏ, – ngoại trừ, dĩ nhiên, với những “con thú”.
Điều rõ ràng là một hệ thống độc đoán, chẳng hạn
như của Hegel đã ủng hộ, hay của những học trò của Marx ngày nay, chỉ là biện
chính được về mặt lý thuyết, trên một cơ sở của giáo điều không được phép tranh
cãi. Nếu bạn biết chắc chắn mục đích của vũ trụ là gì trong liên quan đến đời
sống con người, điều gì sẽ xảy ra, và những gì là tốt cho mọi người, ngay cả
nếu họ không nghĩ như thế; nếu bạn có thể nói, như Hegel nói, rằng lý thuyết
của ông về lịch sử là “một kết quả vốn xảy ra là được biết đến với tôi,
vì tôi đã đi qua toàn bộ lĩnh vực” – sau đó bạn sẽ cảm thấy rằng không có mức
độ cưỡng ép nào là quá lớn, miễn là nó dẫn đến mục tiêu. [22]
Triết lý duy nhất mà có thể có được một sự biện
minh lý thuyết cho nguyên tắc dân chủ, và là phù hợp với hệ thống tổ chức dân
chủ trong tính khí não thức của nó, là chủ thuyết Duy nghiệm. Locke, người có thể được xem, nhìn theo hướng của trường hợp là thế giới
hiện đại, như người sáng lập của chủ thuyết duy nghiệm, làm rõ ràng cho thấy
điều này được kết nối chặt chẽ như thế nào với quan điểm của ông về tự do và
khoan dung, và sự phản đối của ông với chế độ quân chủ tuyệt đối. Ông không bao
giờ mệt mỏi để nhấn mạnh vào sự không chắc chắn của hầu hết những kiến thức của
chúng ta, không với một ý định hoài nghi như Hume, nhưng với mục đích làm con
người biết rằng họ có thể bị nhầm lẫn, và rằng họ nên tính đến
khả năng này trong tất cả những tiếp xử của họ với những người có ý kiến khác
biệt với của riêng họ. Ông đã nhìn thấy những tệ nạn được rèn đắp, bởi vừa từ
cả “nhiệt tình” của những giáo phái hội nhà thờ và từ tín điều về quyền thiêng
liêng của những nhà vua; với cả hai ông đã phản đối một học thuyết chính trị
từng phần và chắp vá, được thử nghiệm tại mỗi thời điểm bằng thành công của nó
trong thực tiễn. [23]
Những gì có thể được gọi, theo nghĩa rộng, là lý
thuyết Tự do chính trị là một sản phẩm lập lại của thương mại. Thí dụ đầu tiên
được biết của nó đã là ở những thành phố của Ionia trong vùng Tiểu Á, sống bằng
buôn bán hàng hoá với Egypt và Lydia. Khi Athens, trong thời của Pericles, đã
trở thành thương mại, người Athens trở thành (theo chủ thuyết chính trị) Tự do.
Sau khi một thời gian dài bị lu mờ, những ý tưởng tự do đã hồi sinh ở những
thành phố Lombard của thời Trung Cổ, và chiếm ưu thế ở Ý cho đến khi chúng bị
những người Spain dập tắt vào thế kỷ thứ mười sáu. Nhưng người Spain đã thất
bại trong việc chiếm lại Holland, hay chinh phục nước Anh, và đó đã là những
quốc gia này bảo vệ và bênh vực cho chủ thuyết Tự do, và là những lãnh đạo
trong thương mại ở thế kỷ XVII. Trong thời chúng ta, sự lãnh đạo đã chuyển sang
nước Mỹ. [24]
Những lý do cho kết nối của thương mại với chủ
thuyết Tự do là hiển nhiên. Thương mại mang con người vào tiếp xúc với những
tập quán của những cộng đồng dân tộc khác biệt với của riêng họ, và trong khi
làm như vậy, phá hủy tư tưởng giáo điều của những người không có dịp du lịch.
Sự quan hệ giữa người mua và người bán là một sự thương lượng giữa hai bên, cả
hai đều là tự do; đó là có được lợi nhuận cao nhất khi người mua hoặc người bán
có khả năng hiểu được điểm đứng nhìn của bên kia. Có, dĩ nhiên, thương mại đế
quốc, nơi mà những con người bị buộc phải mua với mũi kiếm sắc dí sẵn trên cổ
họng mình; nhưng đây không phải là loại mà tạo ra những triết lý Tự do, vốn
phát triển mạnh mẽ nhất ở những thành phố thương mại vốn giàu có nhưng với
không nhiều sức mạnh quân sự. Ngày nay, tương tự gần nhất với những thành phố
thương mại thời cổ đại và trung cổ, được tìm thấy ở những nước nhỏ như
Switzerland, Holland, và Scandinavia.
Tín điều Tự do, trong thực tế, là một của sống-và-sống-tuỳ-ý,
của khoan dung và tự do cho đến mức như trật tự công cộng cho phép, của sự ôn
hoà điều độ và sự vắng mặt của sự cuồng tín trong những chương trình chính trị.
Ngay cả chính thể dân chủ, khi nó trở nên cuồng tín, như nó đã xảy ra giữa
những môn đệ của Rousseau trong cuộc Cách mạng Pháp, thôi không còn là Tự do;
quả thực vậy, một tin tưởng cuồng tín trong dân chủ làm cho những thể chế dân
chủ trở nên không thể có được, như đã xuất hiện ở Anh dưới thời Cromwell, và ở
Pháp dưới thời Robespierre. Một người Tự do đích thực không nói “điều này thì
đúng”, ông nói: “Tôi nghiêng sang nghĩ rằng trong những hoàn cảnh hiện nay,
quan điểm này có lẽ là tốt nhất”. Và nó chỉ là trong ý hướng hạn chế và
không-giáo điều này khiến ông sẽ ủng hộ Dân chủ.
Triết lý lý thuyết có gì để nói rằng nó thì liên
quan với tính cách hợp lệ; hoặc nếu không thế, của triển vọng Tự do?
Yếu tính của triển vọng Tự do không nằm trong những quan
điểm gì được chủ trương, nhưng trong cách thức chúng được theo
đuổi như thế nào: thay vì được chủ trương một cách giáo điều, chúng
được theo đuổi một cách thăm dò, ướm định, không dứt khoát; và với một ý thức
rằng, ở bất kỳ thời điểm nào, bằng chứng mới có thể dẫn đến việc từ bỏ chúng.
Đây là cách thức mà ý kiến được theo đuổi trong khoa học, như trái ngược với
cách thức mà chúng được nắm giữ trong gót-học. Những quyết định của Hội đồng
Nicaea vẫn có thẩm quyền (cho đến nay), nhưng trong khoa học, những quan điểm
ở thế kỷ thứ tư thôi không còn mang một sức nặng nào nữa. Ở Liên Xô những
phát ngôn của Marx về duy vật biện chứng đều không bị chất vấn đến nỗi chúng
giúp để xác định những quan điểm của những nhà di truyền học về làm thế nào để
có được những giống lúa mì tốt nhất [25] , mặc dù ở những nơi
khác, nghĩ rằng thí nghiệm là cách đúng để nghiên cứu những vấn đề như vậy.
Khoa học thì thực nghiệm, thăm dò , và không giáo điều; tất cả những giáo
điều bất di bất dịch thì không-khoa học. Triển vọng khoa học, theo đó, là đối
ứng của trí tuệ của những gì, trong lĩnh vực thực tiễn, triển vọng của chủ
thuyết Tự do.
Locke, người đầu tiên phát triển trong chi tiết lý
thuyết duy nghiệm về tri thức, cũng rao giảng sự khoan dung về tôn giáo, những
thể chế đại biểu, và sự giới hạn về quyền lực chính phủ bằng hệ thống của những
kiểm tra và những cân bằng. Một ít trong những học thuyết của ông là mới, nhưng
ông đã phát triển chúng thành có sức nặng vào đúng thời điểm khi chính phủ Anh
đã sẵn sàng để chấp nhận chúng. Như những người khác của năm 1688, ông đã chỉ
miễn cưỡng là một kẻ nổi loạn, và ông không thích tình trạng hỗn loạn cũng
nhiều như ông không thích chế độ chuyên quyền. Cả trong trí thức và trong những
vấn đề thực tiễn, ông đã ủng hộ sự trật tự với không-uy quyền; đây có thể được
lấy làm phương châm cho cả khoa học lẫn Chủ thuyết Tự do. Nó phụ thuộc, rõ
ràng, trên sự đồng ý cho phép hoặc sự tán thành. Trong thế giới trí thức, nó
bao gồm những tiêu chuẩn của chứng cứ, vốn sau thảo luận thoả đáng, sẽ dẫn đến
một lượng mức của sự thỏa thuận giữa những người chuyên môn. Trong thế giới
thực tiễn, nó gồm sự tùng phục với đa số sau khi tất cả những bên đã có một cơ
hội để nêu lên trường hợp của họ. [26]
Trong cả hai phương diện, thời điểm của ông đã là
một may mắn. Những bất đồng lớn giữa những hệ thống Ptolemy và Copernicus đã
được quyết định, và những vấn đề khoa học có thể thôi không còn được giải quyết
bằng một kêu gọi đến Aristotle. Chiến thắng của Newton xem dường như để biện
minh cho sự lạc quan khoa học vô biên.
Trong thế giới thực tiễn, một thế kỷ rưỡi của những
chiến tranh tôn giáo đã hầu như không tạo nên một bất kỳ thay đổi nào trong cán
cân quyền lực giữa những người Phản thệ và những người Catô. Con người của thế
kỷ Ánh sáng đã bắt đầu xem bất đồng trong gót-học như một sự phi lý, được Swift
vẽ thành tranh cười như trong chiến tranh giữa những người (chủ trương đập)
“đầu-Lớn-quả trứng” hay “đầu-Nhỏ-quả trứng” [27]. Những giáo phái Phản thệ
cực đoan, bằng cách dựa vào ánh sáng nội tâm, đã làm những gì xưng là sự vén-lên-cho-thấy
[28] vào thành một sức
mạnh vô trật tự, không tuân phục uy quyền chính phủ. Những chương trình lớn lao
khó khăn nhưng lý thú, trong khoa học và thương mại, đã mời những con người đầy
sinh lực hoạt động để quay đi khỏi sự tranh luận cẵn cỗi vô sinh, không kết
quả. May mắn thay, họ đã nhận sự mời gọi, và kết quả là hai thế kỷ của tiến bộ
chưa từng có trong lịch sử. [29]
Bây giờ, chúng ta một lần nữa, lại trong một kỷ
nguyên của những cuộc chiến tranh tôn giáo, nhưng bây giờ, một tôn giáo thì
được gọi là “hệ tư tưởng” [30] . Tại thời điểm này,
nhiều người cảm nhận triết lý Tự do là quá nhu thuần và mẫu mực đến cùn nhụt:
cái nhìn trẻ lý tưởng tìm trong đó một gì đó với nhiều miếng cắn hơn, một gì đó
trong đó có một trả lời rõ ràng cho tất cả những câu hỏi của họ, vốn nó kêu gọi
hoạt động như kiểu đi truyền giáo và cho hy vọng của một nghìn năm đưa lại bởi
chinh phục. Trong vắn tắt, chúng ta đã đang lao vào một thời đại hồi phục của
thứ tin tưởng tôn giáo. Thật không may, bom nguyên tử là một kẻ tiêu diệt mau
lẹ hơn so với lợi phần can dự, và không thể an toàn cho phép một chạy đua quá
dài như vây. Chúng ta phải hy vọng rằng một triển vọng hợp lý hơn có thể được
thực hiện để dành ưu thế, chỉ thông qua một sự hồi sinh của tính thử nghiệm của
chủ thuyết Tự do và tính khoan dung mà thể thế giới của chúng có thể tồn tại.
Lý thuyết về tri thức theo thuyết duy nghiệm mà tôi
gắn bó – với một vài dè dặt – thì nằm giữa giáo điều và thuyết hoài nghi. Hầu
như với tất cả kiến thức, nó chủ trương, là hoài nghi trong một vài mức độ nào
đó, mặc dù sự nghi ngờ, nếu có bất kỳ nào, thì không đáng kể như nhìn theo toán
học thuần túy và những sự kiện của nhận thức giác quan có mặt. Sự hoài nghi về
những gì chuyển sang tri thức là một vấn đề của mức độ; mới đây, sau khi đọc
một quyển sách về cuộc xâm lăng của dân Anglo-Saxon vào đất Anh, bây giờ tôi
được thuyết phục về sự hiện hữu của Hengist, nhưng rất nghi ngờ về của Horsa [31] . Thuyết tương đối
tổng quát của Einstein thì có thể nói rộng rãi được là đúng, nhưng khi nói đến
tính chu vi vũ trụ, chúng ta có thể được tha thứ cho sự mong đợi những điều tra
muộn hơn về sau, sẽ đưa ra một kết quả có phần nào khác biệt. Lý thuyết hiện
đại về nguyên tử có sự thực thực tiễn, vì nó cho chúng ta khả năng để làm những
bom nguyên tử: hệ quả của nó là những gì những nhà theo thuyết công cụ một cách
trào phúng là “hài lòng”. Nhưng không phải là không thể xảy ra rằng một vài lý
thuyết khá khác biệt, có thể trong tương lai, được tìm thấy để đưa ra một giải
thích tốt hơn cho những sự kiện được quan sát. Những lý thuyết khoa học được
chấp nhận như những giả thuyết hữu ích, để đề nghị tiếp tục nghiên cứu thêm, và
vì có một số yếu tố của sự thật như là kết quả nhờ đó chúng có thể kết hợp
những quan sát rời rạc hiện có; nhưng không có người nào thận trọng lại nhìn
chúng như toàn hảo, không thay đổi nữa.
Trong lĩnh vực chính trị thực tiễn, thái độ trí tuệ
này có những hệ quả quan trọng. Trước hết, không xứng đáng, không có giá trị
nào, để gây một xấu ác tương đối nào đó hiện có vì lợi ích của một tốt đẹp tương
đối hoài nghi trong tương lai. Nếu gót-học của những thời đại trước đây là hoàn
toàn chính xác, nó đã đáng bõ công để khi đốt sống một số người trên cọc dàn
hỏa, ngõ hầu để những người sống sót có thể đi lên ở cùng chỗ với Gót, nhưng
nếu đã vẫn nghi ngờ không biết những người “rối đạo”đó sẽ xuống hỏa ngục hay
không; luận chứng cho sự bức hại thì không thuận hợp lôgích. Nếu điều là chắc
chắn rằng mạt thế luận – chung cuộc của lịch sử nhân loại - của Marx là sự
thật, và rằng ngay sau khi chủ thuyết tư bản tư nhân đã bị bãi bỏ, tất cả chúng
ta về sau sẽ được hạnh phúc mãi mãi, thì sau đó là đúng, để theo đuổi mục tiêu
này bằng những chế độ độc tài, những trại tập trung, và những chiến tranh toàn
thế giới; nhưng nếu chung cuộc thì còn nghi ngờ, hoặc những phương tiện thì
không đảm bảo để đạt được nó, khổ đau hiện tại sẽ trở thành một luận chứng phản
bác không thể cưỡng được đối với những phương pháp quyết liệt như vậy. Nếu điều
đã là chắc chắn rằng khi không còn người Jews, thế giới sẽ là một thiên đường,
đã có thể không có phản đối hợp lôgích với Auschwitz; nhưng nếu nhiều hơn nữa
là điều có thể xảy ra rằng thế giới sau những phương pháp như vậy sẽ là một hỏa
ngục, chúng ta có thể cho phép sự nhờm tởm từ lòng nhân đạo tự nhiên của chúng
ta được thả lỏng, tự do chống lại sự tàn ác.
Để nói với không đi vào chi tiết, do những hệ quả
xa vời của những hành động thì không chắc chắn hơn so với những hệ quả ngay lập
tức, thường là hiếm chính đáng để bắt đầu bất kỳ một chính sách nào trên nền
tảng, mặc dù có hại trong hiện tại, rằng nó sẽ có lợi về lâu dài. Nguyên tắc
này, giống như tất cả những nguyên tắc khác được những người theo thuyết duy
nghiệm nắm giữ, phải không được nắm giữ tuyệt đối; có những trường hợp, những
hệ quả trong tương lai của một chính sách là khá chắc chắn và rất khó chịu,
trong khi những hệ quả hiện tại của chính sách kia, mặc dù không dễ chịu, nhưng
có thể dễ dàng chịu đựng được. Điều này, được ứng dụng, lấy thí dụ, để tiết
kiệm thực phẩm cho mùa đông, đầu tư vốn vào máy móc, và vân vân như vậy. Nhưng
ngay cả trong những trường hợp loại giống như vậy, không nên rời mắt khỏi tính
không-chắc chắn. Trong một bùng nổ phát triển kinh tế, có nhiều đầu tư mà hóa
ra đã không có lợi nhuận, và những nhà kinh tế hiện đại nhận ra rằng thói quen
đầu tư thay vì tiêu thụ có thể dễ dàng được thực hiện quá mức.
Thông thường vẫn kêu gọi rằng, trong một chiến
tranh giữa những phe theo thuyết Tự do chính trị và những phe theo thuyết cuồng
tín chính trị, những phe cuồng tín chắc chắn sẽ chiến thắng, do sự tin tưởng
không thể lay chuyển của họ vào sự chính đáng của động cơ của họ. Tin tưởng này
khó chết, mặc dù tất cả lịch sử, gồm của vài năm vừa qua, là chống lại nó.
Những phe cuồng tín đã thất bại, lập đi lập lại, vì họ đã cố gắng sự không thể
được, hoặc vì, ngay cả khi những gì họ nhằm mục đích đã là có thể, họ đã hết
sức không khoa học để áp dụng những phương tiện đúng; họ cũng đã thất bại vì họ
khuấy động sự thù địch với những người mà họ muốn ép buộc. Trong mọi chiến
tranh quan trọng từ năm 1700, phe bên dân chủ hơn đã chiến thắng. Điều này một
phần là do dân chủ và chủ thuyết duy nghiệm (trong đó mật thiết liên kết với
nhau) không đòi hỏi một sự bóp méo những sự kiện, vì lợi ích của lý thuyết.
Russia và Canada, có điều kiện khí hậu tương tự như, cả hai đều quan tâm với
việc có được giống lúa mì tốt hơn; mục tiêu này được theo đuổi bằng thực nghiệm
ở Canada, ở Russia bằng cách diễn dịch kinh thánh Mác-xít.
Những hệ thống giáo điều không có cơ sở thực
nghiệm, chẳng hạn như của gót-học kinh viện, chủ thuyết Mác-xít, và chủ thuyết
Phát xít, có sự lợi thế trong sản xuất một sự gắn kết xã hội với mức độ lớn,
giữa những môn đồ của chúng. Nhưng chúng có những bất lợi của bao gồm sự đàn áp
những thành phần quí giá của dân chúng. Spain đã bị suy tàn bởi việc trục xuất
những người Jews và người Moor; Pháp bị tổn thương do sự di cư của người
Huguenot sau sự Thu hồi của Sắc lệnh Nantes [32] ; Germany đã có thể là
đầu tiên trong lĩnh vực với bom nguyên tử chỉ vì hận thù của Hitler với người
Jews. Để lập lại, và hệ thống giáo điều có hai nhược điểm thêm nữa, bao gồm
những tin tưởng sai lầm về những vấn đề quan trọng thực tiễn của thực tế, và sự
khơi dậy hận thù bạo động hướng tới những người không chia sẻ sự cuồng tín với
vấn đề. Vì những lý do khác nhau này, nó không phải là để hy vọng rằng, trong
thời gian dài, những quốc gia say sưa với một triết lý giáo điều sẽ có lợi thế
hơn những quốc gia có tính khí thực nghiệm hơn. Cũng không phải rằng giáo điều
thì cần thiết cho sự gắn kết xã hội khi sự gắn kết xã hội được kêu gọi đến;
không quốc gia nào có thể thể hiện nó nhiều hơn nước Anh, như đã cho thấy trong
năm 1940.
Chủ thuyết duy nghiệm, sau cùng, thì được ngợi khen không chỉ trên vị
trí với sự thật nhiều hơn của nó, nhưng cũng trên những vị trí đạo đức. Giáo
điều đòi hỏi thẩm quyền, thay vì đúng hơn suy nghĩ thông minh, như nguồn gốc
của ý kiến; nó cần đến sự đàn áp những khác biệt với cùng tôn giáo và sự thù
địch với những không cùng tôn giáo; nó đòi hỏi những tín đồ của nó rằng họ nên
ngăn cấm lòng tử tế tự nhiên của con người và thế chỗ bằng hận thù với lớp lang
hệ thống . Sau khi lý luận thì không được nhìn nhận như một phương tiện để đi
đến sự thật, những tín đồ của những giáo điều đối lập không có phương pháp nào
khác ngoài chiến tranh, qua những phương tiện đó đạt đến một quyết định. Và
chiến tranh, trong thời đại khoa học của chúng ta, có nghĩa là, sớm hay muộn,
cái chết phổ quát cho tất cả.
Tôi kết luận rằng, trong thời nay của chúng ta cũng như trong thời của
Locke, chủ thuyết Tự do duy nghiệm (vốn không phải là không phù hợp với chủ
thuyết Dân chủ Xã hội) là triết lý duy nhất một người có thể
chọn lấy, một mặt, đòi hỏi một số bằng chứng khoa học cho những tin tưởng của
mình, và mặt khác, mong muốn hạnh phúc cho con người nhiều hơn sự thịnh hành
của đảng này hay phái kia, tôn giáo đó hay tín ngưỡng nọ. Thế giới
chưa-đâu-vào-đâu và khó khăn của chúng ta cần nhiều những điều khác loại để nó
nếu là thoát khỏi thảm họa, và một trong những cần thiết nhất trong số này,
trong những quốc gia mà vẫn duy trì những tin tưởng vào chủ thuyếtTự do chính
trị, là những tin tưởng này nên hết lòng và sâu xa, không phải chống trả hướng
về những chủ thuyết giáo điều của tả phái và của hữu phái, nhưng được thuyết
phục vững chắc về giá trị của tự do con người, tự do khoa học và tự kỷ khoan
dung lẫn nhau. Vì nếu không có những tin tưởng này, đời sống trên hành tinh của
chúng ta, chia rẽ về chính trị nhưng thống nhất về vật lý, sẽ khó có thể tiếp
tục được.
Bertrand Russell
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2014)
(Cambridge, National Book League, 1947. Sau đó in lại trong Unpopular
Essays; London: Allen & Unwin; New York: Simon & Schuster, 1950.)
[Dịch từ: Bertrand Russell, “Philosophy and Politics” (1904),
trong The Basic Writings of Bertrand Russell (1903-1959), Phần XI,
The Philosopher of Politics, Robert. E. Egner và Lester E Denonn biên tập.
London: Routledge, 2009, trang 454-467].
[1] Instrumentalism, thuyết công cụ (Nhật: đạo cụ chủ nghĩa – 道具主義), cũng còn gọi là chủ thuyết kinh nghiệm
(experimentalism) do John Dewey đưa ra, chủ trương rằng rằng những gì là quan
trọng nhất trong một sự việc hay một ý tưởng là giá trị của nó như một dụng cụ
để hành động, và giá trị về sự đúng thực của nó (giá trị chân lý) nằm trong sự
hữu dụng của nó. Dewey thích dùng từ Instrumentalism (=
ý tưởng như một dụng cụ có công dụng thực tiễn – công cụ) hơn từ đã có sẵn và gần như cùng nghĩa tương tự, pragmatism, thuyết
thực dụng.
Những chú thích của Russell trong nguyên bản
tiếng Anh được đặt trong ngoặc vuông []
Những chú thích khác – như trên – của người dịch
bản tiếng Việt.
[2] Thomas Hill Green (1836-1882): triết gia đi đầu, và
nhân vật chính trị quan trọng người Anh. Ông sáng lập trường phái triết học Duy
Ý ở nước Anh (British Idealism)
[3] Sau khi tuyên bố hoài nghi nổi tiếng của mình với
nguyên lý nhân quả: “my hypothesis, that all our reasonings concerning cause
and effect are derived from nothing but custom, and that belief is more
properly an act of the sensitive than of the cogitative part of our natures.”
Do đó, một trong những lý do giúp chúng ta
hiểu phát biểu nổi tiếng không kém khác của ông, như Russell đã dẫn trên:
“It is impossible, upon any system, to defend
either our understanding or our senses; and we but expose them further when we
endeavour to justify them in that manner. As the sceptical doubt arises
naturally from a profound and intense reflection on those subjects, it always
increases the further we carry our reflections… Carelessness and
inattention alone can afford us any remedy”
[4] Thomas Hobbes (1588–1679), triết gia người Anh. Ông
tin rằng hành đông của con người là hoàn toàn thúc đẩy bởi những quan tâm vị
kỷ, đáng chú ý nhất là sự sợ hãi cái chết.
[5] Empiricism – phát triển ở nước Anh, trong thế kỷ 17 và
18, nổi bật với John Locke, George Berkeley, và David Hume.
[6] Utilitarianism – Học thuyết chủ trương rằng những hành
động (đạo đức/chinh trị) là đúng/phải nếu chúng hữu dụng, hay chúng nhắm đến
phúc lợi của đa số. Bentham,
Jeremy (1748–1832) là người tiên phong và cổ vũ đầu tiên của học thuyết utilitarianism này, trong Introduction
to the Principles of Morals and Legislation (1789) của ông.
[7] [7] Karl Raimund Popper (1902–94), triết
gia người Anh; gốc Austria. Trong The Lôgic of Scientific Discovery (1934),
ông biện luận rằng những giả thuyết khoa học không bao giờ có thể cuối cùng
chứng minh là đúng thực, còn những thí nghiệm được thiết lập, thực sự chỉ là
những cố gắng chứng minh chúng là sai. Ông cũng viết The Open Society
and Its Enemies (1945), phê phán tất cả những chế độ toàn trị, độc
tài, trong đó có Republic của Plato.
[Xã hội mở và những kẻ thù của nó.
Luận đề tương tự được duy trì trong Lịch sử triết học phương Tây của
tôi].
[8] Henry Vaughan (1621–95), nhà thơ siêu hình và nhà
văn tôn giáo, người xứ Wales, nước Anh.
[9] Atomism – thực ra không có nghĩa là lý thuyết về những atoms như
trong vật lý, nhưng là một quan điểm thuần lý trong triết học, chủ trương rằng
mọi sự vật việc đều được xem như một gì đó có thể thâm nhập được bằng sự phân
tích vào thành những thành phần cơ bản độc lập, tách biệt, và đặc thù.
Democritus (khoảng 460–370 TCN), triết gia người
Greek. Ông đã khai triển thuyết nguyên tử (atomism) bắt nguồn từ người
thày của ông là Leucippus, giải thích hiện tượng tự nhiên theo phương diện của
sự xếp đặt và tái xếp đặt những atomos – có nghĩa là không thể
cắt nhỏ hơn được nữa – chúng di chuyển trong một chân không.
[10] Nguyên văn “Quislings” – theo tên của đại tá
Vidkun Quisling (1887–1945), sĩ quan và nhà ngoại giao Norway, đã cai trị
Norway thay mặt cho quân đội Germany, chiếm đóng Norway trong thời gian
1940–45.
[11] [Năm 1920 tôi đã so sánh Nhà nước Liên Xô
với Cộng hòa của Plato, với sự phẫn nộ, hai bên bằng nhau, của
những người Cộng sản và những người theo thuyết Plato.]
[12] Rule, Britannia! và The British Grenadiers hai
bài quân hành ái quốc của quân đội Anh, bài trước có điệp khúc “...Rule,
Britannia! rule the waves: Britons never will be slaves.”
[13] Eugenic
[15] Xem thêm Bertrand Russell – Lịch sử Triết học phương Tây Chương
14. Cõi-Không-tưởng (Utopia) của Plato, tôi giới thiệu trên blog này.
[16] Divine
philosophy, chỉ môn học của những hội nhà thờ Ki tô, vẫn dịch
ỡm ờ là “thần học”. Nhưng theo định nghĩa “theologia” của chính
Augustine of Hippo, (nhà gót học vĩ đại, tiêu biểu, với tác phẩmCity of God)
là môn học “lý luận và bàn cãi về Gót”, nên tôi dịch thẳng là “gót học”, vì “thần
linh” là chủ đề của môn học, ở đây trong lý thuyết và thực hành, chỉ duy nhất
là Gót theo quan điểm và tin tưởng của riêng đạo Kitô, nên gót học là môn giáo
khoa để huấn luyện lý thuyết chuyên môn cho các nhà chăn chiên hành nghề trong
các hội nhà thờ.
[17] Những chỗ khác, tôi vẫn
dịch là Thuyết về những Thể dạng (Theory of Forms)
[18] cataclysm
[19] Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770–1831), triết
gia người Đức. Trong Science of Logic (1812–16) Hegel mô tả
tiến trình ba giai đoạn của suy luận biện chứng, vốn Marx, sau đó đã dựa trên
để đưa ra lý thuyết duy vật biện chứng nổi tiếng của mình. Theo Hegel, tất cả
thực tại (tất cả mọi sự-vật-việc) có quan hệ với nhau trong một hệ thống rộng
lớn, dĩ nhiên phức tạp, hay trong một toàn bộ, mà ông gọi là “Tuyệt đối”. Tất
cả ý thức là phần của Kiến thức Tuyệt đối (Absolute Knowing)
[Phenomenology of Spirit], tất cả các khái niệm thuộc về Ý
tưởng Tuyệt đối [Science of Logic], tất cả thế giới là Tinh
thần Tuyệt đối(Absolute Spirit).
Ý tưởng tuyệt đối, với Hegel, tương đương với chân
lý tuyệt đối trong Phenomenology of Mind của ông, và tuyệt đối
trong Logic của ông. Nó cũng còn được gọi là Tinh thần tuyệt
đối. Đối với Hegel, một ý tưởng không phải là một gì đó não thức trừu tượng
hoặc tách biệt với những cụ thể cá biệt, nhưng là một dạng thức phạm trù của
Tinh thần. Ý tưởng tuyệt đối là ý tưởng trong và cho chính nó, một
thực tại vô hạn và bao gồm tất cả toàn bộ. Nó tồn tại trong một tiến
trình tự phát triển và tự hiện thực.
Như thế, chúng ta có thể hiểu – Ý tưởng tuyệt đối
của Hegel – là cả hai, vừa là chóp đỉnh (apex) và vừa là nền tảng của hệ thống
triết học Hegel. Nó gồm tất cả các giai đoạn/lớp lang của lôgích dẫn đến nó; nó
là tiến trình phát triển với tất cả các bước tiến và chuyển đổi của nó. Ý tưởng
Tuyệt đối, hoặc “Tinh thần Thế giới”, với Hegel đã đóng cùng một thứ vai trò
như một vị gót – “Lịch sử là Ý tưởng tự trang phục với những thể dạng của những
sự kiện/biến cố “ (Philosophy of Right, § 346), và Marx đã phải bác bỏ
sự cần thiết cho bất kỳ một khái niệm như vậy, (theo tôi Hegel duy ý đến thành
pha trộn với duy linh và phần nào duy thần), và chúng ta đều rõ quan điểm của
Marx, lịch sử là sản phẩm của con người, không phải là ngược lại hay cách nào
khác. Hegel đưa ra “chân lý tuyệt đối” là kiến thức về các Ý tưởng tuyệt đối,
là một lý tưởng không thể đạt được, biểu hiện cho toàn Tự nhiên đã phát triển
đến điểm ở đó nó là ý thức của chính nó, hoặc các khái niệm về Tự nhiên đã phát
triển đến một mức độ cụ thể mà nó đã quay về “trở lại chính nó – tự thân” – một
khái niệm hoàn toàn toàn diện, thực tiễn và cụ thể về thế giới.
Ở trên – tôi chắc chắn Russell đọc Hegel trong
nguyên văn tiếng Đức, và đã dịch sang tiếng Anh cho chúng ta định nghĩa trên,
phê bình này, từ khi ra đời đã có rất nhiều phản bác, dĩ nhiên, nhằm bênh vực
Hegel, nhưng không ai phủ nhận rằng đó không phải là định nghĩa của Hegel viết
theo tiếng Anh, qua Russell. Tuy nhiên ở những bản dịch khác, chúng ta thấy
Hegel định nghĩa Ý tưởng tuyệt đối như – “sự thống nhất của Ý tưởng Lý thuyết
và Ý tưởng Thực hành”, và Ý tưởng lý thuyết là Khái niệm (Notion) trọn
vẹn, hay khái niệm cụ thể về thế giới hay đối tượng; Ý tưởng thực hành là hoạt
động thể hiện khái niệm này (thực hành); sự thống nhất của cả hai có nghĩa “ý
thức thực hành” đầy đủ, khi đó, con người hành động phù hợp đúng với bản chất
của mình.
Những học giả phân định siêu hình học của Hegel là
Mentalistic Monism (– khởi đầu với Parmenides, và điển hình ở Đức là Leibniz,
Hegel, và ở Anh là George Berkeley) khác với Materialistic Monism (tiểu biểu là
Thomas Hobbes và Bertrand Russell ở Anh). Tuy nhiên, Nhất nguyên của Hegel là
một gì đó có chủ đích (bởi Tinh thần) , thành quả của một tiến trình, và không
phải là đã giả định có sẵn từ trước ( khác với những triết gia Monism khác, đặc
biệt là Russell) – Do đó, xem dường ông không phải chứng minh; thế nên Thực tại
của Hegel có tính nhất nguyên, nhưng nó thì không nhất nguyên — vì
nó là một thế giới chồng chất đa dạng, thế giới đó nó “thúc đẩy chính nó vượt
quá chính nó” hướng tới những “khác biệt trong cá tính” và nhân lên “bội phần
trong thống nhất”.
Để hiểu Monism, và những gì của Hegel, không thể
không nhắc tới Biện chứng của ông, và dĩ nhiên có nhiều khác biệt với những
triết gia khác. Tôi chỉ tóm tắt, trong một ghi chú như ở đây – Với Plato biện
chứng trước hết là phương pháp, một phương pháp suy luận (có khi chỉ đánh thức,
làm nhớ lại, xem Phaedo) để tìm ra sự thật, qua trình tự gồm những câu hỏi
và những bàn luận. Với Kant, biện chứng là khả năng suy luận của lý trí, cho
thấy qua sự biểu hiện của lý trí để đi đến những kết luận tổng hợp từ những
tiền đề đối lập vững chắc. Với Hegel, biện chứng là lịch sử, biện
chứng thúc đẩy sự lần mở và phát triển tất yếu của những khái niệm trong lịch
sử.
[20] Cape Horn là tên gọi mũi
đất cực Nam của châu Mỹ.
[21] Những giòng trên của Russell khiến không thể không gợi nhắc một mớ hổ lốn
khác, gần gũi hơn với chúng ta – có khi đề cao là “đạo học”, có khi tự xưng là
triết học, nhưng bản chất, trước sau và ít nhiều, thực sự dạy chỉ một loại khôn
ngoan (“đó là khôn cũng chết, dại cũng chết mà biết thì sống”) của loài vật
tham sống, của thứ đời sống vẫn cho rằng thành đạt của đời sống biết-sống là được
“phước, lộc, thọ”, cho thấy tính chất thực của một quan niệm vẫn ca ngợi
là “sống đẹp”, đã nảy nở thuận lợi trong đám đông của những một dân tộc chưa bao
giờ đặt những vấn đề mang được ý nghĩa của “khôn ngoan” triết học (– còn tồn tại
dai dẳng đến nay ngoài nước Tàu (giữa chúng ta).
Mớ hổ lốn đó, của một dân tộc tự hào có văn minh lâu dài, nhưng cho đến
ngày hôm qua vẫn chưa chinh phục được thiên nhiên để giải quyết vấn đề cơm ăn
áo mặc thực tiễn, và một dạ dày đói suốt nghìn năm, nên suy nghĩ trước sau nằm
sát mặt bát cơm và thửa đất quanh nó, nhưng trong đám chúng ta vẫn có nhiều tiếng
ca ngợi về “tư tưởng” (chính trị) của “thánh nhân”, vốn trước sau chỉ đề cao một
giống Hán, tự xưng là trung tâm của tất cả, và khinh miệt tất cả. Riêng
Confucius, một người quanh quẩn trong hạn hẹp suy tính của loại chính trị thực
hành (trị quốc) khốn khổ, thất bại ngay trong thời của mình, và trong “thuật
nhi bất tác” của ông, đã sớm khoe khoang tham vọng đế quốc của dân Hán (bình
thiên hạ). Những chế độ phong kiến nông dân trong lịch sử kềm hãm tự do, trong đó
có tự do tư tưởng của con người, trước sau đã tìm thấy những ứng dụng hữu hiệu
của mớ ghi chép tạp nhạp đó, đã khai triển chúng, tôn thành “tứ thư và ngũ
kinh”, một thứ thuyết lý phi nhân bản, sách giáo khoa cho các nhà cai trị phong
kiến, để phụng sự các cơ chế độc tài của chính trị quân chủ.
Không như Russell chỉ “kinh ngạc” trong trường hợp Hegel, chúng ta phải
“kinh hoàng” trước hiện tượng Confucius ở nước ta, giả định rằng chúng ta đều
là những người – “vẫn ấp ủ hy vọng rằng con người, dẫu nhiều hay ít, là một động
vật lý trí,” và cũng như Russell, với kiến thức toán học, thấy ngay sự sai lầm
của Hegel; chúng ta với bất cứ chút ít yêu chuộng hay hiểu biết thi ca, âm nhạc,
văn nghệ dẫu ở múc độ nhỏ nhoi khiêm tốn nào, cũng đều “nhờm tởm”, đến lợm giọng,
trước những thẩm định về thi ca, lễ nhạc của Confucius và bầy học trò, chỉ biết
hát bài “tử viết,...” và không biết gì đến mỹ thuật. Chưa nhắc đến những lời
bình trong “kinh” Xuân Thu, tôi vẫn không hiểu – không phải những lời bình,
chúng không có gì đến phải gọi là để đáng hiểu – nhưng khó hiểu đến huyền bí
khi tự hỏi đâu là lý do khiến đã có những người thế đó cất lời trầm trồ ca ngợi!
hay là thói quen của những ai tự xưng là trí thức của chúng ta – khen một gì đó
là hay, vì có người như thế đã khen hay, nhưng khi hỏi hay ở chỗ nào – chưa nói
hỏi nhũng câu hỏi loại như – thế nào là hay, – thì hoàn toàn không có câu trả lời
thoả đáng! Lấy đi Lão Trang, Phật học, nước Tàu chỉ với “Khổng học” của nó, sẽ
không có nghệ thuật.
Về tư tưởng, văn hoá và tôn giáo, chúng ta vẫn chỉ là những đứa con,
khen mẹ là tự nhiên, nhưng quái đản là không bao giờ nghĩ đến phận mình vốn
là những đứa con hoang, ra đời sau những cưỡng hiếp văn hoá, và
có lẽ do mặc cảm sâu xa, không dám thú nhận những gì mình có trong tay như gia
tài, thực chỉ là những miếng tã rách rưới, những mảnh rơi rớt, những hệ quả
không định, tất cả đều hình thành từ những vá víu, nên tiếng ca ngợi, khen tụng
nào cất lên đều từ tang thương, nghe đắng cay và ô nhục, vì sau tất cả những
xâm lược chính trị, trước từ thực dân phương Bắc, và sau từ phương Tây.
Một thí dụ nhìn quanh thấy ngay, thật thảm hại, giữa chúng ta vẫn còn
tìm đọc, phổ biến và dịch “Binh pháp Tôn tử”, binh pháp là những gì, nói vắn tắt,
trong cơ bản ít nhiều phải dựa trên tâm lý chiến tranh, nhưng trong trường hợp ở
đây là của một dân tộc không từng có ý định học hỏi đúng nghĩa nào về tâm lý học; còn
về chiến tranh, dân tộc đông đảo đó chưa bao giờ một lần thắng được quân đội
ngoại xâm nào trong lịch sử dài lâu của họ; đặc biệt, trước sau khốn đốn với những
dân tộc phương Bắc, “vạn lý trường thành” là một chứng cớ hùng hồn và cụ thể nhất
của sự bất lực muốn ngăn chặn những đội quân, đã khinh miệt gọi là “rợ”, những
cường địch từ phương Bắc; tôi vẫn không hiểu tâm lý tự đại phi lý nào đẩy những
người Tàu đến híp mắt tự hào khoe khoang lớp chiến luỹ phòng ngự, đắp hàng thế
kỷ, bằng tay chân (và xác người), vá víu kéo dài từ Đông sang Tây, quả thực có
thể gọi là vĩ đại, nếu so sánh với chính những thất bại vĩ đại của chính nó;
thành luỹ đó ít nhất đã hai lần không ngăn được ngựa chiến của Nguyên và Thanh.
Còn những biên giới khác, trước sau đều bị phá: trước thế chiến thứ Nhất, những
cường quốc châu Âu, từ biển vào, đã mỗi phe chiếm xé lấy một mảnh của đất Tàu
(HKong, Shanghai, Macau,... vẫn là tên gọi ô nhục của một thời thuộc
địa); trước thế chiến thứ hai, Nhật đã lấy Mãn Châu, rồi chiếm đóng mước Tàu.
Ngay cả chúng ta, cũng một lần, đời Lý đã đột phá từ phương Nam, sớm dập tắt ý
định xâm lược của họ. Thế nên, trong chúng ta, vẫn nô lệ, quên những gì có giá
trị của mình, không tìm hiểu tường tận, thí dụ, “Binh Thư Yếu Lược”, tác giả là
vị anh hùng phá Nguyên, ba lần chiến thắng Mông cổ, vốn sau khi chiếm nước Tàu,
theo vết cũ, muốn lao xuống phương Nam.
[22] Nhắc chúng ta phê
bình quen thuộc rằng – không thể “lấy cứu cánh biện minh phương tiện”, và có thể
thêm vào, như ý của Russell để phát biểu theo tinh thần của thuyết Duy nghiệm/chính
trị Tự do hơn – khi cứu cánh đó trong hoài nghi. Tương tự, phê phán của Russell
“một hệ thống độc đoán, chẳng hạn như của Hegel đã ủng hộ, hay của những
học trò của Marx ngày nay, chỉ là biện chính được về mặt lý thuyết, trên một cơ
sở của giáo điều không được phép tranh cãi.”
Nguyên
uỷ của “giáo điều không được tranh cãi” là những giáo điều trong gót-học Kitô,
do đó giáo điều Hegel và Marx, bị phê bình là mang tính cách tôn giáo vì giống
như chúng, nên không triết học, không khoa học. Hegel không có cơ sở triết học nào
để đi đến kết luận của ông rằng “ý tưởng tuyệt đối sẽ theo một tiến trình tự
phát triển và tự hiện thực,” sẽ hoàn thành ở cuối đường của lịch sử Thực
tại; tương tự Marx cũng không có cơ sở “khoa học” nào để kết luận tiến trình
biện chứng “đi lên” của lịch sử theo ông, có cuối đường là xã hội Cộng Sản cho
loài người.
Tất
cả đều bắt nguồn từ “một sự không thành thật sâu xa, nhiễm lây hầu
hết triết lý, cả thời xưa và ngày nay”. Sự không thành thật sâu sa, sự lừa dối
đó có thể thấy hiển nhiên trong một tôn giáo lớn; trong khái niệm đặc biệt của
nó là “chuộc tội” và “cứu rỗi”, vốn nêu chúng lên phải giả định rất nhiều, ít
nhất là tương quan giữa con người và tội lỗi, vốn có thể có nhiều hơn một cách
nhìn, nhưng ở đây, đưa ra một cách nhìn đặc biệt, cho rằng (a) con người là có tội
lỗi với một Gót, và sau đó dẫn đến (b) tội lỗi loại như thế đó có thể cứu chuộc
được, nhưng, lại thêm, và đây là kết luận muốn dẫn đến; (c) chỉ duy nhất qua
một nhân vật. Những giả định đó, hết sức chật hẹp và bình thường vượt quá mức
độ chấp nhận của phần lớn chúng ta; nhưng đã được đề cao như một đức hạnh, ca
ngợi để mong chấp nhận nó như “đức tin”. Thực sự, bản chất của tin tưởng đó là
một lừa dối quá dài, từ (a) sang (c) cũng dài bằng từ trần gian có thực này xuống
hoả ngục, thiên đàng tưởng tượng– như
Russell vắn tắt, có những người – lấy những mong ước, vẽ thành thực rồi vẽ thêm con
đường cho là sẽ dẫn đến, và rồi lại tự cho mình độc quyền kiểm soát con đường vốn
tưởng tượng đó. Như tác giả nói trên “Công thức sản xuất cho một
triết lý của loại hình này thì đơn giản. Triết gia trước tiên quyết định đâu là
những tính năng đặc biệt của thế giới hiện tại cho ông vui sướng, và đâu là
những tính năng cho ông đau đớn. Ông sau đó, bằng một lựa chọn cẩn thận giữa
những sự kiện, tự thuyết phục mình rằng vũ trụ là đối tượng của một luật tổng
quát dẫn đến sự gia tăng của những gì ông thấy dễ chịu, và suy giảm những gì
ông thấy khó chịu. Kế tiếp, sau khi đưa vào dựng thành luật của ông về sự tiến
bộ, ông quay sang công chúng và nói: “Đó là định mệnh mà thế giới phải phát
triển như tôi nói”.
[23] John Locke (1632–1704), triết gia người Anh,
người được xem như sáng lập trường phái triết học Duy nghiệm (empiricism)
và chủ thuyết Tự do chính trị (political liberalism). Trong Two
Treatises of Government (1690) ông lập luận rằng uy quyền của những
người cai trị có nguồn gốc con người và có giới hạn. Nổi tiếng nhất là Second
Treatise on Government (1678), đã gây hứng khởi cho cuộc “Cách mạng Không
đổ máu”, hay “Glorious Revolution” ở nước Anh (1678), và là một trong những nền
tảng lý thuyết cho Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và Hiến pháp nước Mỹ
(1787)
Trong An Essay concerning Human
Understanding (1690) ông lập luận rằng tất cả kiến thức đều dựa trên
kinh nghiệm có nguồn gốc giác quan.
[24] Liberalism:
chủ thuyết Tự do chính trị, trong nội dung tư tưởng thiết yếu gồm: (a) ủng hộ
những quyền và tự do của cá nhân (b) tự do thương mại, và (c) cải cách ôn hoà
về chính trị và xã hội
[25] [Xem The
New Genetics in the Soviet Union, của Hudson and Richens. School of
Agriculture, Cambridge, 1946.]
[26] Chủ thuyết duy nghiệm của Locke nhấn mạnh trên sự
quan trọng của kinh nghiệm của những các giác quan trong việc theo đuổi kiến
thức, thay vì dự đoán trực giác hay suy luận diễn dịch. Các học thuyết duy
nghiệm đầu tiên được Francis Bacon, triết gia và chính khách Anh đầu thế kỷ 17,
giải thích chi tiết, nhưng Locke đã trình bày nó thành hệ thống trong luận
văn Essay Concerning Human Understanding (1690). Ông nhìn não
thức bẩm sinh con người như tabula rasa, một phiến đá trắng trên đó có in kinh
nghiệm sẽ in khắc kiến thức, và không tin vào trực giác hoặc các lý thuyết vuae
những khái niệm có bẩm sinh. Locke cũng chủ trương rằng tất cả mọi người được
sinh ra đều tốt lành, độc lập, và bình đẳng.
[27] “đầu-Lớn-quả
trứng” và “đầu-Nhỏ-quả trứng”: Truyện kể trong Gullivers Travels của
Jonathan Swift, về chiến tranh giữa dân Lilliput và dân đảo láng giềng
Blefescu. Nguyên nhân chỉ là sự bất đồng ý kiến về việc đập vỏ trứng, đầu lớn
hay đầu nhỏ trước, mỗi khi ăn trứng – Khi Gulliver đến thủ đô Mildendo của dân
tí hon Lilliput, được cho biết là xung đột giữa hai bên đã xảy ra từ nhiều năm
trước và ngày càng trầm trọng, đã đi từ nội loạn đến ngoại xâm. Tất cả bắt đầu
khi ông nội của hoàng đế đương thời, khi đó còn chỉ huy nước Lilliput, đã xuống
lệnh tất cả dân Lilliput, phải đổi cách ăn trứng: đầu tiên phải đập đầu nhỏ của
vỏ trứng trước. Ông đã ban hành quyết định này sau khi chính ông, theo thói
quen cũ, đập vỏ một quả trứng, bằng đầu lớn trước, và đã cắt phải ngón tay
mình. Nhưng trong dân chúng, có nhiều người phẫn uất với luật mới này, và đã
xảy ra đến sáu cuộc nổi loạn phản đối. Nhà vua của dân đảo bên cạnh Blefuscu
cũng thúc đẩy những cuộc nổi loạn, và họ đã cho quân nổi dậy Lilliput chạy
trốn, “vượt biên” sang nước Blefuscu để “tị nạn”. Mười ngàn người dân xứ
Lilliput đã anh dũng chọn cái chết, làm “thánh tử đạo (ăn trứng)”, hơn là mất
tự do, cắt đứt với truyền thống, quyết không tuân theo luật mới ép buộc người
ta ăn trứng phải đập vỏ đầu nhỏ, không được đập vỏ đầu lớn trước, như trước
đây. Nhiều quyển sách đã được viết, tranh cãi, bàn luận về vấn đề “tự do”,
“truyền thống”... này. Những quyển sách của phái theo học thuyết “đầu-Lớn-quả
trứng” dĩ nhiên đều bị cấm lưu hành trong nước Lilliput. Chính phủ Blefuscu
nghiêm khắc lên án chính phủ Lilliput đã chà đạp lên học thuyết tôn giáo của
họ, học thuyết Brundrecral, khi ban lệnh đập vỏ trứng của họ ở
“đầu-Nhỏ-quả trứng”. Dân Lilliput theo luật mới, cãi rằng học thuyết truyền thống
đã ghi “Đó là tất cả những tín đồ chân chính sẽ đập vỏ trứng của họ ở đầu nào
thuận tiện cho họ”, và có thể được hiểu như Đầu Nhỏ.
Những người Lilliput lưu vong đã còn được chính phủ Blefuscu giúp đỡ
trong việc khởi động chiến tranh để chống lại chính quyền Lilliput
đương thời, và cũng được lực lượng nổi dậy bên trong Lilliput hỗ trợ.
Chiến tranh dai dẳng giữa hai nước, lúc âm ỉ, lúc sôi nổi, vẫn không dứt, chỉ
vì câu hỏi, trước khi ăn trứng – đập vỏ trứng đầu nào trước. Jonathan Swift đã mỉa
mai dân tộc Anh của ông, trước đây, một thời là Kitô Rôma, rồi Anh giáo
(Big-endian) nhưng nay dù phần đông là Kitô Phản thệ (Little-endian), đều là
Kitô (đều ăn trứng, chưa nói là “trứng ung thối” hàng nghìn năm rồi), nhưng vẫn
hục hoặc vì những chuyện nhỏ (đầu lớn hay đầu nhỏ của quả trứng).
[28] Revelation: vén lên cho thấy
[Latin: revelatio < revelare ‘lay bare’] –
bóc/phơi,/bày/mở /vén, một gì đó ngăn/che (như tấm màn, nên đã dịch là mạc
khải), cho xem/thấy/rõ tỏ tường. Khái niệm đặc biệt gót học – thông thường hiểu
như nói về hiện tượng vẫn nghe/kể thuật lại, một cách sùng kính và không ít
nhiều hãnh diện, rằng có một ai đó, xưa hay nay, đã một lần hiếm hoi và may
mắn, được Gót “vén lên cho thấy” chân lý (là sự hiện hữu của Gót).
[29] Thế kỷ 18 và 19 ở châu Âu.
[30] Ideology: ý thức hệ. Thời điểm của bài viết này là
những năm đầu, sau Thế chiến thứ Hai, chiến tranh lạnh giữa hai khối do Liên xô
và Mỹ đứng đầu, đang thành hình – đằng sau những khẩu hiệu Độc tài/Tự do, hay
Cộng sản/Dân chủ, là sự tranh chấp về tư tưởng (ý thức hệ) giữa những quốc gia
có chính phủ Kitô chống lại những chính phủ không-Kitô, đó là một bên tin-Gót
Ki tô (hữu thần) và một bên không-tin-Gót Kitô (vô thần).
[31] Hengist (hay Hengest) và Horsa (hay Hors) là những
nhân vật cổ truyền trong huyền thoại nước Anh, theo đó, họ là hai anh em, dân
Germanic (Bắc Âu), đã dẫn những đội quân của các bộ tộc Angle, Saxon, và
Jutish, chinh phục những lãnh địa đầu tiên trên quần đảo Anh, trong thế kỷ 5
CN. Hengist và Horsa đã sang đất Britain như những lính đánh thuê phục vụ
Vortigern, vua của dân Britons. Sự kiện này, theo truyền thống, được công nhận
là sự khởi đầu cuộc xâm lược của dân Anglo-Saxon vào quần đảo Anh.
[32] Hugenot là một thiểu số Kitô PhảnThệ ở nước Pháp;
dưới thời Louis XIV, bị ngược đãi, khoảng 200,000 người đã di cư sang những
nước châu Âu khác có chính quyền, không, hay không-quá-Catô. André Gide (giải
Nobel Văn chương 1947) là một người dòng dõi những người Hugenot còn lại ở nước
Pháp