Saturday, March 29, 2014

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (25)


Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins


(The God Delusion)

(tiếp theo ...)











Chương 10

Một khoảng trống rất cần thiết?

Điều gì có thể lay động hồn người hơn khi chăm chăm nhìn qua một kính thiên văn dày 100-inch đến tận một biển sao xa thẳm, khi cầm chặt trên tay người một hóa thạch tuổi đã 100 triệu năm, hoặc một công cụ bằng đá đã 500.000 năm, khi đứng trước vực thẳm không cùng của không gian và thời gian, đó là Grand Canyon, hoặc khi nghe một nhà khoa học là người đã nhìn đắm đuối trên khuôn mặt buổi sáng tạo của vũ trụ và không chớp mắt. Đó là khoa học thiêng liêng và sâu xa. (Michael Shermer)


Một khoảng trống rất cần thiết?

“Quyển sách này lấp đầy một khoảng trống rất cần thiết”. Nói đùa vui nhưng nên chuyện vì chúng ta đồng thời hiểu được hai nghĩa đối nghịch. Ngẫu nhiên, tôi nghĩ rằng nó là một sự nghĩ vội nhanh trí, nhưng tôi ngạc nhiên tìm thấy rằng nó thực sự đã được những nhà xuất bản xử dụng, với tất cả hồn nhiên không ý bỡn cợt. Xem ở – http: //www.kcl.ac.uk/kis/schools/hums/french/pgr/tqr.html – cho một quyển sách “ lấp đầy một khoảng trống rất cần thiết trong văn chương hiện có về phong trào hậu-cấu trúc”. Nó có vẻ thích hợp hấp dẫn rằng quyển sách này, phải thú nhận thừa thãi không cần thiết, là tất cả về Michel Foucault, Roland Barthes, Julia Kristeva và những biểu tượng khác của giới chữ nghĩa tiếng Pháp thời thượng [1].

Có phải tôn giáo lấp đầy một khoảng trống rất cần thiết? Người ta thường nói rằng có một khoảng trống có dạng-Gót trong não, vốn nó cần được lấp đầy: chúng ta có một nhu cầu tâm lý với Gót – người bạn, người cha, người anh lớn, người giải tội, người tin cẩn tâm sự, tất cả đều tưởng tượng – và nhu cầu phải được thỏa mãn, dù Gót thực sự có hiện hữu hay không. Nhưng có phải hay không rằng chính Gót có thể làm ngổn ngang chật chội một khoảng trống mà chúng ta tốt hơn nên lấp đầy với một gì đó khác? Khoa học, có lẽ? Nghệ thuật? Tình thân ái giữa con người? Chủ nghĩa nhân bản? Tình yêu với chính đời sống này trong thế giới thực tại này, không gửi gắm niềm tin vào đời sống nào khác bên kia nấm mồ? Một tình yêu với thiên nhiên, hoặc những gì nhà côn trùng học tên tuổi E.O. Wilson đã gọi là một cảm kích từ sự nhận hiểu giá trị của đời sống và thế giới sống thực – Biophilia? [2]

Trước sau, tôn giáo đã từng được cho là làm đầy bốn vai trò chính trong đời sống con người: giải thích, khuyến cáo, an ủi và gây cảm hứng. Trong lịch sử, tôn giáo đã có khát khao để giải thích sự hiện hữu của chính chúng ta riêng và bản chất của vũ trụ mà trong đó chúng ta tìm thấy mình. Trong vai trò này, hiện nay khoa học đã hoàn toàn thế chỗ, và tôi đã giải quyết nó trong Chương 4. Bằng khuyến cáo, tôi có ý nói đến sự hướng dẫn đạo đức về cách thức chúng ta phải cư xử ra sao, và tôi đã bàn luận trong Chương 6 và 7. Cho đến giờ, tôi vẫn chưa công bằng với vai trò an ủigây cảm hứng, và chương cuối này sẽ ngắn gọn bàn về chúng. Như một dẫn nhập sơ khởi về bản thân sự an ủi, tôi muốn bắt đầu với hiện tượng tâm lý của tuổi thơ ấu về “người bạn tưởng tượng”, mà tôi tin rằng có sự giống nhau mật thiết với tín ngưỡng tôn giáo.



Binker

Tôi giả định (em bé) Christopher Robin đã không tin rằng (chú lợn con) Piglet, và (chú gấu con) Winnie the Pooh thực sự có nói chuyện với cậu ta. Nhưng Binker đã có khác? [3]

Binker – những gì tôi gọi nó – là một bí mật của riêng tôi,
Và Binker là lý do tại sao tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn.
Khi chơi trong vườn ươm cây, khi ngồi trên bậc thang,
Dù tôi đang bận rộn làm gì đi nữa, Binker sẽ có ở đó.
Ồ, Bố thì thông minh, ông là một người thuộc hàng thông minh,
Và Mẹ là bậc nhất kể từ khi bắt đầu có thế giới,
Và Vú em là Vú em, và tôi gọi bà là Vú –
Nhưng họ không thể nhìn thấy Binker.
Binker lúc nào cũng đang huyên thuyên, “bởi tôi đang dạy nó nói chuyện
Nó đôi khi thích làm điều đó theo một kiểu chuột rúc rích thật buồn cười,
Và nó đôi khi thích làm điều đó theo một kiểu rống lớn toàn những âm gầm gừ ép hơi ...
Và tôi phải làm điều đó cho nó “vì cổ họng của nó đúng là phải đau.
Ồ, Bố thì thông minh, ông là một người thuộc hàng thông minh,
Và Mẹ biết tất cả những gì bất kỳ một ai có thể biết, –
Nhưng họ không biết Binker.
Binker dũng cảm như những con sư tử khi chúng tôi đang chạy trong công viên;
Binker dũng cảm như những con hổ khi chúng tôi đang nằm trong bóng tối;
Binker dũng cảm như những con con voi. Nó không bao giờ, không bao giờ khóc ...
Chỉ trừ (như những người khác) khi xà phòng dính vào mắt của nó.
Ồ, Bố là Bố, ông là trong lối của những ông bố,
Và Mẹ là Mẹ cũng như bất cứ ai có thể nếu là được,
Và Vú em là Vú em, và tôi gọi bà là Vú
Nhưng họ không giống như Binker.
Binker không phải là tham lam, nhưng nó quả có thích những thức ăn,
Vì vậy, tôi phải nói với mọi người khi họ cho tôi một cái kẹo,
“Ồ, Binker muốn một cái kẹo sôcôla, vậy ông/bà có thể cho tôi hai cái?”
Và sau đó tôi ăn cái kẹo hộ nó, “vì răng của nó là còn khá non.
Vâng, tôi rất chuộng Bố, nhưng ông không thì giờ để chơi,
Và tôi rất chuộng Mẹ, nhưng Mẹ đôi khi đi xa,
Và tôi thường bực với Nanny khi bà muốn chải tóc tôi. ..
Nhưng Binker thì luôn luôn Binker, và là chắc chắn có sẵn đó.
(A. A. Milne, Bây giờ Chúng ta lên Sáu rồi )

Có phải hiện tượng bạn-tưởng-tượng là một ảo tưởng cao hơn, trong một thể loại khác của sự tin-thật-điều-tưởng-tượng bình thường trong tuổi thơ ấu? Kinh nghiệm riêng của tôi chẳng giúp được gì cho lắm ở đây. Giống như nhiều người làm cha mẹ, mẹ tôi giữ một sổ tay, ghi những câu nói trẻ thơ của tôi. Ngoài những giả vờ đơn giản (Bây giờ, tôi là người trên mặt trăng…. một máy càng chạy càng nhanh hơn .... một người thành Babylon) tôi đã rõ ràng là thích những giả vờ ở bực thứ hai (bây giờ tôi là một con cú đương giả vờ là một bánh xe nước) vốn nó có thể là phản xạ (Bây giờ tôi là một em bé đương bé giả vờ là Richard). Tôi không bao giờ từng một lần tin rằng tôi thực sự là một bất kỳ nào trong những giả vờ đó, và tôi nghĩ rằng điều đó thường thực sự là đúng với những trò chơi tin-thật-điều-tưởng-tượng của thời thơ ấu. Nhưng tôi đã không có một Binker. Nếu lời khai của bản thân người lớn của họ là tin tưởng được, ít nhất là một vài những trẻ em bình thường đó là người có những bạn tưởng tượng thực sự tin rằng chúng hiện hữu, và, trong một vài trường hợp, nhìn thấy chúng như là những ảo giác rõ ràng và sống động. Tôi ngờ rằng hiện tượng (bạn) Binker của tuổi thơ ấu có thể là một mô hình tốt cho sự hiểu biết về tin tưởng tin-có-gót trong những người trưởng thành. Tôi không biết liệu những nhà tâm lý học đã có nghiên cứu nó từ quan điểm này hay chưa, nhưng nó sẽ là một khu vực đáng bõ công nghiên cứu, có giá trị. Người đồng hành và tín cẩn, một Binker cho cuộc đời: đó chắc chắn là một vai trò Gót đóng – một khoảng trống mà nó có thể là còn lại, nếu Gót đã ra đi.

Một em bé khác, một em gái, đã có một “người bé nhỏ màu tím”, là người mà với em, xem dường có mặt thực sự và có thể nhìn thấy được, và là người có thể thể hiện chính mình, lấp lánh trong không gian, với một âm thanh leng keng nhẹ nhàng. Người (bạn) này đến thăm em thường xuyên, đặc biệt là khi em cảm thấy cô đơn, nhưng tần số thăm viếng giảm dần khi em lớn lên. Vào đúng một ngày cụ thể, trước khi em đi nhà trẻ, người bé nhỏ màu tím đã đến với em, báo trước bởi tiếng leng keng phô trương thông thường của mình và thông báo rằng sẽ không đến thăm em nữa. Điều này làm em bé buồn, nhưng người bé nhỏ màu tím nói với em rằng giờ đây em đã lớn hơn, và trong tương lai sẽ không cần anh ta nữa. Bây giờ, anh ta phải rời em, để có thể chăm sóc những trẻ em khác. Anh ta đã hứa với em rằng sẽ trở lại với em, nếu em ấy có bao giờ thực sự cần đến anh ta. Anh đã trở lại với em ấy, nhiều năm sau đó trong một giấc mơ, khi em thành một cô gái đương có một khủng hoảng cá nhân, đương cố gắng để quyết định sẽ làm gì với đời sống của cô. Cánh cửa phòng ngủ của cô đã mở ra và một xe đẩy đầy sách xuất hiện, được đẩy vào phòng ... bởi người bé nhỏ màu tím. Cô bé đã diễn giải điều này như lời khuyên rằng cô nên theo học trường đại học – lời khuyên cô đã nhận và sau đó phán đoán là tốt. Câu chuyện làm tôi gần như chảy nước mắt, và nó mang tôi đến gần mức, như tôi sẽ có thể đến gần, để thấu hiểu vai trò an ủi và cố vấn của những vị gót tưởng tượng trong đời sống của con người ta. Một hữu thể có thể hiện hữu chỉ trong trí tưởng tượng, nhưng vẫn có vẻ như hoàn toàn có thực đối với đứa trẻ, và vẫn đem cho thoải mái thực sự và khuyên bảo tốt đẹp. Có lẽ còn tốt hơn: những bạn bè : tưởng tượng – và những vị gót tưởng tượng – đều có thời gian và kiên nhẫn để dành trọn vẹn tất cả sự chú ý của họ với người chịu đau khổ. Và họ rẻ hơn nhiều so với y sĩ tâm thần hoặc nhân viên tư vấn chuyên nghiệp.

Có phải những vị gót, trong vai trò của họ như là những người an ủi và tư vấn, đã tiến hóa từ những binkers, bởi một loại tâm lý “paedomorphosis”? Paedomorphosis là sự giữ lại những đặc điểm của tuổi thơ vào trong tuổi trưởng thành. Những con chó giống Pékin có khuôn mặt paedomorphic: những con chó lớn trông giống như con chó con. Đây là một mẫu thức nhiều quen biết trong quá trình tiến hóa, được chấp nhận rộng rãi là quan trọng đối với sự phát triển của những đặc điểm con người giống như trán hình bầu tròn, và hàm ngắn của chúng ta. Những nhà tiến hóa đã mô tả chúng ta như loài khỉ vị thành niên, và nó chắc là đúng vì giống chimpanzee và giống gorilla vị thành niên trông giống con người, hơn những con chimpanzee và gorilla đã trưởng thành. Có thể chăng là tôn giáo đã ban đầu tiến hóa bởi sự tạm hoãn dần dần, qua nhiều thế hệ, của thời điểm trong đời sống khi trẻ em buông bỏ những người bạn binkers của chúng – cũng giống như chúng ta đã chậm lại, trong quá trình tiến hóa, sự làm mặt trán của chúng ta thành phẳng và sự làm những hàm của chúng ta nhô ra phía trước?

Tôi cho rằng, cho đầy đủ, chúng ta nên xem xét khả năng đảo ngược. Thay vì những gót tiến hóa từ những binkers tổ tiên, có phải binkers có thể đã tiến hóa từ những gót tổ tiên? Với tôi điều này xem dường kém có khả năng hơn. Đã dẫn tôi tới suy nghĩ về nó trong khi đọc The Origin of Consciousness in the Breakdown of the Bicameral Mind của nhà tâm lý học người Mỹ Julian Jaynes, một quyển thì khác lạ cũng như là tựa đề của nó gợi ý. Đây là một trong những quyển sách thuộc loại một trong hai – hoặc hoàn thành rác rưởi, hoặc là một tác phẩm của thiên tài biểu hiện, không gì nằm giữa! Có lẽ là điều trước, nhưng tôi dè dặt (không nói nhiều) phòng xa nếu có thua đánh cá của tôi. [4]

Jaynes ghi chép rằng nhiều người nhận thức những tiến trình suy nghĩ của riêng mình như là một thứ đối thoại giữa “tự ngã” và một nhân vật chính khác trong đầu. Ngày nay, chúng ta hiểu rằng cả hai “tiếng nói” đều là của riêng chúng ta – hoặc nếu chúng ta không hiểu thế, chúng ta bị xem là mắc bệnh tâm thần. Điều này xảy ra cho Evelyn Waugh trong một thời gian ngắn. Không từng là một người nói năng cho gượng nhẹ, Waugh lưu ý một người bạn: “Tôi đã không gặp bạn trong một thời gian dài, nhưng sau đó tôi đã gặp rất ít người ta, vì sao – bạn có biết vì sao không? – Tôi đã điên”. Sau khi hồi phục, Waugh đã viết một tiểu thuyết, The Ordeal of Gilbert Pinford, trong đó mô tả thời kỳ ảo giác của mình, và những tiếng nói ông đã nghe.

Ý kiến của Jaynes đưa ra là đến khoảng thời điểm nào đó, trước năm 1000 Công nguyên, nói chung người ta đã không nhận thức được rằng giọng nói thứ hai – giọng nói của Gilbert Pinford – đến từ bên trong chính họ. Họ đã nghĩ tiếng nói Pinford là một gót: Apollo, tạm nói thí dụ, hoặc Astarte, hoặc Yahweh, hoặc có lẽ có nhiều phần đúng hơn, một gót nhỏ trong gia đình, cho họ ý kiến cố vấn hay ra lệnh cho họ. Jaynes ngay cả còn định vị trí những tiếng nói của những gót trong bán cầu não đối diện với bán cầu điều khiển sự phát âm tiếng nói. Sự “đổ vỡ của não thức có hai buồng”, với Jaynes, đã là một chuyển tiếp lịch sử. Đây là thời điểm trong lịch sử khi nó thành hiển nhiên để mọi người hiểu ra rằng những tiếng nói bên ngoài mà họ dường như nghe được đã thực sự là từ bên trong. Jaynes thậm chí còn đi xa đến xác định chuyển tiếp lịch sử này như buổi bình minh của ý thức con người.

Có một bia đá cổ Egypt đã ghi về gót sáng tạo Ptah, trong đó mô tả nhiều những vị gót khác loại như những biến thể của của “giọng nói” hoặc “ngôn ngữ” của Ptah. Những dịch thuật hiện đại từ chối, không dịch theo nghĩa đen là “tiếng nói”, và giải thích những vị gót khác như là những “khái niệm không ưa của não thức của [Ptah]”. Jaynes bác bỏ lối đọc theo kiểu học giả như thế, ông thích lối hiểu nghiêm chỉnh bằng nghĩa đen hơn. Những vị gót đã là những tiếng nói do ảo giác gây nên, nói bên trong đầu của người ta. Jaynes thêm nữa đưa lên ý tưởng rằng những vị gót như vậy đã tiến hóa từ những ký ức về những vị vua đã chết, là những người, theo một cách cách nói, vẫn còn giữ quyền kiểm soát những thần dân của họ, qua tiếng nói tưởng tượng trong đầu của những người dân này. Dù bạn thấy luận thuyết của Jaynes là vững vàng thuận lý hay không, quyển sách của ông thì cuốn hút suy nghĩ, đủ để nó đáng được nhắc tới trong một quyển sách bàn về tôn giáo. [5]

Bây giờ, đi đến khả năng có thể có mà tôi nâng lên qua vay mượn (lý thuyết) của Jaynes để xây dựng một lý thuyết rằng những vị gót và những bạn tưởng tượng thời thơ dại – như binkers – là có liên quan trong phát triển tiến hóa, nhưng theo đường đảo nghịch, xoay ngược lại, theo như lý thuyết paedomorphosis. Nó phát triển đến gợi ý rằng sự phân hủy của não thức có hai-ngăn đã không xảy ra một cách đột nhiên trong lịch sử, nhưng đã là một sự đi lùi dần dần, quay về thời thơ ấu kéo lại thời điểm khi những tiếng nói ảo tưởng và những hình ảnh ma quái hiện ra đã được khám phá ra là không có thực.Trong một loại đảo chiều của giả thuyết paedomorphosis, những những vị gót có từ ảo tưởng trước hết đã biến mất khỏi não thức người lớn, nhưng sau đó được kéo trở lại về trước đó và trước đó nữa, về tận thời thơ ấu, cho đến ngày nay họ chỉ sống sót duy nhất trong những Binker hoặc hiện tượng con người nhỏ bé màu tím. Khó khăn của phiên bản này của lý thuyết là nó không giải thích sự hiện hữu dai dẳng của những vị gót trong (những người ở) tuổi trưởng thành ngày nay.

Có thể là tốt hơn đừng xem những vị gót như tổ tiên của những binkers, hoặc ngược lại, nhưng thay vào đó, đúng hơn nên xem cả hai (những gót và binkers) như những sản phẩm phụ của cùng một khuynh hướng tâm lý. Những vị gót và binkers đều có điểm chung là có sức mạnh để an ủi, và cung cấp một thước đo phản ánh sống động khi cố gắng thử nghiệm những ý tưởng. Chúng ta đã không đi cho xa lắm với lý thuyết tâm lý về sự tiến hóa của tôn giáo, như một sản phẩm phụ, của Chương 5.


An ủi

Đã đến lúc đối diện với vai trò quan trọng mà Gót đóng khi an ủi chúng ta, và trước thách đố từ lòng nhân ái, nếu (sau khi nhận thực) ông ta không hiện hữu, để đặt một gì đó thay vào vị trí của ông. Có nhiều người thừa nhận rằng Gót có lẽ không hiện hữu, và rằng ông không cần thiết cho đạo đức, nhưng vẫn quay lại với những gì họ thường xem như là một lá bài thắng mọi ván: nhu cầu vẫn đã được gán buộc về tâm lý hoặc tình cảm với gót. Nếu bạn lấy tôn giáo đi, người ta nhanh nhảu hỏi, bạn sẽ lấy gì để đặt vào vị trí của nó? Bạn có gì để đem cho những người bệnh hấp hối, những tang quyến khóc lóc, những Rigbys Eleanor [6] cô đơn, với họ Gót là người bạn độc nhất của họ?

Điều đầu tiên, phải nói để đáp ứng với việc này, là một gì đó nên đáng lẽ không cần phải nói. Sức mạnh của tôn giáo để an ủi không làm cho nó thành đúng thực. Ngay cả nếu chúng ta làm một nhượng bộ thật lớn, thậm chí nếu cứ nhận như một điều đã được kết luận chứng tỏ xong xuôi rằng tin tưởng vào sự hiện hữu của Gót thì hoàn toàn cần thiết cho sự an lành của tâm lý và tình cảm con người, thậm chí nếu cứ nhận như tất cả những ai là người không-tin-có-gót đều đã thành những người cuồng dại tuyệt vọng, đều bị cảm giác lo lắng mênh mông như vũ trụ, không ngưng nghỉ, đẩy tới tự tử – không một điều nào trong số này sẽ đóng góp một giọt cỏn con, hoặc làm chủ được bằng chứng nhỏ nhất, vào sự cho thấy rằng tin tưởng tôn giáo là đúng thật. Nó có thể là bằng chứng cho khuynh hướng mong muốn thuyết phục bản thân chính bạn, rằng Gót thì hiện hữu, ngay cả nếu như ông ta thì không. Như tôi đã đề cập, Dennett, trong Breaking the Spell, ông làm rõ sự phân biệt giữa tin tưởng vào Gót và tin tưởng vào tin tưởng: tin tưởng rằng đó là đáng mong ước để tin tưởng, ngay cả nếu bản thân sự tin tưởng là sai: “Gót, tôi tin tưởng, giúp thắng lòng vô tín của tôi” (Mark 9: 24). Những tín đồ được khuyến khích để thổ lộ, tự thú tin tưởng, cho dù không biết nó có thuyết phục được họ hay không. Có lẽ nếu bạn cứ lập đi lập lại một điều gì đó, thường xuyên thật nhiều lần đến đủ, bạn sẽ thành công trong việc thuyết phục chính bạn về chân lý của nó. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều biết những người là người thích thú với ý tưởng về lòng tin tôn giáo, và oán giận những tấn công vào nó, trong khi miễn cưỡng thú nhận rằng họ cũng không có nó trong bản thân họ.

Kể từ khi đọc sự phân biệt của Dennett, tôi đã tìm thấy cơ hội để dùng nó thường xuyên nhiều lần. Đó khó là một phóng đại khi nói rằng đa số những người không-tin-có-gót tôi biết, đã ngụy trang lập trường không-tin-có-gót của họ sau một mặt tiền có vẻ tín mộ tôn giáo. Bản thân họ không tin vào bất cứ điều gì siêu nhiên, nhưng vẫn giữ lại một tình cảm mơ hồ yếu đuối, cho tin tưởng phi lý. Họ tin vào tin tưởng. Thật kỳ lạ rằng có biết bao nhiêu người dường như không thể nói lên sự khác biệt giữa – “X thì đúng sự thật”- và “điều đáng mong ước là mọi người nên tin rằng X thì đúng sự thật” – Hoặc có lẽ họ không thực sự phạm vào sai lầm lôgích này, nhưng đơn giản chỉ đánh giá sự thật như không quan trọng khi so sánh với tình cảm con người. Tôi không muốn chê bai tình cảm của con người. Nhưng chúng ta hãy làm cho rõ ràng, trong bất kỳ một đàm thoại cụ thể nào, những gì là điều chúng ta đang nói đến: tình cảm, hay sự thật. Cả hai có thể là quan trọng, nhưng chúng không là cùng một điều.

Trong trường hợp nào đi nữa, sự nhượng bộ giá giả thuyết của tôi đã là quá mức và sai lầm. Tôi biết không có bằng chứng nào rằng nhũng người không-tin-có-gót lại có một bất kỳ khuynh hướng tổng quát nào về sự tuyệt vọng bất hạnh, bị-phong tỏa trong bất an. Có những người không-tin-có-gót sống hạnh phúc, có những người khác thì khốn khổ. Tương tự như, có những người theo đạo Kitô, Dothái, Islam, đạo Hindu, và đạo Phật đang khổ sở, trong khi những người khác (cùng đạo với họ) – đang hạnh phúc. Có thể có thống kê mang bằng chứng về sự quan hệ giữa hạnh phúc và tin tưởng tôn giáo (hoặc thiếu lòng tin), nhưng tôi hoài nghi nếu như nó có là một tác động mạnh mẽ, dù cách này hay cách khác [7]. Tôi thấy điều thích thú đáng chú ý hơn để đặt câu hỏi – không biết có bất kỳ lý do chính đáng nào hay không để cảm thấy bất hạnh, chán nản nếu chúng ta sống mà không có Gót. Tôi sẽ kết thúc quyển sách này bằng cách lập luận trái lại, rằng nó vẫn là một phát biểu còn hạn chế, chưa xứng mức đủ tầm – rằng một người có thể sống một đời sống hạnh phúc và đầy đủ toàn vẹn mà không có tôn giáo siêu nhiên. Dẫu vậy, trước hết tôi phải xem xét những tuyên xưng rằng tôn giáo đem cho sự an ủi.

Sự an ủi, theo Shorter Oxford Dictionary, là sự giảm nhẹ buồn rầu hay đau khổ tinh thần. Tôi sẽ chia an ủi thành hai loại.

1. An ủi trực tiếp với tiếp xúc cơ thể. Một người bị mắc kẹt, phải trải qua đêm giữa một vùng núi trơ trọi, có thể tìm thấy sự an ủi thoải mái trong một con chó lớn ấm áp, giống St Bernard, dĩ nhiên, không quên thùng rượu brandy đeo dưới cổ của nó. [8] Một em bé đang khóc có thể được an ủi khi có những cánh tay vững mạnh ôm choàng lấy, và những lời khuyên nhủ yên tâm thì thầm rót vào tai.

2. An ủi bằng khám phá một thực tế trước đây chưa được cảm nhận, hoặc một cách nhìn, vốn trước đây chưa được khám phá, về những thực tế hiện có. Một người phụ nữ có chồng vừa bị chết trong chiến tranh, có thể được được an ủi bằng việc khám phá rằng bà đã có thai với ông, hoặc ông đã chết như một người anh hùng. Chúng ta cũng có thể nhận được an ủi khi khám phá được một cách suy nghĩ mới về một tình trạng. Một triết gia chỉ ra rằng không có gì đặc biệt về thời điểm khi một người chết già. Đứa trẻ mà ông một thời từng là, đã “chết” từ lâu trước đó, không phải bởi sự ngừng sống đột nhiên, nhưng bới sự tăng dần tuổi già. Mỗi một trong bảy thời kỳ của con người của Shakespeare đều “chết” bằng cách chậm chạp biến dạng vào thời kỳ tiếp theo [9]. Từ quan điểm này, thời điểm cuối cùng khi một người già mãn phần, thì không có gì khác với những cái “chết” chậm chạp (đã diễn ra) dọc trong suốt đời người ấy [10]. Một người không thích thú viễn ảnh cái chết của mình có thể tìm thấy an ủi qua quan điểm thay đổi này. Hoặc có thể không, nhưng nó là một thí dụ về sự an ủi qua suy tưởng ngẫm nghĩ. Gạt đi nỗi sợ chết của Mark Twain là một thí dụ khác: “Tôi không sợ cái chết. Tôi đã từng chết hàng tỷ và tỷ năm trước khi tôi được sinh ra, và tôi đã không phải chịu một bất tiện dù nhỏ nhoi nhất nào từ điều đó”. Nhận thức (như thế) không thay đổi gì về thực tại cái chết, vốn chúng ta không thể tránh khỏi. Nhưng đem cho chúng ta một cách nhìn khác nữa, trước sự không thể tránh khỏi đó, và chúng ta có thể tìm thấy điều đó thì an ủi. Thomas Jefferson, cũng thế, ông không sợ hãi cái chết và xem dường như ông đã không tin vào một thứ thế giới nào ở bên kia. Theo dẫn kể của Christopher Hitchens, “Khi ông bắt đầu suy yếu, hơn một lần, Jefferson đã viết cho bạn bè rằng ông đã đối mặt với sự kết thúc đang đến dần, không hy vọng và chẳng sợ hãi. Điều này đã nói lên được nhiều như có thể nói được, trong những thuật ngữ không thể nhầm lẫn nhất, rằng Jefferson không phải là một người Kitô”.

Những trí thức có thực lực có thể sẵn sàng với nội dung mạnh mẽ trong tuyên bố của Bertrand Russell, trong bài luận văn “Những gì Tôi tin tưởng”, ông viết năm 1925:

Tôi tin rằng khi tôi chết, tôi sẽ thối vữa, và không có gì của tự ngã tôi sẽ sống sót. Tôi không còn trẻ, và tôi yêu đời. Nhưng tôi nên khinh miệt sự rùng mình khiếp hãi trước ý tưởng về sự hủy diệt. Hạnh phúc thì không hề giảm bớt là hạnh phúc thực sự vì nó phải đi đến một kết thúc, cũng chẳng phải tư tưởng và yêu thương mất đi giá trị của chúng vì chúng không là vĩnh cửu. Nhiều lần, một người đã tự hào gánh chịu chính thân xác mình trên giàn hỏa của tòa án dị giáo; chắc chắn cùng một sự tự hào nên dạy chúng ta suy nghĩ chân thực về vị trí của con người trong thế giới. Ngay cả nếu những cửa sổ của khoa học mở ra lần đầu tiên có làm chúng ta rùng mình, sau sự ấm áp thân thuộc bên trong những huyền thoại truyền thống đã được nhân hóa; đến cuối cùng, không khí tươi mới mang lại sức sống, và những không gian bao la có một huy hoàng riêng của chúng. [11]

Bài viết này của Russell, đã gây hứng khởi cho tôi, khi đọc nó trong thư viện trường tôi đương theo học, khoảng tuổi mười sáu, nhưng tôi đã quên bẵng nó. Đó có thể là từ vô thức, tôi đã tỏ lòng tôn kính với nó, khi tôi đã viết, trong A Devil’s Chaplain, năm 2003,

Có nhiều hơn là chỉ sự lớn lao trong quan điểm này của đời sống, dù nhìn từ dưới tấm chăn an toàn của sự thiếu hiểu biết, nó có thể xem dường ảm đạm và lạnh lẽo. Có sự khoẻ khoắn, tươi tỉnh và khoan khoái sâu xa phải có từ đứng cao lên và đối mặt thẳng vào trong cơn gió sôi nổi mạnh mẽ của sự hiểu biết: “Gió thổi qua những lối đầy sao” của Yeats. [12]

Tôn giáo so sánh như thế nào, hãy nói, với khoa học trong việc cung cấp hai loại này của an ủi? Trước tiên, nhìn vào an ủi thuộc loại 1, đó là hoàn toàn có thể chấp nhận rằng những cánh tay đầy sức mạnh của Gót, ngay cả khi chúng thuần túy là tưởng tượng, có thể an ủi trong cùng một cách thuộc loại đúng như những cánh tay có thực của một người bạn, hay một con chó St Bernard với một thùng rượu mang quanh cổ nó. Nhưng dĩ nhiên khoa học y học cũng có thể cung cấp an ủi, đem lại thoải mái, giảm bớt lo âu đau khổ – thường là hiệu quả hơn rượu.

Bây giờ chuyến sang an ủi thuộc loại 2, là điều rất dễ dàng để tin rằng tôn giáo có thể sẽ rất hiệu quả. Những người bị vướng trong một thiên tai khủng khiếp, như một động đất, thường kể lại rằng họ lấy được an ủi từ sự suy ngẫm rằng đó tất cả là một phần kế hoạch của Gót, tuy không cách nào hiểu nổi: nhưng chắc chắn rồi tốt lành sau cùng sẽ đến từ nó, một khi gắng chờ cho đến trọn đủ thời gian. Nếu một ai đó có sợ chết, sự tin tưởng chân thành rằng mình có một linh hồn bất tử, là có thể được an ủi – trừ khi, dĩ nhiên, người ấy nghĩ rằng mình sẽ vào hỏa ngục, hoặc phải đến chốn chuộc tội, lò luyện ngục. Những tin tưởng sai lầm có thể an ủi, cũng giống hệt, chẳng khác chút nào với những tin tưởng đúng thực, cho đến tận thời điểm bị vỡ mộng. Điều này cũng áp dụng cho những tin tưởng không-tôn giáo nữa. Một người bị một chứng ung thư sắp chết có thể được một y sĩ an ủi qua cách nói dối rằng ông ta sẽ được khỏi bệnh, hiệu quả cũng giống như một người bệnh ung thư khác được nói thực rằng ông sẽ được chữa khỏi. Chân thành và tin tưởng hết mình vào đời sống sau cái chết lại còn được miễn nhiễm với sự vỡ mộng nhiều hơn là tin tưởng vào một y sĩ nói dối. Nói dối của người y sĩ chỉ có hiệu lực cho đến khi những triệu chứng của tử bệnh trở thành không thể nhầm lẫn. Nhưng một người tin tưởng vào một đời sống khác sau cái chết, cuối cùng sẽ không bao giờ có thể bị vỡ mộng.

Những thăm dò ý kiến cho thấy khoảng 95 phần trăm dân số nước Mỹ tin rằng họ sẽ tồn tại sau cái chết của chính họ. Tôi không thể nào không tự hỏi, những người tuyên bố như thế, có bao nhiêu người đã thực sự trong đáy tim gan họ, tin giữ nó vững chặt. Nếu họ đều thực sự chân thành, đã không phải là tất cả họ đều nên hành xử như nhà chăn chiên trưởng của tu viện Ampleforth? Khi thày chăn chiên áo đỏ Basil Hume nói với người trưởng tu viện rằng mình sắp chết, người trưởng tu viện này đã rất vui mừng cho ông ta: “Xin chúc mừng! Đó là tin tuyệt diệu. Tôi ước gì tôi có thể đi theo với ông” [13]. Người trưởng tu viện, có vẻ thực sự như là một người sùng mộ, có tin tưởng tôn giáo chân thực. Nhưng đó chính xác vì sự việc như vậy là rất hiếm hoi và rất đáng ngạc nhiên, nên câu chuyện về ông này mới chiếm được chú ý của chúng ta, gần như kích động sự thích thú của chúng ta – trong cùng một kiểu thức khi nhớ lại tranh hí họa vẽ một thiếu nữ trẻ, hoàn toàn trần truồng, dương khẩu hiệu “Làm tình chứ không chiến tranh”, và có một người đứng cạnh cô, la lên, “Bây giờ, đó mới là những gì tôi gọi là chân thực!”. Tại sao tất cả những người Kitô và Muslim đều không nói một điều gì đó giống như người chăn chiên trưởng tu viện, khi họ nghe biết một người bạn của họ sắp chết? Khi một phụ nữ Kitô sùng đạo đã được y sĩ bảo thực rằng cô chỉ còn sống vài tháng nữa, tại sao cô không cười sáng rực rỡ với dự đoán vui mừng, như thể cô vừa trúng số độc đắc được một kỳ nghỉ hè miễn phí ở vùng đảo Seychelles? “Tôi không thể chờ được nữa!” Tại sao những khách đến thăm, vốn cũng đầy tin tưởng tôn giáo (về đời sống bên kia cái chết), không trút xuống giường bệnh của cô những thông điệp nhờ nhắn gửi đến những người đã chết từ trước? “Nhớ gửi tình yêu của tôi tới bác Robert, khi cô thấy ông ta,…”

Tại sao những người sùng đạo (Kitô/Islam) không nói giống như thế trước sự hiện diện của người sắp chết? Có thể chăng rằng họ (đã không làm thế, vì họ) không thực sự tin vào tất cả những thứ đó vốn họ chỉ giả vờ có tin tưởng? Hoặc có lẽ họ có thực tin vào nó, nhưng sợ hãi tiến trình của sự chết. Với lý do chính đáng, nhìn nhận rằng loài người chúng ta là chủng loại duy nhất không được phép đi đến thú y sĩ để nhờ chấm dứt những khổ não của chúng ta mà không phải qua đau đớn thân xác. Nhưng trong trường hợp đó, tại sao phe đối lập mạnh mẽ ồn ào nhất với sự an tử và trợ tử [14] đều đến từ những người mộ đạo, có tôn giáo? Trong mô thức của cái chết như “thày tu viện trưởng Ampleforth” hoặc “nghỉ hè miễn phí ở vùng đảo Seychelles” không phải hay sao rằng bạn sẽ trông đợi rằng những người mộ đạo sẽ là những người ít có khả năng nhất để còn muốn bám víu ngán ngẩm với đời sống trần gian? Tuy nhiên, nó là một thực tại nổi bật rằng, nếu bạn gặp một ai đó là người nồng nhiệt chống đối sự giết người vì thương xót, hoặc gay gắt chống lại sự trợ tử (để chấm dứt những đau đớn vô vọng), bạn có thể đánh cá một số tiền lớn, không sợ thua, rằng sẽ quay ra họ là những người sùng đạo, đầy tin tưởng tôn giáo (vào thế giới bên kia). Lý do chính thức có thể có được rằng tất cả sự giết người là một “tội lỗi”. Nhưng tại sao lại đặc biệt cho nó là một tội lỗi? nếu bạn chân thực tin rằng bạn đang thúc đẩy cho nhanh lên một hành trình đến thiên đường?

Ngược lại, thái độ của tôi với sự trợ giúp tự tử, lấy từ quan sát đã trích dẫn của Mark Twain. Bị chết đi sẽ không có khác biệt nào với chưa sinh ra đời [15] – Tôi sẽ giống như tôi đã là ở thời đại của William the Conqueror, hoặc của loài dinosaurs, hoặc của loài trilobites. Không có gì để sợ hãi trong điều đó. Nhưng tiến trình chết cũng rất có thể, tùy vào may mắn của chúng ta, là đau đớn và khó chịu – loại kinh nghiệm mà chúng ta đã trở nên quen thuộc qua việc được bảo vệ bằng một sự gây mê tổng quát, như trường hợp bạn phải mổ bỏ “ruột thừa”. Nếu con thú cưng yêu quí của bạn đương chết trong đau đớn, bạn sẽ bị lên án là tàn ác nếu như bạn không mời thú y sĩ để cho nó một liều thuốc mê tổng quát, giúp nó thiếp đi và không bao giờ hồi tỉnh nữa. Nhưng nếu y sĩ của bạn thực hiện chính xác cùng một dịch vụ nhân đạo cho bạn khi bạn đang hấp hối trong đau đớn, ông có nguy cơ bị truy tố về tội giết người. Khi tôi hấp hối, tôi sẽ thích sự sống của tôi sẽ được lấy đi dưới một liều thuốc gây mê tổng quát, đúng y như thể nó là một cuống ruột thừa nhiễm độc. Nhưng tôi sẽ không được phép có đặc quyền đó, vì tôi thiếu may mắn, đã được sinh ra là một thành viên của Homo sapiens, thay vì may mắn hơn, thí dụ, là thành viên của loài (chó) Canis Familiaris hoặc loài (mèo) Felis catus. Ít nhất, đó sẽ là trường hợp xảy ra, trừ khi tôi di cư sang sống trong những nước khai sáng, thôi không còn mê tín, như Switzerland, Netherlands, hoặc tiểu bang Oregon. Tại sao những xứ sở khai sáng như vậy vẫn quá hiếm hoi? Chủ yếu là vì những ảnh hưởng của tôn giáo.

Nhưng, có thể được nói rằng, có phải là không có một khác biệt quan trọng nào giữa sự có ruột thừa của bạn đem lấy đi, và có sự sống của bạn đem lấy đi? Quả thực là không; không, nếu bạn sắp sửa chết, dẫu gì đi nữa. Và cũng không, nếu bạn có một tin tưởng tôn giáo chân thành rằng có đời sống sau cái chết. Nếu bạn có tin tưởng đó, chết chỉ là một sự chuyển tiếp từ một đời này sang một đời khác. Nếu sự chuyển đổi là đau đớn, bạn sẽ không muốn trải qua nó mà không có gây mê, nhiều hơn là bạn sẽ muốn ruột thừa của mình được cắt mổ đi mà không có gây mê. Đó là những ai trong số chúng ta là người nhìn cái chết như chấm dứt, thay vì như chuyển tiếp, nếu ai là ngây thơ sẽ được mong đợi để chống sự an tử hoặc sự trợ tử. Thế nhưng, chúng ta lại là những người ủng hộ nó. [16]

Trong cùng một dòng suy nghĩ, chúng ta có thể kết luận được gì từ quan sát của một y tá đã nhiều tuổi, là người quen của tôi, với một đời kinh nghiệm điều hành một nhà dưỡng lão cho người già, nơi cái chết xảy ra thường xuyên? Qua những năm tháng, bà đã nhận thấy rằng những cá nhân là người sợ hãi cái chết nhất là những người mộ đạo, có tôn giáo. Quan sát của bà sẽ cần phải được chứng minh với những con số thống kê, nhưng giả sử bà là đúng, những gì đang xảy ra ở đây? Dù nó là bất kỳ điều gì, trên mặt của nó, nó không nói gì mạnh mẽ về sức mạnh của tôn giáo để an ủi người sắp chết . [17] Trong trường hợp của những người Catô, có lẽ họ sợ chốn luyện ngục? Nhà chăn chiên áo đỏ thánh thiện Hume nói vĩnh biệt với một người bạn bằng những lời này: “Vâng, giờ đây tạm biệt nhé. Sẽ gặp bạn trong chốn luyện ngục, tôi giả sử thế”. Điều gì “giả sử” là có ở đó một nháy mắt hoài nghi trong kiểu của những cặp mắt già lão đó.

Giáo lý về sự luyện tội hay luyện ngục cung cấp một sự “vén lên cho thấy chân lý” [18] lố bịch trong cách làm việc của não thức gót học. Luyện ngục là một thứ đảo Ellis Island thần linh [19], một phòng đợi trong cõi âm của Hade, nơi linh hồn người chết đi đến, nếu những tội lỗi của họ không phải là quá tệ, không đủ để gửi họ đến hỏa ngục, nhưng họ vẫn cần một chút kiểm soát xem hiệu quả khắc phục của họ ra sao, và làm sạch họ, trước khi họ có thể được chấp nhận vào vùng trời vô nhiễm, hay không-tội lỗi của thiên đàng...[20] Trong suốt thời trung cổ, hội Nhà thờ thường bán những “ân xá” [21] để lấy tiền. Điều này đã thành ra tương đương với trả tiền để mua lấy một số ngày được miễn giảm khỏi ngục luyện tội, và hội Nhà thờ, theo nghĩa đen (và với sự giả định hết sức ngoạn mục, làm người ta khiếp vía) thực sự đã cấp những giấy chứng nhận có chữ ký, xác định cụ thể số ngày miễn giảm đã mua, và đã được trả tiền. Hội nhà thờ Catô Lamã là một tổ chức mà những thu nhập vào túi tiền của nó, khiến cho cụm từ “bất chính” [22] có thể đã được phát minh đặc biệt dành cho nó. Và trong tất cả những vụ làm tiền, trắng tợn gian lận, lấy trộm, bán với giá quá đắt,… việc bán những ân xá phải chắc chắn xếp hạng trong số những thủ đoạn lừa đảo lớn nhất trong lịch sử, lừa đảo thời trung cổ tương đương với lừa đảo Internet của Nigeria thời nay [23], nhưng hết sức thành công hơn nhiều.

Mãi cho đến gần đây, tận năm 1903, Vua chiên Pius X vẫn có thể lập bảng tính toán những số ngày miễn giảm khỏi ngục luyện tội mà mỗi hạng chức vị giáo phẩm trong hệ thống đẳng cấp (của hội nhà thờ Vatican) được quyền ban cho tín đồ: Chức vị cao thuộc hàng chăn chiên mặc áo đỏ được phép ban: hai trăm ngày, đến chức vị tổng chăn chiên cấp tỉnh: một trăm ngày, còn những vị chăn chiên cấp tỉnh: chỉ năm mươi ngày. Tuy nhiên, sang đến thời vua chiên này, những ân xá không còn được bán trực tiếp bằng tiền. Ngay cả trong thời Trung cổ, tiền bạc không phải là tiền tệ duy nhất mà bạn có thể mua sự miễn giảm khỏi ngục luyện tội. Bạn cũng có thể trả bằng những cầu nguyện nữa, hoặc là của riêng chính bạn, trước khi bạn chết, hoặc những lời cầu nguyện của những người khác cho bạn, nhân danh bạn, sau cái chết của bạn. Và tiền có thể mua những lời cầu nguyện. Nếu bạn là người giàu có, bạn có thể xếp đặt đâu vào đó cho linh hồn của bạn trong cõi vĩnh hằng. Trường New College của tôi, thuộc đại học Oxford, (khi ấy, nó còn là “mới”) đã được William của Wykeham, một trong những nhà hảo tâm lớn của thế kỷ, một thày chăn chiên cao cấp, trông coi hội nhà thờ thành phố Winchester. thành lập năm 1379. Một nhà chăn chiên cấp tỉnh Trung cổ có thể trở thành một thứ Bill Gates của thời đại, kiểm soát sự tương đương với một đường thông tin cao tốc (tới Gót), và tích lũy của cải khổng lồ. Đặc biệt giáo phận của ông rất rộng, và Wykeham dùng tài sản và ảnh hưởng của mình để lập hai cơ sở giáo dục lớn, một ở Winchester và một ở Oxford. Giáo dục là quan trọng với Wykeham, nhưng trong lời kể của lịch sử chính thức của trường New College, xuất bản năm 1979, đánh dấu lần thứ sáu trăm năm, mục đích cơ bản của nhà trường đã là “như một Nơi-Hát-Lễ lớn để cầu nguyện hộ cho sự an nghỉ linh hồn của ông. Ông đã chu toàn mười thày chăn chiên chuyên biệt, ba thư ký và mười sáu người hát hợp xướng thánh lễ cho dịch vụ của nhà nguyện, và ông ra lệnh giữ lại một mình họ mà thôi nếu như ngân sách thu nhập của trường đại học có gặp phải lỗ lã, thất bại”. Wykeham để New College lại trong tay của (hội đồng nghiên cứu sinh) Fellowship, một cơ chế tự bầu và tự quản trị, đã liên tục hiện hữu như một sinh vật duy nhất trong hơn sáu trăm năm. Giả định là ông đã tin cậy chúng tôi sẽ tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn ông qua nhiều thế kỷ.

Ngày nay New College chỉ còn có một vị chăn chiên chuyên biệt cho nhà trường [24], không có thư ký, và giòng chảy đều đặn, thế kỷ này sang thế kỷ sau, những lời cầu nguyện cho Wykeham trong lò luyện ngục, đã giảm xuống còn một dòng nước nhỏ của hai lời cầu nguyện mỗi năm. Chỉ còn một mình những người hát hợp xướng phát triển thành công, và âm nhạc của họ, thực sự là huyền diệu. Ngay cả tôi cũng cảm thấy một sự bứt rứt phạm tội, như một thành viên của hiệp hội Fellowship đó, vì một tin cậy đã bị phản bội. Với hiểu biết có trong thời đại của mình, Wykeham đã làm tương đương với một người giàu có ngày nay, người này đã trả trước một mớn tiền lớn cho một công ty siêu hàn, đảm bảo việc đông lạnh cơ thể bạn và giữ nó cách biệt, tránh khỏi những động đất, những rối loạn chính trị, chiến tranh atom, và mọi hiểm họa khác, đến một thời gian nào đó trong tương lai, khi y học biết được cách làm nó tan băng, hồi sinh và chữa trị bất cứ bệnh tật nào đã làm nó chết. Có phải chúng tôi, những nghiên cứu sinh sau này của New College, đã thất hứa một hợp đồng với người sáng lập của chúng tôi? Nếu vậy, chúng tôi trong khối đa số. Hàng trăm những nhà hảo tâm trung cổ đã chết với tin tưởng rằng những người thừa kế của họ, được trả tiền hậu hĩnh để làm như vậy, sẽ cầu nguyện cho họ trong ngục luyện tội. Tôi không thể không tự hỏi phần tỷ lệ lớn đến đâu gồm những bảo vật của nghệ thuật và kiến trúc thời Trung cổ châu Âu đã bắt đầu như những khoản tiền đặt trước, thanh toán cho sự vĩnh cửu, trong những quĩ tài sản ủy thác bây giờ bị phản bội.

Nhưng những gì về giáo lý của sự luyện tội đã thực sự khiến tôi mê hoặc là bằng chứng mà những nhà gót học đã đưa ra cho nó: bằng chứng quá yếu đuối đến ngoạn mục, khiến nó mang cho điều nó khẳng định sự buồn cười hài ước ngay cả còn hơn sự tin tưởng mong manh. Đề mục về luyện tội trong Từ điển Bách khoa Catô có một phần gọi là “chứng minh”. Bằng chứng cơ bản về sự hiện hữu của ngục luyện tôi là thế này. Nếu người chết chỉ đơn giản là lên thiên đường hay xuống hỏa ngục trên cơ sở của những tội lỗi của họ trong khi sống trên mặt đất, sẽ không có lý do nào trong sự cầu nguyện cho họ. “Vì tại sao lại cầu nguyện cho người chết, nếu không tin tưởng vào sức mạnh của cầu nguyện rằng nó có khả năng an ủi những ai là người vẫn chưa bị loại trừ khỏi tầm nhìn của Gót”. Và chúng ta thực có cầu nguyện cho người chết, phải không? Vì vậy ngục luyện tội phải hiện hữu, nếu không thì những cầu nguyện của chúng ta sẽ vô nghĩa! Nó thế là đã được chứng minh! [25] Điều nghiêm trang, không đùa này là một thí dụ về những gì xảy ra cho sự lý luận trong đầu óc những nhà gót học.

Lý luận đuôi đi đằng đuôi đầu đi đằng đầu, non sequitur, đáng chú ý đó – đã được phản chiếu, trên một quy mô lớn hơn, trong khai triển phổ thông khác của Luận chứng trên sự An ủi. Phải có một Gót, luận chứng này phát biểu thế, vì nếu không có, đời sống sẽ trống rỗng, vô ích, vô dụng, là một sa mạc của vô nghĩa và nhỏ nhặt chẳng gì còn đáng kể nữa. Làm sao nó có thể là cần thiết để chỉ ra rằng lôgích hỏng ngay từ rào chống đầu tiên? Có lẽ đời sống thì trống rỗng. Có lẽ những cầu nguyện của chúng ta cho người chết thực sự vô ích. Để giả định ngược lại là để giả định chân lý của mọi kết luận chúng ta tìm cách chứng minh. Tam đoạn luận bị gán buộc là rõ ràng chạy quanh, đưa lại đầu vào đuôi. Đời sống mà không có vợ của bạn rất có thể là không thể chịu đựng nổi, cằn cỗi và trống rỗng, nhưng bất hạnh này không làm vợ bạn ngừng lại, không chết. Có gì đó trẻ con trong giả định rằng một người nào khác (trong trường hợp những trẻ em là cha mẹ, trong trường hợp những người lớn là Gót) có trách nhiệm cung cấp ý nghĩa và cứu cánh cho đời sống của bạn. Đó là tất cả của một mẩu nhỏ nhoi có sự ấu trĩ trẻ con của những ai, là người ở ngay thời điểm họ mới hụt một bước vừa bị bong gân xương gót chân mình, liền nhìn quanh tìm ngay một người nào đó để kiện. Một người nào khác phải chịu trách nhiệm cho hạnh phúc của tôi, và một người nào khác phải bị đổ lỗi nếu tôi bị tổn thương. Có phải đó là một sự ấu trĩ trẻ con tương tự mà thực sự nằm sau sự “cần thiết” có một Gót? Có phải chúng ta trở về lại Binker một lần nữa?

Ngược lại, quan điểm thực sự là người lớn trưởng thành, là rằng đời sống của chúng ta cũng có ý nghĩa, cũng đầy đủ và cũng tuyệt vời như chúng ta chọn để làm nó thành như thế. Và chúng ta có thể làm nó rất tuyệt vời thực sự. Nếu khoa học đem cho sự an ủi thuộc một loại phi vật thể, nó hoà nhập vào chủ đề cuối cùng của tôi, sự hứng khởi.


Gây hứng khởi

Đây là một vấn đề thuộc thẩm vị riêng tư hay phán đoán cá nhân, vốn nó có một một tác dụng hơi thiếu may mắn, đó là phương pháp biện luận mà tôi phải dùng thì thực ra có nhiều tu từ hùng biện hơn là lôgích. Tôi đã làm điều này trước đây, và cũng thế, đã có nhiều những người khác, chỉ nhắc tên những thí dụ gần đây, bao gồm Carl Sagan trong Pale Blue Dot, E. 0. Wilson trong Biophilia, Michael Shermer trong the Soul of Science và Paul Kurtz trong Affirmations. Trong Unweaving the Rainbow tôi đã cố gắng truyền đạt rằng chúng ta được sinh ra, có đời sống, là may mắn đến thế nào, thừa nhận rằng đại đa số mênh mông những người là người có tiềm năng, hay vị thế để được dựng lập nhanh chóng (như được) trúng xổ số của sự kết hợp của DNA, trong thực tại không bao giờ được ra đời. Đối với những người chúng ta có đủ may mắn được ở đây, tôi hình dung sự ngắn ngủi tương đối của đời sống bằng tưởng tượng một điểm laser-sáng-mỏng đi chậm chạp dài theo một cái thước khổng lồ của thời gian. Tất cả mọi thứ trước hoặc sau điểm sáng đều bị che phủ bởi bóng tối của quá khứ đã qua, hay bóng tối của tương lai không rõ. Chúng ta may mắn choáng váng kinh ngạc để tìm thấy chính chúng trong vệt sáng. Cho dù ngắn ngủi đến bao nhiêu khoảng thời gian của chúng ta dưới ánh mặt trời, nếu chúng ta lãng phí một giây của nó, hoặc phàn nàn rằng nó thì tẻ ngắt, hay trống vắng cằn cỗi, hoặc nhàm chán (giống như một đứa trẻ), không phải điều này có thể được xem như là một sự nhẫn tâm xúc phạm với những tỷ tỷ (người) không ra đời, những người thậm chí, trước hết tất cả, sẽ không bao giờ có được sự sống? Như nhiều những người không-tin-có-gót trước đây đã từng nói hay hơn tôi, sự hiểu biết rằng chúng ta chỉ có một đời để sống nên tất cả làm cho nó càng thêm quý giá hơn. Quan điểm của người không-tin-có-gót là tương ứng với sự khẳng định đời sống, và nâng cao đời sống, trong khi đồng thời không bao giờ để bị nhiễm bẩn với sự tự lừa dối với huyễn tưởng, sự lấy mơ làm thực, hoặc sự than vãn tự thương hại của những ai là người cảm thấy đời sống còn thiếu nợ họ một điều gì đó. Emily Dickinson đã viết:

Rằng nó sẽ không bao giờ trở lại
Là điều làm đời sống quá ngọt ngào. [26]

Nếu sự sụp đổ của Gót sẽ để lại một khoảng trống, người ta khác nhau sẽ làm đầy nó theo những cách khác nhau. Cách của tôi gồm một liều thuốc tốt của khoa học, sự cố gắng chân thực và có hệ thống để tìm ra sự thật về thế giới thực tại. Tôi nhìn nỗ lực của con người để hiểu biết vũ trụ như là một công trình xây dựng mô hình. Mỗi người chúng ta xây dựng, trong đầu của chúng ta, một mô hình của thế giới trong đó chúng ta tìm thấy bản thân chúng ta. Mô hình tối thiểu của thế giới là mô hình tổ tiên của chúng ta đã cần có để sống còn trong đó. Những software mô phỏng đã được kiến tạo và tháo chữa sai lầm bởi sự chọn lọc trong tự nhiên, và nó thì sành sõi khéo léo nhất trong thế giới quen thuộc với tổ tiên chúng ta trên đồng cỏ châu Phi: một thế giới ba chiều của những đối tượng vật chất có kích thước trung bình, di chuyển trong tốc độ trung bình tương đối với nhau. Như một phần có thêm bất ngờ, bộ óc của chúng ta thành ra là mạnh mẽ, đủ để thích ứng một mô hình thế giới giàu có hơn là thế giới tiện dụng tầm thường mà tổ tiên chúng ta đã cần thiết có ngõ hầu để sống còn. Nghệ thuật và khoa học những biểu hiện gặt hái được dễ dàng từ phần có thêm bất ngờ này. Hãy để tôi vẽ một bức tranh cuối cùng, để truyền đạt sức mạnh của khoa học để mở rộng não thức và đáp ứng thoả mãn tâm hồn con người.


Mẹ của Tất cả những áo Burkas

Một trong những cảnh tượng buồn bã nhất nhìn thấy trên đường phố của chúng ta ngày nay là hình ảnh của một người phụ nữ quấn toàn màu đen không còn hình thù, từ đầu đến chân, đương nhìn ra thế giới qua một khe vải rạch bé tí. Y phục burka che phủ toàn thân không chỉ là một công cụ của đàn áp phụ nữ và sự đè nén theo lối tu viện kín trên tự do và vẻ đẹp của họ, không chỉ là một chứng cớ của sự ác độc quá đáng của phái nam và sự tuân phục hèn nhát của phái nữ. Tôi muốn dùng khe vải hẹp, rạch trên mạng che mặt, như một biểu tượng của một gì khác.

Mắt chúng ta nhìn thế giới qua một khe hẹp của quang phổ sóng điện từ. Ánh sáng nhìn thấy được là một kẽ nứt của độ sáng trong quang phổ tối đen mênh mông, từ những sóng radio ở một đầu (có bước sóng dài), đến những tia gamma ở đầu cuối (có bước sóng ngắn) [27]. Hầu như là nhỏ hẹp thế nào thì khó có thể cảm nhận và là một thách đố để chuyển đạt cho người khác. Hãy tưởng tượng một burka khổng lồ màu đen, với một khe rạch để nhìn, có chiều rộng theo tiêu chuẩn phỏng chừng, tạm nói khoảng một inch. Nếu chiều dài của áo vải màu đen ở bên trên khe hở, đại diện cho những sóng ngắn thuộc một đầu của quang phổ không thấy được, và nếu chiều dài của vải màu đen, bên dưới khe hở, là đại diện cho phần những sóng dài của quang phổ không thấy được, burka này sẽ phải dài đến chừng nào để thích ứng một một khe hở rộng một inch với cùng một tỉ lệ xích tương tự? Thật khó để trình bày nó một cách cảm nhận được mà không phải dùng đến logarit, vì độ dài chúng ta đang tưởng tượng sẽ là rất lớn. Chương cuối của một quyển sách như thế này không phải là nơi để bắt đầu tung những số logarit ra quanh đây, nhưng bạn có thể tin nhận nó từ tôi rằng nó sẽ là mẹ của tất cả những burkas. Cửa sổ rộng một inch của ánh sáng nhìn thấy được thì quá nhỏ đến đáng buồn cười nếu so với những dặm và dặm dài của phần vải màu đen đại diện cho phần không thấy được của quang phổ, từ những sóng radio tại gấu váy đến những tia gamma ở phần trên đỉnh đầu. Những gì khoa học làm cho chúng ta là mở rộng cửa sổ. Nó mở lớn ra thật rộng, để quần áo vải đen giam cầm tuột giảm xuống gần như hoàn toàn, phơi mở những giác quan của chúng ta với thoáng đãng và tự do phấn chấn.

Những kính thiên văn quang học dùng những ống kính và những gương chiếu để rà quét bầu trời, và những gì chúng thấy là những sao trời vốn xảy ra là đương phát sáng trong băng tầng hạn hẹp của những độ dài sóng mà chúng ta gọi ánh sáng nhìn thấy được. Nhưng những kính thiên văn loại khác, “thấy” trong tia-X, hay những độ dài sóng radio, và trình bày cho chúng ta một cung ứng dồi dào của những bầu trời đêm thế chỗ. Trong một quy mô nhỏ hơn, máy ảnh với những kính lọc thích hợp có thể nhìn “thấy” trong bức xạ điện từ gọi là tia cực tím, và chụp ảnh những hoa, cho thấy một loạt những đường sọc và những điểm chấm khác lạ, mà chúng có thể nhìn thấy được, và dường như “được thiết kế” cho mắt của loài côn trùng, nhưng mắt không có trợ giúp của chúng ta đều tất cả không thể nhìn thấy được. Mắt côn trùng có một cửa sổ quang phổ có chiều rộng tương tự như của chúng ta, nhưng dịch lên hơi cao hơn trên burka (tưởng tượng): chúng thì mù màu đỏ, và thấy thêm những tia cực tím, hơn chúng ta, chúng nhìn vào khu vườn của những “tia cực tím”.[28]

Ẩn dụ của cửa sổ nhỏ hẹp của ánh sáng, mở rộng ra vào trong một quang phổ lớn ngoạn mục, phục vụ chúng ta trong những lĩnh vực khác của khoa học. Chúng ta sống gần trung tâm của một bảo tàng trong vòm hang sâu của những mức độ lớn lao, nhìn thế giới với những giác quan và hệ thống thần kinh (của cơ thể) vốn chúng được trang bị để nhận và hiểu chỉ một vùng giới hạn nhỏ của những kích thước trung bình, di chuyển cũng trong một vùng giới hạn của những tốc độ trung bình. Chúng ta quen thuộc thoải mái với những đối tượng có giới hạn trong kích thước từ vài km (tầm nhìn từ một đỉnh núi) đến khoảng một phần mười của một mm (đầu một cây kim). Ra ngoài phạm vi này, ngay cả trí tưởng tượng của chúng ta cũng thành tàn tật, và chúng ta cần sự giúp đỡ của những dụng cụ và của toán học – trong đó, may mắn thay, chúng ta có thể học để xử dụng. Phạm vi của những kích thước, khoảng cách hay tốc độ mà trí tưởng tượng của chúng ta được thoải mái với chúng là một loạt phạm vi rất nhỏ bé, đặt ở giữa của một loạt những phạm vi khổng lồ của có thể có được, từ tỉ lệ của quantum kỳ lạ ở đầu nhỏ bé, tới tỉ lệ của vũ trụ học theo Einstein ở đầu kia lớn lao hơn.

Những tưởng tượng của chúng ta được trang bị thiếu kém, đáng thương và bị bỏ rơi đơn độc nếu phải xoay sở thích ứng với những chiều lớn rộng nằm ngoài phạm vi nhỏ hẹp của những trung bình vốn quen thuộc với tổ tiên chúng ta. Chúng ta cố gắng hình dung một electron như một quả bóng tí hon, trong đường chạy xung quanh một nhóm đông hơn gồm những quả bóng tí hon đại diện cho những proton và neutron. Đó không phải là những gì nó thì giống như chút nào tất cả. Những electron không giống như những quả bóng nhỏ. Chúng không giống như bất cứ một gì chúng ta có thể nhận ra được. Ngay cả không rõ ràng rằng từ ngữ “giống như” nếu còn có nghĩa chăng, dù là gì, khi chúng ta cố gắng bay đến thật gần những chân trời xa hơn nữa của thực tại. Trí tưởng tượng của chúng ta vẫn còn chưa được trang bị đủ để thâm nhập vùng “hàng xóm láng giềng” của quantum. Không có gì ở những kích thước đó mà phản ứng xử sự trong cách thức của vật chất – như chúng ta đã tiến hóa để suy nghĩ – phải phản ứng. Cũng không phải chúng ta có thể đối phó với những phản ứng của những đối tượng di chuyển ở mức một vài phân số nhỏ của vận tốc ánh sáng. Phán đoán nhận thức thông thường đưa chúng ta đến thất bại, vì phán đoán thông thường đã tiến hóa, phát triển trong một thế giới mà không có gì di chuyển cực nhanh, và không có gì là cực nhỏ, hoặc cực lớn.

Ở cuối của một bài tiểu luận nổi tiếng về “Những thế giới có thể có”, nhà sinh vật học nổi tiếng J.B.S. Haldane đã viết, “Bây giờ, sự nghi ngờ của tôi là vũ trụ không chỉ “lạ lẫm” với giả sử của chúng ta, nhưng “lạ lẫm” hơn so với chúng ta có thể giả sử được ... Tôi nghi ngờ rằng còn có nhiều điều trên trời và dưới đất hơn là đã từng mơ tưởng đến, hoặc có thể mơ tưởng được, trong bất kỳ triết học nào”. Nhân đây, tôi thấy thích thú với gợi ý rằng phát biểu nổi tiếng của Hamlet đã được Haldane dẫn chứng, thường bị hiểu nhầm. Sự nhấn mạnh thông thường là vào “của bạn”:

Có nhiều điều trong trời đất, Horatio,
Hơn là từng mơ ước đến, trong triết học của bạn.

Thật vậy, câu thơ trên thường trích dẫn vội vàng với ý Horatio đại diện cho một nhà duy lý nông cạn và người hoài nghi khắp mọi điều. Nhưng một vài học giả nhấn mạnh về “triết lý”, với “của bạn” hầu như biến mất: thành “.. . hơn là từng mơ ước trong (xxx) triết học. Sự khác biệt thực ra không quan trọng với những mục đích ở đây, ngoại trừ giải thích thứ hai đã được giải quyết bằng “bất kỳ “triết học (nào đi nữa) của Haldane .

Người được quyển sách này đề tặng, đã dựng một phòng khách với những kì lạ của khoa học, đẩy nó tới điểm khôi hài. Sau đây là lấy từ bài phát biểu ứng khẩu tương tự ở Cambridge vào năm 1998, vốn tôi đã trích dẫn ở trước rồi: “Thực tế là chúng ta sống ở dưới đáy sâu của một giếng trọng lực, trên bề mặt của một hành tinh có hơi bao phủ, chạy quanh một quả cầu lửa hạt nhân cách xa 90 triệu mile, và nghĩ rằng điều này là bình thường, thì hiển nhiên là một vài dấu hiệu cho thấy cái nhìn ra xa toàn bộ của chúng ta có khuynh hướng bị lệch lạc như thế nào”. Chỗ nào những nhà văn khoa học giả tưởng dùng sự khác thường lạ lẫm của khoa học để để khơi dậy ý thức tò mò về bí ẩn của chúng ta, Douglas Adams dùng nó để làm cho chúng ta cười (những ai là người đã đọc quyển The Hitchhiker’s Guide to the Galaxy có thể nghĩ về “chuyến đi có thể không thể có bất tận”, lấy thí dụ). Tiếng cười có thể biện luận là đáp ứng tốt nhất với một vài trong những nghịch lý lạ lùng của vật lý hiện đại. Nếu muốn tìm thay thế, đôi khi tôi nghĩ, là bật khóc. [29]

Cơ học quantum, đỉnh cao tinh tế của thành tựu khoa học trong thế kỷ hai mươi, đã liên tục có những tiên đoán thành công rực rỡ về thế giới thực tại. Richard Feynman đã so sánh độ chính xác của nó với sự ước đoán một khoảng cách lớn cũng bằng chiều rộng của Bắc Mỹ với một độ chính xác cực nhỏ như bề dày của sợi tóc. Thành công trong tiên đoán này xem dường như có nghĩa rằng lý thuyết quantum phải đã là đúng theo một vài ý hướng nào đó, cũng đúng như bất cứ gì chúng ta biết, thậm chí bao gồm cả những sự kiện đơn giản thực tiễn. Thế nhưng, những giả định mà thuyết quantum cần phải đưa ra, ngõ hầu có thể cung cấp những dự đoán như vậy, là hết sức bí ẩn mà ngay cả chính Feynman lỗi lạc đã đi đến nhận xét (có những phiên bản khác nhau của trích dẫn này, trong đó câu sau đây có vẻ gần nhất, theo tôi): “Nếu bạn nghĩ rằng bạn hiểu thuyết quantum., … bạn chẳng hiểu thuyết quantum”. [30]

Lý thuyết quantum như vậy là quá lạ lẫm khác thường, khiến những nhà vật lý phải cầu đến một nghịch lý này hoặc một nghịch lý để khác “giải thích” nó. Cầu đến là từ đúng. David Deutsch, trong The Fabric of Reality, ôm chặt lấy diễn giải “có nhiều thế giới” của lý thuyết quantum [31], có lẽ vì nếu như có tệ nhất mà bạn có thể nói về nó, là nó là hoàn toàn thừa thãi đến trái với lẽ thường, lãng phí ngược đời hết sức. Nó nêu thừa nhận rằng có một số lượng lớn và đang tăng trưởng nhanh của những vũ trụ, hiện hữu song song với nhau, và đều không dò biết được lẫn nhau, ngoại trừ thông qua cổng-sâu – port-hole – chật hẹp của những thí nghiệm cơ học quantum. Trong một vài những vũ trụ đó, tôi đã chết. Trong một thiểu số nhỏ trong số chúng, bạn có một bộ ria mép màu xanh lá cây. Và tiếp tục (những lạ lùng) như vậy.

“Giải thích Copenhagen” thay thế [32], cũng không kém phần trái lẽ thường, hết sức ngược đời – Nhưng nó không lãng phí, nó chỉ nghịch lý đến tan tành. Erwin Schrödinger chế nhạo nó với dụ ngôn con mèo của mình. Con mèo của Schrödinger bị nhốt trong một cái hộp kín với một cơ chế giết chết, và có thể được khởi động bởi một biến cố cơ học quantum. Trước khi chúng ta mở nắp hộp, chúng ta không biết con mèo đã chết hay sống. Phán đoán theo nhận thức thông thường cho chúng ta biết, dù thế nào đi nữa, con mèo phải là còn sống hoặc đã chết trong hộp. Giải thích của nhóm Copenhagen đi trái ngược với nghĩa lý thông thường có chung: tất cả gì mà hiện hữu trước khi chúng ta mở hộp là một xác suất. Liền ngay khi chúng ta mở hộp này, hàm số sóng sụp đổ và để lại cho chúng ta một biến cố độc nhất: con mèo đã chết, hoặc con mèo còn sống. Cho đến tận lúc chúng ta mở hộp, nó đã không chết, cũng chẳng sống. [33]

Diễn giải theo thuyết “Nhiều Thế giới” về cùng biến cố, là trong một vài vũ trụ con mèo đã chết, và trong những vũ trụ khác con mèo thì còn sống. Không giải thích nào thỏa mãn nghĩa lý thông thường hay trực giác con người. Những nhà vật lý tự hào năng nổ hơn, họ không quan tâm (với điều đó) . Điều quan trọng là toán học thì đúng, và những tiên đoán được thực nghiệm chứng mimh đúng. Hầu hết chúng ta đều quá nhút nhát đi theo họ. Chúng ta dường như cần một vài loại hình dung để trực quan mường tượng được những gì là “thực sự” đang diễn ra. Tôi hiểu, nhân đây cũng nói thêm, rằng Schrodinger ban đầu đưa ra thí nghiệm tưởng tượng về chú mèo của ông để phơi bày những gì ông cho là phi lý trong giải thích Copenhagen.

Nhà sinh vật học Lewis Wolpert tin rằng tính lạ lẫm khác thường của vật lý hiện đại chỉ mới là đỉnh (rất nhỏ thấy được) của tảng băng ngầm. Khoa học trong tổng quát, như trái ngược với kỹ thuật, quả có dùng bạo lực với nhận thức thông thường [34]. Đây là một thí dụ ưa chuộng: mỗi khi bạn uống một cốc nước, tỉ lệ thắng là cao, nếu đánh cuộc rằng bạn sẽ hấp thụ ít nhất một molecule mà nó đã từng đi qua bàng quang của Oliver Cromwell [35]. Nó chỉ là lý thuyết xác suất sơ đẳng. Số lượng molecule trong mỗi cốc nước là cực kỳ lớn hơn số những cốc nước đầy trong thế giới. Vì vậy, mỗi lần chúng ta có một cốc nước đầy, chúng ta đang nhìn trước một tỷ lệ khá cao của những molecule nước hiện hữu trong thế giới. Dĩ nhiên, không có gì đặc biệt về Cromwell, hoặc những bàng quang. Không phải là bạn vừa mới hít vào một atom nitrogen vốn đã một lần con đainaso (loài ăn cỏ) iguanodon thở ra hay sao, nó là con thứ ba đứng bên trái cây (loại cọ dừa) cycad cao? Không phải là bạn lấy làm mừng hay sao, rằng mình được sống trong một thế giới, nơi đó không chỉ một phỏng đoán (lạ lùng) như thế là có thể, nhưng bạn lại còn có được ưu quyền để hiểu tại sao? Và công khai giải thích cho người khác, không phải như ý kiến hay tin tưởng của bạn, nhưng như một điều gì đó, khi họ đã hiểu lý lẽ của bạn, họ sẽ cảm thấy buộc phải ưng thuận chấp nhận? Có lẽ đây là một khía cạnh của những gì Carl Sagan muốn nói, khi ông giải thích động lực của ông, khi viết The Demon-Haunted World: Science as a Candle in the Dar: “Không giải thích khoa học dường như với tôi là nết xấu ngang ngạnh. Khi bạn đang yêu, bạn muốn kể cho mọi người, cả thế giới. Quyển sách này là một tuyên bố cá nhân, phản ảnh mối tình gắn bó trọn đời của tôi với khoa học.”[36]

Tiến hóa của sự sống phức tạp, thực vậy, chính sự hiện hữu của nó trong một vũ trụ tuân theo những quy luật vật lý, thì ngạc nhiên kỳ diệu – hay nên là đáng ngạc nhiên, duy với một sự kiện rằng ngạc nhiên là một cảm xúc có thể hiện hữu chỉ trong một bộ óc là sản phẩm của chính tiến trình rất ngạc nhiên đó. Có một ý hướng con người, sau đó, trong đó sự hiện hữu của chúng ta không nên có gì đáng ngạc nhiên. Tôi muốn nghĩ rằng đó là tôi nói nhân danh những đồng hành nhân loại của tôi, khi nhấn mạnh, dù sao đi nữa, rằng nó thì cực kỳ rất đỗi ngạc nhiên. [37]

Hãy nghĩ về điều đó. Trên một hành tinh, và có thể chỉ có một hành tinh trong toàn vũ trụ, những molecule vốn thông thường sẽ không làm thành một gì phức tạp hơn một khối đá, kết hợp chúng với nhau thành những vật chất có kích thước như những khối đá, với phức tạp đáng kinh ngạc như thế, rằng chúng có khả năng chạy, nhảy, bơi lội, bay, nhìn, nghe, nắm bắt và ăn những khối phức tạp linh động khác; trong một vài trường hợp có khả năng suy nghĩ và cảm xúc, và say đắm yêu thương với cùng những khối vật chất phức tạp khác. Chúng ta giờ đã hiểu cơ bản được thuật khéo hiệu quả này được thực hiện ra sao, nhưng đó là chỉ từ năm 1859. Trước 1859, nó đã vẫn có vẻ thực sự là rất và rất kỳ lạ. Bây giờ, nhờ Darwin, nó chỉ là rất kỳ lạ. Darwin đã nắm lấy cửa sổ của burka và giật mạnh nó mở rộng, để cho tràn vào một trận lụt của hiểu biết, có sự mới mẻ sững sờ, và sức mạnh của nó nâng bổng tinh thần con người, có lẽ đã không có tiền lệ – trừ ra nhận thức Copernicus rằng Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ.

“Hãy nói cho tôi biết”, triết gia lớn của thế kỷ hai mươi Ludwig Wittgenstein một lần đã hỏi một người bạn, “tại sao mọi người luôn luôn nói đó là tự nhiên cho con người giả định rằng mặt trời đi quanh trái đất thay vì đúng hơn rằng Trái Đất đã xoay quanh?” Người bạn trả lời, “Vâng, hiển nhiên vì nó nhìn như thể Mặt Trời đương đi quanh Trái đất”. Wittgenstein trả lời, “Vâng, nó đã có thể nhìn giống điều gì, nếu nó đã được nhìn như thể Trái Đất đã xoay quanh?”. Đôi khi tôi trích dẫn nhận xét này của Wittgenstein trong bài giảng, chờ đợi người nghe sẽ cười. Thay vào đó, họ có vẻ sững sờ rơi vào im lặng.

Trong thế giới hạn hẹp, trong đó bộ óc của chúng ta đã tiến hóa, những đối tượng nhỏ có nhiều phần, xem dường đúng là chuyển dịch hơn, so với những đối tượng lớn, vốn được xem như là nền sau của sự chuyển động. Khi thế giới quay, những đối tượng nhìn có vẻ lớn vì chúng ở gần – núi, cây cối, những tòa nhà, và mặt đất chính nó – tất cả đều di chuyển đồng bộ chính xác với nhau và với người quan sát, tương đối với những đối tuợng trên trời như mặt trời và những chùm sao. Bộ óc đã tiến hóa của chúng ta phóng chiếu một ảo ảnh của chuyển động lên chúng, hơn là với những ngọn núi và những cây cối ở tiền cảnh.

Bây giờ tôi muốn theo đuổi điểm đã đề cập ở trên, rằng cách chúng ta nhìn thế giới, và lý do tại sao chúng ta tìm thấy một vài điều trực giác dễ dàng nắm bắt, và những điều khác khó khăn, đó là những bộ óc của chúng ta, bản thân chúng, đều là những cơ quan đã tiến hóa: những cômputơ đã gắn vào chúng ta, đã tiến hóa để giúp chúng ta sống còn trong một thế giới – tôi sẽ dùng tên Thế giới Giữa để gọi nó – trong đó những đối tượng là quan trọng với sự sống còn của chúng ta đều không phải là rất lớn và cũng không rất nhỏ; một thế giới nơi mà mọi thứ hoặc là đứng hoặc di chuyển chậm so với tốc độ ánh sáng, và nơi mà điều rất khó xảy ra có thể một cách an toàn được coi như không thể xảy ra. Cửa sổ burka tinh thần của chúng ta là hạn hẹp vì nó đã không cần phải rộng lớn thêm gì hơn, ngõ hầu trợ giúp tổ tiên chúng ta trong sự sống còn.

Khoa học đã dạy chúng ta, phản lại tất cả trực giác đã tiến hóa, rằng những vật xem dường rắn đặc như những khối thủy tinh và đá, đều thực sự đã kết hợp bởi không gian hầu như hoàn hoàn trống. Minh họa quen thuộc trình bày nhân của một atom như một con ruồi ở giữa một sân vận động thể thao. Atom kề cạnh nó thì ngay bên ngoài sân vận động này. Thế nên, khối đá cứng nhất, dày đặc nhất, là “thực sự” gần như không gian hoàn toàn trống rỗng, bị nứt vỡ chỉ bởi những hạt nhỏ xíu, chúng quá xa cách nhau khiến chúng không đáng kể nữa. Vậy tại sao những khối đá đều nhìn và cảm thấy rắn, cứng và không thể xuyên thủng?

Tôi sẽ không cố gắng tưởng tượng Wittgenstein có thể trả lời câu hỏi đó thế nào. Nhưng, là một nhà tiến hóa sinh học, tôi sẽ trả lời câu hỏi như thế này. Não của chúng ta đã tiến hóa để giúp cơ thể chúng ta tìm đường đi lại của nó quanh thế giới trên quy mô mà ở đó những cơ thể này hoạt động. Chúng ta đã không bao giờ tiến hóa hướng tới thế giới của những atoms. Nếu như đã thế, bộ não chúng ta có lẽ sẽ cảm nhận được đá như đầy những không gian trống rỗng. Nhưng cảm thấy đá cứng và tay chúng ta không thể xuyên thủng, vì tay của chúng ta không thể thâm nhập vào trong chúng. Lý do chúng không thể thâm nhập vào trong đá thì không liên quan gì với những kích thước và những phân cách của những particle vốn cấu thành vật chất. Thay vào đó, nó có liên quan với những trường lực (như từ lực, trọng lực chẳng hạn) vốn liên kết với những particle nằm cách nhau quá xa này trong vật chất “rắn”. Đó là hữu ích cho não của chúng ta để xây dựng những khái niệm như sự rắn đặc và không thể thâm nhập, vì những khái niệm như vậy giúp chúng ta tìm đường đi cho cơ thể của chúng ta qua một thế giới trong đó những đối tượng – chúng ta gọi là rắn – không thể chiếm cùng một không gian lẫn nhau.

Một chút khôi hài cho điểm này đỡ tẻ nhạt – từ The Men who Stare at Goats của Jon Ronson:

Đây là một câu chuyện có thật. Đó là mùa hè năm 1983. Tướng hai sao Albert Stubblebine III đang ngồi sau bàn làm việc của ông ở Arlington, Virginia, và ông đang nhìn chằm chằm vào bức tường phòng ông, trên đó treo nhiều những huy chương quân sự của ông. Chúng cho chi tiết về một binh nghiệp dài và xuất sắc. Ông là người đứng đầu của Tình Báo Quân Đội Mỹ, có 16 ngàn binh sĩ dưới quyền chỉ huy. … Ông nhìn quá những huy chương đến chính bức tường. Có một điều gì đó ông cảm thấy ông ta phải làm, cho dù nghĩ đến ý tưởng của nó khiến ông khiếp hãi. Ông nghĩ về sự lựa chọn ông phải làm. Ông có thể ở lại trong văn phòng của ông, hoặc ông có thể đi vào văn phòng kế tiếp. Đó là sự lựa chọn của ông. Và ông đã đã làm điều đó. Ông sẽ đi vào trong văn phòng kế tiếp. Ông đứng lên, đi ra từ sau bàn việc của mình, và bắt đầu đi bộ.Tôi muốn nói, ông nghĩ rằng, những atom chủ yếu được tạo thành, dù sao đi nữa, từ những gì? Không gian! Ông bước nhanh hơn. Còn tôi, chủ yếu làm bằng gì? Ông nghĩ. Atoms! Ông thì bây giờ hầu như đang chạy bộ. Còn bức tường chủ yếu được tạo bằng gì? Ông nghĩ. Atoms! Tất cả những gì tôi phải làm là kết nhập những không gian. ... Sau đó tướng hai sao Stubblebine vập mạnh mũi ông vào bức tường văn phòng mình. Quân chết tiệt, ông nghĩ. Tướng Stubblebine thì bẽ mặt bởi thất bại liên tục của ông để đi xuyên qua tường của văn phòng mình. Ốm đau gì đây khiến ông không thể làm điều đó được. Có lẽ chỉ là vì có quá nhiều hồ sơ đựng trong khay chờ giải quyết khiến ông không có đủ mức độ tập trung đòi hỏi. Trong đầu ông, không có hoài nghi nào rằng rồi một ngày khả năng đi xuyên qua những đối tượng sẽ là dụng cụ thông thường trong kho vũ khí của ngành thu thập tình báo. Và khi điều đó xảy ra, vâng, không phải là quá ngây thơ để tin rằng nó sẽ báo tin mừng buổi bình minh của một thế giới không còn có chiến tranh hay sao? Ai còn dám gây gổ với một quân đội có thể làm được điều đó?

Tướng Stubblebine thì được mô tả thích hợp như trong một người suy nghĩ “ngoài khuôn thước” trên trang web của tổ chức, bây giờ, sau khi về hưu, ông điều hành cùng với vợ. Nó gọi là HealthFreedomUSA, và nó thì chuyên dành để cung cấp thêm (vitamin, khoáng chất, amino axit, vv), những loại cây cơ thuốc, thuốc chữa bệnh theo homoeopathy, thuốc bổ dưỡng và thực phẩm sạch (không nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc kháng sinh), mà không bị những công ty lớn (qua việc cưỡng chế của chính phủ) đưa mệnh lệnh cho bạn về những liều lượng và phương pháp điều trị nào bạn được phép dùng. Không có nhắc nhở đến những dung dịch quí giá của cơ thể. [38]

Sau khi đã tiến hóa trong Thế giới Giữa, chúng ta thấy dễ dàng qua trực giác để nắm bắt những ý tưởng như: “ Khi một vị tướng hai sao di chuyển, ở một loại vận tốc trung bình mà những tướng và những đối tượng khác củaThế giới Giữa quả thực di chuyển, và va vào một đối tượng rắn khác của Thế giới Giữa, giống như một bức tường, bước tiến của ông bị kềm lại đau đớn ”. Não của chúng ta không được trang bị để tưởng tượng sè là những gì như khi một neutrino xuyên qua một bức tường, trong những khoảng trống bao la, vốn bức tường “thực sự” gồm có. Sự nhận hiểu của chúng ta cũng chẳng có thể ứng phó nổi với những gì xảy ra khi những sự vật di chuyển gần với tốc độ của ánh sáng.

Trực giác con người không được giúp đỡ, đã tiến hóa và theo học trong Thế giới Giữa, thậm chí còn thấy khó để tin Galileo, khi ông nói với chúng ta rằng một viên đạn đại bác và một lông vũ, nếu không có ma sát với không khí, sẽ chạm xuống mặt đất cùng một lúc, khi thả rơi từ một tháp nghiêng. Đó là vì, trong Thế giới Giữa, ma sát không khí thì luôn luôn có đó. Nếu như chúng ta đã tiến hóa trong một chân không, chúng ta có thể trông đợi chiếc lông vũ và viên đạn đại bác sẽ đồng thời cùng chạm mặt đất. Chúng ta là những cư dân đã tiến hóa quen với thuỷ thổ của Thế giới Giữa, và điều đó giới hạn những gì chúng ta có khả năng để tưởng tượng. Cửa sổ thu hẹp của burka của chúng ta cho phép chúng ta, trừ khi chúng ta đặc biệt có năng khiếu hay được giáo dục rất đặc biệt, để thấy chỉ Thế giới Giữa.

Có một cảm thức trong nó loài động vật chúng ta phải sống còn, không chỉ trong Thế giới Giữa, nhưng cả trong thế giới micro của những atoms và electrons nữa. Chính là những xung động thần kinh, mà với chúng, chúng ta thực hiện suy nghĩ của chúng ta và tưởng tượng của chúng ta, tùy thuộc trên những hoạt động trong Thế giới Micro. .Nhưng không hành động nào mà tổ tiên thời hồng hoang của chúng ta đã từng bao giờ phải thực hiện, không quyết định nào mà họ đã từng phải làm, mà đã từng được trợ giúp của một sự hiểu biết về Thế giới Micro. Nếu chúng ta đã là những bacteria, liên tục bị những chuyển động nhiệt [39] của những molecule va đập mạnh, sự việc sẽ là khác đi. Nhưng chúng ta, những người Thế giới Giữa, thì kềnh càng quá lớn để ghi nhận được những dao động Brown [40]. Tương tự như vậy, đời sống của chúng ta bị lực hấp dẫn chi phối, nhưng chúng ta gần như không biết gì về lực tinh tế của sức hút trên mặt quả đất. Một côn trùng nhỏ sẽ đảo ngược điều ưu tiên đó, và sẽ thấy sức hút trên mặt đắt có thể là bất cứ gì đi nữa, nhưng không tinh tế.

Steve Grand, trong Creation: Life and how to Make It [41] bình luận gần như gay gắt về mối bận tâm đầu tiên, lo lắng trước tất cả của chúng ta với tự thân vật chất. Chúng ta có khuynh hướng này, là nghĩ rằng chỉ có “những vật” vật chất, mới tất cả là những vật “có thực”. “Những sóng” của chao động điện từ trong một chân không xem dường có vẻ “không thực”. Những người thời Victoria nghĩ rằng những sóng đã phải là sóng “trong” một môi trường vật chất nào đó. Không có môi trường nào loại như thế đã được biết, vì vậy họ đã phát minh ra, và đặt tên nó là luminiferous ether [42] . Nhưng chúng ta thấy vật chất “thực” thì thoải mái với sự nhận biết của chúng ta, chỉ vì tổ tiên chúng ta đã tiến hóa để sống còn trong Thế giới Giữa, nơi vật chất là một (khái niệm được) tạo dựng có ích.

Mặt khác, ngay cả những người Thế giới Giữa chúng ta có thể thấy rằng một xoáy nước là một “vật” với một vài gì đó giống như thực tại của một tảng đá, mặc dù vật chất trong xoáy nước thì liên tục thay đổi. Trong một cánh đồng sa mạc ở Tanzania, trong bóng râm của Ol Donyo Lengai, núi lửa thiêng liêng của dân Maasai [43], có một cồn cát lớn bằng tro, có khi núi này phun lửa năm 1969. Gió thổi đã “đẽo gọt” nó vào thành dạng. Nhưng điều đẹp đẽ là là nó di chuyển với toàn khối cơ thể của nó. Đó là những gì được biết đến về kỹ thuật như một barchan (phát âm bahkahn) [44]. Toàn thể cồn cát di chuyển xuyên sa mạc theo hướng tây, với tốc độ khoảng 17 mét / năm. Nó giữ hình dạng trăng lưỡi liềm và “bò” đi theo hướng của của hai mũi nhọn vành trăng. Gió thổi cát lên dốc nông hơn. Sau đó, khi mỗi hạt cát lên đến đỉnh sống gò, nó tuôn xuống theo triền dốc hơn ở phần mặt lõm của lưỡi liềm.

Trên thực tế, ngay cả một barchan là một “vật” nhiều hơn, so với một làn sóng. Một làn sóng xem dường như di chuyển trên biển theo chiều ngang của đường chân trời, nhưng những molecule nước di chuyển theo chiều dọc (tung lên, rơi xuống). Tương tự như vậy, những sóng âm thanh có thể đi từ loa đến người nghe, nhưng những molecule không khí thì không: vì nếu thế sẽ là một cơn gió, không là một âm thanh. Steve Grand chỉ ra rằng bạn và tôi đều giống như những sóng hơn là những “sự vật” thường trụ. Ông mời người đọc của ông hãy nghĩ ...

... về một kinh nghiệm từ thời thơ ấu của bạn. Một điều gì đó bạn nhớ rõ ràng, một điều gì đó bạn có thể nhìn thấy, cảm thấy, thậm chí có thể ngửi mùi, như thể nếu bạn đã thực sự ở đó. Vì sau tất cả, bạn thực sự đã có mặt ở đó khi ấy, phải không? Nếu không thế, còn cách nào khác nữa mà bạn lại có thể nhớ được nó? Nhưng ở đây là quả bom nổ chậm bất ngờ: bạn đã không có ở đó. Không có lấy được một atom duy nhất đang trong cơ thể bạn hôm nay đã có ở đó khi biến cố đó diễn ra... Vật chất chảy từ chỗ này sang chỗ khác, và đã đến, trong khoảnh khắc tạm thời, hợp với nhau để là bạn. [45] Dù bạn là ai đi nữa, do đó, bạn không phải là những thứ mà bạn được làm thành từ chúng. Nếu điều đó không làm dựng tóc gáy bạn, hãy đọc nó một lần nữa cho đến khi dựng tóc gáy, vì nó là quan trọng.

“Thực sự” không phải là một từ chúng ta nên dùng với sự tự tin đơn giản. Nếu một neutrino có một bộ óc đã tiến hóa từ những tổ tiên có kích thước-neutrino, nó sẽ nói rằng những tảng đá “thực sự” quả là hầu hết gồm không gian trống. Chúng ta có bộ óc đã tiến hóa trong những tổ tiên có kích thước-vừa phải, những người không thể đi xuyên qua đá, do đó, “thực sự” của chúng ta là một “thực sự” trong đó đá đều cứng rắn. “Thực sự”, đối với một con vật, là bất cứ điều gì não của nó cần nó (có nghĩa) là, ngõ hầu để trợ giúp sự sống còn của nó. Và vì những loài khác nhau sống trong những thế giới khác nhau như thế, sẽ có nhiều những khác loại đáng lo ngại của những “thực sự”.

Những gì chúng ta nhìn thấy của thế giới thực thì không phải là thế giới thực không tráng lớp men bóng, nhưng một mô hình của thế giới thực, đã được quy định và điều chỉnh bởi những dữ liệu giác quan – Một mô hình được xây dựng sao cho nó là hữu ích để đối phó với thế giới thực. Bản chất của mô hình đó phụ thuộc vào loại động vật mà chúng ta là. Một động vật bay cần một loại khác biệt của mô hình thế giới với một động vật đi bộ, một động vật leo núi, hoặc một động vật bơi dưới nước. Động vật ăn thịt cần loại mô hình khác biệt với của con mồi, mặc dù thế giới của chúng nhất thiết phải chồng lên nhau. Bộ óc của một con khỉ phải có sofware có khả năng mô phỏng một hệ thống chằng chịt những lối thông và rào chắn ba chiều của những nhánh và thân cây. Bộ óc của một con nhặng nước (water boatman) không cần sofware 3D, vì nó sống trên mặt phẳng của ao nước trong một Flatland của Abbott Edwin [46]. Sofware của con chuột chũi đất (mole) để xây dựng những mô hình của thế giới sẽ được chế tạo đặc biệt cho sự xử dụng dưới đất ngầm. Một con chuột chũi cát hay sa mạc (nake mole rat) thường có thể có sofware mô phỏng thế giới tương tự như của chuột chũi đất. Nhưng một con sóc, mặc dù nó là một loài gặm nhấm như chuột chũi, có thể có sofware dựng hình thế giới giống như của một con khỉ nhiều hơn.

Tôi đã suy đoán, trong The Blind Watchmaker và những chỗ khác, rằng con dơi có thể “nhìn thấy” màu sắc với tai của chúng. Mô hình thế giới, mà một con dơi cần có, để điều chỉnh hướng bay trong không gian ba chiều, để bắt côn trùng, chắc chắn phải là tương tự như mô hình mà một con chim nhạn cần có để thực hiện cùng những công việc như nhau. Sự kiện rằng loài dơi dùng tiếng vang để cập nhật những biến số trong mô hình của nó, trong khi loài chim nhạn dùng ánh sáng, là ngẫu nhiên. Con dơi, tôi nêu ý kiến, dùng màu sắc cảm nhận như là “đỏ” và “xanh” như những nhãn hiệu nội bộ cho một vài khía cạnh hữu ích của tiếng vang, có lẽ là kết cấu âm thanh của những bề mặt, cũng y như những con nhạn dùng cùng những màu sắc cảm nhận để gắn nhãn hiệu những bước sóng dài và ngắn của ánh sáng. Vấn đề là bản chất của mô hình được quy định bởi cách nó được dùng ra sao, hơn là phương thức cảm quan liên hệ. Bài học từ những con dơi là thế này. Hình thức chung của mô hình não thức – như trái ngược với những biến số không ngừng được đưa vào bới dây thần kinh cảm giác – Là một thích ứng với cách sống của động vật, không kém hơn đôi cánh, chân và đuôi của nó (cũng là những thích ứng với cách sống).

J.B.S. Haldane, trong bài viết về “Những thế giới có thể có” mà tôi đã dẫn ở trên, có vài điều liên quan để nói về loài động vật mà thế giới của chúng bị mùi chi phối. Ông ghi nhận rằng những con chó có thể phân biệt hai hai axit béo không-bền rất tương tự – caprylic acid và caproic acid – mỗi chất được pha loãng với tỷ lệ một phần trong một triệu. Sự khác biệt duy nhất là chuỗi molecule chính của caprylic acid thì có hai atom carbon dài hơn chuỗi molecule chính của acid caproic. Một con chó, Haldane đoán, có lẽ có thể đặt những axit “trong thứ tự của những khối lượng molecule của chúng bởi mùi của chúng, cũng giống như một người có thể đặt một số dây đàn piano theo thứ tự độ dài của chúng bằng những âm thanh của chúng”

Còn có một acid béo khác, acid capric, cũng giống như hai acid trên, ngoại trừ việc nó có thêm hai atom carbon trong chuỗi chính của nó. Một con chó chưa bao giờ từng gặp acid capric có lẽ sẽ không có nhiều khó khăn khi tưởng tượng ra mùi của nó, hơn chúng ta sẽ gặp khó khăn khi tưởng tượng một kèn trumpet chơi một nốt nhạc cao hơn nốt chúng ta đã nghe một trumpet chơi trước đó. Dường như với tôi hoàn toàn hợp lý để đoán rằng một con chó, hoặc một con tê giác, có thể phản ứng với hỗn hợp của những mùi như những hợp âm hài hòa. Có lẽ có những hợp âm bất hòa. Có lẽ không có những giai điệu, vì giai điệu được xây dựng lên những nốt bắt đầu hoặc dừng đột ngột với thời chính xác, không giống như những mùi. Hoặc có lẽ những con chó và tê giác ngửi mùi trong màu sắc. Những biện luận có thể cũng giống như thế cho loài dơi.

Một lần nữa, những nhận thức mà chúng ta gọi là những màu sắc là những dụng cụ bộ óc chúng ta dùng để dán những nhãn hiệu phân biệt cho những khác biệt quan trọng trong thế giới bên ngoài. Những màu sắc nhận thức được – những gì các triết gia gọi là qualia – không có kết nối nội tại nào với những ánh sáng có những bước sóng đặc thù [47]. Chúng là những nhãn hiệu bên trong có sẵn đó cho não, khi nó xây dựng mô hình của nó về thực tại bên ngoài, để làm những sự phân biệt mà chúng là đặc biệt nổi bật quan trọng đối với những động vật có quan tâm. Trong trường hợp của chúng ta, hoặc là của một con chim, có nghĩa là ánh sáng của những bước sóng khác nhau. Trong trường hợp của một con dơi, tôi đã suy đoán, nó có thể là bề mặt có những thuộc tính gây âm vang khác nhau hoặc kết cấu trên mặt khác nhau, có lẽ màu đỏ cho sáng bóng, màu xanh cho mượt mà, màu xanh lá cây cho mòn nhẵn. Và trong trường hợp của một con chó hay tê giác, tại sao nó lại sẽ không là những mùi ngửi được? Sức mạnh để tưởng tượng thế giới xa lạ của một con dơi, hoặc tê giác, con bọ trượt nước ao, con chũi đất, một bacteria hoặc một con bọ cánh cứng sống trong vỏ cây, là một trong những ưu quyền khoa học đã cấp cho chúng ta khi nó kéo tấm vải đen của burka của chúng ta và cho chúng ta thấy phạm vi rộng hơn của những gì có ở ngoài kia cho chúng ta ngất ngây thích thú.

Ẩn dụ về Thế giới Giữa – về loạt tầm mức kích thước bậc trung, của những hiện tượng mà khe hẹp xé để nhìn của burka của chúng ta cho phép chúng ta nhìn – còn áp dụng với những thước đo tỷ lệ khác hoặc những “trường phổ” khác. Chúng ta có thể xây dựng một thước đo tỷ lệ của những gì có xác suất không thể xảy ra, với một cửa sổ thu hẹp tương tự, qua đó trực giác và trí tưởng tượng của chúng ta có khả năng tiếp tục làm việc. Tại một cực của trường phổ của những điều có xác suất khó có thể xảy ra là những-gì-có-xác-xuất-khó-xảy-ra sẽ là sự kiện chúng ta gọi là không-thể-xảy-ra. Những phép lạ [48] là những sự kiện cực kỳ khó xảy ra. Một bức tượng tạc hình bà mẹ của Jesus [49] có thể vẫy bàn tay của tượng với chúng ta. Những atom tạo nên cấu trúc tinh thể của nó là tất cả đều dao động, đẩy tới và lui vv. Vì số chúng có quá nhiều, và vì có không có đồng ý chọn lựa ưa thích nào về hướng chuyển động của chúng, cánh tay tượng, như chúng ta nhìn thấy nó trong thế giới Thế giới Giữa, giữ yên là đá vững cứng. Nhưng những atom đang lay động nhanh nhẹ trong bàn tay tượng có thể tất cả xảy ra là chỉ di chuyển đồng thời theo cùng một hướng. Và cứ lập lại như thế, và như thế nữa ... Trong trường hợp này cánh tay sẽ chuyển động, và chúng ta sẽ thấy nó vẫy tay chào chúng ta. Nó có thể xảy ra, nhưng tỷ lệ nghịch, chống lại nó thì quá lớn, đến nỗi, nếu bạn đã bắt đầu ghi xuống những con số từ thời nguồn gốc của vũ trụ, bạn vẫn sẽ không viết đủ những con số zero cho đến tận ngày nay. Năng lực để tính toán tỷ lệ họa hoằn hiếm hoi như vậy – sức mạnh để định lượng sự gần như không-thể-xảy-ra, thay vì chỉ vung tay chúng ta lên trời trong tuyệt vọng – là một thí dụ khác của những quà tặng giải phóng của khoa học cho tinh thần của con người.

Tiến hóa trong Thế giới Giữa đã trang bị thiếu kém cho chúng ta để ứng phó với những sự kiện rất khó xảy ra. Nhưng trong sự bao la của không gian thiên văn, hoặc thời gian địa chất, những sự kiện mà dường như không thể xảy ra trong Thế giới Giữa lại thành ra không thể tránh khỏi (phải xảy ra). Khoa học tung mở cái cửa sổ hẹp qua đó chúng ta đã được tập quen để nhìn quang phổ của những gì có thể xảy ra. Chúng ta đã được sự tính toán và lý trí giải thoát, để viếng thăm những vùng của có-thể mà đã một lần xem dường nằm ngoài những giới hạn, hoặc bị những con rồng (huyền bí) cư ngụ. Chúng ta đã đem dùng sự mở rộng cửa sổ này rồi, trong Chương 4, ở đó chúng ta cân nhắc suy nghĩ về xác xuất khó có thể xảy ra của nguồn gốc của sự sống, và ngay cả như thế nào nếu một biến cố hóa học gần như không thể xảy ra phải đi đến vượt qua, cho là có đủ những năm-hành tinh để giả định, và nơi mà chúng ta đã cân nhắc suy nghĩ về quang phổ của những vũ trụ có thể có, mỗi vũ trụ với một tập hợp của nó gồm những luật và những hằng số, và sự cần thiết loài người của sự tìm thấy chính chúng ta trong một trong số ít của những chốn thân thiện (với sự sống).


Chúng ta nên giải thích “lạ lẫm hơn là chúng ta có thể giả định” của Haldane như thế nào? Lạ lẫm hơn, trong nguyên tắc, so với có thể được giả định? Hay chỉ lạ lẫm hơn chúng ta có thể giả định, nhìn nhận sự giới hạn của sự tập việc học nghề qua tiến hóa của bộ óc chúng ta trong Thế giới Giữa? Chúng ta có thể hay không, bằng huấn luyện và thực hành, giải phóng bản thân chúng ta khỏi Thế giới Giữa, xé bỏ burka đen tối của chúng ta, và đạt được một vài loại hiểu biết trực giác rõ ràng – cũng đúng như toán học – về cái rất nhỏ, rất lớn, và rất nhanh? Tôi thực sự không biết câu trả lời, nhưng tôi náo nức vui mừng để được sống trong một thời khi nhân loại đang đẩy lùi những giới hạn của sự hiểu biết. Thậm chí còn tốt hơn, chúng ta cuối cùng có thể khám phá được rằng không có những giới hạn.

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất 
(Jul/2013)






Sách Trích Dẫn và Giới thiệu Tham khảo

Adams, D. (2003). The Salmon of Doubt. London: Pan.

Alexander, R. D. and Tinkle, D. W., eds (1981). Natural Selection and Social Behavior. New York: Chiron Press. 

Anon. (1985). Life - How Did It Get Here? By Evolution or by
Creation? New York: Watchtower Bible and Tract Society. 

Ashton, J. E, ed. (1999). In Six Days: Why 50 Scientists Choose to Believe in Creation. Sydney: New Holland.

Atkins, P. W. (1992). Creation Revisited. Oxford: W. H. Freeman.
Atran, S. (2002). In Gods We Trust. Oxford: Oxford University
Press.
Attenborough, D. (1960). Quest in Paradise. London: Lutterworth.
Aunger, R. (2002). The Electric Meme: A New Theory of How We Think. New York: Free Press.

Baggini, J. (2003). Atheism: A Very Short Introduction. Oxford:Oxford University Press.

Barber, N. (1988). Lords of the Golden Horn. London: Arrow.
Barker, D. (1992). Losing Faith in Faith. Madison, WI: Freedom From Religion Foundation.

Barker, E. (1984). The Making of a Moonie: Brainwashing or Choice? Oxford: Blackwell.

Barrow, J. D. and Tipler, F. J. (1988). The Anthropic Cosmological Principle. New York: Oxford University Press.

Baynes, N. H., ed. (1942). The Speeches of Adolf Hitler, vol. 1. Oxford: Oxford University Press.

Behe, M. J. (1996). Darwin's Black Box. New York: Simon & Schuster.

Beit-Hallahmi, B. and Argyle, M. (1997). The Psychology of Religious  Behaviour, Belief and Experience. London: Routledge.
Berlinerblau, J. (2005). The Secular Bible: Why Nonbelievers Must Take Religion Seriously. Cambridge: Cambridge University Press.
Blackmore, S. (1999). The Meme Machine. Oxford: Oxford University Press.
Blaker, K., ed. (2003). The Fundamentals of Extremism: The Christian Right in America. Plymouth, MI: New Boston.
Bouquet, A. C. (1956). Comparative Religion. Harmondsworth: Penguin.
Boyd, R. and Richerson, P. J. (1985). Culture and the Evolutionary Process. Chicago: University of Chicago Press.
Boyer, P. (2001). Religion Explained. London: Heinemann.

Brodie, R. (1996). Virus of the Mind: The New Science of the Meme.
Seattle: Integral Press.
Buckman, R. (2000). Can We Be Good without God? Toronto:Viking.

Bullock, A. (1991). Hitler and Stalin. London: HarperCollins.
Bullock, A. (2005). Hitler: A Study in Tyranny. London: Penguin.
Buss, D. M., ed. (2005). The Handbook of Evolutionary Psychology. Hoboken, NJ: Wiley.
Cairns-Smith, A. G. (1985). Seven Clues to the Origin of Life. Cambridge: Cambridge University Press.
Comins, N. F. (1993). What if the Moon Didn't Exist? New York: HarperCollins.

Coulter, A. (2006). Godless: The Church of Liberation. New York:
Crown Forum.
Darwin, C. (1859). On the Origin of Species by Means of Natural Selection. London: John Murray.

Dawkins, M. Stamp (1980). Animal Suffering. London: Chapman &Hall.


Dawkins, R. (1976). The Selfish Gene. Oxford: Oxford University
Press.
Dawkins, R. (1982). The Extended Phenotype. Oxford: W. H.
Freeman.
Dawkins, R. (1986). The Blind Watchmaker. Harlow: Longman.
Dawkins, R. (1995). River Out of Eden. London: Weidenfeld &Nicolson.

Dawkins, R. (1996). Climbing Mount Improbable. New York: Norton.
Dawkins, R. (1998). Unweaving the Rainbow. London: Penguin.
Dawkins, R. (2003). A Devil's Chaplain: Selected Essays. London:Weidenfeld & Nicolson.
Dennett, D. (1995). Darwin's Dangerous Idea. New York: Simon &Schuster.

Dennett, D. C. (1987). The Intentional Stance. Cambridge, MA: MIT Press.
Dennett, D. C. (2003). Freedom Evolves. London: Viking.

Dennett, D. C. (2006). Breaking the Spell: Religion as a Natural Phenomenon. London: Viking.

Deutsch, D. (1997). The Fabric of Reality. London: Allen Lane.
Distin, K. (2005). The Selfish Meme: A Critical Reassessment. Cambridge: Cambridge University Press.

Dostoevsky, F. (1994). The Karamazov Brothers. Oxford: Oxford University Press.

Ehrman, B. D. (2003a). Lost Christianities: The Battles for Scripture and the Faiths We Never Knew. Oxford: Oxford University Press.
Ehrman, B. D. (2003b). Lost Scriptures: Books that Did Not Make It into the New Testament. Oxford: Oxford University Press.
Ehrman, B. D. (2006). Whose Word Is It? London: Continuum.
Fisher, H. (2004). Why We Love: The Nature and Chemistry of Romantic Love. New York: Holt.

Forrest, B. and Gross, P. R. (2004). Creationism's Trojan Horse: The Wedge of Intelligent Design. Oxford: Oxford University Press.
Frazer, J. G. (1994). The Golden Bough. London: Chancellor Press.
Freeman, C. (2002). The Closing of the Western Mind. London:Heinemann.

Galouye, D. F. (1964). Counterfeit World. London: Gollancz.

Glover, J. (2006). Choosing Children. Oxford: Oxford University Press.

Goodenough, U. (1998). The Sacred Depths of Nature. New York: Oxford University Press.

Goodwin, J. (1994). Price of Honour: Muslim Women Lift the Veil of Silence on the Islamic World. London: Little, Brown.

Gould, S. J. (1999). Rocks of Ages: Science and Religion in the Fullness of Life. New York: Ballantine.

Grafen, A. and Ridley, M., eds (2006). Richard Dawkins: How a Scientist Changed the Way We Think. Oxford: Oxford University Press.

Grand, S. (2000). Creation: Life and How to Make It. London:
Weidenfeld & Nicolson.
Grayling, A. C. (2003). What Is Good? The Search for the Best Way to Live. London: Weidenfeld & Nicolson.

Gregory, R. L. (1997). Eye and Brain. Princeton: Princeton University
Press.
Halbertal, M. and Margalit, A. (1992). Idolatry. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Harris, S. (2004). The End of Faith: Religion, Terror and the Future of Reason. New York: Norton.
Harris, S. (2006). Letter to a Christian Nation. New York: Knopf.
Haught, J. A. (1996). 2000 Years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt. Buffalo, NY: Prometheus.

Hauser, M. (2006). Moral Minds: How Nature Designed our Universal Sense of Right and Wrong. New York: Ecco.

Hawking, S. (1988). A Brief History of Time. London: Bantam.
Henderson, B. (2006). The Gospel of the Flying Spaghetti Monster. New York: Villard.

Hinde, R. A. (1999). Why Gods Persist: A Scientific Approach to Religion. London: Routledge.

Hinde, R. A. (2002). Why Good Is Good: The Sources of Morality. London: Routledge.

Hitchens, C. (1995). The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and Practice. London: Verso.

Hitchens, C. (2005). Thomas Jefferson: Author of America. NewYork: HarperCollins.

Hodges, A. (1983). Alan Turing: The Enigma. New York: Simon &Schuster.

Holloway, R. (1999). Godless Morality: Keeping Religion out of Ethics. Edinburgh: Canongate.

Holloway, R. (2001). Doubts and Loves: What is Left of Christianity. Edinburgh: Canongate.

Humphrey, N. (2002). The Mind Made Flesh: Frontiers of Psychology and Evolution. Oxford: Oxford University Press.

Huxley, A. (2003). The Perennial Philosophy. New York: Harper.
Huxley, A. (2004). Point Counter Point. London: Vintage.

Huxley, T. H. (1871). Lay Sermons, Addresses and Reviews. NewYork: Appleton.

Huxley, T. H. (1931). Lectures and Essays. London: Watts.

Jacoby, S. (2004). Freethinkers: A History of American Secularism. New York: Holt.
Jammer, M. (2002). Einstein and Religion. Princeton: Princeton University Press.
Jaynes, J. (1976). The Origin of Consciousness in the Breakdown of the Bicameral Mind. Boston: Houghton Mifflin.

Juergensmeyer, M. (2000). Terror in the Mind of God: The Global Rise of Religious Violence. Berkeley: University of California Press.
Kennedy, L. (1999). All in the Mind: A Farewell to God. London: Hodder &c Stoughton.

Kertzer, D. I. (1998). The Kidnapping of Edgardo Mortara. New York:
Vintage.
Kilduff, M. and Javers, R. (1978). The Suicide Cult. New York:
Bantam.
Kurtz, P., ed. (2003). Science and Religion: Are They Compatible?
Amherst, NY: Prometheus.
Kurtz, P . (2004). Affirmations: Joyful and Creative Exuberance. Amherst, NY: Prometheus.
Kurtz, P. and Madigan, T. J., eds (1994). Challenges to the Enlightenment: In Defense of Reason and Science. Amherst, NY: Prometheus.

Lane, B. (1996). Killer Cults. London: Headline.

Lane Fox, R. (1992). The Unauthorized Version. London: Penguin.
Levitt, N. (1999) Prometheus Bedeviled. New Brunswick, NJ: Rutgers University Press.

Loftus, E. and Ketcham, K. (1994). The Myth of Repressed Memory: False Memories and Allegations of Sexual Abuse. New York: St Martin's.

McGrath, A. (2004). Dawkins' God: Genes, Memes and the Meaning of Life. Oxford: Blackwell.

Mackie, J. L. (1985). The Miracle of Theism. Oxford: Clarendon Press.
Medawar, P. B. (1982). Pluto's Republic. Oxford: Oxford University
Press.
Medawar, P. B. and Medawar, J. S. (1977). The Life Science: Current Ideas of Biology. London: Wildwood House.

Miller, Kenneth (1999). Finding Darwin's God. New York:
HarperCollins.
Mills, D. (2006). Atheist Universe: The Thinking Person's Answer to Christian Fundamentalism. Berkeley: Ulysses Books.

Mitford, N. and Waugh, E. (2001). The Letters of Nancy Mitford and Evelyn Waugh. New York: Houghton Mifflin.

Mooney, C. (2005). The Republican War on Science. Cambridge, MA:
Basic Books.
Perica, V. (2002). Balkan Idols: Religion and Nationalism in Yugoslav States. New York: Oxford University Press.

Phillips, K. (2006). American Theocracy. New York: Viking.

Pinker, S. (1997). How the Mind Works. London: Allen Lane.
Pinker, S. (2002). The Blank Slate: The Modern Denial of Human Nature. London: Allen Lane.
Plimer, I. (1994). Telling Lies for God: Reason vs Creationism. Milsons Point, NSW: Random House.
Polkinghorne, J. (1994). Science and Christian Belief: Theological Reflections of a Bottom-Up Thinker. London: SPCK.
Rees, M. (1999). Just Six Numbers. London: WeidenfeJd & NicoJson.
Rees, M. (2001). Our Cosmic Habitat. London: Weidenfeld &NicoJson.
Reeves, T. C. (1996). The Empty Church: The Suicide of Liberal Christianity. New York: Simon & Schuster.

Richerson, P. J. and Boyd, R. (2005). Not by Genes Alone: How Culture Transformed Human Evolution. Chicago: University of Chicago Press.

Ridley, Mark (2000). Mendel's Demon: Gene Justice and the Complexity of Life. London: Weidenfeld & Nicolson.

Ridley, Matt (1997). The Origins of Virtue. London: Penguin.
Ronson, J. (2005). The Men Who Stare at Goats. New York: Simon &Schuster.

Ruse, M. (1982). Darwinism Defended: A Guide to the Evolution Controversies. Reading, MA: Addison-Wesley.

Russell, B. (1957). Why I Am Not a Christian. London: Routledge.
Russell, B. (1993). The Quotable Bertrand Russell. Amherst, NY: Prometheus.

Russell, B. (1997a). The Collected Papers of Bertrand Russell, vol. 2: Last Philosophical Testament, 1943-1968. London: Routledge.
Russell, B. (1997b). Collected Papers, vol. 11, ed. J. C. Slater and P. Köllner. London: Routledge.

Russell, B. (1997c). Religion and Science. Oxford: Oxford University
Press.
Ruthven, M. (1989). The Divine Supermarket: Travels in Search of the Soul of America. London: Chatto & Windus.

Sagan, C. (1995). Pale Blue Dot. London: Headline.

Sagan, C. (1996). The Demon-Haunted World: Science as a Candle in the Dark. London: Headline.

Scott, E. C. (2004). Evolution vs. Creationism: An Introduction. Westport, CT: Greenwood.
Shennan, S. (2002). Genes, Memes and Human History. London: Thames & Hudson.
Shermer, M. (1997). Why People Believe Weird Things: Pseudoscience, Superstition and Other Confusions of Our Time. New York: W. H. Freeman.
Shermer, M. (1999). How We Believe: The Search for God in an Age of Science. New York: W. H. Freeman.
Shermer, M. (2004). The Science of Good and Evil: Why People Cheat, Gossip, Care, Share, and Follow the Golden Rule. New York: Holt.
Shermer, M. (2005). Science Friction: Where the Known Meets the Unknown. New York: Holt.
Shermer, M. (2006). The Soul of Science. Los Angeles: Skeptics Society.
Silver, L. M. (2006). Challenging Nature: The Clash of Science and Spirituality at the New Frontiers of Life. New York: HarperCollins.
Singer, P. (1990). Animal Liberation. London: Jonathan Cape.

Singer, P. (1994). Ethics. Oxford: Oxford University Press.

Smith, K. (1995). Ken's Guide to the Bible. New York: Blast Books.
Smolin, L. (1997). The Life of the Cosmos. London: Weidenfeld &Nicolson.

Smythies, J. (2006). Bitter Fruit. Charleston, SC: Booksurge.
Spong, J. S. (2005). The Sins of Scripture. San Francisco: Harper.
Stannard, R. (1993). Doing Away with God? Creation and the Big Bang. London: Pickering.

Steer, R. (2003). Letter to an Influential Atheist. Carlisle: Authentic Lifestyle Press.
Stenger, V. J. (2003). Has Science Found God? The Latest Results in the Search for Purpose in the Universe. New York: Prometheus.
Susskind, L. (2006). The Cosmic Landscape: String Theory and the Illusion of Intelligent Design. New York: Little, Brown.
Swinburne, R. (1996). Is There a God? Oxford: Oxford University Press.
Swinburne, R. (2004). The Existence of God. Oxford: Oxford University Press.
Taverne, R. (2005). The March of Unreason: Science, Democracy and the New Fundamentalism. Oxford: Oxford University Press.

Tiger, L. (1979). Optimism: The Biology of Hope. New York: Simon& Schuster.

Toland, J. (1991). Adolf Hitler: The Definitive Biography, New York:
Anchor.
Trivers, R. L. (1985). Social Evolution. Menlo Park, CA: Benjamin/Cummings.

Unwin, S. (2003). The Probability of God: A Simple Calculation that Proves the Ultimate Truth. New York: Crown Forum.

Vermes, G. (2000). The Changing Faces of Jesus. London: Allen Lane.
Ward, K. (1996). God, Chance and Necessity. Oxford: Oneworld.
Warraq, I. (1995). Why I Am Not a Muslim. New York: Prometheus.
Weinberg, S. (1993). Dreams of a Final Theory. London: Vintage.
Wells, G. A. (1986). Did Jesus Exist? London: Pemberton.
Wheen, F. (2004). How Mumbo-Jumbo Conquered the World: A Short History of Modern Delusions. London: Fourth Estate.
Williams, W, ed. (1998). The Values of Science: Oxford Amnesty Lectures 1997. Boulder, CO: Westview.
Wilson, A. N. (1993). Jesus. London: Flamingo.

Wilson, A. N. (1999). God's Funeral. London: John Murray.

Wilson, D. S. (2002). Darwin's Cathedral: Evolution, Religion and the Nature of Society. Chicago: University of Chicago Press.

Wilson, E. O. (1984). Biophilia. Cambridge, MA: Harvard University
Press.
Winston, R. (2005). The Story of God. London: Transworld/BBC.
Wolpert, L. (1992). The Unnatural Nature of Science. London: Faber& Faber.

Wolpert, L. (2006). Six Impossible Things Before Breakfast: The Evolutionary Origins of Belief. London: Faber & Faber.

Young, M. and Edis, T., eds (2006). Why Intelligent Design Fails: A Scientific Critique of the New Creationism. New Brunswick: Rutgers University Press.






[1] Haute francophonyism: tôi chưa chắc, nhưng đoán đây là từ do Dawkins đặt ra, có ẩn ý – văn chương trưởng giả, triết lý không thiết thực, không gắn bó với đời sống, nhiều phần hào nhoáng làm dáng trí thức (tính chất quen thuộc của trí thức Pháp) hơn là chân thực đi tìm ý nghĩa cho đời sống, đó là cách hiểu của tôi.
[2] Biophilia: Một cảm nhận sâu xa về sự sống, và thế giới sống hiện thực
[3] Now We Are Six, gồm 36 bài thơ, viết cho trẻ em, của Alan Alexander Milne (1882 –1956), xuất bản lần đầu năm 1927. Nhân vật Christopher Robin dựa trên chính người con trai của tác giả, Christopher Robin Milne.
[4] Bicameralism (lý thuyết tâm lý cho là “có-hai-buồng-trong-não”) là một giả thuyết trong tâm lý học, cho rằng não thức con người một thời trước đây đã trong một trạng thái ở đó những chức năng nhận thức đã được phân làm hai, trong một phần (buồng) của não xem dường là “nói năng”, và trong phần thứ hai xem dường là “lắng nghe” và “tuân phục” – một thứ “não thức hai buồng” — a bicameral mind. Thuật ngữ này do nhà tâm lý học Julian Jaynes ghép chữ và đặt ra, ông cũng trình bày lý thuyết này trong tập sách nổi tiếng The Origin of Consciousness in the Breakdown of the Bicameral Mind, (Nguồn gốc của Ý thức trong sự Phân hủy của Não thức có hai-buồng) xuất bản năm 1976 của ông; trong đó, ông đưa ra trường hợp xem xét của ông – là “não thức có hai buồng” đã là trạng thái thông thường và phổ biến của não thức sinh hoạt tâm lý con người cho đến tận rất gần đây, chỉ khoảng 3000 năm trước. Khi con người tiến dần đến mức độ tâm lý trưởng thành, có khả năng nhận ra ảo ảnh, và hiểu được tính giả tạo trong mô hình “não thức hai buồng” khiến nó xụp đổ, và khi ấy, ý thức con người thực sự mới ra đời.
[5] Ptah dường như là một trong những vị thần Egypt cổ xưa nhất . Ptah được xem là đại diện cho mặt trời tại thời điểm nó bắt đầu nhô lên trên đường chân trời và hoặc ngay sau khi nó đã mọc. Ông được coi là một vị gót sáng tạo. Gót của các kiến ​​trúc sư, nghệ sĩ và nhà điêu khắc. Đó là Ptah đã xây dựng các thuyền chở hồn người chết trong thế giới bên kia. Trong Book of the Dead chúng ta còn biết ông là vị kiến trúc sư trưởng, có trách nhiệm xây dựng khung hình cho toàn vũ trụ. Người ta nói rằng Ptah tạo ra các tấm kim loại vĩ đại, để làm thềm trời và mái trời. Ông cũng xây dựng những chống đỡ để giữ chúng đứng vững. Một số truyền thuyết cũng nói rằng bằng cách nói lên, gọi tên của tất cả mọi thứ, Ptah đã tạo ra chúng tất cả.
Ptah cũng là vị gót chính của thành phố cổ Memphis. Ông là một gót sáng tạo đã đem lại tất cả mọi thứ thành hữu thể bằng cách nghĩ đến chúng trong não thức của ông, và nói lên tên của chúng với lưỡi của ông . Ông duy nhất trong số các vị thần sáng tạo Egypt là phương pháp của ông là trí tuệ, chứ không phải là vật chất . Theo những thày tu của Memphis, tất cả mọi sự vật việc đều là công trình của tim và lưỡi của Ptah: những vị gót được sinh ra, những thị trấn được thành lập, và trật tự được duy trì.

[6] Eleanor Rigby – tên bài hát nổi tiếng của Beatles, Paul McCartney viết năm 1966: “Ah, look at all the lonely people. Ah, look at all the lonely people,…” Eleanor Rigby thành biểu tượng của những người bơ vơ, cô đơn, thường nghèo khổ, sống bên lề xã hội.
[7] Có nhiều thống kê so sánh trong thập niên vừa qua, trước sau đều cho thấy một hiện tượng – trong các nước có đa sống dân chúng nay đã lạnh nhạt với niềm tin tôn giáo (Kitô), sau khi họ đã nhận hiểu là “mê tín”, phản con người; và đã nghiêng sang những lập trường “không-tin-gót” – điển hình như các nước Scandinavia, vùng bắc Âu – dân chúng ở đây đều duy trì một mức sống cao nhất thế giới, xã hội an bình, ít tội phạm, các quốc gia này xây dựng một chính phủ hướng đến mô hình của chủ nghĩa xã hội nhân đạo, đặc biệt quan tâm đến sự chu toàn các phúc lợi cho mọi cá nhân trong cộng đồng.
[8] Giống chó St Bernard được huấn luyện cứu người bị nạn tuyết đổ (avalanche), ở Switzeland, thường sẵn đeo dưới cổ một thùng rượu, loại brandy, dành khi tìm được người bị nạn để uống cho ấm bụng.
[9]The Seven Ages of Man’ một đoạn thơ độc thoại, trong kịch ‘As You Like It’ (Act-II, Scene-VII), của William Shakespeare, mô tả bảy giai đoạn của đời người, từ thơ ấu, yếu đuối, phải nương tựa vào người khác, đến già lão, lại trở về yếu đuối, và cũng lại phải phải nương tựa vào người khác,
[10] [Theo trí nhớ, tôi gán luận chứng này với triết gia trường Oxford là Derek Parfitt. Tôi chưa tìm kiếm nguồn gốc của nó cho tường tận vì tôi chỉ dùng nó như một thí dụ nhắc qua về sự an ủi triết lý.]
[11] Xem bản tạm dịch của tôi – Bertrand Russell – Những gì tôi tin tưởng
[12] Thơ của W.B. Yeats (1865–1939). Trong tập The Wind Among the Reeds, bài ‘To my Heart, bidding it have no Fear’
Be you still, be you still, trembling heart;
Remember the wisdom out of the old days:
Him who trembles before the flame and the flood,
And the winds that blow through the starry ways,
Let the starry winds and the flame and the flood
Cover over and hide, for he has no part
With the proud, majestical multitude.
Tạm dịch:
Hãy vẫn là bạn, hãy cứ là bạn, tấm lòng run rẩy
Hãy nhớ sự khôn ngoan có từ những ngày cũ:
Hắn là kẻ run rẩy trước lửa và lụt
Và những trận gió thổi qua những lối đầy sao
Hãy mặc gió của trời sao, và lửa, và lụt
Phủ mình và trốn kín, vì hắn không dự phần
Với đám đông uy nghi, kiêu hãnh

[13] [Tường trình của Bản tin BBC:
http://news.bbc.co.uk/l/hi/special_report/1999/06/99/cardinal_hume_funeral/376263.stm.]
[14] Euthanasia = an tử (giúp cái chết đến nhanh chóng không kéo dài đau đớn vô vọng), là gây cái chết cho một ai đó với chủ ý làm người ấy sớm thoát đau đớn. Thực sự là giết người nhưng tuân theo ý muốn, lời dặn của chính nạn nhân, là người muốn chết. Và assisted suicide = trợ tử (physician-assisted suicide), giúp một người tự tử, để người ấy chết cho nhanh chóng, thôi không bị bệnh tật hành hạ đau đớn; người trợ giúp thường là y sĩ, làm theo ý muốn của người bệnh.
Sự khác nhau của hai cách chết là tính cách thụ động và chủ động; euthanasia= người chết thụ động, để người khác giết mình (làm theo lời dặn trước, nay bệnh nhân đã bất lực, hay mê man, hay mất trí,...) còn trong assisted suicide người bệnh chủ động, nhờ người khác giúp mình tự tử (the patient is in complete control of the process that leads to death because he/she is the person who performs the act of suicide. The other person simply helps (for example, providing the means for carrying out the action).
[15] Nguyên văn: “being death will be no different from being unborn” – tư thế chết (bỏ đời sống này) không khác gì với tư thế không sinh ra đời (không có đời sống này).
Chết là trở về – không biết về đâu/trạng thái nào – nhưng có lẽ giống như chốn/trạng thái nào đó trước khi chúng ta ra đời. Tượng tự “sống gửi – thác về” – về đâu? phải chăng quay về chốn/trạng thái (sinh ký, tử qui) vẫn có đó trước khi ra đời.
[16] [Một nghiên cứu về thái độ đối với cái chết trong số những người Mỹ không-tin-có-gót, đã tìm thấy như sau: 50 phần trăm muốn có một lễ tưởng niệm trong đó ăn mừng đời sống của họ; 99 phần trăm ủng hộ sự tự tử có y sĩ trợ giúp, cho những ai muốn nó, và 75 phần trăm cũng muốn có nó cho bản thân mình, 100 phần trăm không muốn có liên hệ nào với nhân viên bệnh viện nếu là người (lợi dụng cơ hội để) tuyên truyền, thúc đẩy niềm tin tôn giáo (Kitô).
Xem http://nursestoner.com/myresearch.html. ]
[17] [Một bạn người Australia đã ghép đặt ra một cụm từ tuyệt vời để mô tả khuynh hướng mộ đạo tăng dần theo tuổi già. Nói nó với một ngữ điệu Australia, lên giọng ở cuối như một câu hỏi: “nhừi nheét cho hồi chung keét?”]
[18] revelation
[19] Ellis Island: tên một hòn đảo thuộc thành phố NewYork, nổi tiếng là nơi đặt chân đầu tiên của nhiều thế hệ di dân từ châu Âu vào nước Mỹ, trong thế kỷ trước.
[20] purgatory: Theo lý thuyết đạo Catô Rôma – sau khi chết và chịu phán xét, linh hồn được lên Thiên đàng hoặc xuống Hỏa ngục, theo như kinh Thánh (Matthew 25:46 – Rồi họ sẽ đi vào sự trừng phạt đời đời, còn những người nhân đức sẽ đi vào sự sống đời đời). Nhưng có những linh hồn sau khi chết chưa đáng được lên thiên đàng ngay, nhưng cũng không đến nỗi phải xuống Hỏa ngục vĩnh viến, họ sẽ đi đâu? Đến đây, Gót “công bằng vô cùng, nhưng cũng thương xót vô cùng”, nên đã lập ra một nơi đền tội và thanh tẩy, nơi đó Catô Rôma gọi là luyện ngục, nơi thanh tẩy tội lỗi cuối cùng.
[21] Indulgence: Tục lệ làm tiền bằng cách lợi dụng sự mê tín của con chiên đã có một lịch sử lâu dài, đặc biệt vua chiên Innocent III công khai khuyến khich bán indulgence từ thời những Thập tự chinh, thế kỷ 11, 12. Nhưng chứng tích “xa xỉ” nhất của nó vẫn còn đến ngày nay chính là nhà thờ tráng lệ và nguy nga nhất của Vatican – nhà thờ St Peter. Đến thế kỷ 16, khi vua chiên Pope Leo X cần tiền để xây lại nhà thờ St Peter, phương pháp làm tiền chính của hội nhà thờ Catô là cấp giấy ân xá để đổi lấy các khoản đóng góp tài chính cho công trình kiến trúc vĩ đại này. Tiền thu được từ việc bán những indulgences đã dùng để xây dựng cung điện cho vua chiên.
[22] “ill-gotten” gains: làm giàu bất chính, lừa đảo hay phi pháp.
[23] Nigerian Internet Scam
[24] [(vị đương kim là) phái Nữ – vậy nhà chăn chiên cấp tỉnh William sẽ kết luận điều đó sao đây?]
[25] Q.E.D.
[26] Emily Dickinson
That it will never come again
Is what makes life so sweet.
Believing what we don’t believe
Does not exhilarate.
That if it be, it be at best
An ablative estate —
This instigates an appetite
Precisely opposite.
Tạm dịch:
Rằng sẽ không bao giờ lại có nữa
Là điều khiến đời quá ngọt ngào
Tin những gì chúng ta không tin
Chẳng làm phấn khích.
Rằng nếu nó là, nó tốt nhất là
Một cơ ngơi tháo gỡ được —
Điều này kích động một thèm thuồng
Đích thực trái ngược.

[27] The electromagnetic spectrum từ năng lượng thấp nhất/chân sóng dài nhất (Radio, Microwave, Infrared,..) đến năng lượng cao nhất/chân sóng ngắn nhất (Ultraviolet, X-ray, Gamma ray….)
[28] [“Vườn những tia cực tím” là tựa đề của một trong năm bài giảng, Royal Institution Christmas Lectures, của tôi, đã phát hình đầu tiên trên TV của đài BBC, dưới nhan đề chung “Lớn lên trong Vũ trụ”. Toàn bộ loạt năm bài giảng đã cho công bố – xem tại:
 www.richarddawkins.net, trang web của Richard Dawkins Foundation. ]
[29] Douglas Adams. The Hitchhiker’s Guide to the Galaxy. Lần lượt là phát thanh radio, truyện, bộ truyện, chương trình TV, truyện tranh khôi hài, coomputơ game, … Nguyên là một chương trinh phát thanh có nội dung khoa học giả tưởng được trinh bày khôi hài, phát thanh lần đầu trên đài BBC, Radio 4, năm 1978.
[30] [Một nhận xét tương tự của Niels Bohr: “Bất cứ ai nếu không bị sốc với lý thuyết quantum, là đã không hiểu nó”.]
[31] Những Vũ trụ song song có thực sự hiện hữu không? Năm 1954, một sinh viên trẻ tuổi ban tiến sĩ của Princeton là Hugh Everett III đã đưa ra một ý tưởng hoàn toàn mới: Đó là có hiện hữu những vũ trụ song song, giống y như vũ trụ của chúng ta. Những vũ trụ này đều tất cả có liên hệ với của chúng ta, thực ra, chúng là những phân nhánh từ vũ trụ của chúng ta, và vũ trụ chúng ta lại là phân nhánh của những vũ trụ khác. Trong những vũ trụ song song này, những chiến tranh như chúng ta biết, đều có những kết cuộc khác biệt với những gì chúng ta được biết, vì đó chỉ là những kết cuộc xảy ra trong vũ trụ này. Những chủng loại đã tuyệt chủng trong vũ trụ chúng ta đều đã tiến hóa và đã thích ứng trong những vũ trụ khác. Trong những vũ trụ khác, loài người chúng ta có thể đã tuyệt chủng. Suy nghĩ này làm chúng ta choáng váng, thế nhưng, nó vẫn có thể hiểu được. Những khái niệm về những vũ trụ song song hoặc những thế giới có những chiều thời-không tương tự như của chúng ta, đã xuất hiện trong những tác phẩm khoa học viễn tưởng và đã được dùng như những giải thích cho siêu hình học.

Với thuyết Nhiều-Thế giới (Many-Worlds) của ông, Everett đã cố gắng để trả lời một câu hỏi khá vướng mắc, liên quan đến vật lý quantum: Tại sao vật chất ở mức độ quantum hoạt động thất thường, khi thế này, lúc khác thế khác, không đoán trước được? Mức độ quantum là kích thước vật chất nhỏ nhất khoa học đã tìm biết được cho đến nay. Những nghiên cứu về vật lý quantum đã bắt đầu vào năm 1900, khi nhà vật lý Max Planck đầu tiên giới thiệu khái niệm này với thế giới khoa học. Nghiên cứu về bức xạ Planck mang lại một số kết quả bất thường, mâu thuẫn với định luật vật lý cổ điển. Những tìm tòi mới này gợi ý rằng có những luật khác làm việc trong vũ trụ, hoạt động trong một mức độ dưới sâu hơn so với những gì chúng ta biết.

Nguyên lí bất định Heisenberg: Trong thời gian tương đối ngắn, những nhà vật lý nghiên cứu trong mức độ quantum nhận thấy một số điều đặc biệt về thế giới nhỏ bé này. Lấy một thí dụ, những particles tồn tại trong mức độ này có một cách để nhận lấy những hình thức khác nhau một cách tùy tiện. Thí dụ, những nhà khoa học đã quan sát thấy những photon – những “gói” nhỏ của ánh sáng– hoạt động như particleswaves (hạt và sóng). Ngay cả, một photon đơn lẻ cũng trưng bày cho thấy sự thay đổi thể dạng này. Hãy tưởng tượng khi một người bạn liếc nhìn bạn nếu đã thấy bạn hoạt động như một con người cứng chắc, nhưng khi anh ta quay nhìn lần nữa, bạn đã mang thể dạng một khí bốc hơi.

Điều này đã được biết như Nguyên lí Bất định, còn được gọi là nguyên lí bất định Heisenberg, hoặc Nguyên lí không xác định (Heisenberg Uncertainty Principle, Indeterminacy Principle). Nhà vật lý người Đức Werner Heisenberg, năm 1927, phát biểu rằng không thể đo được chính xác đồng thời cả hai: vị trí (position) và vận tốc chuyển dịch (velocity) của một đối tượng, dù chỉ trên lý thuyết. Ngay chính khái niệm vị trí chính xác và vận tốc chính xác, đồng thời với nhau, không có ý nghĩa trong thế giới quantum. Heisenberg cho rằng chỉ bằng cách quan sát vật chất ở mức độ quantum, chúng ta ảnh hưởng đến hành vi của vật chất đó. Thế nên, chúng ta có thể không bao giờ hoàn toàn chắc chắn về bản chất của một đối tượng quantum hoặc những thuộc tính của nó, như vận tốc và vị trí của nó.


Đây là một phát biểu về hiệu ứng lưỡng tính vừa hạt-và-sóng (wave-particle duality) trong thuộc tính  của những đối tượng subatomic. Trong toán học, nguyên lí bất định phát biểu, với x là vị trí và p là động lượng (momentum):

Đây có lẽ là phương trình nổi tiếng  nhất, sau E = mc2 trong vật lý. Chú ý rằng đây không phải là vấn đề sai lầm trong đo lường trong một hình thức khác, nhưng sự kết hợp của vị trí, năng lượng (momentum) và thời gian thực sự không thể xác định cho một hạt quantum, cho đến khi một phép đo được thực hiện (sau đó hàm số sóng của nó sụp đổ).

Ý tưởng này được hỗ trợ bằng sự giải thích Copenhagen về cơ học quantum. Nêu lên bởi nhà vật lý Denmark Niels Bohr, giải thích này nói rằng tất cả những hạt quantum không tồn tại trong một trạng thái này hay một trạng thái khác, nhưng trong tất cả những trạng thái có thể của nó cùng một lúc. Tổng số của tất cả những trạng thái có thể có của một đối tượng quantum được gọi là hàm số sóng (wave function) của nó. Trạng thái của một đối tượng đang hiện hữu cùng một lúc trong tất cả những trạng thái có thể của nó được gọi là superposition (siêu vị thế) của nó. Theo Bohr, khi chúng ta quan sát một đối tượng quantum, chúng ta ảnh hưởng đến hành vi của nó. Sự quan sát, dù thụ động, phá vỡ superposition của một đối tượng và thiết yếu buộc đối tượng phải chọn lấy một trong những trạng thái (hay thể dạng) từ hàm số sóng của nó. Lý thuyết này giải đáp lý do tại sao những nhà vật lý khi thực hiện những phép đo đã có những kết quả đối nghịch từ cùng đối tượng quantum giống nhau trong những lần khác nhau: Đối tượng đã “chọn” trạng thái khác nhau đương khi xảy ra những phép đo khác nhau. Giải thích của Bohr đã được chấp nhận rộng rãi, và vẫn còn được chấp nhận nhiều trong giới quantum. Nhưng gần đây, thuyết nhiều thế giới của Everett đã gây nhiều chú ý.

Thuyết Nhiều-Thế giới (Many-Worlds): Hugh Everett đã đồng ý với phần lớn những gì Niels Bohr đã đưa ra về thế giới quantum. Ông đồng ý với ý tưởng superposition, cũng như với khái niệm hàm số sóng. Nhưng Everett không đồng ý với Bohr ở một khía cạnh quan trọng. Với Everett, sự đo lường/quan sát một đối tượng quantum không ép buộc nó vào một trạng thái có thể nhận hiểu này hay khác. Thay vào đó, một sự đo lường/quan sát khi được thực hiện trên một đối tượng quantum gây ra một phân chia thực sự trong vũ trụ. Vũ trụ – theo nghĩa đen – được nhân lên, tách thành một vũ trụ cho mỗi kết quả có thể có từ sự đo lường/quan sát này. Thí dụ, hàm số sóng của một đối tượng vừa là một particle và wave (hạt và sóng). Khi một nhà vật lý đo lường particle, có hai kết quả có thể: Nó hoặc sẽ được đo như một hạt hoặc một sóng. Sự khác biệt này làm thuyết Nhiều-Thế-giới của Everett thành một giải thích cạnh tranh với giải thích Copenhagen cho cơ học quantum. Khi một nhà vật lý đo lường đối tượng, vũ trụ phân thành hai vũ trụ riêng biệt để chứa mỗi kết quả có thể xảy ra. Vì vậy, một nhà khoa học trong một vũ trụ thấy đối tượng đã được đo trong dạng sóng. Cùng một nhà khoa học trong vũ trụ kia đo đối tượng như một hạt. Điều này cũng giải thích tại sao một hạt có thể được đo trong nhiều thể dạng.

Chẳng những giải thích như thế xem dường gây nhiều bất an lo lắng, giải thích Nhiều-Thế-giới của Everett còn mang những nội dung vượt quá quantum. Nếu một hành động có nhiều hơn một kết cuộc có thể có được, sau đó – nếu thuyết của Everett là đúng – vũ trụ phân tách khi hành động đó được thực hiện. Điều này cũng đúng ngay cả khi một người thụ động không chọn lấy một hành động nào. Điều này có nghĩa rằng nếu bạn đã bao giờ từng thấy chính mình trong một tình huống mà cái chết là một kết quả có thể xảy ra (thí dụ tai nạn rơi máy bay), nhưng may mắn bạn thoát chết; sau đó trong một vũ trụ song song với chúng ta, bạn đã chết. Đây chỉ là một lý do khiến một số người thấy cách giải thích Nhiều-Thế-giới làm bất an lo lắng.

Một khía cạnh khác đáng lo ngại của giải thích Nhiều-Thế-giới là nó làm suy yếu khái niệm của chúng ta về thời gian chạy theo đường thẳng. Hãy tưởng tượng một dòng thời gian cho thấy lịch sử của chiến tranh Việt Nam. Thay vì là một đường thẳng cho thấy những sự kiện đáng chú ý, tất cả tiến triển theo một dòng chảy đi tới trước, nhưng dòng thời gian theo thuyết Nhiều-Thế-giới sẽ cho thấy từng kết quả có thể có của mỗi biến cố. Từ đó, mỗi kết quả có thể có của những hành động xảy ra kế tiếp (như là một kết quả của những kết quả ban đầu) sẽ được ghi chép thêm. Nhưng một người không thể nhận thức được những tự thân khác của chính mình – hoặc ngay cả cái chết của mình – vốn đều tồn tại trong những vũ trụ song song. Như thế, làm thế nào chúng ta có thể bao giờ biết nếu lý thuyết Nhiều Thế giới là đúng? Đảm bảo rằng việc giải thích này về mặt lý thuyết là có thể, đã do Hans Moravec in 1987 và Bruno Marchal, năm 1988 đưa ra hai khái niệm quantum suicideimmortality, và từ một thí nghiệm suy tưởng (thought experiment) của Max Tegmark, cuối năm 1997 – một thí nghiệm tưởng tượng chỉ xảy ra bằng suy nghĩ trong đầu của người suy luận, được dùng để chứng minh hay bác bỏ lý thuyết hay một ý tưởng – được gọi là tự tử quantum.

Quantum suicide cơ bản phát biểu một điều: Có thể xảy ra được là đời sống của chúng ta có thể được tùy thuộc vào trạng thái của một subatomic particle duy nhất. Đây là một thí nghiệm tưởng tượng để thực hiện một sự phân biệt giữa cơ học lượng tử và giải thích của Everett.

Thí nghiệm nói rằng một nhà vật lý đứng ở trước một khẩu súng đã lên đạn, và có cò súng được khởi động bởi sự phân rã phóng xạ của một atom. Có nghĩa là các nhà vật lý có thể cố gắng để lẩy cò súng bất cứ lúc nào ông muốn, nhưng viên đạn sẽ không bắn đi trừ khi một cái máy đã gài vào súng để đo sự quay tròn quantum của sub-atomic particle, có thể quay lên hoặc xuống. Ví dụ, nếu máy dò xét được thiết lập để lẩy cò khi nó ghi nhận sự quay lên của một particle, khi sự quay lên được đo, sau đó súng sẽ bắn đạn ra khỏi nòng.

Điều này có nghĩa rằng nhà vật lý sẽ có cơ may 50-50 vẫn còn sống, nếu ông ta bóp cò súng, và rằng ông có thể bóp cò súng một số lượng vô hạn thời gian trước khi ông chết. Tuy nhiên, 50-50 lẻ này đem chỗ cho sự giải thích thuyết nhiều thế giới, vì mỗi lần bóp cò súng, vũ trụ được phân thành hai vũ trụ riêng biệt, một vũ trụ mà trong đó nhà vật lý sống, và vũ trụ khác nơi ông chết, có nghĩa là, dù kết quả của quá trình này ra sao, nhà vật lý ý thức về những gì xảy ra, biết rằng mình thì bất tử. Trong ý nghĩa này, ông sẽ có thể tồn tại vô thời hạn. Hiện tượng này được gọi quantum immortality,

Các bản sao sống xót của nhà vật lý sẽ tiếp tục thí nghiệm cho đến khi họ sẽ không còn tồn tại, nhưng các bản sao không chết sẽ nhận thấy tại một thời điểm nào đó trong thời gian, dù gì xảy ra, họ dường như không bao giờ chết. Thí nghiệm này có cùng nguyên tắc cơ bản như một thí nghiệm tưởng tượng khác gọi là con mèo của Schrodinger.

Thí nghiệm tưởng tượng này làm mới lại sự chú ý đến lý thuyết Everett, mà trong nhiều năm đã bị coi là rác rưởi không giá trị. Từ khi thuyết thuyết Nhiều-Thế-giới đã được chứng minh là có thể có được, những nhà vật lý và toán học đã có mục đích điều tra những tác động của lý thuyết sâu xa hơn. Nhưng Nhiều-Thế-giới không phải là lý thuyết duy nhất đã tìm cách giải thích vũ trụ. Cũng không phải là thuyết duy nhất cho thấy có những vũ trụ song song với của chúng ta. Một thuyết mới hơn là Thuyết-Dây (String Theory).

Thuyết-DâyChúng ta sống trong một vũ trụ phức tạp tuyệt vời, và chúng ta rất tò mò về nó, do bản tính tự nhiên của con người. Đã từ lâu, chúng ta vẫn tự hỏi – tại sao chúng ta ở đây? chúng ta và thế giới này từ đâu đến? Thế giới làm bằng gì. Thuyết Dây là nỗ lực gần đây nhất để trả lời câu hỏi cuối và phần của câu hỏi trước đó. Vậy, thế giới làm bằng gì? Vật chất thông thường quanh chúng ta là những kết hợp khác nhau của những atoms, mỗi atom gồm ba thành phần cơ bản: những electrons quay xung quanh một nhân nucleus, nhân này gồm những neutronproton. Electron là một particle cơ bản thực sự, nó thuộc một gia đình gồm những particle gọi là lepton. Nhưng neutron và proton được làm bằng những particle nhỏ hơn, được gọi là quark. Quark, như chúng ta biết đến nay, mới thực sự là vật chất cơ bản.

Kiến thức hiện tại của chúng ta về những thành phần nhỏ hơn mức những atom này, gọi là subatomic của vũ trụ được tóm tắt trong những gì được gọi là Standard Model of Particle Physics (mô hình phổ thông của vật lý hạt). Nó mô tả cả hai: (a) những khối xây dựng (building block) cơ bản, qua đó thế giới được làm nên, và (b) những lực (force) qua đó những khối tác động lẫn nhau. Có mười hai khối xây dựng cơ bản. Sáu trong số những khối xây dựng cơ bản này là những quark – chúng mang những cái tên thú vị: up, down, charm, strange, bottom top (lên, xuống, quyến rũ, lạ, dưới và trên – Một proton, ví dụ, được làm bằng hai quark up và một quark down). Sáu khối xây dựng cơ bản kia là những lepton – lepton gồm electron và hai anh em nặng hơn của nó, muontauon, cũng như ba neutrino. Có bốn lực cơ bản trong vũ trụ: lực hấp dẫn, điện từ trường, và những lực particle nhân yếu và mạnh (gravity, electromagnetism, and the weak and strong nuclear forces). Mỗi lực này được tạo nên bởi những particle cơ bản, đóng vai trò như những chuyển vận của lực. Graviton là particle kết hợp với lực hấp dẫn. Lực lượng mạnh được thực hiện bởi tám particle gọi là gluon. Cuối cùng, lực yếu được truyền đi qua ba particle, W +, W-, và Z. (những intermediate vector bosons).

Hành vi/phản ứng của tất cả những particle và những lực được mô tả với độ chính xác hoàn hảo của Standard Model, với một ngoại lệ đáng chú ý: lực hấp dẫn. Vì lý do kỹ thuật, lực hấp dẫn, quen thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, tỏ ra rất khó để mô tả trong thế giới quantum, sub-atomic. Điều này trong nhiều năm đã là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong vật lý lý thuyết – để xây dựng một lý thuyết quantum về lực hấp dẫn (quantum theory of gravity). Trong vài mười năm qua, Thuyết Dây đã nổi lên như có triển vọng nhất cho một một lý thuyết quantum về lực hấp dẫn. Và nó có tham vọng hơn rằng : nó cố gắng để cung cấp một mô tả đầy đủ, thống nhất và nhất quán của những cấu trúc cơ bản của vũ trụ của chúng ta. (Vì lý do này là đôi khi, khá kiêu hãnh, được gọi là Lý thuyết của Tất cả – Theory of Everything).

Ý tưởng cơ bản đằng sau Thuyết Dây là như sau: tất cả những particle “cơ bản” khác nhau của Standard Model of Particle Physics đều thực sự chỉ là những biểu hiện khác nhau của một đối tượng cơ bản: một dây. Làm thế nào lại có thể như thế được? Vâng, chúng ta sẽ thường hình dung một electron, ví dụ, như là một điểm không có cấu trúc nội bộ. Một điểm không thể làm được bất cứ điều gì ngoài di chuyển. Nhưng, nếu Thuyết Dây là chính xác, sau đó dưới một “ kính hiển vi” vô cùng mạnh mẽ, chúng ta sẽ nhận ra rằng những electron là không thực sự là một điểm, nhưng một vòng cuộn cực nhỏ, như một sợi dây. Một dây có thể làm một cái gì đó ngoài việc di chuyển – nó có thể dao động theo những cách khác nhau. Nếu nó dao động một cách nào đó, sau đó từ một khoảng cách, không thể nói rằng nó thực sự là một dây, chúng ta thấy nó là một electron. Nhưng nếu nó dao động theo một cách khác, sau đó chúng ta gọi nó là một photon, hoặc một quark, hay ... như thế là khái niệm về Dây. Vì vậy, nếu Thuyết Dây là chính xác, toàn bộ thế giới được làm bằng những Dây!

Có lẽ điều đáng chú ý nhất về Thuyết Dây là một ý tưởng đơn giản như vậy làm việc được, suy nghiệm được – Từ một Thuyết Dây có thể lấy được (một mở rộng của) Standard Model of Particle Physics (đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm với độ chính xác đáng kinh ngạc). Nhưng cũng cần phải nói rằng, cho đến nay, không có bằng chứng thực nghiệm trực tiếp nào rằng Thuyết Dây chính nó là một mô tả chính xác của Tự nhiên. Điều này chủ yếu là vì Thuyết Dây vẫn đang được phát triển. Chúng ta biết những mảnh và miếng của nó, nhưng chúng ta chưa nhìn thấy toàn bộ hình ảnh, và do đó chúng ta không thể tiên đoán chắc chắn.

Những gì đích xác là loại vật chất đã được Dây tạo ra, và vật chất cư xử/tác động thế nào thì phụ thuộc vào sự rung động của Dây. Toàn bộ vũ trụ của chúng ta được kết dựng thành, theo phương cách này. Và theo như Thuyết Dây, sự kết hợp này diễn ra trên khắp 11 chiều riêng biệt. Cũng như Thuyết Nhiều-Thế giới, Thuyết Dây chứng minh rằng vũ trụ song song tồn tại. Theo thuyết này, vũ trụ của chúng ta giống như một bong bóng tồn tại cùng với các vũ trụ song song tương tự. Không giống như các lý thuyết Nhiều-thế giới, Thuyết Dây giả định rằng các vũ trụ có thể tiếp xúc với nhau. Thuyết Dây cũng nói rằng lực hấp dẫn có thể “chảy” giữa các vũ trụ song song.

[32] Copenhagen interpretationTrong thế kỷ trước (20), giải thích được chấp nhận đông đảo nhất cho lý do tại sao cùng một hạt quantum (quantum particle) nhưng phản ứng/hành xử theo những cách khác nhau tùy lần quan sát là Giải thích Copenhagen. Nhiều nhà vật lý quantum vẫn cho rằng giải thích Copenhagen là đúng. Niels Bohr đưa ra Giải thích Copenhagen lần đầu tiên vào năm 1920. Nó nói rằng một hạt quantum không tồn tại trong một trạng thái này hoặc một trạng thái khác, nhưng đồng thời trong tất cả các trạng thái có thể có được của nó. Chỉ khi nào chúng ta quan sát trạng thái của nó, khi ấy một hạt quantum, trong cơ bản, mới buộc chọn lấy một trong những trạng thái có thể xảy ra, và đó là trạng thái mà chúng ta quan sát khi ấy. Vì mỗi lần nó có thể bị buộc vào một trạng thái quan sát được khác nhau, điều này giải thích lý do tại sao một hạt quantum cư xử thất thường. (a) Trạng thái của một đối tượng tồn tại đồng thời trong tất cả các trạng thái có thể có của nó - được gọi là superposition của một đối tượng. (b) Tổng số của tất cả các trạng thái có thể có của một đối tượng, trong đó một đối tượng có thể tồn tại - ví dụ, trong dạng sóng hoặc dạng hạt của các photon, chuyển động trong cả hai hướng cùng một lúc – làm nên wave function (hàm số sóng) của đối tượng.

Khi chúng ta quan sát một đối tượng (một hạt quantum, như photon), superposition sụp đổ và đối tượng quan sát bị đẩy vào trong một của những trạng thái của wave function của nó. Lưỡng tính sóng-hạt (Wave-particle duality) không có nghĩa là một photon hay một hạt subatomic thì đồng thời vừa là một làn sóng và một particle, nhưng là nói rằng nó có thể biểu hiện hoặc như một sóng hoặc như một hạt tùy theo trường hợp. Bất định là chúng ta không thể biết trước mỗi trường hợp, nó là gì trong hai. Trung tâm của giải thích Copenhagen là nguyên lý được gọi là bổ sung (complementarity). Rằng bản chất  sóng và hạt của những đối tượng có thể được coi như những mặt bổ sung của một thực tại duy nhất, giống như hai mặt của một đồng xu. Một electron, ví dụ, có thể phản ứng đôi khi như một sóng và đôi khi như một hạt, nhưng không bao giờ là cả hai, đồng thời cùng nhau, giống như một đồng xu tung lên có thể rơi xuống ngửa hoặc xấp, nhưng không thể nào là cả hai cùng một lúc. Chúng ta chỉ không biết, trước khi tung, nó sẽ rơi xuống mặt nào.

Bohr, người đứng đầu của giải thích Copenhagen, trách những người hỏi – thế vậy một electron thực sự là gì, một sóng hoặc một hạt. Ông bảo câu hỏi loại như thế thì vô nghĩa, hoặc không đặt vào bối cảnh (như phía bắc của bắc cực là gì?). Để quan sát những thuộc tính của một electron là tiến hành một loại đo lường nào đó. Những nghiệm được thiết lập để đo những sóng sẽ thấy phương diện sóng của các electron. Những thí nghiệm được thiết lập để đo lường tính chất hạt sẽ thấy các electron như các hạt. Nhưng không có thí nghiệm nào có thể đo cả hai phương diện này đồng thời và vì vậy chúng ta không bao giờ nhìn thấy một hỗn hợp của sóng và hạt. Nhưng Schrödinger đã đưa ra thí nghiệm con mèo nổi tiếng của ông; để cho thấy giải thích Copenhagen có những điểm trong đó nhận thức trưc giác thông thường của chúng ta khó chấp nhận.

[33] Schrödinger's cat: Con mèo của Schrödinger: Giải thích Copenhagen của Bohr về cơ học quantum đã được chứng minh về mặt lý thuyết bởi những gì đã trở thành một thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng liên quan đến một con mèo và một cái hộp. Nó được gọi là Con mèo của Schrödinger, nhà vật lý người Áo Erwin Schrödinger trình bày lần đầu tiên năm 1935.

Trong thí nghiệm lý thuyết của ông, Schrödinger nhốt con mèo của ông trong một cái hộp thép, cùng với một chút chất phóng xạ và một máy đo Geiger – một dụng cụ có thể đo lường phóng xạ. Máy Geiger đã được thiết lập làm sao để khi nó đo được sự phân hủy của chất phóng xạ trong hộp, nó tác động vào một cái búa đã ở vị trí sẵn sàng để phá vỡ một bình chứa axit hydrocyanic, là hơi độc, khi phát ra, sẽ giết chết con mèo (Tất cả chỉ giả định trong tưởng tượng). Để loại bỏ bất kỳ sự chắc chắn về số phận của con mèo, thí nghiệm đã được diễn ra trong vòng một giờ, đủ dài để một số những chất phóng xạ có thể có thể phân rã, nhưng đủ ngắn để nó cũng có thể chưa xảy ra.

Trong thí nghiệm tưởng tượng của Schrödinger, con mèo đã được nhốt trong hộp kín. Trong khoảng thời gian ở đó, con mèo đã hiện hữu trong một trạng thái không thể biết. Vì không thể quan sát được, không thể nói liệu  - chất phóng xạ đã phân hủy chưa -  nghĩa là liệu con mèo vẫn còn sống hay đã chết rồi. Thay vào đó, Nó tồn tại trong trạng thái của cả hai: sống và chết. Đó giống như câu trả lời vật lý quantum cho câu hỏi kiểu-Zen cũ: Nếu một cây đổ trong rừng và không có ai xung quanh, cây đổ có gây tiếng động hay không? Schrödinger phát minh thử nghiệm này, không phải để giải thích những gì xảy ra với con mèo, nhưng để cho thấy rằng những gì trong lý thuyết quantum, theo giải thích Copenhagen, có khía cạnh khó hiểu , gần như phi lý, Từ lúc đặt con mèo vào hộp, cho đến khi mở nắp hộp để xem nó sống hay chết. Trong thòi gian đó, hàm số sóng của chất phóng xạ là phân huỷ và không phân huỷ, nghĩa là con mèo vừa sống vừa chết. Chỉ khi có sự quan sát,  mở nắp hộp, sự quan sát này mới phá vỡ superposition của chất phóng xạ, và thiết yếu buộc chất phóng xạ phải chọn lấy một trong những trạng thái từ hàm số sóng của nó: phân huỷ hay không phân hủy.

Nếu một cây đổ trong rừng, và không ai xung quanh, có tiếng động không (hay tiếng động ra sao)

Thực ra đây là một câu hỏi vật lý, không phải của Zen, và câu hỏi này tương tự như câu của Albert Einstein hỏi Niels Bohr, người bạn ông và là nhà vật lý đã góp phần dựng lập cơ học quantum, - “liệu ông có thực sự tin rằng ‘mặt trăng không hiện hữu, nếu như đương lúc ấy không có ai đang nhìn thấy nó’. Trong nhiều thế kỷ những triết gia đã trêu chọc trí tuệ của chúng ta với những câu hỏi như vậy. Tất nhiên, câu trả lời phụ thuộc vào cách chúng ta chọn để giải thích từ “âm thanh”. Nếu khi nói âm thanh, chúng ta hiểu nghĩa là sự nén và ép trong không khí, là kết quả của sự nhiễu động về vật lý khi cây đổ, đã truyền qua không khí với những tần số âm thanh, sau đó chúng ta có thể không ngần ngại trả lời khẳng định là có.

Ở đây từ “âm thanh” được sử dụng để mô tả một hiện tượng vật lý - sự xáo trộn sóng trong không khí. Nhưng âm thanh cũng còn là một kinh nghiệm của con người, là kết quả của những tín hiệu vật lý nhận được qua những giác quan của con người, rồi được tổng hợp trong não thức như một hình thức của nhận thức.

Bây giờ, đến một mức độ lớn, chúng ta có thể giải thích những hành động của những giác quan của con người trong nhiều cách tương tự như giải thích những dụng cụ đo lường cơ khí. Bộ máy thính giác con người chỉ đơn giản là chuyển dịch một tập hợp những hiện tượng vật lý vào một tập hợp khác, cuối cùng dẫn đến sự kích thích của những bộ phận của vỏ não chịu trách nhiệm về nhận thức âm thanh. Sự khác biệt đến ở chính chỗ này. Tất cả mọi điều, đến thời điểm này, đều là giải thích bằng vật lý và hóa học, nhưng tiến trình mà chúng ta chuyển những tín hiệu điện trong não vào thành nhận thức con người, và thành kinh nghiệm trong não thức, hiện nay vẫn còn chưa được thăm dò tường tận.

Triết học từ lâu đã cho rằng âm thanh, màu sắc, hương vị, mùi và xúc giác tất cả đều những phẩm chất thứ cấp, chỉ tồn tại trong não thức của chúng ta (qualia). Chúng ta không có cơ sở cho giả định chung trong nhận thức thông thường của chúng ta rằng những phẩm chất thứ cấp này phản ánh hay đại diện, hay trình bày thực tại như thực tại thực sự là. Vì vậy, nếu chúng ta giải thích từ “âm thanh” có nghĩa là một kinh nghiệm con người chứ không phải là một hiện tượng vật lý, sau đó khi không có ai xung quanh có một cảm giác âm thanh, khi đó cây đổ dĩ nhiên không có âm thanh nào tất cả.

Công việc này, quanh sự khác biệt giữa “vật-tự-thân” và “vật-như-chúng-hiện-ra” đã là phức tạp và rắc rối triết học từ khi đã có vấn đề này. Nó tiếp tục với vật lý hiện đại, đặc biệt là câu chuyện của lý thuyết quantum. Trong thực tế, câu hỏi như vậy đã bám lấy lý thuyết này gần như từ lúc thành lập vào những năm 1920. Kể từ khi khám phá ra rằng những hạt particles ở mức atom và sub-atom, xuất hiện những tính chất giống-như-particle ở một chỗ, và những tính chất giống-như-sóng ở một chỗ khác; Những nhà vật lý đã trở thành vướng mắc trong một cuộc tranh luận về những gì chúng ta có thể và không thể biết về bản chất “thực” của thực tại vật lý .

Đó cũng là những gì chúng ta đọc thấy trong Dawkins ở chương cuối này. Trở về với câu hỏi cây đổ trong rừng. Vườn sau nhà tôi nhìn ra một lũng hoang, đầy cây lớn nhỏ, nhiều loại, chen chúc mọc tự nhiên. Năm nay có nhiều bão tuyết hơn những năm qua, và đặc biệt có đến 3 ngày băng giá. Băng đóng trên những cành cây yếu, lâu không tan kịp, quá nặng khiến gãy cành, đổ cây; có trường hợp cả cây cổ thụ đổ bật gốc. Khi có thể đi thăm, thấy một cây lớn, cao nhất trên lối đi dạo chính, nằm chắn ngang, thân cành bị tước dọc, vết gỗ tả tơi còn tươi như da thịt người giữa trời tuyết. Chiều hôm trước còn thấy ngọn cây, sáng nay cây đã đổ. Mùa đông, mọi cửa đều đóng kín, quá xa nhà ở, không ai nghe được tiếng động nào từ lũng cây, nên không biết cây đổ lúc nào. Nhưng có thể đoán, khoảng sau nửa đêm về sáng, khi cơn gió mạnh thổi, tiếng gió rít trong vườn lồng lộng qua của kính. Nếu cho là cây đổ khoảng 2 giờ sáng. Chúng ta có thể nói, trước mốc thời gian này, cây còn đứng đó, dù không ai thấy chắc chắn, sau mốc thời gian này, cây đổ, dù không ai thấy, không ai nghe tiếng cây đổ. Nhưng cây hoặc đứng hoặc đổ, nhưng không có lúc nào trong thời gian đêm qua, là cả hai.

Đó là chỗ khác biệt với Con mèo của Schrödinger, trong khoảng thời gian thí nghiệm (một giờ đồng hồ), sau khi đóng nắp hộp, cho đến khi mở ra, trạng thái của con mèo tùy thuộc vào hàm số sóng của chất phóng xạ. Khi có sự quan sát, phá vỡ superposition của chất phóng xạ, và chất phóng xạ phải chọn lấy một trong những trạng thái từ hàm số sóng của nó: phân huỷ hay không phân huỷ, chúng ta mới biết con mèo sống hay chết, trước đó, trong thế giới quantum, nó là cả hai: sống và chết.

[34] [Wolpert (1992)]
[35] Oliver Cromwell (1649-1658)
[36] Carl Sagan. The Demon-Haunted World: Science as a Candle in the Dark. New York: Random House, 1995.
[37] Chúng ta có khuynh hướng (tự hào, mặc nhiên những khả năng đặc biệt của con người xem là thường, khi so với những loài vật khác) quên mình cũng chỉ là một trong những loài vật trên trần gian này. Đặc biệt là các tôn giáo tin-chỉ-một-Gót, nhấn mạnh vào tương quan Gót/Người. Đằng sau những lý thuyết hoa mỹ của nó thực chất chỉ là một nội dung mơ ước rất ấu trĩ, tự ti và hão huyền, là con người từ trên cao xuống, chứ không từ đất lên.

[38] [www.heathfreedomusa.org/aboutus/president.shtml. Với một chân dung có những đặc điểm như của tướng Stubblebine giống thế nào, xem:
www.mindcontrolforums.com/images/Mind94.jpg ]
[39] thermal movement :khuynh hướng của vật chất để thay đổi thể tích (dãn nở hay co hẹp) khi nhiệt độ của nó thay đổi..
[40] Brownian motion: chuyển động bất thường và đột ngột của những hạt particles cực nhỏ lơ lửng trong chất lỏng và chất gas, do tác động của những molecules của chất lỏng bao quanh những particles này. Đặt tên theo nhà thực vật học người Anh, Robert Brown (1773–1858).
[41] Steve Grand. Creation: Life and How to Make It. London: Weidenfeld & Nicolson, 2000
[42] Ê-te chiếu sáng
[43] Ol Doinyo Lengai: một núi lửa dang hoạt động trong vùng Arusha, Tanzania, đông châu Phi, cao 2890m. Với những người bản địa Maasai, nó là “Núi của Gót”
[44] barchan dune: cồn cát chạy, hình trăng lưỡi liềm, có thể cao đến 30m, dài 350m. Hiện tượng này, nay cũng thấy trên Mars.
[45] Gần, tuy đơn giản hơn, với nội dung của khái niệm giả hợp trong triết học Phật giáo (thí dụ, ngũ uẩn giả hợp)
[46] Edwin A. Abbott. Flatland: A Romance of Many Dimensions
[47] qualia
[48] Trong tôn giáo, như Kitô, vẫn đưa những thí dụ về “phép lạ” (như Jesus làm người chết sống lại, hay ông đi trên mặt hồ nước, hay một lần đã làm phép cho quỉ nhập vào một đàn lợn khiến chúng cả hai nghìn con đều rơi hết xuống biển...) David Hume và Voltaire đã có một định nghĩa nổi tiếng về một phép lạ như thế  là “một bức hiếp những luật của thiên nhiên”. Hume trong An Enquiry Concerning Human Understanding (1748), dành một chương “Về những Phép lạ”, biện luận rằng không có lý do thoả đáng nào để đưa chúng ta, ngay cả đi đến dẫu chỉ tin vào những phép lạ, và chắc chắn không bao giờ nên xem chúng là nền tảng cho một tôn giáo (như trong Kitô, với nội dung của Tân ước là câu chuyện về thân thế Jesus. Trong câu chuyện này, chúng ta thực sự không có được gì về cuộc đời 30 năm ngắn ngủi của nhân vật huyền thoại này. Nếu trừ đi câu chuyện ông ra đời (giáng sinh) với những chi tiết hoang đường, và trừ đi những phép lạ ông làm trong vài tuần cuối đời ông (phục sinh, nhân chứng duy nhất là những phụ nữ vô học, ngu dốt và mê tín, ...), còn lại là một khoảng trống lớn lao. Thế nên những “phép lạ” đó, chúng tất cả đã là nền tảng cho tôn giáo này, do đó Kitô là một tôn giáo, hay một tín ngưỡng đúng nghĩa nhất của từ này, vì đạo Kitô chỉ dựa trên những phép lạ, và chỉ có chỗ đứng trên những niềm tin, nên đã tôn sùng lòng tin tưởng như một đức hạnh tối thượng, đặt tên là “đức tin”. Tất cả cho thấy nó là một tôn giáo của tình cảm, có sức mạnh tích cực vô bờ của tình cảm (khi yêu); và sưc phá hoại tàn độc, phi thường mù quáng của tình cảm (khi ghét). Về mặt nội dung lý thuyết, dẫn đến nhân sinh quan và vũ trụ quan, Jesus và những học trò vốn thất học của ông không đưa ra thêm điều nào mới lạ, ngoài những gì đã có sẵn khi ấy, trong đạo Dothái, vốn cũng là tôn giáo của Jesus, và Paul sau này) Những gì chúng ta biết về những phép lạ, hoàn toàn đến từ lời kể của những người khác, dù những người này tuyên bố là đã xem thấy những phép lạ. Nhưng chúng ta, những người chỉ nghe lại, gián tiếp; do đó không thể xem chúng cũng đáng tin như kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta.
Xem David Hume - Một Thăm dò về Khả năng Hiểu biết của Con người, bản tôi tạm dịch.
[49] madona