Về Lai lịch của Đạo đức
(On the Genealogy of Morality
Zur Genealogie der Moral)
Friedrich Nietzsche
“Có tội”, “Lương tâm Cắn Rứt”, và những Vấn đề liên quan
13.
– Trở về với chủ đề của chúng ta, cụ thể là sự trừng phạt, chúng ta phải phân biệt giữa
hai phương diện của nó: một mặt là tính cố
định lâu bền tương đối của nó, tập quán, hành động, “tấn tuồng”, một trình
tự nghiêm nhặt nào đó nhất định của những thủ tục, mặt kia là tính tuôn chảy thay đổi của nó, ý nghĩa [Sinn]
của nó, mục đích và kỳ vọng, chúng được kết nối với sự thực hiện những thủ tục loại
giống như thế. Và ở đây, không phải nói thêm nhiều, tôi giả định, bằng loại suy [1],
ứng theo với điểm chính yếu của phương pháp lịch sử vừa mới phát triển, rằng
chính thủ tục tự nó sẽ là một gì đó cổ hơn, với năm tháng bắt đầu trước khi có
sử dụng nó như sự trừng phạt, rằng điều sau này đã chỉ được gài vào
và diễn giải vào trong thủ tục (vốn đã hiện hữu một thời gian dài, mặc dù nó đã
được nghĩ đến trong một cách khác biệt), nói ngắn gọn, rằng vấn đề thì không hiểu theo cách những nhà viết lai
lịch của đạo đức và pháp lý ngây thơ của chúng ta đã giả định cho đến bây giờ, những
người tất cả đều nghĩ rằng thủ tục tiến hành như được phát minh cho mục đích của sự trừng phạt, cũng giống y như người ta
quen nghĩ rằng bàn tay đã được phát minh cho mục đích để nắm bắt.
Về phần yếu tố kia trong sự trừng phạt, yếu tố tuôn chảy
thay đổi, “ý nghĩa” của nó, khái niệm “trừng phạt”, ở giai đoạn rất muộn của
văn hóa (lấy thí dụ, ở châu Âu ngày nay), trình bày không chỉ một ý nghĩa, nhưng một toàn bộ tổng hợp của
“những ý nghĩa” [Sinnen]: nói tổng
quát, lịch sử của sự trừng phạt cho đến nay là lịch sử của sự sử dụng của nó
cho nhiều những mục đích đa tạp, cuối cùng kết tinh [2]
vào thành một thứ của thống nhất, vốn sau đó khó giải thể trở lại về những yếu
tố của nó, khó để phân tích, điều này phải được nhấn mạnh, và hoàn toàn không-thể-định-nghĩa được. (Ngày nay, là
không thể nào có thể nói cho chính xác tại
sao thực sự người ta bị trừng phạt: tất cả những khái niệm trong đó toàn bộ
tiến trình thì tập trung cô đọng mang tính cách ký hiệu, nó thách thức định
nghĩa; chỉ có một-gì đã không có lịch sử là có thể được định nghĩa). Tuy nhiên,
vào một giai đoạn trước đó sớm hơn, tổng hợp đề này của “những ý nghĩa”, hiện ra
có vẻ dễ dàng hơn nhiều để tháo mở và chuyển đổi, chúng ta có thể vẫn hiểu được,
trong tất cả mỗi trường hợp, những yếu tố của sự tổng hợp đã chuyển hóa trị [3]
và đổi thứ tự như thế nào, trong khi chúng diễn ra khiến bây giờ như vầy, sau
đó yếu tố đó nổi bật và chiếm ưu thế, với thiệt hại cho những yếu tố khác, quả
thật vậy, trong một số hoàn cảnh, một yếu tố (lấy thí dụ, mục đích nhắm đến răn
đe, làm nhụt chí, cản trở) xem dường như thắng vượt tất cả đám còn lại.
14.
Danh sách này chắc chắn không đầy đủ, trừng phạt có thể rõ
ràng được nhìn thấy giàu có chất đầy những hữu ích thuộc tất cả mọi loại. Điều
này tất cả lại đem biện minh hơn nữa cho chúng ta để suy diễn một lợi ích đã giả định vốn kể như đặc trưng nhất của
nó trong nhận thức phổ biến, – niềm tin vào sự trừng phạt, vốn ngày nay nó lung
lay vì nhiều lý do, nó được hỗ trợ mạnh nhất trong chính điều này. Trừng phạt
được giả định là có giá trị của khơi dậy tình
cảm tội lỗi trong bên phạm tội; trong nó, người ta tìm khí cụ [5] thực sự của sự
phản xạ tinh thần vốn chúng ta gọi là “lương tâm cắn rứt”, hay “sự nhói đau
trong lương tâm”. Nhưng khi làm điều này, người ta đã làm trái với thực tại và
tâm lý, như nó là, ngay cả trong
ngày nay: và rất nhiều hơn thế nữa trong thời kỳ lịch sử dài nhất của loài người,
thời tiền sử của nó!
Nhói đau thực sự của lương tâm, cho chính xác là giữa những
tội phạm và những người bị kết án, là một gì đó cực kỳ hiếm hoi, những nhà tù
và những phòng giam không phải là những
vườn ươm, ở đó loại quặn đau gặm nhấm này lựa chọn để phát triển mạnh: – về điều
này, tất cả những người quan sát có ý thức đều đồng ý, trong nhiều trường hợp miễn
cưỡng đi đến một kết luận như vậy, và ngược lại với khuynh hướng cá nhân của họ.
Trong tổng quát, trừng phạt làm con người chai đá hơn và lạnh lẽo hơn, nó kết đọng,
nó mài sắc tình cảm của sự xa lạ với người khác, nó làm mạnh thêm sự đề kháng.
Nếu như nó thực xảy ra rằng sức sống của một người bị bẻ gãy, dẫn đến sự kiệt sức
khốn khổ và sự tự hạ phẩm giá của hắn, và một hậu quả của loại này thì chắc chắn kém xây dựng hơn so
với tác dụng trung bình của trừng phạt: như được đặc trưng bởi một sự trang
nghiêm buồn rầu ủ ê, khô khan.
Nếu chúng ta suy nghĩ chỉ về những thế kỷ đó, trước khi có lịch sử của loài người,
chúng ta có thể yên ổn kết luận rằng
sự tiến hóa của một tình về cảm tội lỗi đã
bị trì trệ mạnh mẽ nhất qua sự trừng phạt, – dù ở bất kỳ mức độ nào, về phần
những nạn nhân của những biện pháp nguyên thủy đã thực hành với họ. Chúng ta
cũng phải không đánh giá coi thường mức độ mà với nó chỉ đơn thuần cảnh tượng của
những thủ tục hành xử pháp luật cũng ngăn chặn chính con người tội phạm khỏi sự
thử nghiệm hành động của anh ta, phương thức ứng xử của anh ta, như sai lầm bị
khiển trách giống như vậy: vì của anh
ta nhìn thấy cùng một loại hành động được thực hành trong dịch vụ của công lý
và được phê duyệt, chấp thuận, được thực hành với một lương tâm tốt: như do thám, lừa bịp, hối lộ, đặt bẫy,
toàn bộ những kỹ năng phức tạp và quỷ quyệt của người cảnh sát và công tố viên,
và còn thêm những cướp bóc, bạo động, vu khống, bỏ tù, tra tấn và giết người, đều
hoàn hảo nhất, được đem thực hiện mà ngay cả không có lấy một cảm xúc như một
cái cớ, tất cả những thực hành vốn chúng thể hiện trong những loại khác biệt của
sự trừng phạt, – không một nào trong số chúng được những thẩm phán của anh ta nhìn như là một
hành vi hư hỏng suy đồi và đáng bị lên án giống
như vậy, nhưng chỉ trong một số những phương diện và những ứng dụng nào đó.
‘Lương tâm cắn rứt “, giống cây kỳ lạ nhất và đáng chú ý thú
vị nhất trong những thảo mộc trần thế của chúng ta, đã không phát triển trên đất này, – Trong thực tế, hầu hết mọi lần, nó đã không nhập vào ý thức của những
người là người đã phán xét và đã trừng phạt, rằng họ đã đương xử lý với một “bên
có lỗi”. Thay vào đó, nó đã là một câu hỏi về một ai nào đó là người đã gây tác
hại, một mảnh vô trách nhiệm của số phận. Bản thân anh ta, con người nhận sự trừng phạt, vốn nó lại rơi xuống một lần
nữa, giống như một mảnh của số phận, không hề cảm thấy “đau bên trong” vượt quá
những gì anh ta sẽ cảm thấy nếu như một gì không không lường trước đã bất ngờ xảy
ra, một thiên tai khủng khiếp, một tảng đá rơi xuống anh ta và nghiền nát anh
ta, kháng cự là vô ích, ở đấy.
15.
Spinoza đã trở thành ý thức được về điều này trong một cách
khiến ông cho thấy màu sắc thực sự của ông (với sự bực mình cho những nhà phê
bình ông, những người cố gắng để hiểu
sai ông một cách có hệ thống về điểm này, Kuno Fischer, [6]
lấy thí dụ), một buổi chiều, khi lục lọi giữa ai là người nào biết những những
kỷ niệm gì, ông chuyển sự chú ý của ông sang câu hỏi về những gì thực sự vẫn
còn giữ lại trong ông, chính ông, của
cái morsus conscientiae [7]
nổi tiếng – ông là người đã đánh tuột hạng cái tốt và cái ác xuống hàng thuộc
lĩnh vực của trí tưởng tượng của con người, và đã giận dữ bảo vệ danh dự Gót “tự
do” của ông, chống lại những kẻ báng bổ Gót, những người khẳng định rằng Gót tác
động tất cả mọi thứ để đạt đến một vài
thiện lành [8] (“nhưng điều
đó sẽ có nghĩa là Gót là đối tượng
của số phận và thực sự sẽ là cái vĩ đại nhất của tất cả những phi lý”-) [9].
Với Spinoza, thế giới đã trở lại với trạng thái của ngây thơ vô tội, trong đó
nó đã đặt nằm trước khi có sự sáng chế ra lương tâm cắn rứt: vậy sau đó, những
gì đã trở thành lương tâm cắn rứt: (morsus
conscientiae)?
“Cái đối nghịch của sự hân hoan” [10]
cuối cùng ông nói với chính ông, -“một sự buồn bã đi kèm bởi ý niệm về một biến
cố quá khứ vốn nó hóa ra trái ngược với kỳ vọng” Eth iii, Propos. xviii
Schol. i ii. Trong hàng nghìn năm, những người làm điều sai trái bị trừng
phạt nắm bắt, đã cảm thấy không có gì khác
biệt hơn Spinoza, nhìn về “hành vi phạm tội” của họ: “một gì đó sai lầm đã xảy
ra ở đây”, không phải là “đáng lẽ tôi phải không nên làm điều đó”, – họ nộp mình
với sự trừng phạt như bạn nộp mình với bệnh tật, hay bất hạnh, hay cái chết, với
sự dũng cảm đó, với tai ương định mệnh không nổi loạn đó, vốn vẫn đem lại cho
những người Nga, lấy thí dụ, một lợi thế hơn những người phương Tây chúng ta, trong
cách họ đối xử với đời sống.
Trong những ngày đó, nếu như đã có bất kỳ những phê bình chỉ
trích nào với chủ ý hành động, nó đến từ sự thông minh, vốn nó thực hành sự phê
bình: chúng ta chắc chắn phải tìm kiếm tác
dụng thực sự của trừng phạt chủ yếu trong sự mài dũa trí thông minh, trong
sự kéo dài trí nhớ, trong một ý chí muốn là thận trọng hơn, ít sẵn lòng tin tưởng
hơn, để đi đến nhận lấy những sự việc không cởi mở, nhưng khôn ngoan hơn, từ giờ
trở đi, trong sự nhìn nhận rằng người ta, sau đó một lần và cho tất cả, là quá
yếu đuối trong nhiều sự việc, trong một thứ thuộc sự cải thiện về sự tự đánh
giá. Những gì phần lớn có thể đạt được bằng sự trừng phạt, với con người hoặc con
thú, là sự gia tăng sợ hãi, là sự làm mãnh liệt hơn của trí thông minh, sự nắm
vững làm chủ những ham muốn: trừng phạt thuần
hóa con người theo cách này, nhưng không làm cho hắn “tốt hơn”, – chúng ta sẽ hợp lý nhiều
hơn khi khẳng định điều ngược lại. (“Anh có thể học hỏi từ những sai lầm của anh”
như người ta vẫn nói, nhưng những gì anh học được cũng làm anh thành xấu xa.
May mắn thay, thường thường nó chỉ đủ làm cho anh thành ngu ngốc.)
16.
Đến điểm này, tôi không còn có thể tránh không đưa ra một biểu
lộ đầu tiên, sơ bộ về lý thuyết của riêng tôi về nguồn gốc của “lương tâm cắn rứt”:
nó không phải là dễ dàng để có được một điều trần cho giả thuyết này, và nó cần
phải được cân nhắc, nhìn ngắm, và gác lại để suy nghĩ cho đến sáng mai. Tôi
nhìn lương tâm cắn rứt như một căn bệnh hiểm nghèo, con người đã bị buộc phải quị ngã trước áp lực cơ bản nhất của
tất cả những thay đổi mà anh trải nghiệm, – rằng thay đổi, bằng cách đó anh ta cuối cùng đã thấy chính mình bị giam cầm
trong phạm vi của xã hội và hòa bình. Nó phải đã là không có gì khác biệt với
những loài nửa người nửa thú này, đã vui vẻ thích ứng với sự hoang dã, chiến tranh, đời sống lang
thang và phiêu lưu, hơn là với những loài động vật sông trong biển, khi chúng bị
buộc phải hoặc là trở thành động vật sống trên cạn hoặc là chịu mai một đi, -
khi một lần đi, tất cả bản năng bị mất giá trị và “bị đình chỉ”. Bây giờ họ đã
phải bước đi trên bàn chân của họ và “chuyên chở chính mình”, trong khi họ đã
được nước chuyên chở cho đến khi đó: a sự nặng nề khủng khiếp đè xuống trên họ.
Họ cảm thấy họ vụng về khi thực hiện nhiệm vụ đơn giản nhất, họ không còn có bất
bỳ hướng dẫn quen thuộc nào của họ nữa cho thế giới mới, chưa biết này, những
xung lực bản năng điều chỉnh đó vốn đã ngẫu nhiên dẫn họ đến an toàn – những con
vật khốn khổ đó đã bị giảm lược xuống chỉ còn trông cậy vào suy nghĩ, tính
toán, suy luận, và kết nối nguyên nhân với hiệu quả, đó là, dựa vào “ý thức” của
họ, vốn là cơ quan nghèo nàn nhất và dễ bị lầm lỗi nhất! Tôi không nghĩ rằng đã
từng có được một tình cảm khổ sở giống dường vậy trên mặt đất, một khó chịu bực
bội trĩu nặng giống như vậy, – và
trong khi đó, những bản năng cũ đã không đột nhiên ngừng, thôi không những đòi
hỏi của chúng! Nhưng nó là khó khăn và hiếm khi có thể chịu thua với chúng: chúng
chủ yếu là phải tìm kiếm những thỏa mãn mới và như nó đã xảy ra là chìm ẩn
trong ngấm ngầm .
Tất cả những bản năng không được phóng xả ra bên ngoài,
chúng chuyển vào bên trong – đây là
những gì tôi gọi là sự nội tâm hóa,
chủ quan hóa [11] của con người:
bây giờ ở đó, với nó, tiến hóa, phát triển sau này trong con người, sẽ là được
gọi là ‘linh hồn’ của hắn. Toàn bộ thế giới bên trong, ban đầu kéo dài mỏng dính
như căng ngang giữa hai lớp da, đã được mở rộng, và chính nó tự mở rộng, và đã
đạt được chiều sâu, chiều rộng và chiều cao, theo tỷ lệ tương ứng với mức độ những bản năng con người đã bị
ngăn chặn không được phóng xả ra bên
ngoài. Những đê ngăn, những tường thành khủng khiếp đó, với chúng những tổ chức
của nhà nước tự bảo vệ chống lại những bản năng của của tự do – những trừng phạt
là một thí dụ chính yếu về những tường thành ngăn chặn thuộc loại này – đã có kết quả là tất cả những bản năng
hoang dã, tự do, lưu động con người đã quay ngược trở lại, chống lại chính con người. Sự thù địch, tàn ác, vui thích của truy
lùng, đánh phá, thay đổi và hủy hoại – tất cả những điều này là tập trung chống lại ai là người có những
bản năng như vậy: đó là nguồn gốc của
“lương tâm cắn rứt”.
Thiếu những kẻ thù và những chướng ngại bên ngoài, và bị cưỡng
đẩy vào trong sự chật hẹp áp chế, và
sự phải thuận hợp với phong tục, con người thiếu kiên nhẫn tự xé vụn nó thành mảnh
rời, tự bức hại nó, cắn gặm bản thân mình, không cho chính mình an bình và lạm
dụng hành hạ chính mình, con vật này con thú đã vật vã đập mình trầy da chảy
máu trên chấn song chuống nhốt của mình, và kẻ được giả định là “thuần hóa”;
con người, đầy trống rỗng và bị xé nát với sự nhớ nhà của chốn sa mạc, đã phải tự tạo ra từ bên trong chính
nó, một chuyến phiêu lưu, một phòng
tra khảo, một chốn không an toàn và hoang dã nguy hiểm – kẻ ngốc này, tên tù
nhân này bị ăn mòn thiêu rụi bởi khao khát ham muốn và tuyệt vọng không cứu chữa
được, đã trở thành kẻ phát minh của “lương tâm cắn rứt”. Tuy nhiên, với nó, căn bệnh tồi tệ nhất
và âm ỉ quỉ quyệt nhất đã được đem vào, một căn bệnh mà với nó, loài người đã chưa
từng hồi phục được; bệnh tật của con người với
con người, với chính mình: như một
kết quả của một hành vi vi ép buộc phải bẻ gãy với quá khứ động vật của mình, đồng
thời một bước nhảy vọt và rơi vào tình huống và những điều kiện mới, của hiện
sinh, một tuyên chiến chống lại tất cả những bản năng cũ, mà cho đến khi đó, sức
mạnh của hắn, vui thú của hắn và tính chất dữ dội ghê gớm của hắn đã được dựa trên chúng.
Chúng ta ngay lập tức hãy cùng thêm rằng, về mặt khác, viễn
tượng của một linh hồn con vật chuyển sang chống lại chính nó, nhận một phần chống
lại chính nó, là một gì đó quá mới mẻ, sâu sắc, chưa từng nghe thấy, khó hiểu,
mâu thuẫn và cực kỳ quan trọng (Zukunftsvolles) trên trái đất [12],
mà toàn bộ cá tính của thế giới đã thay đổi một cách cơ bản. Thật vậy, một khán
giả thần linh siêu phàm đã là cần thiết để thưởng ngoạn cảnh tượng vốn sau đó đã
bắt đầu, nhưng cuối cùng của nó thì vẫn chưa trong tầm nhìn, – một cảnh tượng quá tinh tế, quá tuyệt vời,
quá nghịch lý để có thể được phép diễn ra một cách vô nghĩa nếu không được quan
sát trên một hành tinh nào đó lố bịch buồn cười! Kể từ thời gian đó, con người
đã được bao gồm trong hầu hết những cái
ném xúc xắc bất ngờ và thú vị của “đứa con vĩ đại” của Heraclitus, gọi Hắn là Zeus hay số phận [13],–
hắn khấy gợi sự chú ý quan tâm, căng thẳng, hy vọng, gần như chắc chắn cho chính
hắn ta, như thể qua hắn ta, một gì đó đã được công bố, đã được chuẩn bị, như thể
con người không phải là một cứu cánh, nhưng chỉ là một con đường đi, một chương
hồi (trong câu chuyện), một cây cầu, một hứa hẹn lớn lao. . .
17.
Giả định đầu tiên trong lý thuyết của tôi về nguồn gốc của lương
tâm cắn rứt là sự thay đổi đã không dần dần và không tự nguyện, và đã không đại
diện cho sự thích ứng của cơ cấu hữu cơ vào những hoàn cảnh mới, nhưng là bẻ
gãy, một nhảy vọt, một ép buộc, một số phận không thể tránh rằng không có gì có
thể ngăn ngừa thoát khỏi, vốn nó đôi khi xảy ra không có đấu tranh, thậm chí không
cả ressentiment. Một giả định thứ
hai, tuy nhiên, là sự hình thành của một quần thể dân cư, vốn nó cho đến giờ vẫn
không bị kiềm chế và không hình dạng,
vào thành một hình thức cố định, như đã xảy ra ngay từ đầu với một hành vi bạo
động, chỉ có thể kết luận được với những hành vi bạo động, – dẫn đến hậu quả là
“nhà nước” xưa nhất nổi lên như là
một chế độ độc tài khủng khiếp, như là một bộ máy đàn áp và tàn nhẫn, và đã tiếp
tục làm việc cho đến khi nguyên liệu thô phác của người ta và nửa-người-nửa-thú
đã cuối cùng không chỉ nhào thành bột và làm cho tuân thủ, nhưng được thành hình dạng.
Tôi đã dùng từ “nhà nước”: nó là hiển nhiên ai là người có nghĩa
chỉ đến bằng điều này – một số bầy đàn của giống thú săn mồi lông vàng, một chủng
tộc của chủ nhân và kẻ chinh phục, nó được tổ chức trên một cơ sở quan hệ chiến
tranh , và với sức mạnh để tổ chức, không ngần ngại đặt móng vuốt khủng khiếp của
nó trên một đám đông dân chúng, vốn mặc dù có thể rất lớn hơn về số lượng, nhưng
vẫn còn chưa thành hình dạng và và chuyển dịch dao động. Bằng cách này, “nhà nước”
đã bắt đầu trên trái đất: Tôi nghĩ rằng tôi đã miễn trừ với tưởng tượng vốn nó đã
bắt đầu với một “hợp đồng”. Bất cứ ai là người có thể chỉ huy, bất cứ ai là một
“người chủ” bởi bản tính tự nhiên, bất cứ ai xem dường xuất hiện bạo động trong
hành động và cử chỉ – ông ta sẽ đếm xỉa gì đến với những hợp đồng! Những sinh vật
loại như thế không có thể tính toán nhận biết được, họ đến như số phận, không
nguyên nhân, không lý lẽ, không quan tâm hay không phải mượn cớ, họ xuất hiện
giống như sấm sét xuất hiện, quá khủng khiếp, đột ngột, thuyết phục và “khác
không giống”, thậm chí bị căm
ghét. Những gì họ làm là để tạo ra và in dấu những khuôn thức theo bản năng, họ
là những nghệ sĩ không tự nguyện, vô thức, có được đó: – chỗ nào họ xuất hiện, chẳng
lâu sẽ phát sinh một gì đó mới, một
cấu trúc của sự thống trị [Herrschafts-Gebilde]
vốn nó sống, trong đó có những bộ phận và những chức năng được tách biệt
và liên hệ lẫn nhau, trong đó không có chỗ cho tuyệt đối bất cứ gì mà trước
tiên không thu nhận có “ý nghĩa” nhìn theo với cả toàn bộ. Họ không biết những
gì là tội lỗi, trách nhiệm, quan tâm cân nhắc, đây là những người bẩm sinh là
những người tổ chức, họ được cai trị bởi sự ích kỷ bên trong khủng khiếp đó của
kẻ nghệ sĩ , vốn nó có một vẻ mặt trơ tráo dày dạn và tự thấy bản thân mình được
khẳng định với tất cả vĩnh cửu bởi ‘công trình’, giống như người mẹ trong đứa
con của bà. Họ không phải là những kẻ
bên trong họ lương tâm cắn rứt phát triển, đó là điều hiển nhiên – nhưng nó sẽ
không phát triển nếu không có họ, sự tăng trưởng xấu xí này sẽ không có, nếu một
lượng tự do khổng lồ đã không bị đẩy ra khỏi thế giới, hoặc ít nhất là đẩy đi
khỏi tầm mắt nhìn, và đồng thời, làm thành ngấm
ngầm bởi áp lực của những cú giáng búa rìu của họ và bạo động của những nghệ
sĩ. Bản năng về tự do này, bị thúc ép phải thành âm ỉ ngấm ngầm – chúng ta đã thấy như thế nào rồi –
bản năng tự do này đã ép đẩy trở lại, đã trấn áp, đã bị giam giữ bên trong chính
nó, và cuối cùng có khả năng phóng xả và tháo cũi mở chuồng cho chính nó, chỉ
chống lại chính nó, đó là và duy một mình điều đó, là lương tâm cắn rứt trong những khởi đầu của nó.
18.
Chúng ta phải thận trọng khi
suy nghĩ một cách khinh miệt về toàn bộ hiện tượng này, vì nó thừa hưởng di
truyền xấu xí và đau đớn.
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Aug/2012)
[1] Per analogiam, (Latin) –
bằng loại suy.
[2] [Cf. Stendhal, De l’amour,
chs 11ff.]
[3] valence
[4] giết thân tộc thuộc ba họ của người bị kết tội – tru di tam tộc.
[5] Latin trong nguyên văn: instrumentum
[6]
[Cf. Geschichte der neueren Philosophie
của ông (Heidelberg, 1865), 1.2. ] Kuno Fischer (1824-1907) giáo sư Heidelberg,
nổi tiếng với lịch sử triết học hiện đại – gồm 10 tập chuyên khảo về những riét
gia chọn lọc. Một tập dành riêng viết về Spinoza.
[7]
[‘bite of conscience’. Cf. Spinoza, Ethics
III, Definitions XVI, XVII, XXVI. ]
[8]
Latin trong nguyên văn - sub ratione boni - [‘to attain
some good’. ]
[9]
[Spinoza, Ethics Proposition II
scholium 2.]
[10]
Latin trong nguyên văn - gaudium,
[‘gladness’.] - hân hoan,
vui vẻ.
[11] Verinnerlichung – xem Freud khai triển về sau.
[12] bản của Kaufmann – “mang thai, cưu
mang với một tương lai mà cuộc diện của thế giới bị sửa đổi trong yếu tính”
[13] Heraclitus, Fragment 52.