CHƯƠNG BỐN
Đạo đức học đạo Phật
Quan điểm
về con người chúng ta đã thảo luận trong chương trước là một hình thức của thuyết thu giảm. [1] Một người theo thuyết thu giảm về một loại nào đó
của những sự vật việc thì chủ trương rằng những sự vật việc thuộc loại đó không
tồn tại trong nghĩa hẹp chính xác rằng – sự
tồn tại của chúng chỉ gồm trong sự tồn tại của những loại khác của những sự vật
việc. Thí dụ, quan điểm của đạo Phật về không có cái-tôi, nói rằng sự
tồn tại của một con người chỉ gồm trong sự diễn ra của một chuỗi nhân quả phức
tạp của những skandhas nhất
thời, tồn tại chỉ khoảnh khắc và không gán vào một gì như chủ thể. Nhưng những
người đạo Phật không phải là những người duy nhất giữ một quan điểm thu giảm về
con người. Trong một số những diễn giải, Locke và Hume đều đã chủ trương
một quan điểm như vậy. Gần đây hơn, Derek Parfit đã cho quan điểm thu
giảm về con người một biện hộ uyên bác và phức tạp, trong đó ông giải thích
nhân vì sự phủ nhận rằng sự tiếp tục tồn tại của một con người bao gồm bất kỳ
‘sự kiện xa
hơn’ ở ngoài
và vượt trên những sự kiện về một chuỗi nhân quả gồm những yếu tố tâm sinh
lý. Đây là những gì ông nói về những tác dụng của việc đi đến để tin tưởng
rằng quan điểm thu giảm thì đúng với bản thân: [2]
Có phải sự thật gây buồn bã thất vọng? Một số
người có thể thấy nó như thế. Nhưng tôi thấy nó mang tính cách trả tự do
và an ủi. Khi tôi đã tin rằng sự tồn tại của tôi đã là một ‘sự kiện xa hơn’ loại như thế, tôi dường như đã bị giam cầm trong
chính tôi. Đời tôi có vẻ giống một đường hầm bằng kính, qua
nó mỗi năm tôi di chuyển nhanh hơn, và có bóng tối ở phần cuối của nó. Khi
tôi đã đổi cái nhìn của tôi, những tường của đường hầm bằng kính của
tôi biến mất. Bây giờ tôi sống ngoài trời. Vẫn còn một khác
biệt giữa đời sống tôi và những đời sống của những người khác. Nhưng sự khác
biệt thì ít hơn. Những người khác thì gần gũi hơn. Tôi ít bận tâm về
phần còn lại của đời tôi, và quan tâm hơn về những đời sống của những
người khác. (1984: 281] [3]
Những
người đạo Phật nói một sự việc tương tự. Họ nói rằng trở nên giác ngộ, đi
đến hiểu sự thật của quan điểm thu giảm, làm giảm nhẹ đau khổ khi sống đời [4]. Họ cũng tuyên bố rằng nó làm chúng ta quan
tâm hơn về phúc lợi của những người khác. Trong chương này, chúng ta
sẽ thăm dò việc đó có thể là thế nào. Đạo đức học quan tâm đến những
câu hỏi liên quan đến cách chúng ta nên sống cuộc đời của chúng ta thế nào, và
cách chúng ta nên ứng xử với những người khác như thế nào. Người đạo Phật
là những người theo thuyết thu giảm về con người cá thể: họ tuyên bố không có
cái tôi, và con người cá thể chỉ là thực theo qui ước. Chúng ta sẽ thăm dò
những hệ quả đạo đức của tuyên bố này.
4.1
Đức Phật
phát biểu rằng mục đích cuối cùng và cao nhất cho loài người là
nirvanā. Chúng ta đã thấy trong Chương 2 rằng phát biểu này dựa trên ý
niệm rằng chỉ bằng việc trở nên giác ngộ, chúng ta có thể hy vọng để vĩnh viễn
thoát khỏi đau
khổ của tồn tại. Nhưng
đã không rõ ở thời điểm đó, ngoài việc được giác ngộ không biết liệu còn có bất
kỳ gì hơn việc không còn đau khổ. Có phải nirvanā là an lạc?
Có phải nó là một trạng thái của hạnh phúc? Những bản văn đạo Phật
ban đầu đều im lặng về điểm này. Chúng ta đã thấy, mặc dù đây có thể là
phần của một phương sách đi vòng, tránh nghịch lý về giải thoát. Bây
giờ chúng ta có một sự hiểu biết tốt hơn về học thuyết Vô Ngã của đạo Phật,
chúng ta may ra có thể có khả năng để giải quyết một số những vấn đề này.
Đôi khi
bạn sẽ gặp tuyên bố rằng nirvanā đạo Phật thì vượt ngoài ngôn ngữ, rằng nó thì
đơn giản là không thể mô tả hay hiểu được, nó chỉ có thể được kinh
nghiệm. Nếu đây đã là đúng, khi đó sẽ chẳng có lý do gì để chúng ta hỏi
nirvanā là gì. Nếu chúng ta đã cố gắng quyết định có nên tự tìm kiếm nó
hay không, chúng ta sẽ bị mắc kẹt, chúng ta sẽ phải đơn giản tin vào lời
của những người đã đạt được nó, rằng nó cuối cùng là sự cao quí nhất. Chúng ta
sẽ phải khởi hành trên một con đường nhưng không biết nó dẫn đến
đâu. Nhưng tuyên bố này dựa trên một hiểu lầm về một số bản văn đạo Phật
ban đầu, chẳng hạn như sau đây:
Như vầy, tôi đã nghe, …
.. Vaccha, vị śramaṇa, đã nói với đức Phật như sau:
‘Là thế nào, Gotama? Có phải Gotama
chủ trương rằng arhat tồn tại sau khi
chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và mọi quan điểm khác sai?’
‘Không, Vaccha. Ta không chủ trương rằng arhat
tồn tại sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và mọi quan
điểm khác sai’
‘Là thế nào, Gotama? Có phải Gotama
chủ trương rằng arhat không tồn tại
sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và mọi quan điểm khác
sai?’ ‘Không, Vaccha. Ta không chủ trương rằng arhat không tồn tại sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm
này là đúng, và mọi quan điểm khác sai’
‘Là thế nào, Gotama? Có phải Gotama
chủ trương rằng arhat vừa tồn tại và
vừa không tồn tại sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và
mọi quan điểm khác sai?’ ‘Không, Vaccha. Ta không chủ trương rằng arhat vừa tồn tại và vừa không tồn tại
sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và mọi quan điểm khác
sai’
‘Nhưng đó Là thế nào, Gotama? Có phải
Gotama chủ trương rằng arhat vừa không
tồn tại và vừa không không-tồn tại sau khi chết và rằng chỉ duy nhất quan điểm
này là đúng, và mọi quan điểm khác sai?’ ‘Không, Vaccha. Ta không chủ trương rằng
arhat không tồn tại và cũng không
không-tồn tại sau khi chết, và rằng chỉ duy nhất quan điểm này là đúng, và mọi
quan điểm khác sai’
‘Vaccha, thuyết cho rằng arhat tồn tại sau khi chết là một rừng hỗn
độn, một chốn hoang vu, một trò múa rối, một vặn méo, và một xiềng xích, và kết
buộc với khốn khổ, tàn hoại, tuyệt vọng, và đau đớn, và không nghiêng sang sự
không thích, sự vắng mặt của đam mê, sự chấm dứt, sự an tĩnh, kiến thức, trí tuệ
tối cao, và nirvana. ..
‘Vaccha, thuyết cho rằng arhat vừa không tồn tại và vừa không
không-tồn tại sau khi chết là một rừng hỗn độn, một chốn hoang vu, một trò múa
rối, một vặn méo, và một xiềng xích, và kết buộc với khốn khổ, tàn hoại, tuyệt
vọng, và đau đớn, và không nghiêng sang sự không thích, sự vắng mặt của đam mê,
sự chấm dứt, sự an tĩnh, kiến thức, trí tuệ tối cao, và nirvana’
‘Đây là sự bác bẻ ta nhận rõ với những
thuyết này, vì vậy khiến ta đã không nhận bất kỳ một nào của chúng’.
‘Nhưng Gotama có bất kỳ một lý thuyết
nào của riêng ngài?’
‘Tathāgata, Ô Vaccha, thì sạch hết tất
cả những lý thuyết; nhưng điều này, Vaccha, Tathāgata thực biết: bản chất của rūpa, và rūpa nảy sinh thế nào, và rūpa
hư hoại thế nào; bản chất của cảm giác, và cảm giác nảy sinh thế nào, và cảm
giác hư hoại thế nào; bản chất của nhận thức, và nhận thức nảy sinh thế nào, và
nhận thức hư hoại thế nào; bản chất của ý định, và ý định nảy sinh thế nào, và
ý định hư hoại thế nào; bản chất của ý thức, và ý thức nảy sinh thế nào, và ý
thức hư hoại thế nào. Do đó ta nói rằng Tathāgata đã đạt giải thoát và thoát hết
những ràng buộc, vì sư kiện đó, tất cả những tưởng tượng, hay những cảm xúc nhiễu
loạn, hay những ý niệm sai lầm bao gồm đến một cái tôi, hay bất cứ gì liên quan
đến một cái tôi, đã tiêu vong, đã phai mờ mất đi, đã ngưng, đã được buông bỏ và
đã từ bỏ’. ‘Nhưng, Gotama, nhà sư tái sinh tái sinh ở đâu , người đã đạt giải
thoát này trong não thức của người ấy? ‘
‘Vaccha, để nói rằng người ấy tái
sinh sẽ không đúng với trường hợp xảy ra’.
‘Vậy, Gotama, người này không tái
sinh’. ‘Vaccha, để nói rằng người này không tái sinh sẽ không đúng với trường hợp
xảy ra’. ‘Vây, Gotama, người này vừa tái sinh vừa không tái sinh’. ‘Vaccha, để
nói rằng người vừa tái sinh vừa không tái sinh sẽ không đúng với trường hợp xảy
ra’. ‘Vậy, Gotama, người này không tái sinh và không không tái sinh’. ‘Vaccha,
để nói rằng người này không tái sinh và không không-tái sinh sẽ không đúng với
trường hợp xảy ra’. ‘Gotama, tôi hoàn toàn không biết nghĩ gì về vấn đề này, và
tôi đã trở nên rất nhiều bối rối, và tin tưởng Gotama đã khởi cho từ một trò
chuyện trước đó đã mất’.
‘Đủ rồi, Ô Vaccha! Đừng phải hoàn
toàn không biết nghĩ gì về vấn đề này,và đừng rất bối rối. Sâu xa, Ô Vaccha, là
học thuyết này, rất khó hiểu và khó khan để thấu hiểu, tốt, tuyệt vời, và không
thể đạt được. chỉ bằng lý luận, tế vi, và nhận biết được chỉ với người khôn
ngoan; và đó là một học thuyết khó khăn cho ông để học, người thuộc một giáo
phái khác, với lòng tin khác, đến một thuyết phục khác, đến một giáo thuyết
khác, và ngồi dưới chân của một thày dạy khác. Do đó, Vaccha, ta nay sẽ hỏi
ông, và hãy trả lời như gì ông nghĩ là đúng’
‘Ông nghĩ gì, Vaccha, Giả định một ngọn
lửa đang cháy trước mặt ông; ông có biết rằng một ngọn lửa đang cháy trước mặt
ông?’ ‘Gotama, nếu một ngọn lửa đang cháy trước mặt tôi; tôi biết rằng một ngọn
lửa đang cháy trước mặt tôi’. ‘Nhưng giả định, Vaccha, một ai đó hỏi ông, ‘Ngọn
lửa này đang cháy trước mặt ông tùy thuộc vào gì?’ ‘Ông sẽ trả lời là gì,
Vaccha ?’Gotama, nếu ai đó hỏi tôi ngọn lửa đang cháy trước trước mặt tôi tùy
thuộc vào gì? tôi sẽ trả lời, Gotama, ‘Đó là chất đốt của cỏ và gỗ vốn ngọn lửa
đang cháy trước mặt tôi tùy thuộc vào nó’, ‘Nhưng Vaccha, nếu ngọn lửa trước mặt
ông tắt đi, ông có sẽ nhận thức được rằng ngọn lửa trước mặt ông đã tắt?,
‘Gotama, nếu ngọn lửa trước mặt tôi ông tắt đi, tôi tất biết rằng ngọn lửa trước
mặt tôi đã tắt đi’.
‘Nhưng, Vaccha, nếu ai đó hỏi ông,
‘Hướng nào ngọn lửa đó tắt đi: hướng đông, hay tây, hay bắc, hay nam? ‘ông sẽ
nói gì, Ô Vaccha? ‘Câu hỏi sẽ không đúng với trường hợp xảy ra, Gotama. Đối với
ngọn lửa tùy thuộc vào chất đốt của cỏ và gỗ, khi chất đốt đó đã mất hết, và nó
không thể có được gì khác, là như thế với không chất nuôi dưỡng, thì nói là nó
tắt ngấm’. ‘Trong cùng một cách giống y như thế, Vaccha, tất cả rūpa vốn người ta có thể khẳng định sự tồn
tại của vị arhat, tất cả những rūpa đó đã bị bỏ rơi, bật gốc, kéo ra khỏi
mặt đất giống như một cây thốt nốt, và trở thành không tồn tại và không có khả
năng mọc lên một lần nữa trong tương lai. Vị arhat, Ô Vaccha, người đã được giải thoát khỏi hành từ những gì
theo kiểu rūpa, thì sâu, vô lượng,
không thể dò được, giống như biển lớn bao la. Để nói rằng vị ấy tái sinh sẽ
không đúng với trường hợp xảy ra. Để nói rằng vị ấy không tái sinh sẽ không
đúng với trường hợp xảy ra. Để nói rằng người ấy vừa tái sinh vừa không tái
sinh sẽ không đúng với trường hợp xảy ra.
‘Tất cả cảm giác ... ‘Tất cả nhận thức
... ‘Tất cả ý định ...
Tất cả ý thức vốn người ta vốn người
ta có thể khẳng định sự tồn tại của vị arhat,
tất cả những rūpa đó đã bị bỏ rơi, bật
gốc, kéo ra khỏi mặt đất giống như một cây thốt nốt, và trở thành không tồn tại
và không có khả năng mọc lên một lần nữa trong tương lai. Vị arhat, Ô Vaccha, người đã được giải
thoát khỏi hành từ những gì theo kiểu ý thức, thì sâu, vô lượng, không thể dò
được, giống như biển lớn bao la. Để nói rằng vị ấy tái sinh sẽ không đúng với
trường hợp xảy ra. Để nói rằng vị ấy không tái sinh sẽ không đúng với trường hợp
xảy ra. Để nói rằng người ấy vừa tái sinh vừa không tái sinh sẽ không đúng với
trường hợp xảy ra’. [M 1 .483
– 88) [5]
Sẽ là rõ
ràng để thấy những đoạn giống đoạn này có thể thế nào đã dẫn một số người để
nghĩ rằng trạng thái của nirvanā thì không diễn tả bằng lời được. Đầu
tiên chúng ta thấy đức Phật gạt bỏ rằng không bất kỳ một trường hợp nào
Vaccha đã kể như có thể xảy ra, đã mô tả chính xác trạng thái của arhat sau khi chết. Sau đó, đức
Phật nói rằng trạng thái này thì ‘sâu’ và ‘không đo lường được’. Vì lôgích
nêu lên rằng trong bốn có thể xảy ra này sẽ phải có một là đúng, [6] kết luận có vẻ không thể tránh được rằng đức Phật
đang gọi nirvanā là một gì đó vượt trên tất cả bàn luận lý trí. Nhưng bây
giờ chúng ta đã hiểu sự phân biệt giữa hai sự thật, chúng ta có thể thấy tại
sao điều này sẽ là một sai lầm. Như thí dụ về ngọn lửa làm rõ, bốn
phủ nhận của đức Phật đều tất cả liên quan với sự kiện là bất kỳ một phát biểu
nào về người giác ngộ đều thiếu ý nghĩa ở mức độ của sự thật sau cùng.
Khi một
ngọn lửa đã cháy sạch chất đốt của nó, chúng ta nói rằng nó đã tắt đi. Nó
đã đi đâu? Câu hỏi này vô nghĩa. Để ngọn lửa tắt sau đó đi đâu, nó sẽ
phải tiếp tục tồn tại. Câu hỏi đã giả định trước rằng ngọn lửa sẽ
tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, câu hỏi dường như vẫn có ý nghĩa. Vì
chúng ta đang nói một gì đó về ngọn lửa – rằng nó thì đã tắt – có phải ở đó
phải có một ngọn lửa thực vốn chúng ta đang nói về nó không? Làm thế nào
bạn có thể nói về một gì đó mà nó thì hoàn toàn không thực? Và vì ngọn lửa
thực này thì không ở đây trước mặt chúng ta, có phải nó phải ở một chỗ nào đó
khác? Khi chúng ta gặp loại nghịch lý này, là có ích để dừng lại và hỏi về
bản chất của những từ ngữ chúng ta đang dùng. Từ ‘lửa’ thực sự hoạt
động như thế nào? Xem xét tình trạng ở chỗ chúng ta nói rằng chúng ta
đã giữ cho ngọn lửa cháy bằng thêm vào nhiều chất đốt hơn. Ở đây chúng ta
đang nói như thể có một sự vật việc được kéo dài, ngọn lửa, vốn trước tiên gồm
lửa cháy từ việc nhóm lửa, sau đó gồm những ngọn lửa từ những khúc gỗ, sau đó nữa
gồm những ngọn lửa từ những khúc gỗ mới. Điều này sẽ bảo chúng ta rằng ‘lửa’ là
một chỉ định thuận tiện cho một loạt những chuỗi nhân quả của những ngọn lửa
(giống như ‘một ánh đèn chiếu sáng cả đêm’ đã thực sự là một chuỗi nhân quả
của những ánh đèn). Và điều này quay sang có nghĩa là không có phát biểu
nào dùng từ ‘lửa’ có thể là sự thật cuối cùng (hay sai sự thật cuối
cùng). Bất kỳ phát biểu nào như vậy đều thiếu ý nghĩa ở mức độ sự thật
cuối cùng. Tất cả những gì có thể nói đến được ở mức độ sự thật cuối cùng là
những ngọn lửa riêng biệt, không là chuỗi những ngọn lửa như một toàn bộ.
Đây là tại sao không có trả lời cho – câu hỏi ngọn lửa tắt đã đi đâu – là
đúng. Cho một phát biểu là đúng (hay sai) nó phải có ý
nghĩa. Và những phát biểu về những khái niệm chỉ thuần giả tạo chỉ đều
cuối cùng không có ý nghĩa.
Khi chúng
ta áp dụng phân tích này vào trường hợp của arhat
[7] sau khi chết, nó trở nên rõ ràng tại sao đức Phật
có thể phủ nhận tất cả bốn trường hợp có thể xảy ra nhưng không ngụ ý rằng
nirvanā là một trạng thái không thể dùng lời để nói được. Từ ‘arhat’ là một một chỉ định thuận tiện,
giống như ‘lửa’. Vì vậy, không có gì chúng ta nói về arhat có thể là sự thật cuối
cùng. Chỉ duy nhất phát biểu về trạng thái là sự thật cuối cùng sẽ là phát
biểu mô tả skandhas trong
chuỗi nhân quả. Đó là, thí dụ, đúng rằng tại một điểm nhất định (vốn chúng
ta thường gọi, theo qui ước, là ‘cái chết của arhat’) những nāma skandhas hiện
tại tại thời điểm đó thôi không còn làm nguyên nhân phát sinh nāma skandhas kế tiếp. Có phải điều
này có nghĩa rằng arhat thì
hoàn toàn hủy diệt – rằng nirvanā có nghĩa là tuyệt diệt hoàn toàn của con
người giác ngộ? Không. Không có sự vật việc loại như arhat, vì vậy nó thiếu ý nghĩa để nói rằng vị arhat bị hủy diệt. Và cùng một
lý do giống đúng như vậy, nó thiếu ý nghĩa để nói rằng vị arhat đạt tới trạng thái không thể dùng
lời để nói được sau cái chết.
4.2
Như thế,
nói những điều có ý nghĩa về nirvana là có thể được. Khi đó, nó sẽ giống gì?
Đặc biệt, nó sẽ giống gì khi biết rằng ‘tôi’ chỉ là một chỉ định thuận tiện,
rằng nói chặt chẽ cho thật sát nghĩa thì không có gì loại như con người tiếp
tục không đổi trong thời gian? Parfit nói rằng sau khi tin quan điểm của một người
theo thuyết thu giảm về con người khiến ông bớt bận tâm về phần đời mình còn
lại. Điều này cho thấy người giác ngộ không quan tâm đến điều gì ngày mai sẽ
mang đến. Có lẽ điều này là vì họ biết rằng bất cứ điều gì nó mang đến, nó sẽ
là một người nào khác là người nhận được nó. Đây có phải là sự chấm dứt với phần
còn lại [8], sau khi đã giác ngộ, nhưng vẫn sống, thì giống
như thế? Có phải arhat là một người
sống trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại? Đây là một giải thích phổ thông cho
nirvana đạo Phật. Nhưng nó cũng là một sai lầm. Như chúng ta đã thấy trước đó (trong
Chương 2), cái nhìn theo thuyết tức thời này là một dạng của thuyết hủy diệt [9]. Và thuyết hủy diệt, chúng ta biết, là một trong
hai cái nhìn cực đoan về sự tồn tại của chúng ta đã khiến đức Phật nói nên gạt
bỏ chúng, để theo con đường ở giữa cả hai của ngài.
Ở điểm
này, mặc dù, bạn có thể đã bắt đầu tự hỏi liệu điều này có thể là đúng không.
Giả định đúng là không có cái tôi lâu dài, tiếp tục không đổi trong thời gian,
để làm tôi là cùng một con người từ một giai đoạn sang giai đoạn tiếp theo, trong
đời sống của tôi (hay từ đời sống này sang đời khác). Khi tôi sắp sửa đi
ngủ tối nay, tôi có nên đánh và xỉa răng không? Đánh răng với bàn chải thì
tẻ nhạt, và đôi khi xỉa răng với chỉ chùi kẽ răng thì đau. Vậy tại sao tôi
nên làm điều đó? Chắc chắn không phải vì bất kỳ lợi ích nào những skandhas hiện tại có được từ
nó. Nếu có bất kỳ lợi ích nào khi thực hiện nó, lợi ích đó tích luỹ cho
những skandhas tương
lai tránh được đau đớn của bệnh sâu răng và bệnh sưng nướu răng. Và bây
giờ chúng ta biết rằng những skandhas trong
tương lai thì khác biệt với những skandhas hiện
tại. Vậy tại sao những skandhas hiện
tại này lại làm việc hy sinh này thay mặt cho những những skandhas tương lai? Tại sao chúng không chỉ vui hưởng giá
trị hiện tại cho những gì nó đang là, và đừng lo lắng về tương lai? ’Tại
sao thuyết tức thời không là kết luận đúng để lấy ra từ quan điểm thu giảm về
con người?
Thuyết
tức thời [10] là quan điểm rằng vì cái-tôi thì không có, và
những phần của con người thì tất cả đều nhất thời [11], cái ‘tôi’ thực không kéo dài cho lâu lắm: có lẽ
một ngày hay một tuần, nhưng có thể chỉ một khoảnh khắc. Vì họ nghĩ đây là
sự thật về chúng ta, nên những người theo thuyết tức thời đã chủ trương
chúng ta nên ngưng gắng sức quá nhiều vào việc toan tính, xếp đặt và lo lắng về
tương lai. Một khi chúng ta làm việc này, họ nghĩ chúng ta sẽ học để thực
sự thấu hiểu và vui hưởng giá trị của ‘ở đây và bây giờ’ cho những gì nó đang
là. Chúng ta sẽ học cách để sống trong hiện tại, và đời sống của chúng ta sẽ là
đầy đủ và giàu có hơn. Nhưng chúng ta hãy suy nghĩ về những gì thuyết
tức thời nói là sự thật về chúng ta.
Thuyết
tức thời nói rằng ‘tôi’ là một gì đó chỉ kéo dài tồn tại cho đến
chừng nào một tập hợp cụ thể của skandhas kéo
dài. Bây giờ mỗi người trong chúng ta có một bận tâm đặc biệt với bản thân
chúng ta. Chúng tất cả đều giữ một chú tâm đặc biệt đến lợi ích của chúng
ta. Và ‘tôi’ đại diện cho những gì chúng ta tự xem là một với chúng ta. Để nói rằng một gì đó là phần của
cái ‘tôi’ là để nói rằng nó là một trong những những sự vật việc có phúc lợi
vốn tôi nên quan tâm đến. Đây là tại sao P (con người nhìn theo
thuyết tức thời) có hệ quả rằng chúng ta chỉ nên quan tâm đến khoảnh khắc hiện
tại. Nhưng bây giờ theo cách nào P được giả định là đúng? Có phải nó là sự thật
cuối cùng không? Không. Người theo thuyết tức thời nói chúng ta nên tự xem là
một với tập hợp của những skandhas đang
cùng tồn tại trong hiện tại: những phần cơ thể hiện tại này, và những suy nghĩ
và cảm xúc hiện tại này. ’Tôi’ của chúng là một toàn bộ. Nó thì không
giống như toàn bộ vốn chúng ta gọi là một ‘con người’. Toàn bộ đó là một
chuỗi nhân quả của những tập hợp của skandhas.
Toàn bộ vốn người theo thuyết tức thời nói rằng chúng ta nên nên tự xem là
một với thì chỉ một tập hợp của skandhas
– những skandhas hiện bây giờ đang có
– và không là những chuỗi liên tục được tạo thành từ những tập hợp như vậy. Tuy
thế, nó vẫn là một toàn bộ. Và những toàn bộ đều chỉ là những khái niệm
giả tạo. Vì P có chứa một dẫn nhắc đến một toàn bộ, nó sẽ không thể
là thực cuối cùng. (Nó cũng không thể là sai cuối cùng)
Như thế,
có thể P là sự thật qui ước không? Hãy nhớ rằng để một phát biểu được là sự
thật qui ước, nó phải trước sau như một đều luôn luôn dẫn đến thực hành thành
công. Cách suy nghĩ nào về bản thân chúng ta dẫn đến thành công lớn hơn: như
những sự vật việc vốn kéo dài chỉ một khoảng thời gian rất ngắn, hay như những
con người, những sự vật việc kéo dài ít nhất một đời? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta cần phải quyết định những gì được kể là thành công trong thực hành. Và
dĩ nhiên những người khác nhau có những ý tưởng khác nhau về những gì tạo nên
thành công. Nhưng có điều này chỉ vì sự khác biệt cá nhân trong cách thế nào
người ta có được vui sướng và hạnh phúc. Chắc chắn mọi người có thể đồng ý rằng
thực hành thành công là thực hành sẽ đem lại vui sướng và hạnh phúc nhiều hơn,
và đau đớn và khổ sở ít hơn.[12] Điều đó làm cho khá rõ ràng phát biểu nào là sự
thật qui ước. Có phải vui sướng và hạnh phúc nhìn chung lớn hơn và đau đớn và
khổ sở nhìn chung ít hơn, khi chúng ta nghĩ về bản thân chúng ta như những con
người, hơn là khi chúng ta nghĩ về bản thân chúng ta theo cách của thuyết tức
thời. Khi những skandhas hiện tại này
tự xem là một với những skandhas
tương lai trong chuỗi nhân quả, chúng đánh và xỉa răng. Và điều đó có nghĩa là
ít sâu răng hơn và ít bệnh nướu răng hơn. Nếu chúng ta đã nghe theo lời khuyên
của thuyết tức thời tất sẽ có nhiều hơn của loại đau đớn và khổ sở này. Cũng sẽ
có ít hơn vui sướng và hạnh phúc. Vì thế P thì sai sự thật qui ước. Như
Nāgasena đã nói, sự thật quy ước là chúng ta những con người. Điều này là sự
thật qui ước vì nó thì đúng với sự thật cuối cùng rằng những skandhas hiện tại là nguyên nhân của
những skandhas tương lai trong những
chuỗi nhân quả này. Thế nên những skandhas
này thực sẽ tác động đến phúc lợi của những skandhas
đó trong tương lai. Đây là lý do của suy nghĩ về bản thân chúng ta như như
những con người dẫn đến kết quả nhìn chung trong phúc lợi lớn hơn.
Thuyết
tức thời thì không là cách đúng để hiểu Nirvanā đạo Phật. Một ai
đó vẫn có thể cố gắng để bảo vệ thuyết tức thời phản lại lập luận vốn
chúng ta vừa xem xét. Họ có thể nói rằng lập luận này định nghĩa sai sự
thành công như đạt được nhiều vui sướng hơn và ít đau khổ hơn bây giờ và trong
tương lai. Thay vào đó, thành công nên được định nghĩa là đạt được nhiều
vui sướng hiện tại hơn và ít đau khổ hiện tại hơn. Vui sướng và đau khổ
tương lai không nên tính vào trong tính toán của chúng ta. Người theo
thuyết tức thời sẽ nói điều này là vì vui sướng và đau khổ tương lai không
có ý nghĩa gì với ‘tôi’ hiện tại. Chỉ có vui sướng và đau khổ hiện tại nên được
tính, vì đó là những tình cảm duy nhất vốn ’tôi’ này từng
có. Vui sướng và đau khổ tương lai sẽ được một ‘cái tôi’ khác cảm
nhận. Và khi chúng ta định nghĩa thành công theo cách này, P quay ra là sự
thật qui ước. Nếu chúng ta nghĩ bản thân chúng ta là những con người,
thì chúng ta sẽ đánh và xỉa răng. Ít nhất, những điều này có kết quả trong tình
cảm dửng dung trong hiện tại. Có những cách tốt hơn nhiều để có tối đa vui
sướng và tối thiểu đau khổ hiện tại.
Có phải
phản đối này với luận chứng thì thành công? Dưới đây là một số điều cần
xem xét. Lập luận cho kết luận rằng P thì sai sự thật qui ước. Phản đối của
thuyết tức thời là một câu hỏi – tự nêu câu hỏi – ngụy biện vòng vo – hỏi lại câu hỏi [13] – bởi đã giả định rằng vui sướng và đau khổ tương
lai sẽ tính vào việc xác định xem một lý thuyết thì đúng hay sai sự thật qui
ước.[14]. Nhưng người đạo Phật có thể trả lời rằng nó sẽ là
câu hỏi – tự nêu câu hỏi cho người theo thuyết tức thời để giả định
rằng chỉ vui sướng và đau khổ hiện tại mới nên tính. Ở đây, có thể tìm được một
lập trường trung lập không?
4.3
Bây giờ
chúng ta đã loại trừ hai quan điểm về nirvanā có thể giống như gì: quan điểm
rằng nó vượt ngoài ngôn ngữ, không thể nói, bàn và tả bằng lời được,
và quan điểm của thuyết tức thời rằng nó có nghĩa là sống hoàn toàn
trong hiện tại. Có được bất cứ điều gì tích cực để chúng ta có thể
nói? Đến lúc này, tất rõ ràng rằng tại sao sự giác ngộ đưa đến sự chấm dứt
của đau khổ cuộc đời. Trong thực tế, người đạo Phật nói rằng chúng ta kinh
ngiệm đau khổ loại như vậy vì chúng ta quá chú tâm và lấy làm quá quan trọng hư
cấu con người, một khái niệm giả tạo tiện dụng. Chúng ta kinh nghiệm đau khổ
trong đời sống khi sự thật của không gì tồn tại vĩnh viễn, tất cả đều nhất thời
của mọi sự vật việc làm suy mòn tin tưởng rằng đời sống của chúng ta có thể có
ý nghĩa. Nhưng như thế nào tôi trở nên suy nghĩ rằng đời sống tôi có thể
có ý nghĩa? Điều này có vẻ là phần của những gì có nghĩa là để nghĩ về bản
thân như một con người. Và một con người thì chỉ là một hư cấu hữu
ích, giống như khái niệm một người sinh viên trung bình. Chúng ta sẽ không
vướng vào sai lầm như đi tìm ý nghĩa cuộc đời của người sinh viên trung
bình. Vì vậy, khi chúng ta cảm thấy tuyệt vọng trước sự vô nghĩa của
những đời riêng mỗi chúng ta, điều này có lý do từ một sai lầm căn bản trong
quan điểm của chúng ta về chúng ta là gì.
Để hiểu
sự quan trọng trong ý nghĩa của người đạo Phật ở đây, có thể có ích để xem xét
cách chúng ta bận rộn với việc xã hội hóa những trẻ nhỏ như thế nào. Như
những người lớn, chúng ta tự động nghĩ về chúng ta như những con người, vì
chúng ta tự nhiên cho rằng chúng ta luôn luôn đã vẫn là như vậy. Nhưng
kinh nghiệm nuôi dạy con bảo chúng ta khác đi. Phần lớn việc nuôi dạy một
đứa trẻ gồm trong việc thuyết phục đứa trẻ nghĩ về chính nó như một con
người. Đó là, đứa trẻ phải học để tự xem mình là một với quá khứ và tương
lai trong chuỗi nhân quả của những yếu tố tâm sinh lý. Thí dụ, lấy vấn đề
thực phẩm. Ăn những thức ăn lành mạnh không phải lúc nào cũng mang
lại thích thú tức thì. Nhưng nói với đứa trẻ bướng bỉnh rằng ăn
những thực phẩm này trong lâu dài sẽ phát triển sức khỏe thì ít có tác
động. Điều này không nhất thiết vì đứa trẻ không tin
những gì chúng được bảo. Đó là vì đứa trẻ không tự xem mình là
một với người lớn khỏe mạnh nó sẽ trở thành nếu nó ăn thực phẩm lành
mạnh. Thái độ căn bản của nó là, ‘Tại sao ăn một gì đó bây giờ chẳng ngon
lành gì nhưng chỉ vì lợi ích của một ai đó là người ngay cả hiện giờ chưa tồn
tại? Tại sao tôi nên quan tâm về những gì xảy ra đối với
họ?’ Tương tự như vậy, khi đứa trẻ bị phạt vì một hành vi sai trái quá
khứ. Cho đến khi trẻ đã học để tự xem mình là một với những yếu tố tâm
sinh lý trong quá khứ, điều đó sẽ có vẻ khá không công bằng: ‘Tại sao buộc tôi
vào một gì đó một ai đó khác đã làm? ’Đi đến để xem chính nó như một người
không là một bài học dễ dàng để học cho trẻ con. Tuy nhiên, chúng ta cố
gắng làm cho nó dễ dàng hơn bằng việc thuyết phục đứa trẻ suy nghĩ về đời sống
chúng như một câu chuyện vốn chúng có thể viết. Để trở thành một con người
liên quan đến việc học để làm những hi sinh hiện tại cho mục đích phúc lợi
tương lai. Đứa trẻ học cách làm điều này qua việc học suy nghĩ về những
lựa chọn hiện tại của nó như có ý nghĩa cho tương lai. Nó học để suy nghĩ
về đời sống của nó như là một loại chuyện kể. Và nó học để suy nghĩ về
chính nó như nhân vật trung tâm trong câu chuyện đó. Vì chúng ta đã học
thuộc những bài học đó, Chúng ta mong đợi đời sống của chúng ta có ý nghĩa.
Chú ý
rằng đạo Phật không khuyến khích rằng chúng ta trở nên giống như đứa trẻ nhỏ
đó. Bài học đứa trẻ học thì quan trọng. Nó dẫn đến tổng quát ít đau đớn và
khổ sở hơn trên thế giới. Thông thường chúng ta là những con người như sự
thật qui ước. Khó khăn người đạo Phật trỏ ra cho thấy đến từ cách qua nó chúng
ta đã học bài học đó. Chúng ta đã học nó để rồi nghĩ về bản thân
chúng ta như những nhân vật trong một ‘tấn tuồng đời’, những khuôn mặt mà hành
động của chúng có ý nghĩa cho những ‘lớp lang’ tương lại của câu
chuyện. Và một chút này của việc tạo huyền thoại có ích nhưng chính là
những gì dựng sân khấu cho đau khổ trong đời sống. Những gì chúng ta cần
làm là học để gỡ bỏ huyền thoại nhưng tiếp tục thực hành. Tôi
nên tiếp tục tự xem mình là một với với những giai đoạn trong quá khứ và tương
lai của chuỗi nhân quả này. Nhưng tôi sẽ không làm như vậy vì tôi nghĩ
mình là anh hùng của câu chuyện đó là chính cuộc đời tôi. Tôi nên làm như vậy vì
đây là cách gây nên nhiều vui sướng và ít đau khổ hơn trên thế
giới. Vì tôi cảm thấy đặc biệt quan tâm cho tương lai những yếu
tố tâm – sinh lý trong chuỗi liên tục nhân quả, tôi đánh răng và xỉa
răng. Và như thế có ít đau hơn. Vì tôi chịu trách nhiệm về
những yếu tố trong quá khứ, tôi nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ và tránh
lập lại chúng. Và vì vậy có ít đau đớn hơn. Trong một
phương diện, đời sống của con người đã giác ngộ thì cũng chỉ như của chúng
ta. Tất cả chúng ta đều xác định đồng nhất với những giai đoạn trong quá
khứ và tương lai của chuỗi nhân quả. Và chúng ta cố gắng đánh răng và xỉa
răng. Điều khác biệt là người đã giác ngộ làm như vậy nhưng không cần dựa
vào những cái nạng chống đỡ một cái tôi tự vốn cho rằng nó đem ý
nghĩa cho những sự kiện của đời sống. Người giác ngộ tránh được đau
nhức của sâu răng, cũng giống in như tất cả chúng ta còn lại. Nhưng người
giác ngộ cũng tránh được đau khổ của chính sự tồn tại, những thương đau hệ lụy
của đời sống trần gian.
Một phản
ứng phổ thông với giải thích này về nirvanā là để thấy nó vô cùng thất vọng
chán nản. Điều này thường xuất phát từ ý tưởng rằng giải thích của người đạo
Phật cướp đi mọi ý nghĩa của đời sống. Nếu những sự kiện trong đời sống
tôi không ‘vừa văn’ với một vài khung lớn cuộc đời, vậy sống để làm
gì? Nó là ít an ủi để được cho biết là ý hướng rằng những cuộc đời của
chúng ta mỗi chúng đều có mục đích độc đáo riêng của nó, là một ảo tưởng.
Nhưng theo những người đạo Phật, phản ứng này dựa trên về trên một sai lầm
ngay cả còn sâu xa hơn. Để có trầm cảm hay chịu u buồn, tuyệt vọng về
việc thiếu ý nghĩa, sau cùng phải có một chủ thể để sự vô nghĩa với người đó là
một nguồn tuyệt vọng. Khi người đạo Phật phủ nhận rằng đời sống của chúng ta có
ý nghĩa, không phải vì họ chủ trương cuộc đời của chúng ta vốn dĩ vô
nghĩa. Đó là vì họ chủ trương ý nghĩa đó đòi hỏi một gì đó vốn cuối cùng
không tồn tại, những chủ thể cho những sự kiện trong một đời sống hiểu nếu
như có thể có ý nghĩa. Nhưng nếu không có chủ thể như vậy – nếu không có
tự ngã, không có cái-tôi – thì cũng bằng như không có chủ thể vốn đời sống của
nó có thể thấy thiếu tất cả ý nghĩa. Không có một ai có đời sống hoặc có
hoặc không có ý nghĩa. Chỉ có sự sống.
Điểm cuối
cùng này giúp chúng ta thấy như thế nào có thể có một số sự thật với phát biểu
rằng là giác ngộ có nghĩa là sống trong ‘lúc này và ở đây’. Chúng ta thấy
rằng được giác ngộ không có nghĩa không bận tâm về những hậu quả tương lai
của những hành động hiện tại của tôi. Nhưng để xem xét bao nhiêu buồn nôn, hay chóng mặt nhiều đến đâu sáng mai, khi quyết định uống bao
nhiêu bia tối nay là một sự việc. nhưng để xem quyết định đó nó xác định
tôi là ai, là một sự việc khác. Nó có thể là gánh nặng để xem từng sự kiện
trong cuộc đời tôi có ý nghĩa về bản sắc định tính của tôi. Điều này có
thể làm giảm đi cảm nhận và vui hưởng của chúng ta về những khía cạnh tốt đẹp
hiện tại. Và nó có thể làm cho những kinh nghiệm xấu thêm tồi tệ
hơn. Bị bệnh hay bị thương thì đau đớn. Nhưng ngoài cơn đau, có
sự lo lắng trong việc không biết cơn đau này nói về tôi là ai và tôi sẽ đi về
đâu. Khi người giác ngộ bị bệnh hay bị thương họ sẽ tìm sự giúp đỡ y tế thích
hợp để giảm đau. Nhưng họ sẽ không trải qua những đau khổ vốn chúng ta thường
cảm thấy trong những hoàn cảnh đó. Họ được giải thoát khỏi gánh nặng đi kèm với
ý nghĩa của một cái tôi. Có lẽ đây là lý do trong mỹ thuật đạo Phật, những
người giác ngộ thường được diễn tả với nụ cười một nửa cùng nét mặt thanh thoát
của họ.
Nếu chúng
ta nghĩ về đạo Phật như một tôn giáo, chúng ta chắc chắn mong đợi những người
đạo Phật sẽ có rất nhiều điều để nói về đạo đức. Những tôn giáo đều rộng
rãi được xem như một nguồn của giáo dục đạo đức cho những tín đồ của
chúng. Kỳ vọng này sẽ không bị thất vọng. Văn học đạo Phật thì đầy
những danh sách đức hạnh cần vun trồng, và những xấu xa phải buông bỏ, những
câu chuyện nâng cao tinh thần bằng những khuôn mẫu đạo đức, những câu chuyện
báo trước những số phận đáng buồn của những người lầm đường, và những tương tự
loại như thế. Nhưng nhiều người thấy một nối kết chặt chẽ hơn giữa tôn giáo và
đạo đức. Họ nghĩ về tôn giáo như sự tin tưởng vào một quyền năng siêu
việt, và đạo đức như một tập hợp gồm những quy tắc ấn định đã chấp nhận trong
đối xử với những người khác. Nối kết vốn họ thấy là những quy tắc này đều
là những mệnh lệnh của quyền năng cao hơn. Trong quan điểm này, thực sự đòi
phải có một lòng tin tôn giáo để một người là đạo đức. Chỉ sự
tin tưởng vào Gót, người ta nghĩ thế, mới lay chuyển một người tuân theo luật
đạo đức khi có sự cám dỗ thúc giục làm khác đi. Nhưng không một người đạo Phật
nào sẽ chấp nhận hình ảnh này. Vì đạo Phật thì không-tin-có-gót (trong ý
nghĩa đã thảo luận trong Chương 1), những người đạo Phật sẽ không nghĩ về
những quy tắc đạo đức như những điều răn dạy của thần thánh. Những gì
khiến việc chiếm đoạt tài sản của người khác là sai trái, lấy tạm một thí dụ,
không thể là vì đức Phật đã cấm. Thế nên, đạo Phật có thể cung cấp một nền tảng
cho đạo đức không? Liệu nó có thể đưa ra một trả lời thỏa đáng cho câu hỏi
‘tại sao tôi nên là đạo đức’ không?
Hãy xem
xét cách Plato đã nêu câu hỏi này trong đàm thoại Republic của ông. Giả định có một chiếc nhẫn, nó biến một
người thành không ai thấy. [15] Một ai đó với một chiếc nhẫn như vậy có sẽ
không dùng nó cho lợi ích riêng họ hay không, ngay cả khi làm thế có nghĩa là
phạm vào những quy luật đạo đức thường được chấp nhận? Nếu bạn có thể đánh
cắp một nhà băng trong một cách bảo đảm là không thể nào tìm ra thủ phạm, bạn
có làm không? Ở đây không là một vấn đề của không hiểu biết đạo đức. Chúng
ta đều biết ăn cắp thì sai. Vấn đề là động lực đạo đức: tại sao tôi
nên là đạo đức? Một người tin-có-gót có sẵn một trả lời cho câu hỏi
này. Trong khi một chiếc nhẫn huyền thuật có thể làm chúng ta thành vô
hình với những người khác, nhưng Gót sẽ thấy chúng ta, và trừng phạt chúng ta
vì tội lỗi của chúng ta. Nhưng một người đạo Phật không thể nói điều
này. Họ cũng không thể nói rằng chúng ta nên đạo đức do lòng kính yêu đấng
sáng tạo chúng ta. Những người đạo Phật không tin rằng có một hữu thể siêu việt
sáng tạo loài người. Vậy người đạo Phật có thể nói gì? Tại sao,
theo những người đạo Phật, chúng ta nên là đạo đức?
Trả lời của đạo Phật có ba lớp. Mỗi lớp trả
lời câu hỏi về động lực đạo đức trong một cách vốn là đáp ứng với những
khả năng của người ta ở một giai đoạn nhất định trên đường hướng đến
nirvanā. Trả lời đầu tiên là chúng ta nên tuân theo những quy tắc đạo đức
vì chúng phản ảnh những luật nhân quả nghiệp báo. Thí dụ, ăn cắp, được
thúc đẩy bởi một thèm muốn gây nghiệp quả xấu, chẳng hạn như tái sinh như
một ngạ quỉ. Hành vi nhân từ đối với người lạ, mặt khác, được thúc đẩy bởi
mong muốn gây nghiệp quả tốt, chẳng hạn như tái sinh như một thần linh, hay một
người trong giai cấp cao. Vì tôi rất muốn được tái sinh là một người trong
một giai cấp cao hơn là ngạ quỉ, nó là điều kiện hoặc hoàn cảnh đặt tôi ở
vị trí thuận lợi để kiềm chế việc ăn cắp và thực hành lòng thương người
đối với những người lạ. Trả lời này rõ ràng sẽ chỉ thỏa mãn những
người đã chấp nhận giảng dạy về karma
và tái sinh. Quan trọng hơn, dẫu thế. nó chỉ hoạt động cho những
người có mục đích chính trong cuộc đời họ là có được vui sướng và hạnh phúc.
Đây không phải là những người tích cực đi tìm nirvanā. Chúng ta đã nói ở trên
rằng mỗi lớp trả lời câu hỏi đại diện cho một giảng dạy vốn xếp đặt để thực
hiện cho những người đã đạt đến một điểm nhất định trên con đường đến nirvanā.
Có thể nói rằng những người như vậy thì trên con đường đó như thế nào? Có
phải giảng dạy này đóng góp vào sự tiến bộ của bất kỳ một ai hướng tới nirvanā?
Trả lời câu hỏi này đưa chúng ta vào trong lớp thứ
hai. Đức Phật nói về ba chất độc (kleśa)
[16], những
yếu tố giải thích cho việc chúng ta lẩn quẩn mãi ở saṃsāra. Ba chất độc này là
tham lam, hận thù và ảo tưởng. Những yếu tố này có tính chất tự duy
trì – khả năng tự tiếp tục hoặc tự làm mới vô thời hạn – đáng chú ý. Điều
này là lý do của ba chất độc thường nghiêng sang thúc đẩy một số loại hành
động, và những hành động này, đến phiên chúng, nghiêng sang làm thêm vững
mạnh ba chất độc. Ở đây, ảo tưởng là sự hiểu biết không sáng suốt ba
tính chất đặc biệt của tồn tại (vô thường, khổ và vô ngã). Tham lam và hận thù
rõ ràng giả định sự hiểu biết không sáng suốt đó, đặc biệt là sự hiểu biết
không sáng suốt rằng không có cái tôi. Lòng căm ghét và thù hận cũng dẫn
chúng ta hành động theo những cách làm vững mạnh hơn sự hiểu biết không sáng
suốt của chúng ta, do đó thiết lập sân khấu cho những giành dựt của tham
lam và hận thù thêm nữa. Khi tham lam của tôi dẫn tôi đến lấy một gì đó
không phải của tôi, thí dụ, tôi đang làm mạnh thêm tin tưởng rằng có một ‘cái
tôi’ có thể được làm cho tốt hơn qua những gì nó chiếm được. Kết quả là
một loại vòng quay trở ngược về đầu, được cho là để giải thích lý do của chu kỳ
tái sinh cứ tiếp tục kéo dài mãi mãi. Con Đường Tám Chân Chính vốn đức
Phật dạy (xem Chương 2) là có ý giúp chúng ta thoát khỏi cái vòng
này. Nhớ lại rằng ba trong tám yếu tố trong con đường này – nói đúng, hành
vi đúng và sinh kế đúng – đại diện cho những đức tính đạo đức căn bản vốn giới
cư sĩ đạo Phật cấy trồng. Thí dụ, hành vi đúng, gồm những điều như thói
quen kiềm chế, tránh ăn cắp, trong khi lời nói đúng gồm đức hạnh của trung
thực, không nói dối. Tại sao những điều này đã gồm trong đường dẫn đến
nirvanā? Không phải vì chúng tạo ra quả nghiệp tốt đẹp dễ chịu. Đúng
hơn là những đức tính như vậy giúp chống lại ba chất độc. Một loại đào tạo đạo
đức nhất định là một điều kiện cần thiết trước tiên để có được loại
cái nhìn sâu xa vốn dẫn đến nirvanā.
Trả lời của lớp đầu tiên nói chúng ta nên là đạo
đức vì làm như vậy sẽ dẫn đến một tái sinh thoải mái vừa ý.Trả lời của lớp
thứ hai nói chúng ta nên là đạo đức vì làm như vậy là phần của việc tu tập cần
thiết để đạt nirvanā. Để chống lại ba chất độc, chúng ta phải phát
triển những tập quán vốn dùng như những thuốc giải độc với tham lam, hận thù và
ảo tưởng. Thí dụ, đức tính trung thực có nhiều xác xuât xảy ra khiến chúng
ta sẽ chấp nhận sự thật về bản thân chúng ta. Và đức tính có thói
quen kềm chế việc lấy những gì không của chúng ta sẽ giúp giảm bớt thèm
muốn của chúng ta với những tài sản. Dĩ nhiên là ba chất độc vẫn còn
có phạm vi rộng rãi trong cuộc đời của con người giữ đạo đức truyền
thống. Tôi có thể không bao giờ ăn cắp thế nhưng vẫn thèm muốn những gì
tôi có thể có quyền có. Tôi có thể cảm thấy tức giận với những ai là người
không đạo đức bằng bản thân tôi. Nhưng tính đạo đức thông thường được khắc
sâu qua tin tưởng vào karma và tái
sinh thì chỉ là một giai đoạn đầu của con đường. Lý do của những
thực hành đạo đức này là để chống lại ba chất độc đủ chỉ để làm việc
từ bỏ sự tồn tại của người chủ gia đình và thành một nhà sư nam hay nữ là có
thể được. Với đi vào đời sống tu viện đạo Phật đi đến một tổng hợp những
thực hành đạo đức hoàn toàn mới đã thiết lập để giúp vào việc dập tắt ba chất
độc. Thí dụ, một thực hành đòi hỏi sống độc thân, và tài sản duy nhất
truyền thống cho phép những nhà sư nam hay nữ là áo choàng và bát đựng thức ăn
đi xin. Có những thực tập quán định được tạo với mục đích để chống lại thèm
muốn nhục cảm, đặc biệt là hình thức mạnh mẽ của tham lam. Có những thực
tập được tạo với mục đích để giúp một người tập luyện sự thanh thản và lòng từ
bi với tất cả, do đó kềm chế khuynh hướng phẫn nộ của của chúng
ta. Tuyên bố là bằng việc tuân theo chế độ này của huấn luyện lại những
tập quán tình cảm của chúng ta, Chúng ta sẽ cuối cùng trở thành có khả
năng nắm vững sự thật về bản thân mình – rằng không có cái-tôi – và như thế đạt
nirvanā.
Giả định
điều này thì đúng. Khi đó người tìm nirvanā sẽ biết để không dự vào hành
vi không đạo đức. Đây không vì nirvanā là phần thưởng cho ai là người tinh
thuần đạo đức. Đúng hơn là vì hành vi không đạo đức đâm chồi từ những động
cơ gây trở ngại cho cái nhìn sâu xa hướng về giải thoát của Vô
Ngã. Nhưng còn về người đã đạt nirvanā thì sao? Tại sao họ nên đạo
đức? Không phải vì làm như vậy sẽ giúp họ đạt nirvanā. Họ đã đạt nó
rồi. Có bất cứ một gì về giác ngộ vốn có thể tạo nên một nguồn của
động lực đạo đức? Chúng ta đã đi đến lớp thứ ba. Những gì chúng ta sẽ tìm
thấy ở đây là một luận chứng cho bổn phận phải có lòng thương người: bất cứ khi
nào chúng ta có thể ngăn cho những người khác tránh khỏi đau đớn hay khổ
sở, chúng ta phải làm như vậy. Như thế, trong chừng mức rằng đạo đức gồm
trong việc cho tương đồng công bằng với phúc lợi của những người khác, điều này
có thể được nhìn như một luận chứng cho bổn phận là đạo đức. Sự không
đạo đức của việc ăn cắp, lấy thí dụ, có thể được giải thích bởi sự kiện là kẻ
trộm có ý định hưởng lợi trong khi gây đau khổ cho những người khác. Để là
đạo đức là để đem cho phúc lợi của những người khác không nhệ hơn một cho phúc
lợi riêng của một người. Lòng thương người có thể được cho là linh hồn của
đạo đức. Như thế, một luận chứng cho bổn phận phải có lòng thương
người sẽ trả lời câu hỏi, ‘Tại sao tôi nên là đạo đức?
Lập luận
này sẽ không tuyên bố rằng là đạo đức là một phương tiện cho một số cứu cánh
chúng ta có thể muốn, chẳng hạn như tái sinh tốt lành hay nirvanā. Thay
vào đó, nó sẽ tuyên bố rằng nếu chúng ta hiểu đúng những gì chúng ta nói rằng
chúng ta muốn, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta phải muốn để thúc đẩy phúc lợi
của những người khác. Chìa khóa cho sự hiểu biết đúng đắn này, dĩ nhiên,
là trở nên giác ngộ. Những gì lập luận sẽ phát biểu là một khi chúng ta
nắm được sự thật về vô ngã, chúng ta sẽ thấy rằng không có lý do gì để thích
phúc lợi của chính mình hơn là của những người khác. Và vì mọi người ta
đều thừa nhận rằng họ nên quảng bá phúc lợi của chính họ, dẫn đến rằng bất
cứ ai là người giác ngộ phải thừa nhận một bổn phận để thúc đẩy phúc lợi của
những người khác nữa. Nhưng bổn phận vốn nó biện luận không áp dụng
chỉ cho người giác ngộ. Nó áp dụng cho tất cả chúng ta, nếu đúng
là không có một cái-tôi.
Lập luận
bắt đầu bằng so sánh thái độ thông thường của chúng ta với đau khổ của những
người khác với thái độ của chúng ta với đau khổ tương lai có thể có của chúng
ta. Nó dùng giả định về karma và
tái sinh, và mô tả thái độ một người có thể có để hướng tới đời sống kế tiếp
của một người:
Nếu tôi không ngăn chặn đau khổ của những người
khác vì nó không làm tổn thương tôi,
Lý do của ngăn chặn đau khổ của một cơ thể tương
lai vốn tương tự không làm tổn thương tôi là gì?
‘Đó cũng sẽ là tôi khi đó’, đây là một sai lầm đã
tưởng tượng,
Vì nó là một sự vật việc chết đi và hoàn toàn một
sự vật việc khác thì tái sinh.
Nếu đã nghĩ rằng đó chỉ là cho một ai là người có
đau đớn để ngăn chặn nó,
Một đau đớn ở bàn chân thì không phải là của bàn
tay, vậy tại sao bàn tay phải ngăn chặn nó?
Nếu người ta đã nói thế, trong khi là sai, có phải
hành vi này vẫn mọc nhánh từ ý nghĩa của cái ‘tôi’,
Điều đó thì không khôn ngoan. Đau khổ, cả của chính
mình và của người khác, thì để ngăn chặn với khả năng giỏi nhất của một người.
Cái tiếp tục và cái tập thể đều là không thực,
giống như dãy, đội quân, vv ... …
Đây là không có một ai có đau khổ, do đó ai sẽ là
người nói ‘Đây là (đau khổ) của tôi’?
Tất cả những đau khổ không-chủ đều tất cả không có
sự phân biệt giữa ‘của tôi’ và ‘của người khác’.
Đó chỉ bởi vì chúng là đau khổ khiến chúng phải
được ngăn chặn; Làm thế nào điều này có thể bị giới hạn?
Nếu được hỏi tại sao đau khổ phải được ngăn chặn,
tất cả mọi người, không có ngoại lệ, đều đồng ý rằng đó là (điều phải làm)
Do đó, nếu nó được ngăn chặn, thì tất cả đều phải
được ngăn chặn; nếu không thì trường hợp của một người cũng giống như trường
hợp của những người khác. [BCA 8 .97 – 103]
Hai câu
đầu tiên bàn luận về sự kiện rằng một người tin vào karma và tái sinh sẽ làm những gì họ có thể làm để ngăn chặn việc
tái sinh với một thân thể rất đau đớn. Chúng ta nghĩ rằng điều này là hoàn toàn
hợp lý, vì nếu bạn tin vào sự tái sinh thì bạn nghĩ rằng người với cơ thể đau
đớn sẽ là bạn. Điểm nêu lên trong câu này là những skandhas cấu thành con người tương
lai với cơ thể đau đớn thì không là skandhas
làm thành tôi bây giờ. Dĩ nhiên không phải ai cũng tin vào sự tái
sinh. Nhưng như chúng ta đã thấy trong chương trước, chúng ta có thể nói
cùng một điều về những skandhas hợp
thành một người ở một giai đoạn của đời sống và skandhas hợp thành người đó ở một giai đoạn
sau trong đời sống. Vì thế chúng ta có thể nói cùng một điều về
người đánh răng và người có sâu răng vì thế có thể ngăn ngừa. Do đó chúng
ta có thể thay đổi phần sau của câu thứ hai thành ‘Đó là một bộ răng được chải
và và hoàn toàn một bộ răng có bênh sâu răng được ngăn ngừa’.
Câu thứ
ba xem xét trường hợp bàn tay tôi loại bỏ một dằm gai khỏi bàn chân tôi. Chúng
ta nghĩ rằng điều này là hợp lý, vì bàn tay và bàn chân thì cả hai đều là phần
của tôi, vì vậy tôi hành động để ngăn chặn đau đớn của chính tôi. Câu thơ
nêu lên điểm bàn tay và bàn chân tuy thế là những sự vật khác biệt. Vì
vậy, bây giờ chúng ta có hai trường hợp, chúng ta nghĩ rằng đó là hợp lý
để ngăn ngừa đau đớn, nhưng nghiêm nhặt mà nói, một gì đó kinh nghiệm đau đớn
và một gì đó khác hành động để ngăn chặn nó. Tuy nhiên, chúng ta cũng nghĩ
rằng nó hoàn toàn hợp lý cho mỗi người chúng ta phải đặc biệt quan
tâm đến phúc lợi của chính mình. Nếu ai đó đau khổ sẽ không ảnh hưởng đến
tôi trong bất kỳ cách nào, sau đó tôi không có bổn phận phải làm bất cứ gì về
nó. Trong khi chúng ta có thể nghĩ rằng sẽ rất tốt đẹp để giúp đỡ người
khác, chúng ta tin rằng nó sẽ không không hợp lý để chỉ dự vào đau đớn của
riêng tôi nhưng không của những người khác. Phần còn lại của đoạn văn thảo
luận về xung đột rõ ràng giữa thái độ tổng quát này và hai trường hợp đã thảo
luận trong ba câu đầu tiên. chúng ta có thể đặt tất cả việc này như sau:
1. Giả định
rằng mỗi chúng ta đều buộc phải ngăn chặn chỉ đau khổ của chính chúng ta.
2. Trong
trường hợp đau khổ của một người trong tương lai, đó là một tập hợp những skandhas làm việc ngăn chặn cho một
tập hợp những skandhas khác có
đau khổ.
3. Trong
trường hợp đau khổ của một người trong hiện tại, đó là một phần làm việc ngăn
cản cho một phần khác có đau khổ.
4. Ý hướng
của cái ‘tôi’ vốn dẫn dắt một người để gọi những skandhas tương lai và những phần hiện tại khác biệt ‘tôi’ là
một khái niệm giả tạo.
5. Thế nên,
nó không thể là sự thật cuối cùng rằng một số đau khổ là của riêng một người và
một số đau khổ là của những người khác.
6. Do đó, tuyên bố rằng chúng ta có bổn phận ngăn
chặn chỉ những đau khổ của chính chúng ta thiếu nền tảng cuối cùng
7. Do đó
hoặc là có một bổn phận để ngăn chặn đau khổ bất kể nó xảy ra.ở đâu, hoặc
không có bổn phận ngăn chặn bất kỳ đau khổ nào.
8. Nhưng tất
cả người ta đồng ý rằng ít nhất một số đau khổ nên được ngăn chặn (cụ thể là của
chính mình).
C Do đó có
một bổn phận để ngăn chặn đau khổ bất kể nó xảy ra.ở đâu
Những gì
lập luận này có tác dụng là khép chúng ta tội vô lý nếu chúng ta nghĩ rằng quan
tâm về đau đớn của bản thân và không quan tâm bằng thế với đau đớn của những
người khác là điều có thể minh chứng được. Tiền đề quan trọng là
(4). Đây là chỗ đem vô ngã vào. Nó tuyên bố rằng cuối cùng không có sự
kiện nào có thể hỗ trợ phân biệt thiên lệch của chúng ta giữa đau đớn của bản
thân và của những người khác. Giả định không có cái-tôi. Nếu những
toàn bộ cũng là không thực, khi đó tay và chân không thể là những phần của một
toàn bộ, cơ thể của tôi. Điều này thì giống như trường hợp của một đội
quân. Khi phi công trực thăng di tản người lính bị thương, đó là một sự vật
tác động trên một sự vật khác. Nếu những toàn bộ là không thật, thì cơ thể
hiện tại và cơ thể tương lai không thể là những giai đoạn của một sự vật,
tôi. Điều này thì giống như trường hợp của một dãy. Dãy người xếp hàng vào
xem phim được tạo thành từ những người khác nhau lúc 9:00 và 9:15. Đội
quân và dãy người xem phim đều chỉ là những hư cấu có ích. Có thực
chỉ là những phần tạo nên chúng. Vì thế, (6) kết luận, không có sự kiện
sau cùng nào có thể giải thích một mặt vì sao tôi nên lấy mảnh dằm ra khỏi bàn
chân tôi và tôi nên chải và xỉa răng, nhưng mặt khác tại sao tôi không cần có
cùng một quan tâm với việc ngăn chặn đau khổ của những người khác. Tiền đề (7)
sau đó trỏ cho thấy rằng có hai lựa chọn còn lại: rằng đau khổ nên được ngăn
chặn bất kể nó là ‘của ai’, hoặc hoàn toàn không có vấn đề gì phải nói
nữa. Nó sẽ nhất quán với tôi để không làm gì để ngăn chặn bất kỳ đau đớn
nào ở bất cứ đâu – của tôi hay của những người khác. Nhưng thế đó sẽ là
điên rồ. Vì vậy, bổn phận vốn tôi đã thừa nhận để ngăn ngừa đau đớn của
chính tôi trải rộng ngang bằng đến đau khổ của những người khác. Một khi
tôi vượt được ảo tưởng về cái tôi, tôi sẽ thấy rằng mong muốn ngăn chặn đau đớn
của chính tôi thực sự chỉ là một mong muốn để ngăn ngừa sự đau đớn,
không hơn không kém, chấm hết.
Chúng ta
biết rằng người đạo Phật phủ nhận sự tồn tại của một cái tôi. Điều cũng được
biết rộng rãi rằng người đạo Phật tuyên bố một người giác ngộ sẽ là người nhân
từ (hay từ bi). Có thể là dễ chiều theo ý để xem hai điều này như được nối kết trong
cách sau đây: ‘Nếu tôi không có cái tôi, khi đó bạn và tôi không thực sự là
những con người khác biệt, chúng ta thực sự là một, vì vậy tôi chỉ cũng quan
tâm về phúc lợi của bạn như tôi quan tâm với của riêng tôi’. Nhưng đây không
phải là những gì đạo Phật đang nói. Rắc rối đến với ‘chúng ta thực sự là một’.
Có những triết gia India, những người thực sự nói một gì đó giống thế. Nhưng họ
không là những người đạo Phật; họ thuộc một trường phái chính thống là Advaita
Vedānta. Không giống như người đạo Phật, họ chủ trương rằng có cái tôi. Hơn
nữa, họ chủ trương rằng thực sự chỉ có một
cái tôi. Nên họ sẽ nói rằng những gì chúng ta nghĩ là những con người khác biệt
thực sự thì không khác biệt. Lập luận đạo Phật, chúng ta vừa xem xét đồng ý
rằng chúng ta không thực sự là những con người khác biệt . Nhưng điều vốn người
đạo Phật phủ nhận không là sự khác biệt. Họ phủ nhận rằng có những con người.
Họ phủ nhận rằng có những điều đó, vốn có thể hoặc là nhiều, hoặc khác điều
thực sự là một. những người Advaita và người đạo Phật có thể đều biện luận cho
cùng một kết luận – rằng chúng ta nên thể hiện sự quan tâm bình đẳng với phúc
lợi của tất cả. Nhưng họ biện luận về điều đó theo những cách rất khác nhau.
Lập luận
đạo Phật có hữu hiệu không? Ở đây là một câu hỏi để xem xét. Trong
(6) nó là kết luận từ (4) và (5) rằng không có nền tảng sau cùng cho tuyên bố
rằng chúng ta có bổn phận chỉ phải ngăn chặn đau khổ của bản thân Điều này
có đúng không? Chúng ta thấy (ở Chương 3) người đạo Phật lập luận
chính đáng (4) như thế nào. Và nếu (4) là đúng, thì (5) như vậy cũng
đúng. Cuối cùng chỉ có đau khổ, không có người có đau khổ. Nhưng đau
khổ chỉ xảy ra cùng với skandhas khác,
như phần của một chuỗi nhân quả của những skandhas. Hãy nhớ rằng trong khi con người thì cuối cùng không
thực, nó là thông thường rằng chúng ta là những con người. Và sự thật
qui ước này có nền tảng trong sự tồn tại cuối cùng của một chuỗi nhân quả của
những skandhas. Vì những skandhas này được gây ra bởi những skandhas trước đó, nó là sự thật qui ước
thông thường đúng là nó là lỗi của riêng tôi nếu tôi có sâu răng – Tôi là
cùng một người với người không chải răng thường xuyên. Tất cả những điều
này chúng ta đã biết. Nhưng đây là một điểm vốn vẫn chưa xuất hiện: có
nhiều những chuỗi nhân quả riêng biệt. Những chuỗi này có thể được phân
biệt bởi tác dụng của chỗ có những kết quả xuất hiện. Việc từ chối để
chải răng trong một chuỗi này sẽ không gây ra sâu răng trong một chuỗi nhân quả
khác, chỉ trong chuỗi nhân quả này. Không phải rằng điều này có thể giải
thích lý do chúng ta thuận tiện chỉ định một chuỗi là ‘tôi’ và chuỗi khác là
‘bạn’? Không phải rằng điều này có thể là sự thật sau cùng vốn làm sự thật qui
ước là đúng rằng chúng ta là những người khác biệt? Trong trường hợp
này có lẽ có một số nền tảng sau cùng cho tuyên bố rằng chúng ta đều có bổn
phận ngăn chặn chỉ đau khổ của chính chúng ta. Có lẽ (6) không theo sau
(4) và (5). Có lẽ (6) thì sai. Có lẽ lập luận không hữu hiệu.
Trong
triết học, chúng ta thường ngẫu nhiên gặp những lập luận vốn nhìn thuyết phục
nhưng nêu những tuyên bố có vẻ quá mạnh để là hợp lý. Luận chứng đạo Phật
cho lòng thương người là một thí dụ. Nếu chúng ta đã hiểu và chấp nhận học
thuyết vô ngã, những luận chứng có vẻ hoàn toàn đơn giản và trực tiếp dễ
hiểu. Nhưng khi chúng ta nghĩ lại về những gì nó có ý định để chứng minh,
nó bắt đầu đáng ngờ vì có vẻ quá tốt để là đúng. Những triết
gia trong truyền thống lâu đời của phương Tây đã tìm cách thiết lập một
bổn phận đạo đức dựa trên lý trí, với ít thành công cho thấy xứng với những gắng
sức của họ. Có thể nào thực sự là điều dễ dàng như vầy không? Nghiên
cứu về triết học sẽ làm chúng ta thành hoài nghi. Đây là lý do, khi
chúng ta gặp phải một luận chứng – dường như hợp lý cho một kết luận
đáng ngạc nhiên, chúng ta cần phải cẩn thận. Chúng ta cần xét nghiệm luận
chứng bằng việc tìm kiếm những thiếu sót ẩn dấu: những tiền đề sai, hay những
chỗ hổng trong lý luận. Chúng ta cần phải tiếp nhận lập trường của một
người nào đó nêu những phản đối với luận chứng, tìm những cách để cho thấy luận
chứng không thực sự chứng minh kết luận của nó. Nhưng công việc của chúng
ta thì không hoàn tất một khi chúng ta đã tìm thấy một phản đối – đôi
khi những phản đối cũng không tốt như chúng có vẻ ban đầu. Vì
vậy, chúng ta cần phải đặt những phản đối rõ ràng và cẩn thận. Và sau
đó chúng ta cần tiếp nhận lập trường của một ai đó bảo vệ luận chứng chống lại
phản đối đó. Có bất cứ điều gì họ có thể nói khiến cho thấy lập luận quả thực
sự không có vấn đề vốn phía đối lập buộc rằng nó có? Trong trường hợp
của luận chứng đạo Phật về lòng nhân từ, chúng ta đã phác thảo một phương sách
làm việc để nêu lên một phản đối trong đoạn văn trước
đó. Nhưng đây là chỉ một phác thảo. Bây giờ những chi tiết
cần phải được làm đầy với thận trọng nhiều hơn. Một khi điều này làm
xong, bạn nên tự hỏi những gì đạo Phật có thể nói trong đối ứng. Nếu bạn
đã nói rõ ra phản luận với đầy đủ cẩn thận, bạn có thể tìm thấy vẫn có
những đường lối vốn đạo Phật có thể thực hiện. Hay có lẽ không. Điều
quan trọng là gắng sức đã được thực hiện. Những luận chứng triết học
có thể là rất thuyết phục. Nhưng chúng ta muốn chắc chắn rằng chúng ta
không để bị thuyết phục vì những lý do sai lầm. Đây là tại sao, khi chúng
ta gặp phải một lập luận như vậy, chúng ta đặt nó vào thử
nghiệm. Trước tiên chúng ta cố gắng hiểu nó, sau đó chúng ta đặt
chính chúng ta ở một vị trí đối lập và tìm những phản đối, sau đó chúng ta thấy
những phản đối này có thể được trả lời thế nào. Nếu bạn làm điều này
với luận chứng đạo Phật về lòng thương người, bạn có thể sau rốt tự tin hơn
rằng kết luận cuối cùng bạn đạt được thì dựa trên những lý lẽ chính
đáng.
Đọc thêm
Cho một
quan điểm khá khác biệt về toàn bộ tính cách của Đạo đức học đạo Phật, cũng như
một khảo sát những quan điểm của đạo Phật về một loạt những câu hỏi đạo đức cụ
thể, xem Peter Harvey. An Introduction to
Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues (New York: Nxb Đại học Cambridge, 2000).
Cho một
bản đọc rất khác biệt của luận chứng về lòng thương người, xem Paul Williams, Altruism and Reality: Studies in the philosophy
of the Bodhicāryāvatāra (Richmond, Surrey: Curzon Press, 1998)
Cho một
thảo luận về bản chất của lòng vị tha và giải quyết của nó trong Đạo đức học
đạo Phật và trong chủ nghĩa thực dụng, xem chương có tựa đề ‘The Emotions of Altruism, East and West’
trong Learning
from Asian Philosophy
của Joel Kupperman
(New York: Nxb Đại học Oxford, 1999), tr. 1 45 – 55.
Thảo luận
của Derek Parfit về những hậu quả đạo đức của thuyết thu giảm về
cá nhân có trong Chương 14 và 15 của quyển Reasons and Persons của ông (Oxford: Nxb Đại học Oxford, 1984).
Hiện tại có một văn học phê bình dồi dào về quan điểm của ông. Một số những
tiểu luận hay nhất được thu thập trong Jonathan Dancy (ed.), Reading Parfit (Oxford:
Basil Blackwell, 1997).
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2018)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
reductionism: thuyết thu giảm (J: 還元主義 – hoàn nguyên chủ nghĩa): Về
triết học, quan điểm khẳng định rằng những thực thể của một loại nhất định thì
đồng nhất với loại những thực thể khác (thường đơn giản hơn hoặc cơ bản hơn);
hay là những tập hợp hoặc những kết hợp của loại khác những biểu thức biểu thị
những thực thể đó có thể xác định trong những thuật ngữ biểu thức những thực
thể khác. Do đó, những ý tưởng cho rằng cơ thể vật lý là tập hợp những nguyên
tử, hay một trạng thái tinh thần nhất định (ví dụ, tin tưởng của một người cho
rằng tuyết thì màu trắng) đồng nhất với một trạng thái vật lý cụ thể (hiện
tượng một số tế bào thần kinh nhất định trong não của người đó được phóng đi)
là những thí dụ của quan điểm thu giảm.
Cũng hiểu
như phương pháp phân tích dựa trên những thành phần; đối lập với phương pháp
phân tích dựa trên toàn phần (holism). Phương pháp phân
tích thu giảm
dùng trong mô hình để giải thích lý thuyết – có ảnh hưởng rất lớn trong thế kỷ
qua. Những người đưa ra mô hình thu giảm này nói rằng ‘vai trò của một lý
thuyết thì không là để đem cho chúng ta nhiều sự kiện hơn nhưng để xếp đặt
những sự kiện vào trong một hệ thống có thể được quản lý thực tiễn’
Trước đây – tôi có dịch là ‘thuyết giản lược’ – nhưng
‘giản’ và ‘lược’ có thể gây hiểu lầm. ‘thu giảm’ thì sát với ý của
reduce/reduction – Làm nhỏ hơn hoặc ít hơn về số lượng, mức độ hoặc kích thước,
chủ yếu là cho gọn hơn để nghiên cứu, giải thích, phân tích.
[2] John Locke (1632–1704), David Hume (1711–1776)
[3]
Derek Antony Parfit (1942–2017): triết
gia người England, viết về bản sắc định tính cá nhân, bản chất của lý trí, và
tính khách quan của đạo đức, đã mang trở lại đạo đức học như một quan tâm chính
với những nhà tư tưởng cùng thời ông, và đặt những thuật ngữ cho nghiên cứu triết
học. Ông đã phát triển một lý thuyết về bản sắc định tính cá nhân qua đó hạ
thấp khái niệm, và sự quan trọng của một cái-tôi không thể thu giảm (an
irreducible self) – ‘sự kiện xa hơn’, như ông gọi nó – trong những thuật ngữ
không phải không tương tự với của đạo Phật. Parfit đưa ra sự khác biệt giữa hai
loại quan điểm khác nhau về một sự vật việc nhất định. Theo một quan điểm
không-thu giảm về một sự vật việc gì đó, sự tồn tại của loại sự vật việc đó là
một ‘sự kiện xa hơn’, vốn nằm ngoài sự tồn tại của những sự kiện khác, không
phải về sự tồn tại của loại sự việc đó. Theo quan điểm thu giảm về một sự vật
việc gì đó, sự tồn tại của sự vật việc đó gồm trong sự tồn tại của một số sự
vật việc khác nhất định.
Parfit
quan tâm sâu xa đến cách chúng ta suy đoán những phẩm chất hoặc đặc tính phân
biệt với những người khác, như những nét riêng của mỗi người và dựa vào chúng
để đưa ra những phán đoán đạo đức. Những tin tưởng thông thường của chúng ta
cho thấy rằng những suy nghĩ, những cảm xúc và cơ thể của tôi đều tất cả như
thuộc về một thực thể tiềm ẩn gọi là cái-tôi, vốn trong một cách thức, nó thì
khác biệt với tất cả những điều vừa kể, thế nhưng nó là một gì đó khiến tôi tin
rằng tất cả chúng đều là của tôi. Parfit tự hỏi liệu thực sự có bất kỳ một gì
tồn tại được gọi là môt con người hay một cái-tôi, theo nghĩa chặt chẽ của từ
ngữ này. Có lẽ không có gì, không có ‘sự kiện sâu xa hơn’ (deep further fact),
ông nghĩ, ngoài một số những liên hệ tâm lý và sự liên tục giữa chúng ta và
những trạng thái tương lai của chúng ta. Ông đề nghị một sự thoát ra khỏi cái
tôi bằng việc áp dụng những gì ông gọi là một ‘quan điểm thu giảm’
(reductionist view); sự tồn tại của chúng ta thì không là một ‘sự kiện xa hơn’,
khác biệt với sự liên tục của thể chất và tâm lý. (Trong triết học, ‘sự kiện xa
hơn’ đề cập đến những sự kiện không tuân theo lôgich từ những sự kiện vật lý của
thế giới. Những người theo thuyết thu giảm cho rằng ở dưới đáy, không có gì
khác hơn ngoài những sự kiện vật lý, do đó tranh luận chống lại sự tồn tại của
những ‘sự kiện xa hơn’ (hiểu như hồn người trong đạo Kitô.)). Thoạt nhìn, xem
dường hơi thất vọng khi nhận ra rằng không có một bản sắc đinh tính cá nhân,
sau khi cho rằng cái gọi là con người tự – đồng nhất chỉ là một chuỗi của những
kết nối của những giai đoạn con người kế tục. Nhưng sau tất cả như thế, ông tin
rằng điều này sửa đổi triệt để việc hiểu chính mình thì đem đến tự do và an ủi.
Không ký ức đau thương của một quá khứ đáng tiếc hay lo lắng hành hạ về một
tương lai không chắc chắn sắp xảy ra, vốn sẽ là một lý do của sự bất hạnh con
người, nếu đó thực sự là trường hợp xảy ra, rằng những giai đoạn con người khác
biệt không thực sự cộng lại là một con người kéo dài tồn tại qua quá khứ và
tương lai.
Điều
đáng chú ý là Parfit không đơn độc trong việc đưa ra một sự hiểu biết thu gọn
và giảm quan trọng như vậy về tính cách con người. Quan điểm của ông khá gần
với học thuyết anatta của Phật
giáo rằng không có một cái tôi, hay một bản thể vĩnh viễn không đổi. Mặc dù có
những khác biệt liên quan đến cách tiếp cận chúng, đạo Phật có nền tảng thực
tiễn cho sự phủ nhận cái tôi, trong khi Parfit có một siêu hình học, nhưng cả
hai có những điểm tương đồng kỳ lạ trong những chừng mức liên quan đến những
tuyên bố trong đạo đức học. Cả hai đều cho rằng việc chúng ta phủ nhận sự đồng
nhất mình với môt cái tôi kéo dài (self – identity) đem cho chúng ta những cơ
hội để điều chỉnh những tin tưởng và thái độ của chúng ta về những gì và cách
thức gì chúng ta nên và không nên quan tâm đến những sự vật việc nhất định
trong đời sống thực. Nó giúp chúng ta chuyển sự tập trung của chúng ta sang một
cách tiếp cận vô tư, vị tha và quên mình hơn về cuộc đời và thế giới.
Câu hỏi về những gì làm cho một
con người ở thời điểm t2 là cùng một con người ở thời điểm t1.
Hiểu đơn giản, chúng ta gọi người ở t2 như ‘A
tương lai’ và người ở t1 là ‘A hiện tại’, câu hỏi
của tái xác đinh cá nhân đồng nhất (reidentification) là ‘những
gì làm cho A tương lai và A
hiện tại là cùng
một người?’ Một câu trả lời phổ thông cho câu hỏi này tập trung vào tâm lý của A
hiện tại và A tương lai. Những người đề xướng cách giải quyết tổng quát này
thường (nhưng không phải luôn luôn) là những người ủng hộ thuyết Giảm thiểu (Reductionists); trong
đó họ chủ trương rằng những cá nhân là những thành nhóm gộp thành (aggregates) của
những yếu tố khác biệt về số lượng. – đó là – ‘những giai đoạn cá nhân’ gắn kết
với nhau thành ‘những cá nhân’ qua những quan hệ tâm lý khác loại. Theo giải
thích rất có ảnh hưởng của Derek Parfit, (1984), cá nhân là những nhóm/bó/tụ
hợp (aggregates) của
những giai đoạn cá nhân liên tục nhau về tâm lý, trong đó sự liên tục tâm lý,
được hiểu trong điều kiện của những chuỗi dài liên tục kết nối tâm lý chặt chẽ
(rất giống với trong đạo Phật) – Cũng nói thêm, đây là một định nghĩa đơn giản
về thuyết Giảm thiểu (Reductionism) dùng nói
thêm cho những gì ở trên. Parfit (1984), ví dụ, gộp vào khái niệm giảm thiểu
nhiều hơn, không chỉ tuyên bố rằng cá nhân có thể thu giảm vào những tụ bó của
những giai đoạn cá nhân. Những trạng thái của ‘sự kết nối tâm lý chặt chẽ’ gồm
những liên kết trực tiếp giữa những ký ức và những kinh nghiệm mà ký ức hướng
đến, những kết nối trực tiếp giữa ý định và hành động tiếp theo, và sự chồng
chất và tiếp tục của những tin tưởng, mong muốn khác nhau, vv ... Parfit quy
định rằng nếu con số của những kết nối trực tiếp / chồng chéo như vậy giữa
những giai đoạn cá nhân ít nhất là bằng một nửa số lượng kết nối như vậy có
được mỗi ngày trong đời sống của hầu hết mọi người, sau đó cá nhân đó đủ điều
kiện để là một cá nhân có ‘liên hệ tâm lý chặt chẽ’ với nhau. (Định nghĩa của
Parfit về bản sắc định tính cá nhân còn có nhiều hơn thế chứ không chỉ là sự
liên tục về tâm lý: ví dụ, tính liên tục tâm lý trong câu hỏi cũng phải có đúng
nguyên nhân và không thể có trường hợp ‘phân nhánh’)
[4] existential suffering: đau khổ hiện
sinh, đau khổ của sự tồn tại, đau khổ
trong khi sống đời,
trong chính sự tồn tại con người
[5] Kinh Trung Bộ Majjhima
Nikàya – Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa (Aggivacchagotta Sutta)
Như vầy tôi nghe.
.. du sĩ ngoại đạo Vacchagotta
bạch Thế Tôn:
– – Tôn
giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri
kiến như sau: “Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng?”
– – Này
Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn
tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư
vọng”.
– – Tôn
giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri
kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ như
vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”
– – Này
Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn
tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư
vọng”.
– – Tôn
giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri
kiến như sau: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau
khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”
– – Này
Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai có tồn
tại và không có tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng”.
– – Tôn
giả Gotama, phải chăng Tôn giả Gotama có tri
kiến như sau: “Như Lai không có tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài
ra là hư vọng?”
– – Này
Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng”.
– – Sao vậy,
thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn giả Gotama
có tri kiến như sau: “Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả
lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới là thường
trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”. Sao vậy,
thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn
giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô thường, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?” Tôn giả Gotama
đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới
là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”. Sao
vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn
giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là hữu biên, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?” Tôn giả Gotama
đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới
là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”. Sao vậy,
thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn
giả Gotama có tri kiến như sau: “Thế giới là vô biên, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama
đã trả lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Thế giới
là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng”... Sao vậy,
thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi: “Phải chăng Tôn
giả Gotama có tri kiến như sau: “Như Lai không có tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là
chơn, ngoài ra là hư vọng?”, Tôn giả Gotama đã trả
lời: “Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: “Như Lai không
có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ
như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng” Tôn giả Gotama thấy
có sự nguy hại gì mà Ngài không chấp nhận hoàn
toàn những tri kiến này như vậy?
– – Này
Vaccha, nghĩ rằng: “Thế giới là thường trú”, như vậy là tà kiến,
kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến
tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại,
với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết – bàn.
Này Vaccha, nghĩ rằng: “Thế giới là vô thường”...
“Thế giới là vô thường”... “Thế giới là hữu biên”... “Thế giới là vô biên”...
“Sinh mạng và thân thể là một”... “Sinh mạng và thân thể là
khác”... “Như Lai có tồn tại sau khi chết”... “Như Lai không
có tồn tại sau khi chết”... “Như Lai có tồn tại và không
có tồn tại sau khi chết”... Này Vaccha, nghĩ rằng: “Như Lai không
có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, như
vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý
luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn
hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết – bàn. Này
Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà Ta không chấp nhận hoàn
toàn những tri kiến như vậy.
– –
Nhưng Tôn giả Gotama có tà kiến nào không?
– – Này
Vaccha, tà kiến đã được Như Lai đoạn trừ. Nhưng này Vaccha,
đây là điều Như Lai đã thấy: “Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc
diệt; đây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt; đây là tưởng, đây là tưởng
tập, đây là tưởng diệt; đây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt; đây là
thức, đây là thức tập, đây là thức diệt”. Do vậy ta nói rằng, với sự đoạn trừ, ly
tham, đoạn diệt, xả bỏ, vứt bỏ tất cả ảo tưởng tất
cả hôn mê, của tất cả ngã kiến, ngã sở kiến, mạn tùy miên,
mà Như Lai được giải thoát, không còn chấp thủ.
– –
Thưa Tôn giả Gotama, một Tỷ-kheo được tâm giải thoát như
vậy sanh khởi chỗ nào?
– – Sanh
khởi, này Vaccha, không có áp dụng.
– – Như
vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi?
– – Không sanh
khởi, này Vaccha, không có áp dụng.
– – Như
vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh khởi và không sanh
khởi?
– – Sanh
khởi và không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng.
– – Như
vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không-sanh khởi và không
không-sanh khởi?
– –
Không-sanh khởi và không không-sanh khởi, này Vaccha, không
có áp dụng.
– – Khi được
hỏi: “Tôn giả Gotama, vị Tỷ-kheo được tâm giải thoát như vậy sanh
khởi tại chỗ nào?”, Tôn giả đáp: “Sanh khởi, này Vaccha, không
có áp dụng”. Khi được hỏi: “Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh
khởi?” Tôn giả đáp: “Không sanh khởi, này Vaccha, không có áp
dụng”. Khi được hỏi: “Như vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy sanh
khởi và không sanh khởi?”, Tôn giả đáp: “Sanh khởi và
không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”. Khi được hỏi: “Như
vậy, Tôn giả Gotama, vị ấy không sanh khởi và không
không sanh khởi?”, Tôn giả đáp: “Không sanh
khởi và không không sanh khởi, này Vaccha, không có áp dụng”.
Thưa Tôn giả Gotama, tôi trở thành vô tri về điểm này,
tôi trở thành mê mờ về điểm này, và một số tin tưởng tôi đã
có đối với Tôn giả Gotama do những cuộc đàm thoại lúc trước
đem lại, nay đã biến mất nơi tôi.
– – Này
Vaccha, thôi vừa rồi, vô tri của Ông! Thôi vừa rồi, mê mờ (của Ông)!
Này Vaccha, sâu kín là pháp này, khó thấy, khó giác ngộ, an
tịnh, thù thắng, không thể luận bàn, tế nhị, chỉ bậc trí mới
hiểu. Thật rất khó cho Ông có thể hiểu được, khi Ông thuộc tri
kiến khác, kham nhẫn khác, lý tưởng khác, hành
trì khác, đạo sư khác. Và này Vaccha, nay Ta trở
lại hỏi Ông. Hãy trả lời nếu Ông kham nhẫn. Này Vaccha, Ông
nghĩ thế nào? Nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt Ông, Ông có biết:
“Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi?”
– – Tôn
giả Gotama, nếu một ngọn lửa cháy đỏ trước mặt tôi, tôi có biết:
“Ngọn lửa này cháy đỏ trước mặt tôi”.
– – Nhưng
nếu, này Vaccha, có người hỏi Ông như sau: “Ngọn lửa này cháy đỏ trước
mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?”, nếu được hỏi vậy, này
Vaccha, Ông trả lời như thế nào?
– –
Thưa Tôn giả Gotama, nếu có người hỏi tôi như sau: “Ngọn lửa này cháy
đỏ trước mặt Ông, ngọn lửa này do duyên gì mà cháy đỏ?”, nếu được hỏi
vậy, thưa Tôn giả Gotama, tôi sẽ trả lời như sau: “Ngọn lửa
cháy đỏ trước mặt tôi, ngọn lửa này cháy đỏ do duyên nhiên liệu cỏ và
củi”.
– – Này
Vaccha, nếu ngọn lửa ấy bị tắt trước mặt Ông, Ông có biết: “Ngọn lửa
này đã tắt trước mặt tôi?”
– – Tôn
giả Gotama, nếu ngọn lửa ấy được tắt trước mặt tôi, tôi sẽ biết:
“Ngọn lửa này đã tắt trước mặt tôi”.
– – Này
Vaccha, nếu có người hỏi Ông như sau: “Ngọn lửa này đã tắt trước
mặt Ông, ngọn lửa ấy từ đây đã đi về phương hướng nào, phương
Đông, phương Tây, phương Bắc, hay phương Nam?”, được hỏi vậy, này Vaccha,
Ông trả lời thế nào?
– – Không có
thể áp dụng ở đây, Tôn giả Gotama. Vì rằng, này Tôn
giả Gotama, ngọn lửa ấy đã cháy vì duyên nhiên liệu cỏ và củi. Khi cỏ và
củi ấy hết và vì không có nhiên liệu khác, nên được xem là không có nhiên liệu,
đã bị tắt.
– – Cũng
vậy, này Vaccha, do sắc pháp này, nhờ đó mà một người nhận
biết Như Lai có thể nhận biết được, sắc pháp ấy
đã được Như Lai đoạn diệt, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala
không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương
lai. Giải thoát khỏi cái gọi là sắc, này Vaccha, là Như
Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương. Khởi lên
không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không
khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi
lên không có áp dụng.
Do thọ này. …
Do tưởng này, …
Do những hành …
Do thức này, nhờ đó mà một người nhận
thức Như Lai có thể nhận thức được, cái thức ấy đã
được Như Lai đoạn diệt, cắt đứt được tận gốc rễ, làm cho như thân cây
tala không được tái sanh, không thể sanh khởi trong tương
lai. Giải thoát cái gọi là thức, này Vaccha, là Như
Lai, thâm sâu, vô lượng, khó dò đến đáy như đại dương, khởi lên
không có áp dụng, không khởi lên không có áp dụng, khởi lên và không
khởi lên không có áp dụng, không khởi lên và không không khởi
lên không có áp dụng”. … (Hòa Thượng Thích Minh Châu Dịch
Việt)
[6] Catuṣkoṭi: (Sanskrit, ‘bốn đối nghịch’
hay ‘bốn có thể xảy ra’; 四句分別) – Catuṣkoṭi là một hệ thống lập luận “bốn-góc” gồm việc xem
xét có hệ thống và bác bỏ mỗi một trong 4 trường hợp có thể xảy ra của một mệnh
đề, P:
1.
P; đó là, là (đúng/có).
2.
¬ P
3.
P ^ ¬ P; đó là, là và không-là.
4.
¬ (P ∨¬ P); đó
là, không nào; không (là cũng không không-là)
[Lôgích thực sự xem dường gợi ý rằng chỉ
có hai trường hợp có thể xảy ra, không phải bốn. Có một số những câu
hỏi tranh luận – không biết có phải đức Phật xem xét bốn trả lời có thể có: P,
không P, cả P và không-P, và không-P cũng không không-P – hay không. Dạng
thức hay công thức tổng quát này gọi
là tetralemma (catuṣkoṭi). Nhưng lôgích dường như giới hạn chúng
ta vào chỉ là một đilemma: hoặc ‘P’ thì đúng, hoặc không thế nó thì sai, trong
trường hợp đó ‘không P’ thì đúng. Những học giả đã tranh luận – không biết có
phải sự hiện diện của trường hợp thứ ba và thứ tư trong dạng thức này chỉ ra
rằng những người đạo Phật dùng một loại lôgích thay thế nào đó.
Một trả lời có thể hợp lý là lôgích ỏe đây vẫn là lôgích phổ thông, tiêu
chuẩn. Trường hợp có thể xảy ra thứ ba (cả P và không-P) có nghĩa để bao
gồm những trường hợp ‘P’ thì không rõ ràng, khiến nó có thể được cho là đúng
trong một ý nghĩa nhưng sai trong một ý nghĩa khác. Và trường hợp có thể
xảy ra thứ tư có nghĩa để bao gồm những trường hợp có thực sự tồn tại một số
trường hợp có thể xảy ra ngoài những ‘P’ và ‘không-P’.]
[7] ở đây, tác
giả dùng ‘arhat’ theo nghĩa trong đạo Phật Theravada, một arhat (Sanskrit: अर्हत्
arhat; Pali: arahant); có thể hiểu là ‘Một người xứng đáng’, một
‘người hoàn hảo’, và chủ yếu là người đã đạt niết bàn. Cũng nên nói – từ
‘arhat’ đã có trước khi đạo Phật xuất hiện (theo Bhikkhu Bodhi), nhưng chắc chắn nghĩa của nó đã chuyển đổi trong những tôn
giáo India, và trường phái đạo Phật khác, không giữ nghĩa vẫn dùng trong đạo Phật
Theravada.
[8] hữu dư niết
bàn
[9] annihilationism
[10]
Punctualism – thuyết tức thời và thuyết dần dần (hay tiệm tiến) là hai quan điểm
đối lập về sự xuất hiện của tư cách người (personhood) – thuyết tức thời xem sự
khởi đầu của tư cách người (nhân cách) như một
thứ gì đó giống như một ‘nổ bốp hiện sinh’ (existential pop). Về một
môt bên của ‘nổ bốp’ chỉ có vật chất con người, và bên kia, một sinh vật có yếu
tính và hoàn toàn là một người. Tính cách là con người không nổi lên mơ hồ và
tăng dần, giống như cơ thể con người; thay vào đó, sự khởi đầu của sự tồn tại
của họ là đột ngột và tuyệt đối. Ngược lại, thuyết dần dần (gradualist)
tránh ý
tưởng rằng con người đi vào tồn tại ngay lập tức và hoàn toàn, theo cách thức
của một ‘nổ bốp hiện sinh’, và tuyên bố rằng tính cách con người dần dần xuất
hiện và tăng dần.
[11] vô thường –
ở đây, (cũng như vài chỗ khác) tôi muốn dùng những khái niệm triết học phổ
thông, thay vì những thuật ngữ kỹ thuật đạo Phật (dù quen thuộc,nhưng thuận tiện
với những người theo, và thấu hiểu đạo Phật) khi có thể được.
[12]
[đôi khi có phản đối rằng có những lúc chúng ta nhắm đến nhiều hơn thay vì ít
đau đớn hơn, như khi một ai đó trải qua một tập luyện thể dục, thể thao khó
khăn Nhưng chủ đích của việc tập luyện không phải là để kinh nghiệm đau đớn vốn
đến từ luyện tập vất vả. Vấn đề là vui hưởng những lợi ích mà tập luyện tạo ra.
Những điều này có thể bao gồm sức khỏe tốt, giúp giảm đau mêt nhức mỏi trong thời
gian dài. Chúng cũng có thể gồm niềm vui đến cùng với ý nghĩa rằng người ta đã
vượt qua một trở ngại khó khăn. Nếu tập thể dục vất vả chỉ tạo ra đau và không
có lợi ích gì, sau đó không ai sẽ tập thể dục nữa]
[13] Petitio Principā: (Begging the question):
hỏi lại câu hỏi: một ngụy biện xảy ra khi một tiền đề của luận chứng giả định kết
luận của chính nó là đúng, thay vì chống đỡ cho kết luận này. (Kết luận xin đặt
câu hỏi trở lại với chính tiền đề của nó – lý luận vòng vo – đuôi về lại đầu – thí dụ fallacy của
chính Descartes đã phạm, trong Meditations on First Philosophy:
(a) tin tưởng
của chúng ta vào Kinh thánh thì hợp lý
(b) vì Kinh
thánh là lời của Gót,
(c) hiện hữu
của Gót thì hợp lý vì đã viết trong Kinh thánh.
(a)
Trong triết học, chúng ta có
fallacy đặc biệt này – hỏi lại câu hỏi – một fallacy là một sai lầm trong lý
luận. Trong Latin là petitio principā. Petitio: < động từ “peto,” = “tìm
kiếm” hay “yêu cầu”. Trong Latin sau này, nó cũng có liên quan đến việc giả
định một gì đó ... Và phần thứ hai principā: có thể nói nó liên quan đến cái
gì. Nó liên quan đến từ “nguyên tắc” hay có thể nói “tiền đề” hoặc “luận chứng
bắt đầu”. Ở đây, hãy hiểu là những luận chứng bắt đầu. Bây giờ tiếp vĩ ngữ ‘pā’
này – có nghĩa là ‘của’. Trong Latin, tiếp vĩ ngữ này ở cuối một danh từ, chỉ
cách hoạt động của danh từ này. Và như thế, những gì chúng ta thực sự nói ở đây
là chúng ta đang giả định những nguyên tắc bắt đầu của chúng ta. Khi nói “một
giả định về những nguyên tắc bắt đầu’, nghĩa là gì? Hiểu là nó phải liên quan
với một loại lập luận vòng tròn. Vì vậy, người đưa ra lập luận đã đi theo một
vòng tròn, vì đã lập luận rằng một gì đó là trường hợp xảy ra (là đúng) nhưng
đã dựa lập luận trên những tiền đề, những giả định bắt đầu của nó. Và đó thực
sự là nghĩa của tên gọi ngụy biện này – ngụy biện hỏi lại câu hỏi – một luận
chứng đã giả định một trong những tiền đề của nó là đúng và sau đó nó chỉ đơn
giản lập lại tiền đề đó như là phần của kết luận của nó.
(b)
Trong lôgich, chúng ta nói rằng một luận chứng hỏi
lại câu hỏi, bằng việc này hay cách khác, khi nó giả định là đúng chính những
gì đang là vấn đề nêu lên để chứng minh qua thiết lập luận chứng. Một cách khác
để định nghĩa fallacy này là – lập luận chứa một tiền đề trong một cách nào đó,
hay khẳng định hoặc giả định là đúng chính những gì đang đặt câu hỏi để được
trả lời trong kết luận. Đây là dạng lôgích cơ bản của một luận chứng hỏi lại
câu hỏi theo nghĩa này. Chúng ta có một luận chứng – với những tiền đề:
P1,
P2,
…
Pn
_____________
∴ C
P1, P2, … Pn:
một
trong số chúng có nghĩa là cùng sự vật việc như kết luận, hoặc khẳng định một
gì đó tương đương lôgích với C.
Nếu điều này xảy ra, khi đó chúng
ta nói rằng tiền đề này xin đặt câu hỏi, nghĩa là nó giả định là đúng chính
những gì đang là vấn đề, trong câu hỏi; cụ thể là, liệu kết luận C có đúng hay
không. Chúng ta gọi đây là lý luận vòng vo (khác với circulus in probando) vì kết
luận, C, được giả định thì đang rút ra sự hỗ trợ lôgích từ tiền đề này. Nhưng
tiền đề thì đơn giản chỉ là phát biểu lại của kết luận. Vì vậy, luận chứng như
một toàn thể không gồm gì nhiều hơn việc lập lại kết luận nhưng không đưa ra
them bất kỳ lý do nào để minh chứng điều đó.
Tóm tắt, khi dùng thuật ngữ ngụy
biện hỏi lại câu hỏi theo lôgích, chúng ta hiểu theo nghĩa là một lập luận phạm
lỗi lý luận khi tự cho là đúng một gì đó thực sự cần phải được biện luận nếu
lập luận có thể xem là đủ điều kiện như đưa ra lý do để chấp nhận kết luận.
Những lập luận hỏi lại câu hỏi không đưa ra bất kỳ lý do nào cho những ai chưa
chấp nhận kết luận. Khi chúng ta nói rằng một ngụy biện hỏi lại câu hỏi theo
nghĩa hẹp, chúng ta đặc biệt đề cập đến những luận chứng dùng những tiền đề có
ý nghĩa gần tương đương với những gì kết luận đang chờ khẳng định
[14] [Ngụy biện ngụy biện hỏi lại câu hỏi phạm phải khi một luận chứng
lén chèn kết luận của nó trong số tiền đề của nó. Đây là một thí dụ phổ
thông có sẵn trong kho: ‘Dĩ nhiên là Gót hiện hữu. Điều này nói như vậy
trong những bản văn thiêng liêng. Và mọi sự vật việc trong những bản văn
thiêng liêng đều là sự thật, vì đó là lời của Gót’. Lập luận này xin cho câu
hỏi đặt ra, bằng việc gồm một tiền đề, ‘những bản văn thiêng liêng là lời của
Gót’, vốn giả định sự thật của kết luận, ‘Gót hiện hữu’. Nó là một ngụy biện vì
bạn không thể chứng minh kết luận ‘Gót hiện hữu’ là đúng bằng việc dùng bằng
chứng vốn đã giả định nó là đúng!]
[15] ‘…một người chăn cừu trong đám hầu cận của vua xứ Lydia…đeo chiếc
nhẫn tại buổi họp thông lệ hàng tháng của những người chăn cừu để báo cáo với
nhà vua về tình trạng đàn cừu. Và khi ông đương ngồi giữa những người khác, đã
xảy ra chuyện ông xoay mặt nhẫn về phía mình, về mặt trong của bàn tay mình.
Khi ông làm điều này, ông trở thành vô hình với những người ngồi gần ông, và họ
đã tiếp tục nói chuyện như thể ông đã đi khỏi rồi. Ngạc nhiên trước điều
này, …’ (Plato, Republic, quyển 2 – https://chuyendaudau.blogspot.com/2017/07/plato
– republic – 04.html)
[16]
Pali: किलेस
(kilesa) (kleśa (s); ái dục 愛 欲; hoặc 惑; phiền não 煩 惱): Ba chất độc là năng lượng thể
hiện trong ba thái độ cơ bản xung quanh cái tôi ảo tưởng – vì tôi/cho tôi,
chống lại tôi, và không dính dáng đến tôi. Tất cả những trạng thái tâm bất thiện
(kleśa) là
những biến thể của ba thái độ này. Chúng như những chất độc đẩy chúng ta mãi
vào đau khổ, trong một truyền thống, chúng được tượng trưng bằng ba con thú –
con gà trống, con rắn và con lợn.