Phaedo
(Về Hồn-người)
(Φαίδων, Phaidōn)
Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)
(... tiếp theo)
Những gì ông nói thì rất đúng, Simmias và Cebes đã cùng nhau nói.
ECHECRATES: Vâng, Zeus ơi, Phaedo, và họ đã đúng, tôi nghĩ ông đã làm những điều này rõ ràng tuyệt diệu với bất cứ một ai dù chỉ chút ít thông minh.
Những gì ông nói thì rất đúng, Simmias và Cebes đã cùng nhau nói.
ECHECRATES: Vâng, Zeus ơi, Phaedo, và họ đã đúng, tôi nghĩ ông đã làm những điều này rõ ràng tuyệt diệu với bất cứ một ai dù chỉ chút ít thông minh.
PHAEDO: Vâng, quả thực vậy, Echecrates,
và tất cả những ai có mặt đều cũng đã nghĩ như vậy.
ECHECRATES: Và cũng vậy với chúng ta là những
người đã không có mặt nhưng bây giờ nghe lại nó. Sau đó đã nói những gì?
Luận chứng thứ tư
(102b-107b)
PHAEDO: Như tôi nhớ lại, khi nhắc kể
trên đã được chấp nhận, và đã đồng ý rằng mỗi một của những Thể dạng đã hiện
hữu, và rằng những sự vật việc khác có được tên gọi của chúng bởi có một phần chia
trong chúng, ông đã tiếp tục điều này bằng hỏi: Nếu bạn nói những sự vật này là
như vậy, khi bạn nói rằng Simmias thì cao hơn Socrates nhưng thấp hơn Phaedo,
bạn không có ý nói rằng có trong Simmias cả sự cao và sự thấp? – tôi không.
Tuy nhiên, ông nói, bạn có đồng ý rằng
những lời của phát biểu “Simmias thì cao hơn Socrates” không diễn tả sự thật
của vấn đề? Nó không phải, chắc chắn, là bản chất của Simmias thì cao hơn
Socrates vì ông là Simmias, nhưng xảy ra vì ông có dạng cao? Và ông cũng không
cao hơn Socrates vì Socrates là Socrates, nhưng vì Socrates có dạng thấp so
với dạng cao của người khác? – Đúng.
Và ông cũng không thấp hơn Phaedo vì
Phaedo là Phaedo, nhưng vì Phaedo có dạng cao so với dạng thấp của Simmias? –
Đó là như vậy.
Như thế khi đó, Simmias được gọi vừa là thấp
và cao, tư cách ở giữa hai, trình bày dạng người thấp của ông bị dạng cao của
một người vượt qua, và dạng cao của ông vượt qua dạng thấp của người khác. Ông
mỉm cười nói thêm, tôi xem ra có vẻ sẽ nói giống như một quyển
sách, nhưng đó là như
tôi nói. Người kia đồng ý.
Mục đích của tôi là rằng các bạn có thể
đồng ý với tôi. Bây giờ, điều xem dường với tôi rằng không chỉ bản thân
dạng-Cao thì không bao giờ muốn là cao và là thấp cùng một lúc, nhưng cũng rằng
dạng cao trong chúng ta sẽ không bao giờ chấp nhận sự thấp, hoặc bị vượt thắng,
nhưng một trong hai điều xảy ra: hoặc là nó bỏ chạy và rút lui mỗi khi nào đối nghịch
của nó, là sự thấp, đến gần, hoặc nó bị sự tiến đến gần của đối nghịch của nó
phá huỷ. Nó thì không sẵn sàng chịu đựng và chấp nhận dạng thấp, và không là
khác hơn với nó đã là, trong khi tôi chấp nhận và chịu đựng dạng thấp, và giữ vẫn
là cùng một người, và là con người thấp này. Nhưng dạng-Cao, với tư cách là cao,
không thể mạo hiểm để là thấp. Trong cùng một cách, dạng thấp trong chúng ta thì
không bao giờ từng sẵn sàng để trở thành, hay là cao, cũng thế, không một bất
kỳ nào khác của những đối nghịch sẽ trở thành, hoặc là đối nghịch của nó trong
khi vẫn đang là những gì nó đã là; hoặc là nó đi mất, hoặc bị phá hủy, khi điều
đó xảy ra. – Tôi hoàn toàn đồng ý, Cebes nói.
Khi nghe điều này, một ai đó trong số những
người có mặt – tôi không nhớ rõ người ấy là ai – đã nói: “Có những gót làm
chứng, trong thảo luận của chúng ta trước đây[1], không phải chúng ta đã đồng ý với chính đối nghịch của những gì bây giờ
đang nói, cụ thể là cái lớn hơn đến từ cái nhỏ hơn, và cái nhỏ hơn từ cái lớn
hơn, và rằng đây chỉ đơn giản là đã như thế nào những đối nghịch đi đến thành,
từ những đối nghịch của chúng, nhưng tôi nghĩ bây giờ chúng ta đang nói rằng điều
này không bao giờ từng xảy ra?”
Nghe xong điều này, Socrates nghiêng đầu
về phía người lên tiếng, và nói: “Bạn đã mạnh dạn nhắc nhở chúng tôi, nhưng bạn
không hiểu sự khác biệt giữa những gì vừa nói bây giờ và những gì đã nói khi đó,
vốn đã rằng một sự vật đối nghịch đến từ một sự vật đối nghịch, nhưng bây giờ
chúng ta nói rằng bản thân sự đối nghịch không bao giờ có thể trở thành đối nghịch
với chính nó, điều đó không có trong chúng ta, cũng không có trong tự nhiên. Khi
đó, bạn tôi ơi, chúng ta đã đang nói về những sự vật việc mà có những đặc tính đối
nghịch và đặt tên những sự vật việc này theo (những đặc tính của) chúng, nhưng
bây giờ chúng ta nói về bản thân những đối nghịch này, từ sự có mặt của chúng
trong đó những sự vật việc có được tên gọi của chúng, không bao giờ có thể dung
thứ cho sự đi đến từ một này sang thành một khác, lẫn với nhau”. Đồng thời ông
nhìn Cebes và hỏi: “Có bất cứ gì trong những gì người này nói cũng làm bạn lo
nghĩ không?”
Lúc này thì không, Cebes nói, nhưng tôi
không phủ nhận rằng có nhiều điều quả thực làm tôi lo nghĩ.
Khi đó, chúng ta hoàn toàn cùng đồng ý,
ông nói, rằng một đối nghịch sẽ không bao giờ là đối nghịch với bản thân nó. –
Hoàn toàn đồng ý.
Rồi xem xét liệu bạn sẽ đồng ý thêm với điểm
này nữa hay không. Có một gì đó bạn gọi là nóng và một gì đó bạn gọi là lạnh. –
Phải.
Có phải chúng là cũng giống như những gì
bạn gọi là tuyết và lửa? – Zeus ơi, không phải.
Như thế, nóng là một gì đó khác hơn lửa,
và lạnh là một gì đó khác hơn tuyết? – Vâng.
Bạn có nghĩ, tôi tin, rằng trong tư cách
là tuyết, nó sẽ không chấp nhận sự nóng, như trước chúng ta đã nói, và còn vẫn giữ
những gì nó đã là, và không vừa là cả tuyết lẫn nóng, nhưng khi cái nóng đến
gần, hoặc nó sẽ rút lui trước khi nó đến, hoặc bị huỷ hoại. – Hầu như là vậy.
Vì vậy, lửa, khi cái lạnh đến gần, sẽ hoặc
biến mất hoặc bị huỷ hoại, nó sẽ không bao giờ liều lĩnh chấp nhận cái lạnh, và
vẫn giữ những gì nó đã là, và không vừa là lửa lẫn lạnh. – Những gì ông nói là đúng
thật.
Khi đó, có phải là đúng thực về một số
những điểu này, rằng không phải chỉ bản thân Thể dạng xứng đáng với tên gọi riêng
nó trong tất cả mọi thời gian, nhưng có một vài gì đó khác, vốn không là Thể
dạng, nhưng có tính cách của thể dạng bất cứ khi nào gì đó hiện hữu [2]. Có lẽ tôi có thể làm ý nghĩa của tôi rõ ràng hơn: cái Lẻ phải luôn luôn được
cho tên gọi này mà chúng ta nhắc đến giờ đây. Có phải vậy không? – Chắc chắn.
Có phải nó là điều duy nhất trong những
sự vật việc hiện hữu được gọi là lẻ? – Đây là câu hỏi của tôi – hay là có một
gì đó khác hơn Lẻ, vốn người ta dù gì đi nữa cũng phải luôn luôn gọi là lẻ, và cũng
như bằng tên riêng của nó, vì do bản chất loại giống như vậy, nó không bao giờ bị
tách ra khỏi Lẻ? Ý tôi là, lấy thí dụ, số ba và nhiều những con số khác. Xem
xét số ba: Bạn không nghĩ rằng nó phải luôn luôn được gọi bằng cả tên riêng của
nó và bằng tên gọi đó của Lẻ, vốn không cùng là một như số ba? Đó là bản chất
của số ba, và của số năm, và của một nửa của tất cả những con số, mỗi một trong
số chúng là số lẻ, nhưng nó không phải là Lẻ. Lại sau nữa, hai và bốn và toàn thể
một cột khác của những con số, mỗi một trong số chúng, trong khi không cùng tư
cách như Chẵn, luôn luôn là chẵn. Bạn có đồng ý không? – Dĩ nhiên.
Bây giờ, hãy nhìn. Những gì tôi muốn làm
rõ ràng là điều này: không phải chỉ những gì đối nghịch không chấp nhận lẫn
nhau, nhưng điều này cũng đúng với những sự vật việc đó, trong khi không mang
tên đối nghịch với nhau nhưng luôn luôn có chứa những đối nghịch, và có vẻ như
là những đối nghịch này không chấp nhận Thể dạng mà nó là đối nghịch với gì đó
có trong chúng; khi nó đến gần chúng, chúng hoặc là chết rụi hoặc nhường lối. Có
phải chúng ta sẽ không nói rằng số ba sẽ chết đi hoặc trải qua bất cứ gì, trong
khi vẫn giữ nguyên là số ba, trước khi trở thành lẻ? – Chắc chắn, Cebes nói.
Tuy nhiên, chắc chắn số hai không phải
là đối nghịch của số ba? – Quả thực, nó không phải.
Khi đó, không chỉ những Thể dạng đối
nghịch không chấp nhận đến gần với nhau, nhưng cũng có một số những sự vật việc
khác không chấp nhận sự tấn công của những đối nghịch. – Rất đúng.
Sau đó, bạn có muốn chúng ta, nếu chúng
ta có thể, định nghĩa những sự vật việc này là gì? – Tôi chắc chắn muốn thế.
Có phải chúng sẽ là những sự vật việc
vốn bắt buộc dẫu bất cứ sự vật gì chúng chiếm đóng, không chỉ chứa đựng Thể
dạng của chúng, nhưng cũng luôn luôn của một vài đối nghịch? – Ông nói thế
nghĩa là thế nào?
Như chúng ta vừa mới nói đây, bạn chắc
chắn biết rằng những gì Thể dạng của ba chiếm đóng không chỉ số ba, nhưng cũng của
lẻ. – Chắc chắn.
Và chúng ta nói rằng Thể dạng đối nghịch
với Thể dạng vốn đạt đến kết quả này, không bao giờ có thể đi đến với nó – Nó
không thể.
Bây giờ đó là Lẻ đã làm điều này? –
Vâng.
Và ngược lại với điều này là Thể dạng
của Chẵn? – Vâng.
Sau đó như thế, Thể dạng của Chẵn sẽ
không bao giờ đi đến với số ba? – Không bao giờ.
Khi đó, số ba không có phần chia trong Chẵn?
– Không bao giờ.
Vì vậy, số ba là không-chẵn? – Vâng.
Về phần những gì tôi đã nói, chúng ta
phải xác định, đó là, loại gì của những sự vật việc, trong khi không là đối
nghịch với một gì đó, thế nhưng không chấp nhận sự đối nghịch, lấy thí dụ bộ
ba, vì dẫu nó không là đối nghịch của Chẵn, nhưng không chấp nhận nó, vì nó
luôn luôn mang theo cùng sự đối nghịch của Chẵn, và như thế, một đôi trong liên
quan với Lẻ, lửa với Lạnh, và rất nhiều sự vật việc khác, hãy xem liệu bạn có
thể định nghĩa nó như thế này: Không chỉ đối nghịch không chấp nhận đối nghịch
của nó, nhưng cả gì đó vốn mang theo cùng một vài đối nghịch vào trong gì đó mà
nó chiếm ngụ, rằng gì đó mang theo cùng gì đó này sẽ không chấp nhận đối nghịch
với gì đó mà nó mang theo cùng. Hãy làm tỉnh lại trí nhớ của bạn, không có gì
là tệ hơn đâu, nếu được nghe thường xuyên. Số năm không chấp nhận thể dạng của Chẵn,
số mười, số gấp đôi của nó, cũng chẳng chấp nhận thể dạng của Lẻ. Bản thân con
số gấp đôi là một đối nghịch của một gì đó khác, thế nhưng nó sẽ không chấp nhận
thể dạng của Lẻ. Một-rưỡi và những phân số loại giống như thế đó chẳng chấp
nhận thể dạng của Chẵn, một phần ba cũng sẽ như thế, và vân vân như vậy, nếu
bạn đi theo kịp tôi và đồng ý với điều này.
Tôi chắc chắn đồng ý, ông nói, và tôi đi
theo kịp ông.
Hãy nói cho tôi nghe lại từ đầu, ông
nói, và đừng trả lời bằng những từ ngữ của câu hỏi, nhưng làm như tôi làm. Tôi
nói rằng vượt quá câu trả lời gọn ghẽ không chi tiết đó, mà tôi đã nói về nó trước
tiên, tôi thấy một câu trả lời gọn ghẽ khác. Nếu bạn sẽ hỏi tôi, điều gì đi vào
trong một thân xác, làm cho nó nóng, trả lời của tôi sẽ không là câu trả lời gọn
ghẽ và thiếu hiểu biết đó [3], rằng nó là nhiệt, nhưng lập luận hiện giờ của chúng ta đem cho một trả
lời tinh vi phức tạp hơn, cụ thể là, lửa, và nếu bạn hỏi tôi điều gì đi vào
trong một thân xác, làm cho nó bị bệnh, tôi sẽ không nói bệnh tật, nhưng cảm
sốt. Cũng không, nếu như có hỏi sự hiện diện của những gì trong một số làm cho
nó lẻ, tôi sẽ không nói sự lẻ, nhưng đơn nhất [4], và như vậy với những sự vật việc khác. Xem nếu bây giờ bạn đủ hiểu những
gì tôi muốn. – Hoàn toàn đầy đủ.
Sau đó, hãy trả lời tôi, ông nói, nó là
gì mà, hiện diện trong một thân xác, làm cho nó sống? – Một hồn người.
Và là luôn luôn như vậy? – Dĩ nhiên rồi.
Bất cứ sự vật gì hồn người chiếm ngụ, nó
luôn luôn mang lại sự sống cho nó? – Đúng vậy.
Là có, hoặc là không có, một đối nghịch
với Sống ? Có.
Đó là gì? – Chết.
Vì vậy, hồn người sẽ không bao giờ chấp
nhận đối nghịch với những gì mà nó mang theo cùng, như chúng ta đồng ý với những
gì đã được nói?
Chắc chắn nhất, Cebes nói.
Tốt, và chúng ta gọi đó là gì, vốn nó
không chấp nhận thể dạng của Lẻ? – không-Chẵn.
Chúng ta chúng ta gọi đó là gì, vốn
nó không chấp nhận sự công bình, hay nó không chấp nhận nhạc tính êm tai?
Sự không-nhạc tính, không êm tai, và không
công bình, sự bất công.
Rất hay, chúng ta gọi là sự vật việc
vốn không chấp nhận cái chết là gì?
Sự không-chết, Bất tử, ông nói.
Bây giờ, hồn người không chấp nhận
cái chết? – Không.
Như thế, hồn người thì bất tử? – Nó là
vậy.
Rất tốt, ông nói. Chúng ta sẽ nói
rằng điều này đã được chứng minh, bạn nghĩ sao?
Hoàn toàn được chứng minh đầy đủ,
Socrates.
Vâng, bây giờ, Cebes, ông nói, nếu
không-chẵn đã là tất yếu không thể phá hủy được, chắc chắn số ba sẽ không thể
phá hủy được? – Dĩ nhiên rồi.
Và nếu không-nóng là tất yếu không
thể phá hủy được, sau đó bất cứ khi nào bất cứ ai mang nhiệt đến tuyết, tuyết
sẽ rút lui an toàn và không tan, vì nó không thể bị phá hủy, cũng không phải nó
lại có thể giữ vững thế đứng của mình và chấp nhận nhiệt? – Những gì ông nói là
sự thật.
Trong cùng một cách, nếu không lạnh
đã không thể phá hủy, sau đó khi một số lạnh tấn công ngọn lửa, nó sẽ không
được dập tắt cũng không bị phá hủy, nhưng rút lui một cách an toàn – Tất yếu.
Sau đó, cùng một điều cũng không thể
nói về sự bất tử? Nếu bất tử cũng là không thể phá hủy, hồn người là không thể
nào bị hủy diệt khi cái chết đến với nó. Vì điều theo sau những gì đã được nói
rằng nó sẽ không chấp nhận cái chết, hoặc bị-chết, giống đúng như ba, chúng ta
đã nói, sẽ không là chẵn, cũng không là lẻ, cũng không phải lửa sẽ là lạnh,
cũng không là nhiệt vốn có trong lửa. Nhưng, một người nào đó có thể nói, những
gì ngăn cản lẻ không bị phá hủy, trong khi không trở thành chẵn, như đã được đồng
ý, và chẵn đi đến để thay thế? Chúng ta không thể chủ trương phản lại người là
một ai đã nói điều này rằng nó thì không bị phá hủy, vì không-chẵn thì không
thể phá hủy. Nếu chúng ta đã đồng ý rằng nó thì không thể phá hủy được, chúng
ta có thể dễ dàng chủ trương rằng trước sự đi đến của chẵn, lẻ và ba đã đi mất,
và cùng một điều sẽ đúng với lửa, và nhiệt, và những sự vật việc khác nữa. –
Chắc chắn.
Và vì vậy bây giờ, nếu chúng ta đồng
ý rằng bất tử là không thể phá hủy, hồn người, ngoài tư cách là bất tử, thì
không thể phá hủy được. Nếu không, chúng ta cần một luận chứng khác. – Không
cần một luận chứng khác, trong chừng mức như xảy ra, vì hầu như khó mà có bất
cứ sự vật gì có thể chống nổi lại phá hủy, nếu như sự bất tử, vốn kéo dài mãi
mãi, lại sẽ thừa nhận sự hủy diệt.
Tất cả đều đồng ý, Socrates nói, rằng
gót, và Thể dạng của bản thân chính sự sống, và bất cứ sự vật gì vốn là bất tử,
không bao giờ bị phá hủy. – Tất cả mọi người sẽ đồng ý, Zeus ơi, với điều đó,
và những vị gót, tôi tưởng tượng, thậm chí còn đồng ý nhiều hơn như thế.
Nếu bất tử là không thể phá hủy, sau
đó hồn người, nếu nó là bất tử, sẽ cũng là không thể phá hủy? – Tất yếu.
Sau đó, khi cái chết đến với con
người, những phần bị-chết của người ấy chết đi, có vẻ như thế, nhưng phần không-chết
của người ấy đi xa an toàn và bền vững, không bị phá hủy, khi nhường chỗ cho
cái chết – Xem dường nó xuất hiện như thế.
Do đó hồn người, này Cebes, ông nói, thì
bất tử và không thể bị hủy hoại là chắc chắn nhất, và hồn người chúng ta sẽ
thực sự sống ở thế giới bên dưới.
Tôi không có gì hơn để nói phản lại
điều đó, Socrates, Cebes nói, tôi cũng không thể nghi ngờ những luận chứng của ông.
Nếu Simmias đây, hoặc người nào khác có một vài điều gì để nói, người ấy không
nên giữ im lặng, vì tôi không biết đến một cơ hội khác nào nữa ngoài lúc này cho
ông ta để có thể hoãn nó lại, nếu ông ấy muốn nói, hoặc muốn nghe bất cứ gì về
những chủ đề này.
Chắc chắn, Simmias nói, bản thân tôi
không còn lại cơ sở nào nữa để nghi ngờ về những gì đã được nói, tuy nhiên, trong
cái nhìn về sự quan trọng của chủ đề của chúng ta, và ý kiến của tôi về sự yếu
đuối của con người, tôi vẫn vị buộc còn có một số nghi ngại riêng về những gì
chúng ta đã nói.
Bạn nói điều này thì không chỉ là
đúng mà thôi, Simmias, Socrates nói, vì những giả thuyết đầu tiên của chúng ta đòi
hỏi sự xem xét rõ ràng hơn, mặc dù chúng ta tìm thấy chúng thuyết phục. Và nếu
bạn phân tích chúng đầy đủ thoả đáng, tôi nghĩ, bạn sẽ hiểu và đồng ý với lập
luận đến mức như có thể được để một người có thể làm vậy, và nếu kết luận là rõ
ràng, bạn sẽ không tìm đâu xa hơn nữa. – Đó là sự thật.
(Socrates kể một muthos về hồn ngườisau cái Chết)
(107c-115a)
Khi đó, điều là đúng để nghĩ, thưa
quý bạn, rằng nếu hồn người là không chết, nó đòi hỏi sự chăm sóc của chúng ta,
không chỉ cho thời gian chúng ta gọi là đời sống của chúng ta, nhưng vì lợi ích
của tất cả thời gian, và rằng một người thì trong nguy hiểm khủng khiếp nếu một
người không cho nó chăm sóc đó. Nếu cái chết đã là sự thoát khỏi tất cả mọi sự,
nó sẽ là một lợi ích lớn lao để kẻ ác rũ sạch khỏi thân xác và khỏi sự xấu ác
của người ấy cùng với hồn người của người ấy. Nhưng bây giờ mà hồn người dường
như là bất tử, không có sự chạy thoát khỏi sự xấu ác hoặc sự cứu vớt cho nó,
trừ cách trở thành càng tốt và càng khôn ngoan càng nhiều càng hay, đến cùng
mức như có thể được, để cho hồn người đi vào thế giới bên dưới sở hữu không gì
nhưng chỉ sự giáo dục và dưỡng dục của nó, vốn được cho là đem lại lợi ích lớn
nhất hoặc gây tổn hại nhiều nhất với người chết, đúng ngay lúc bắt đầu của cuộc
hành trình xa diệu vợi.
Chúng ta được kể rằng khi mỗi người
chết đi, quỉ thần giám hộ là vị đã được phân gán cho người ấy trong đời sống, bắt
đầu tiến trình để đưa người ấy đến một chốn nhất định nào đó, từ chốn đó những
người đã được tập hợp với nhau tại đó, sau khi được phán xét, phải đi tới thế
giới bên dưới với hướng dẫn là người đã được chỉ định để dẫn họ đến đó từ đây. Sau
khi ở đó, trải qua những gì họ phải trải qua, và ở đó một thời gian đã chỉ định,
họ được một hướng dẫn khác dẫn ngược trở lại đây, sau một thời gian dài. Hành
trình thì không như là Aeschylus của Telephus đã mô tả nó [5]. Ông nói rằng chỉ có một con đường độc nhất dẫn đến cõi của Hades,
nhưng tôi nghĩ nó không chỉ có một, và cũng chẳng đơn giản, vì khi đó sẽ không cần
đến những hướng dẫn, người ta không thể làm nên bất kỳ sai lầm nào, nếu có đã chỉ
một lối đi lại. Vì như nó là, nó có thể có nhiều lối phân rẽ, và những ngã tư
đường, và tôi dựa phán đoán này trên những nghi lễ thiêng liêng và những phong
tục ở đây.
Hồn người, tự chủ ôn hoà và khôn
ngoan, đi theo hướng dẫn, và không phải là không quen thuộc với môi trường
quanh của nó, những hồn người vốn đã thắm thiết gắn buộc với thân xác, như tôi
đã nói trước đây, nấn ná lơ lửng quanh thân xác và thế giới hữu hình trong một
thời gian dài, giằng co và đau khổ nhiều cho đến khi nó được quỉ thần đã chỉ
định của nó dẫn đi bằng vũ lực và khó khăn. Khi hồn người không trong sạch vốn đã
thực hiện một số tác động không trong sạch, nhập với những hồn khác sau khi can
dự vào những giết người bất chính, hoặc phạm những tội ác khác vốn chúng là cùng
họ hàng với những giết chóc này, và là những hành động của loại hồn người này,
tất cả mọi người tránh xa nó và quay đi, không muốn là bạn đồng hành của nó, hoặc
là hướng dẫn của nó, một hồn loại như thế lang thang một mình, hoàn toàn lạc
lõng, bơ vơ không biết về đâu, mãi đến một thời gian nhất định nào đó, và nó bị
buộc dẫn đến nơi cư trú thích hợp của nó. Mặt khác, hồn người đã có dẫn đạo một
đời sống tinh khiết và ôn hoà, tìm thấy bạn đồng hành và những gót để hướng dẫn
nó, và mỗi một trong số chúng cư trú trong một nơi phù hợp với nó.
Có nhiều nơi kỳ lạ trên mặt đất, và
trái đất tự nó không phải là giống như những ai đó là người đã thường bàn luận
về nó tin nó là thế, về bản chất hoặc kích thước, như một ai đó đã khiến tôi
tin theo.
Simmias hỏi: “Ông nói với ý gì,
Socrates? Bản thân tôi đã nghe rất nhiều điều nói về trái đất, nhưng chắc chắn
không phải là những điều đã thuyết phục ông tin theo? Tôi sẽ vui mừng nếu được nghe
chúng”.
Quả thực, Simmias, tôi không nghĩ phải
cần đến tài khéo của Glaucus [6] để kể bạn nghe chúng là những gì, nhưng để chứng minh chúng là thực, đòi
hỏi nhiều tài năng hơn thế, và tôi có lẽ sẽ không có khả năng làm như vậy.
Ngoài ra, ngay cả nếu như tôi đã có kiến thức, thời gian còn lại của tôi sẽ
không đủ dài để kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, không có gì ngăn tôi kể cho bạn nghe
những gì đã thuyết phục khiến tôi tin về hình dạng của trái đất và những gì là
những khu vực của nó.
Ngay cả thế đó là đủ, Simmias nói.
Vâng, nếu thế, ông nói, điều đầu tiên
đã thuyết phục tôi để tin chắc là nếu trái đất là một quả cầu lơ lửng ở giữa vòm
trời, nó đã không cần đến không khí hay bất kỳ lực nào khác để ngăn cho nó đừng
rơi. Bản chất đồng nhất của những tầng trời ở tất cả mọi bên, và sự quân bình
của trái đất là đủ để giữ nó, vì khi một đối tượng thì cân bằng ở giữa của một
gì đó đồng nhất sẽ không có khuynh hướng để nghiêng nhiều hơn sang một hướng
bất kỳ nào khác, nhưng sẽ giữ không chuyển động. Điều này, ông nói, là điểm đầu
tiên mà tôi được thuyết phục.
Và đúng như vậy, Simmias nói.
Hơn nữa, trái đất thì rất lớn rộng,
và chúng ta sống quanh biển, trong một phần nhỏ của nó, giữa sông Phasis và
những cột trụ chống đỡ của Heracles, như loài kiến hoặc loài ếch quanh một
đầm lầy; nhiều dân tộc khác sống ở nhiều phần của nó, giống tựa như vậy. Ở khắp
mọi nơi trên trái đất, có rất nhiều những hang hốc, với nhiều loại hình dạng và
kích thước, nước và sương mù và không khí đã tụ hợp vào trong đó. Trái đất
chính nó thì tinh khiết và nằm trên bầu trời tinh khiết, nơi có những ngôi sao
đang nằm, vốn đa số những người bàn luận về những đối tượng này gọi (bầu trời
tinh khiết) là ête. Nước và sương mù và không khí là những trầm tích của ête,
và chúng luôn luôn chảy vào những hố trũng của trái đất. Chúng ta, những người
sống trong những hốc trũng của nó, đều đã không nhận biết được điều này, và
chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang sống ở bên trên, trên bề mặt của trái đất. Nó
thì cũng giống như, nếu có một người sống ở dưới rất sâu giữa lòng biển lớn,
nghĩ rằng ông đang sống trên bề mặt của nó. Sau khi nhìn thấy mặt trời và những
vật thể khác trên vòm trời, qua lớp nước, ông sẽ nghĩ rằng biển là bầu trời; vì
ông chậm và yếu, ông đã không bao giờ với đến mặt ngoài của biển, hoặc ngoi đầu
lên trên khỏi mặt nước, hoặc đi ra khỏi biển nước để đến được khu vực của chúng
ta ở đây, cũng chưa hề thấy được tinh khiết hơn và đẹp hơn đến biết bao nhiêu,
nếu so với khu vực riêng của ông ta, và ông cũng không bao giờ được nghe bất cứ
một ai đã từng nhìn thấy nó để nói về nó.
Kinh nghiệm của chúng ta thì cũng
giống tựa thế: sau khi sống trong một hố trũng rỗng nào đó nhất định của trái
đất, chúng ta tin rằng chúng ta sống trên bề mặt của nó, không khí chúng ta gọi
là vòm trời, như thể những ngôi sao đã theo đường chúng đi ngang qua đấy, đây
cũng là điều tương tự: vì sự yếu đuối và chậm chạp của chúng ta, chúng ta không
có khả năng để mở đường cho chúng ta lên tới giới hạn bên trên của không khí,
nếu một ai đó đến được giới hạn này, nếu có một ai đó đã đi đến nó, hoặc bay
lên tới nó được, và đầu ông ta ngửng cao lên trên nó, khi đó giống y như cá
trên quẫy mạnh, văng khỏi mặt biển, nhìn thấy mọi sự vật việc trong khu vực của
chúng ta, ông ta sẽ thấy mọi sự vật việc ở đó và, nếu bản chất của ông có thể
chịu đựng để chiêm ngưỡng chúng, ông sẽ biết rằng là có vòm trời thật, có ánh
sáng thật, và có trái đất thật, vì đất ở đây, những sỏi đá này và toàn bộ khu
vực, đã bị hư hỏng và ăn mòn dần, y như những thứ trong biển bị nước mặn ăn mòn.
Phát triển, lớn dậy trong biển là
những gì không đáng nói đến, người ta có thể nói, không gì đã phát triển được
đầy đủ; có những hang, và cát và vô tận chất nhờn và bùn bất cứ chỗ nào có đất –
không thể so sánh được, dù bất kỳ cách nào, với những cái đẹp của khu vực chúng
ta. Như thế, những sự vật việc kể bên trên, đến phiên chúng, là cao cấp hơn
nhiều so với những sự vật chúng ta biết. Thật vậy, nếu đây là thời điểm để kể
một câu chuyện [7],
Simmias, là điều đáng bõ công để nghe về bản chất của những sự vật việc ở trên
bề mặt trái đất, dưới vòm trời.
Dẫu bất kỳ mức nào, Socrates, Simmias
nói, chúng tôi sẽ vui mừng khi nghe câu chuyện này.
Vậy thì, bạn của tôi, đầu tiên, người
ta nói rằng trái đất, nhìn từ trên cao, trông giống như những quả bóng hình cầu,
do mười hai miếng da tạo thành, nó có nhiều màu, và những màu sắc này được
những họa sĩ của chúng ta dùng để cho chúng ta một chỉ định; ở trên cao đó toàn
bộ trái đất có những màu sắc này, nhưng tươi sáng hơn và tinh khiết hơn những
màu sắc này, một phần là màu xanh-biển và có vẻ đẹp tuyệt vời, một phần khác là
màu vàng, một phần khác là màu trắng, trắng hơn phấn hoặc tuyết; trái đất là
cũng gồm những màu sắc khác nữa, nhiều hơn và đẹp hơn bất kỳ màu sắc nào chúng
ta đã thấy. Chính trong những hốc sâu của trái đất, đầy nước và không khí, lấp
lánh trong sự đa dạng của những màu sắc khác, trưng bày một màu sắc của riêng chúng
khiến toàn bộ được nhìn xem như là một liên tục của nhiều màu sắc hỗn tạp. Trên
bề mặt của trái đất, những thực vật phát triển với vẻ đẹp tương ứng, những cây cối
và những bông hoa và những trái quả, và cũng thế, là với những đồi núi và những
sỏi đá, đẹp hơn đẹp hơn trong sự trơn nhẵn và sự trong suốt, và màu sắc của chúng.
Những đá quý ở đây của chúng ta, chỉ là những mảnh vỡ, những đá thạch anh vàng
(cornelians), thạch anh đỏ (jaspers), đá quí màu xanh lục (emeral) và những gì còn lại chúng ta
chưa kể. Tất cả những đá quí ở đó cũng thuộc những loại đó, và thậm chí còn đẹp
hơn nhiều. Lý do là ở đó, chúng thì tinh khiết, không bị soi mòn, hoặc không bị
sự phân huỷ và ngâm nước muối làm hư hỏng, hoặc bị nước và không khí đã chảy
vào những hốc ở đây ăn mòn, và mang theo sự xấu xa và bệnh tật trên đất, đá,
những loài động vật và những loài thực vật khác. Bản thân quả đất này được
trang trí với tất cả những sự vật này, và cũng với vàng và bạc và những kim
loại khác. Những điều này nổi bật, vì có nhiều đông đảo và to lớn đồ sộ, và xảy
ra khắp mọi nơi, như thế trái đất là một cảnh tượng cho những ai có phúc. Có
nhiều những sinh vật khác sống trên trái đất, và cũng có những con người, một
số sống trong nội địa, những số khác ở rìa của vùng không khí, như chúng ta
sống trên bờ của biển, những số khác lại sống trên những hòn đảo bao quanh bởi
không khí, gần với đất liền. Nói vắn tắt, những gì nước và biển với chúng ta,
không khí là như thế với họ; và ether với họ là như không khí với chúng ta. Khí
hậu (tốt đến mức) như thế khiến họ không có bệnh, và họ sống lâu hơn so với
những người sống ở đây, thị lực, thính giác và trí thông minh và tất cả những
tương tự như vậy của họ đều là vượt trội hơn so với của chúng ta; như không khí
là vượt trội hơn nước, và ether vượt trội hơn không khí về tinh khiết trong sạch,
họ có những khu rừng và đền thờ dành cho những vị gót, trong đó những vị gót
thực sự cư trú, và những vị gót giao tiếp với họ bằng lời nói, và tiên tri, và bằng
cách xuất hiện cho họ nhìn thấy; họ nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và những vì
sao như chúng đang là, và trong những cách khác, hạnh phúc của họ là trong phù
hợp với điều này.
Như thế, đây là bản chất của trái đất
như một tất cả toàn thể và những xung quanh của nó, xung quanh toàn bộ của nó
có nhiều khu vực trong những hốc, một số thì sâu hơn và miệng mở rộng hơn hốc
của chúng ta đang sống, những hốc khác thì sâu hơn và có một miệng mở hẹp hơn của
chúng ta, và có một số mà ít sâu hơn và ngang rộng hơn. Tất cả chúng được kết
nối với nhau bên dưới bề mặt của trái đất, ở nhiều nơi, bằng những kênh hẹp và toả
dài rộng hơn, và như thế có những cửa thông mở, qua đó nhiều nước chảy từ một nơi
này đến nơi khác, như vào trong những bát lớn dùng để pha trộn, những sông lớn
của cả nước nóng và lạnh như thế, thành dòng chảy mãi mãi dưới đất, nhiều lửa
và những con sông lớn đầy lửa, và nhiều bùn ướt, cả trong hơn lẫn cả nhiều bùn đục
hơn, giống tựa như những dòng chảy trước những lava, và trước chính dòng chảy của
lava ở Sicily. Những luồng cuộn trào này sau đó làm đầy mọi và tất cả các vùng,
vì chảy đến mỗi vùng trong số chúng, và tất cả những nơi này di chuyển lên
xuống với sự chuyển động dao động của trái đất. Nguyên nhân tự nhiên của sự dao
động là như sau: một trong những hốc của trái đất, đó cũng là hốc lớn nhất, đâm
xuyên thông qua toàn bộ trái đất, nó là sự vật mà Homer đã đề cập, khi ông nói:
“Xuống thật thấp ở nơi là hố sâu nhất dưới trái đất...” [8] và vốn nó, ông ở nơi khác, và nhiều nhà thơ khác,
gọi là Tartarus; tất cả những con
sông đều cùng chảy vào trong hang sâu này, và lại lần nữa, đều chảy ra khỏi nó,
và mỗi con sông chịu tác động của bản chất của vùng đất nó chảy qua. Lý do của sự
chảy vào và chảy ra khỏi Tartarus của
chúng là vùng nước này không có đáy hay nền cứng chắc, nhưng nó dao động lên
xuống trong những làn sóng, và không khí và gió quanh nó cũng làm như vậy, vì chúng
làm theo nó khi nó chảy vào phần này hay phần kia của trái đất. Giống y như khi
người ta thở, luồng không khí đi vào và ra, ở đây cũng thế không khí dao động
với nước và tạo ra những cơn gió khủng khiếp khi nó đi vào và ra. Bất cứ khi
nào nước rút lui về những gì chúng ta gọi là phần dưới thấp của trái đất, nó
chảy vào những phần đó, và làm chúng đầy lên như thể được bơm nước vào; khi nó rời
phần đó cho phần này, nó lại lần nữa làm đầy những phần này, và những phần được
làm đầy chảy qua những kênh và qua trái đất, và trong từng trường hợp chảy đến
những địa điểm mà những kênh dẫn vào, và tạo ra những biển, và đầm lầy, và những
dòng sông, những dòng suối. Từ chốn đó, những dòng nước lại chảy ngầm dưới đất,
một số chảy quanh những khu vực lớn hơn và đông đảo hơn, một số chảy quanh
những khu vực nhỏ hơn và nông hơn, sau đó chảy trở lại vào Tartarus, một số tại một điểm thấp hơn nhiều so với nơi chúng đã bắt
đầu chảy ra, một số khác chỉ là một chút thấp, nhưng tất cả chúng đều chảy vào ở
một lối thấp hơn lối chảy ra, một số chúng ở phía đối diện của vực thẳm, một số
ở cùng một bên, một số chảy thành một vòng rộng cuộn tròn quanh trái đất một
lần hoặc nhiều lần như những con rắn, sau đó xa xuống thật thấp như có thể thấp
được, khi đó quay trở lại vào vực thẳm của Tartarus.
Từ mỗi bên, cũng có thể chảy xuống cũng thấp như ở trung tâm, nhưng không chảy
vượt ra ngoài được, vì có dốc dựng đứng về phía trước của dòng sông, từ cả hai bên
của trái đất.
Có rất nhiều sông lớn khác thuộc tất
cả các loại, và trong số này ghi nhận có bốn; sông lớn nhất chảy ở mặt ngoài
(của trái đất) theo một vòng tròn gọi là Oceanus,
đối diện với nó và chảy theo hướng ngược lại là Acheron; nó chảy qua nhiều khu vực hoang vắng khác và xa dài hơn, dưới
lòng đất ngầm, theo hướng đi của nó tới hồ Acherusian,
nơi đa số những hồn người sau khi chết đã đến đó, và sau khi ở lại đó trong một
thời gian được chỉ định nhất định, lâu hơn với số hồn này, ngắn hơn với số hồn khác,
những hồn người được gửi trở lại, để được sinh ra đời như những tạo vật có sự sống.
Sông thứ ba, giữa hai sông đầu tiên, và gần nguồn của nó, đổ vào một khu vực đốt
cháy với nhiều lửa, và tạo thành một hồ lớn hơn biển của chúng ta, sôi nóng với
nước và bùn. Từ nơi đó, nó đi theo một vòng tròn, hôi thối và đục bùn, và quanh
co trên đường của nó, nó đi, giữa những nơi khác nữa, đến bìa cạnh của hồ Acherusian, nhưng không pha trộn lẫn vào
với nước của nó; sau đó, cuộn quanh nhiều vòng dưới lòng đất ngầm, nó chảy
xuống thấp hơn, đổ vào trong Tartarus,
đây là sông có tên Pyriphlegethon, và
dòng chảy lava của nó bắn những mảnh
vỡ của nó, tung ra những phần khác nhau của trái đất. Đối diện với đây là bắt
đầu con sông thứ tư, gọi là Stygion,
và nó được kể là đầu tiên đã chảy vào một khu vực khủng khiếp và hoang dã, tất
cả đều là màu xám-xanh, và dòng sông này đã tạo thành hồ nước khi nó chảy vào,
gọi là Styx. Khi nước của nó đổ xuống
hồ, chúng có được những quyền năng kinh sợ, sau đó lặn xuống dưới sâu và quanh
co quanh nó, chảy vào hướng ngược lại từ Pyriphlegethon,
và đổ vào phía đối diện với hồ Acherusian;
nước của nó không trộn lẫn với bất kỳ nước nào khác, nó cũng chảy theo một vòng
tròn và đổ vào Tartarus, đối ngược
với Pyriphlegethon. Tên con sông thứ
tư, những nhà thơ bảo chúng ta, là Cocytus
[9]
Như thế là bản chất của những sự việc
này. Khi người chết đến nơi mà mỗi người đã được quỉ thần giám hộ của mình dẫn tới,
đầu tiên họ được phán xét về phần không biết họ đã dẫn đạo một đời sống tốt lành
và tín mộ hay không. Những người đã sống một đời sống trung bình, đường của họ
mở ra cho họ đi đến sông Acheron và xuống những con thuyền như chờ sẵn cho họ ở
đó, và tiến tới hồ (Acherusian). Họ
cư trú ở đấy, và được thanh tẩy bằng cách chịu những hình phạt cho bất kỳ sai
trái nào họ đã phạm phải, họ cũng được khen thưởng thận hợp cho những việc làm
tốt của họ thei như mỗi việc đáng được hưởng. Những người được coi là không thể
chữa trị được, vì sự dã man cực độ của những tội ác của họ, sau khi phạm vào
nhiều những bất kính lớn với thần thánh, hoặc độc ác và giết người phi pháp, và
những sai trái khác thuộc cùng loại như vậy – số phận thích hợp cho họ là quăng
vào Tartarus, và họ sẽ không bao giờ thoát ra khỏi nó. Những người được xét là
đã phạm tội nặng nhưng những tội ác có thể sửa chữa được, chẳng hạn như bạo động
với cha mẹ của họ trong một cơn nóng giận, là người đã nhận biết hối hận trong suốt
phần đời sau đó của họ, hoặc những người đã giết một ai đó trong một cách tương
tự, những người này phải cần được ném vào Tartarus,
nhưng một năm sau, dòng nước ném họ trở ra, những tội phạm giết người, theo lối
chảy ra của Cocytus, và những ai là người
đã bạo hành với cha mẹ, bằng lối chảy ra của Pyriphlegethon. Sau khi họ đã được trôi dọc đến hồ Acherusian, họ khóc lớn và kêu lớn tiếng,
một số gọi những những người mà họ đã giết, một số khác gọi những người đã bị
họ ngược đãi, và sau khi kêu gọi những nạn nhân của họ, họ van lạy những người
này, và cầu xin những người này cho phép họ bước ra khỏi dòng sông để vào trong
hồ và để chấp nhận họ. Nếu họ thuyết phục được những nạn nhân của họ, họ bước vào
trong hồ và sự trừng phạt của họ đi đến kết thúc, nếu không, họ được đưa trở
lại vào trong Tartarus, và từ đó lại vào trong những con sông, và việc này
không ngừng lại cho đến khi nào họ thuyết phục được những người mà họ đã gây những
sai trái, vì đây là hình phạt mà những quan toà đã bắt họ phải chịu.
Những ai là người được xem là đã sống
một đời sống rất đạo hạnh đều được tự do và được phóng thích khỏi những vùng của
mặt đất như ra khỏi một nhà tù, họ theo đường của họ tiến cao lên đến một chốn cư
ngụ tinh khiết và sống trên mặt trên của trái đất. Những ai là người đã thanh
tẩy bản thân họ được đầy đủ bằng triết lý, sống trong tương lai tất cả hoàn
toàn không có một thân xác, họ theo đường của họ lên đến những nơi ở thậm chí
còn đẹp hơn nhiều, khiến rất khó để mô tả rõ ràng, mà chúng ta bây giờ cũng
không có thời giờ để làm như vậy. Vì những điều chúng ta đã nêu kể ra, Simmias,
người ta phải hết sức mọi cố gắng để chia sẻ phần nhận về đức hạnh và trí tuệ
trong đời sống của một người, vì phần thưởng thì đẹp đẽ và hy vọng thì lớn lao.
Không người nào có ý thức về phải
trái sẽ khăng khăng rằng những sự việc này là như tôi đã mô tả chúng, nhưng tôi
nghĩ rằng nó là thuận hợp khít khao cho một người để đánh liều tin tưởng – vì
sự liều lĩnh một liều lĩnh cao thượng – rằng điều này, hoặc là một điều gì đó
giống điều này, là sự thật về những hồn người của chúng ta, và những chốn trú
ngụ của chúng, vì hồn người hiển nhiên là bất tử, và một người nên lặp lại điều
này với chính mình, như nếu nó đã là một câu thần chú, vốn đó là lý do tại sao
tôi đã kéo dài chuyện kể của tôi. Đó là lý do tại sao một người nên hạnh phúc,
lấy làm vui sướng về hồn người của chính mình, nếu trong đời sống, ông đã làm
ngơ những lạc thú của thân xác và những trang điểm của nó, như không thuộc về
bận tâm của ông ta, và làm hại ông ta nhiều hơn lợi, nhưng ông đã nghiêm trang
quan tâm bản thân mình với những thú vui của học tập, và trang điểm hồn người
của mình không phải với những trang trí ngoại lai nhưng với những trang điểm
riêng của nó, cụ thể là sự điều độ, ngay thẳng, can đảm, tự do và sự thật, và
trong trạng thái đó chờ đợi hành trình của mình sang thế giới bên dưới kia.
(115 a)
Giờ đây, Simmias, Cebes, và tất cả
các bạn còn lại, Socrates nói tiếp, mỗi người sẽ nhận hành trình ấy vào một
thời điểm khác nào đó, nhưng bây giờ là ngày số phần của tôi gọi tôi, như một
nhân vật trong bi kịch có thể nói, và khoảng đã đến giờ để tôi đi tắm, vì tôi
nghĩ điều tốt hơn là tắm trước lúc tôi uống thuốc độc và tránh cho những người
đàn bà phải mất công rửa xác chết.
Khi Socrates đã nói điều này xong,
Crito nói: Rất tốt, Socrates, ông dạy bảo gì cho tôi và những người khác về các
con nhỏ của ông hay bất cứ gì khác nữa? Chúng tôi có thể làm gì để vui lòng ông
nhất? – Không có gì mới đâu, Crito, Socrates nói, ngoài những gì tôi vẫn luôn
luôn thường nói, rằng các bạn sẽ làm hài lòng tôi, và gia đình tôi và chính các
bạn, bằng cách chăm sóc cho tốt chính bản thân các bạn, trong bất cứ gì các bạn
làm, ngay cả nếu như các bạn không đồng ý với tôi giờ đây, nhưng nếu các bạn bỏ
bê bản thân riêng các bạn, và sẽ không có ý định sống theo những lối đã vạch,
như nó đã là, những gì chúng ta đã nói lúc này, và trong những dịp trước, các
bạn sẽ không đạt được gì cả, ngay cả nếu các bạn mạnh mẽ đồng ý với tôi ở lúc
này.
Chúng tôi sẽ nôn nóng hết lòng tuân
theo lời ông khuyên, Crito nói, nhưng chúng tôi sẽ chôn cất ông thế nào?
Trong bất kỳ cách nào các bạn thích,
Socrates nói, nếu là bạn có thể chụp được tôi và tôi không trốn bạn đâu. Và
đương cười lặng lẽ, khi nhìn chúng tôi, ông nói: Tôi không thuyết phục được
Crito rằng tôi là Socrates này đương nói chuyện với các bạn ở đây, và đương xếp
đặt tất cả những gì tôi nói, nhưng ông nghĩ rằng tôi là sự vật mà chẳng mấy
chốc ông sẽ nhìn xem như một thây ma, và vì vậy ông hỏi rằng ông sẽ chôn tôi
thế nào. Tôi đã từng nói khá lâu, và khá dài rằng sau khi tôi đã uống thuốc
độc, tôi sẽ thôi không còn với các bạn, nhưng sẽ để các bạn đi, và vui hưởng
một số may mắn tốt lành của kẻ có phước, nhưng xem dường tôi đã nói tất cả
những điều này với ông ta một cách vô vọng, trong một cố gắng làm yên lòng các
bạn và cả bản thân tôi nữa. Hãy hứa với Crito nhân danh tôi, ông nói, lời hứa
trái ngược với lời hứa ông đã đem cho đoàn bồi thẩm. Ông đã hứa rằng tôi sẽ ở
lại, các bạn phải hứa rằng tôi sẽ không ở lại sau khi tôi chết, nhưng tôi sẽ ra
đi mất, thế để Crito sẽ chịu được nó dễ dàng hơn khi ông nhìn thấy xác tôi bị
đốt, hoặc bị chôn, và sẽ không giận dữ thay cho tôi, như thể tôi đang chịu đau
đớn khủng khiếp, và như thế để ông sẽ không nói tại đám tang rằng ông xếp đặt
ra, hoặc thực hiện theo, hoặc chôn cất cho Socrates. Bởi vì ông biết rõ, Crito
thân yêu của tôi, rằng một người diễn tả chính mình một cách sai vụng không
phải là chỉ bị phạm lỗi trong lĩnh vực xa gần như ngôn ngữ, nhưng thực có làm
dăm điều tổn hại cho hồn người. Bạn phải vui vẻ lên, và nói rằng bạn sẽ chôn xác
tôi, và chôn nó theo bất kỳ cách nào bạn thích và nghĩ theo thông tục nhất.
Sau khi nói điều này, ông đứng dậy và
đi sang phòng bên kia để tắm, và Crito đi theo và ông nói bảo chúng tôi hãy chờ
ông. Vì vậy, chúng tôi ở lại, nói chuyện với nhau, hỏi về những gì đã nói, và
khi đó lại nói về sự bất hạnh lớn lao đã buông xuống chúng tôi một lần nữa. Tất
cả chúng tôi đều cảm thấy như thể chúng tôi đã mất đi một người cha và sẽ bị mồ
côi cho đến hết đời chúng tôi còn lại. Khi ông đã tắm rửa sạch sẽ, các con ông
được mang đến với ông – hai đứa con trai của ông còn rất bé, và một đứa thì lớn
hơn – và những người phụ nữ trong gia đình của ông đã đến với ông. Ông nói với
họ trước mặt Crito và dặn dò họ những gì ông muốn. Sau đó, ông đã bảo những phụ
nữ và trẻ em đi khỏi đi, và tự ông đã tới nhập với chúng tôi. Bây giờ đã gần
lúc mặt trời lặn, vì ông đã ở trong nhà cũng được một thời gian lâu. Ông đến và
ngồi xuống sau khi tắm và nói chuyện trong một thời gian ngắn, khi viên chức
của nhóm Mười-một [10] đi đến, và đứng cạnh ông, và nói: “Tôi sẽ không trách ông như tôi đã
trách những người khác, Socrates, họ tức giận với tôi và nguyền rủa tôi, khi
tuân theo lệnh của cấp trên, tôi bảo họ uống thuốc độc. Trong thời gian ông ở
đây, tôi đã đi đến biết được ông trong những cách khác như là người cao thượng
nhất, hòa nhã nhất, và là con người bậc nhất đã từng đến đây. Vì vậy, bây giờ
cũng thế, tôi biết rằng ông sẽ không làm rắc rối cho tôi; ông biết ai là người
chịu trách nhiệm và ông sẽ hướng tức giận của ông hướng về họ. Ông biết lời
nhắn gì tôi mang lại. Thôi vĩnh biệt ông, và hãy gắng chịu những gì ông phải,
cho thật nhẹ nhàng nhất như có thể được”. Người viên chức đã khóc khi ông ta
quay lưng lại và đi ra ngoài. Socrates ngửng nhìn ông ta và nói: “Cũng vĩnh
biệt ông nhé, chúng tôi sẽ làm như ông bảo chúng tôi”. Và quay sang chúng tôi,
ông nói: Con người dễ chịu làm sao! Trong suốt thời gian tôi ở đây, ông ta đã
vào và thỉnh thoảng bàn chuyện với tôi, một người thật dễ chịu nhất. Và chân
thực làm sao ông ta bây giờ khóc vì tôi. Nào, Crito, chúng ta hãy cùng tuân lời
ông ta. Hãy để một người nào đó mang chất độc lại, nếu nó đã sẵn sàng, nếu
chưa, hãy để cho người ta sửa soạn nó đi”.
Nhưng, Socrates, Crito nói, tôi nghĩ
rằng mặt trời vẫn còn chiếu sáng trên những ngọn đồi, và còn chưa lặn. Tôi biết
những người khác uống thuốc độc một thời gian khá lâu sau khi họ đã nhận được
lệnh, ăn và uống kha khá, và một vài người trong số họ vui hưởng sự thân mật
với những người thân yêu của họ. Đừng vội vàng, vẫn còn một ít thì giờ mà.
Đó là tự nhiên, Crito, để họ làm như
vậy, Socrates nói, vì họ nghĩ rằng họ rút được một số lợi lộc khi làm điều này,
nhưng nó không phù hợp với tôi. Tôi không mong đợi bất kỳ lợi ích nào từ việc
uống chất độc một chút chậm trễ hơn, ngoại trừ để thành lố bịch trong mắt riêng
tôi vì bám víu vào đời sống, và là dè sẻn với nó, trong khi không gì còn lại
cả. Vì vậy, làm như tôi yêu cầu và đừng từ chối tôi.
Nghe điều này, Crito gật đầu với
người nô lệ đang đứng gần ông ta, người nô lệ đi ra ngoài và sau một
lát, đã trở lại với người là người trông coi chất độc, bưng nó đến đã làm sẵn
sàng trong một cái cốc. Khi Socrates nhìn thấy người này, ông nói: Tốt, người
quí của tôi, bạn là một chuyên gia trong chuyện này, người ta phải làm gì đây?
– “Chỉ uống nó và đi quanh cho đến khi chân ông cảm thấy nặng, và khi đó nằm
xuống, và thuốc sẽ tự nó làm việc”. Và người này đưa cốc thuốc cho Socrates,
ông đã hoàn toàn vui vẻ cầm lấy nó, Echecrates, không một run rẩy hoặc thay đổi
bất kỳ bộ điệu hay sắc mặt nào, nhưng nhìn người này từ dưới làn lông mày của
mình như thói quen của ông, hỏi: “Bạn nói gì về việc rảy rượu này xuống đất để
cúng? có được phép không? – “chúng tôi chỉ trộn nhiều vừa đến như
chúng tôi tin rằng sẽ đủ”, người ấy nói.
Tôi hiểu, Socrates nói, nhưng một
người thì được phép, quả thực một người phải, thốt một cầu nguyện với những vị
gót để hành trình từ đây đến xa kia có thể là được may mắn. Đây là cầu nguyện
của tôi và cầu được như vậy.
Và trong khi ông nói điều này, ông
đang cầm cái cốc, và khi đó uống cạn nó một cách bình tĩnh và dễ dàng. Hầu hết
chúng tôi đã có thể kìm nước mắt chúng tôi khá đến tận lúc đó, nhưng khi chúng
tôi nhìn thấy ông uống, và sau khi ông uống nó xong, chúng tôi không còn có thể
giữ lâu hơn được nữa; nước mắt tôi cứ trào ra dù tôi cố cưỡng. Vì vậy, tôi che
mặt tôi. Tôi đã khóc cho bản thân mình – không phải cho ông, – nhưng cho bất
hạnh của tôi khi bị tước mất một đồng chí như vậy. Ngay cả trước tôi, Crito đã
không thể cầm giữ nước mắt của mình và đã đứng dậy. Apollodorus đã không ngừng
khóc từ trước, và tại thời điểm này, những giọt nước mắt ồn ào và tức giận của
anh ta làm tất cả mọi người hiện diện nát lòng, ngoại trừ Socrates. “Cái gì thế
này”, ông nói, “các bạn lạ lùng này. Chính chủ yếu chỉ vì lý do này mà tôi đã
gửi đám phụ nữ đi, để tránh những điều không nên loại giống như vậy, vì tôi
được dạy người ta nên chết trong điềm tốt im lặng. Vậy, giữ yên tĩnh và các bạn
hãy điều khiển lấy chính mình”.
Những lời ông nói làm chúng tôi xấu
hổ, và chúng tôi lau nước mắt chúng tôi. Ông đi quanh, và khi ông nói chân ông
đã nặng nề, ông nằm ngả lưng như ông đã được bảo làm thế, và người là người đã
cho ông thuốc độc, sờ vào thân thể ông, và sau đó một lúc, đã thử những bàn
chân và chân ông, đã ấn mạnh vào bàn chân ông và hỏi ông nếu ông có cảm thấy
điều này không, và Socrates nói không. Sau đó, anh ta nhấn vào bắp chân, và làm
theo cách của mình lên cao dần trên thân thể ông, và chỉ cho chúng tôi thấy
rằng nó đã lạnh và cứng. Ông chính mình cảm thấy điều ấy và nói rằng khi cái
lạnh đến tim ông sẽ đi. Khi bụng ông đã bắt đầu lạnh, Socrates mở khăn phủ mặt
– ông đã lấy khăn phủ đầu – và nói – đây là những lời cuối cùng của ông –
“Crito, chúng ta nợ Asclepius một con gà [11]; nhớ cúng gà cho ông ta, và đừng quên” – “Sẽ làm điều đó,” Crito nói,
“cho chúng tôi biết nếu còn bất cứ gì khác không,” nhưng không có trả lời. Ngay
sau đó một chút, Socrates làm một cựa quậy, người kia mở khăn phủ ông, và những
con ngươi ông đã bất động. Sau khi thấy điều này, Crito đã khép miệng và mắt
ông lại.
Như thế là lúc cuối của người đồng
chí của chúng tôi, Echecrates, một người, chúng tôi sẽ nói, trong tất cả những
người chúng tôi đã biết, là bậc nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất và ngay
thẳng nhất. [12]
Plato
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
Plato
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(bắt đầu từ Nov/2013)
[1] 70d – 71a ở trước
[2] Fowler: “not only the abstract idea itself has a right to the same name
through all time, but also something else, which is not the idea, but which
always, whenever it exists, has the form of the idea”.
Victor
Cousin: “dans quelques cas du même genre, non seulement l’idée abstraite
elle-même ait droit à porter le même nom éternellement, mais qu’il en soit de
même pour une autre chose qui n’est pas cette idée, mais qui a toujours, tant
qu’elle existe, la forme de cette idée. »
[3] Safe answer: Bản V: “la réponse sûre, celle
de l’ignorant”
[4] Oneness; Fowler:
dịch là “số một” “if you ask what causes a number in
which it is to be odd, I shall not say oddness, but the number one” như thế
không rõ nghĩa – bản V: “je
ne dirais pas l’imparité, mais l’unité”.
Đây là cách
Socrates muốn chúng ta trả lời, bản tiếng Pháp giúp hiểu rõ hơn – đừng đơn giản
lập/dùng lại những từ/ý đã có trong câu hỏi “chaud/chaleur”, “malade/maladie”,
“impair/imparité”, nhưng là những từ mới/ý khác, “thông thái hơn” – “feu/ fièvre
/ l’unité :
“Reprenons les choses au
commencement, dit Socrate, et garde-toi de me répondre avec les mots mêmes de
ma question, mais suis l’exemple que je vais te donner. Je dis donc qu’outre la
manière de répondre dont j’ai parlé d’abord, la manière sûre, j’en vois une
autre également sûre à la lumière de ce qui vient d’être dit.
Si en effet tu me demandais : Qu’est-ce qui doit se
trouver dans le corps pour qu’il soit chaud ? je ne te ferais pas la réponse
sûre, celle de l’ignorant, que c’est la chaleur, mais une réponse plus savante,
tirée de ce que nous venons de dire, que c’est le feu. De même, si tu me demandais
Qu’est-ce qui doit se trouver dans le corps pour qu’il soit malade, je ne te
dirais pas la maladie, mais la fièvre ; et si tu me demandais : Qu’est-ce qui
doit se trouver dans un nombre pour qu’il soit impair, je ne dirais pas
l’imparité, mais l’unité, et ainsi du reste. Mais vois si à présent tu saisis
bien ce que je veux dire”.
[5] Aeschylus của Telephus, nay không còn nữa
[6] [Không rõ nguồn gốc câu tục ngữ này]
[7] Nguyên văn “muthos” – bản V: “Si je puis recourir au mythe pour vous” –
hiểu như ngược lại với “logos”. Không hoàn toàn có nghĩa như chúng ta dùng từ
“huyền thoại” ngày nay, với ý huyễn hoặc, không đáng tin. Quan điểm của Plato
với những huyền thoại Greek khá phức tạp. Tôi chỉ muốn lưu ý người đọc, ở đây,
khi Plato dùng một muthos để đệm cho
vững chặt và nhấn mạnh thêm cho luận chứng hồn người bất tử của mình, hiển
nhiên ông không có ý kể cho chúng ta thêm một câu chuyện huyễn hoặc, không
tưởng, đáng ngờ, sau bốn chứng minh chặt chẽ lôgích của ông. Plato, trong
truyền thống văn hoá Greek, tin rằng những muthos
hầu như là nhiều phần có thực, chỉ thiếu chứng cớ, trong đó lý do lớn là vì bị
thời gian làm mất. Plato không chỉ trích dẫn, nhưng dùng muthos để làm vững
mạnh những luận chứng của ông, như trong các đàm thoại Gorgias, Republic, và Phaedrus.
[8] [Iliad
viii.14; cf.viii.481]
[9] [Những đặc điểm này của thế giới ngầm bên
dưới, xem Odyssey x. 511 ff, xi 157]
Khi những
người Greek thời cổ như Socrates (Plato) nói về vòm trời/bầu trời (heavens), họ
nói theo nghĩa đen, nghĩa nguyên thủy, hoàn toàn và chỉ có nghĩa là những gì
người ta nhìn thấy trên bầu trời, ngày và đêm. Khi họ nói về một thế giới ngầm,
thế giới bên kia, thế giới bên dưới (underworld), họ cũng nói theo nghĩa đen
chỉ có nghĩa là một nơi nào đó ở bên dưới lòng đất, mà người ta có thể dùng
xẻng đào, xới, mở đường đi xuống. Những nghĩa bóng, như chúng ta thường giải
thích ngày nay, hiểu là chỉ những thế giới vô hình, và ít nhất là không có
trên/dưới/trong lòng quả đất này; đều đến sau. (Trong tôn giáo, ban đầu, cũng
tin rằng những thế giới khác với thế giới của người sống, (thiên đàng, hỏa
ngục, ...) cũng tương tự như của Greek thời cổ, nhưng chúng đã thay đổi dần để
đáp ứng với sự tăng trưởng và phổ biến của những hiểu biết khoa học, thay vì
thú nhận là không có, chuyển sang vẫn quả quyết là có, nhưng chỉ chấp nhận là
không ở trong lòng đất/trên vòm trời, của vũ trụ hiện thực này chúng ta quan
sát được.
Đây là
những kỳ vọng có thực, dù xem dường với chúng ta ngày nay như thuần tưởng
tượng, về những vùng xa xôi trong vũ trụ của họ, và những bàn bạc của họ về hồn
người là những băn khoăn có liên quan với những câu hỏi quen thuộc của con
người - như thế nào và lý do tại sao các dạng sống tự nhiên có khả năng di
chuyển (thân xác) và suy nghĩ, cảm xúc (hồn). Với họ, hồn người được xem như là
một loại hiện tượng của thế giới tự nhiên, nhưng vô hình – tương tự như chúng
ta ngày nay, nghĩ, mường tượng, quan niệm về những thực thể vật chất, biết có
đấy (qua tác động thực của chúng trên vật chất), nhưng không trông thấy, như khí
đốt (gas) hay điện từ (electromagnetism).
Plato trình
bày kiến thức địa lý về quả đất, nơi chúng ta cư ngụ. Bốn con sông: lớn nhất,
ngoài cùng, trên mặt đất: Oceanus, ba
sông kia, chảy ngầm trong lòng đất: Acheron,
Pyriphlegethon (sông lửa) và Cocytus
(Stygion), Cả bốn, đều chảy vào một vực thẳm trong lòng đất, gọi là Tartarus, và cũng có hai hồ nước dưới
lòng đất: Acherusian (nơi đa số những
hồn người chết đã đến đó) và Styx (sông
Stygion chảy vào mà thành, nước trong
hồ có quyền năng kinh sợ).
[10] The Eleven: nhóm Mười một: (Gk. hoi
hendeka) một hội đồng 11 viên chức cao cấp (arkhon), trong số 700 magistrates của thành phố được bầu hàng năm
bằng bắt thăm, trong cơ chế tư pháp ở Athens, nhóm này đặc biệt trông coi và
thi hành những án tử hình, và các dịch vụ liên hệ như nhà tù, thi hành án, tịch
biên gia sản.
[11] [Một con gà trống để cúng gót của những
người bệnh là Asclepius, những người nào đến ngủ trong những đền thờ của ông,
với hy vọng khỏi bệnh. Socrates rõ ràng có ý rằng cái chết là một cách chữa trị
những ốm đau của đời sống.]
[12] Câu được trích dẫn nhiều nhất, khi nhắc đến Socrates, và thấm sâu vào mỗi
người đọc. Một trong những câu văn chúng ta không thể quên trong đời, ngay từ
lần đầu tôi đọc, thời trung học còn chưa hiểu trọn nghĩa, nhưng vẫn nhớ thuộc
lòng, đến tận nay: “Telle
fut la fin de notre ami, Échécrate, d’un homme qui, nous pouvons le dire, fut,
parmi les hommes de ce temps que nous avons connus, le meilleur et aussi le plus sage et le plus
juste”.
Chú ý đến
chi tiết, trước sau, chỉ là một câu chuyện kể của Phaedo với Echecrates. Plato
hết sức khéo léo và cẩn thận ngấm ngầm nhắc lại, trong câu cuối quan trọng
này : Plato không có mặt lúc
Socartes chết, và cũng không có mặt trong câu ‘chuyện kể dọc đường’ này của hai nhân vật trên. Chúng ta cũng có
thể hỏi thêm, Plato, là tác giả câu chuyện chúng ta đang đọc, như từ đâu/khi
nào,... ông biết được câu chuyện này,...Tất cả đều chỉ là những câu chuyện kể
đi thuật lại, tuỳ chúng ta ít hay nhiều, hay không tin. Chúng ta không biết gì
nhiều về Socartes lịch sử, nếu một Socrates có thực ở Athens, nhưng chỉ biết
ông như một nhân vật trong những đàm
thoại của Plato.
Xem thêm
phê bình của Nietzsche :
[Có phải bản thân ông vẫn còn hiểu điều này, người
xuất sắc nhất này của tất cả những kẻ tự-làm-mình-khôn ngoan hơn người? Có phải
đây là những gì ông nói với chính mình trong phút cuối cùng, trong khôn ngoan
của sự can đảm của ông để chết? Socrates đã muốn chết: không phải Athens, nhưng
bản thân ông đã chọn liều thuốc độc hemlock, ông đã buộc Athens
phải kết án ông tử hình. “Socrates thì không là y sĩ nào cả”, ông nói nhẹ nhàng
với chính mình, “ở đây chỉ mình cái chết là người y sĩ. Tự thân Socrates chỉ
đơn thuần là đã bị bệnh một thời gian dài”.] Nietzsche – Buổi Chạng vạng của
những Tượng thần, Vấn đề về Socrates,
Bản dịch LDB
Và Russell:
[“Plato, bên cạnh sự kiện là một triết gia, còn là một
nhà văn giàu trí tưởng tượng, có thiên tài và sức mê hoặc lớn lao. Không một ai
giả định, và tự chính ông cũng không nghiêm túc làm ra vẻ rằng những đàm thoại
trong những đối thoại của ông đã diễn ra như ông ghi chép chúng. Tuy nhiên, với
bất kỳ tỷ lệ nào trong những đối thoại có sớm hơn, cuộc đàm thoại là hoàn toàn
tự nhiên và những nhân vật khá đáng tin thuyết phục. Chính sự xuất sắc của
Plato như một nhà viết tiểu thuyết đã ném lên nghi ngờ về ông như là một nhà viết
sử. Socrates của ông là một nhân vật trước sau như một và đáng chú ý lạ thường,
vượt quá mức khả năng của hầu hết con người để tạo dựng được, nhưng tôi nghĩ
Plato đã có thể đã tạo dựng ra ông ta. Không biết liệu ông đã có làm như
thế hay không, dĩ nhiên lại là một câu hỏi khác.”] Bertrand Russell - Lịch sử Triết học phương Tây, Chương 11.
Socrates, bản dịch LDB.