Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins
(The God Delusion)
Richard Dawkins
(The God Delusion)
Chương 5 (tiếp theo)
Hãy bước nhẹ, vì bạn dẫm trên những meme của
tôi
Sự thật, trong những nội
dung của tôn giáo, thì đơn thuần là ý kiến đã sống sót. (Oscar Wilde)
Chương này đã bắt đầu với nhận xét, rằng
chọn lọc tự nhiên trong thuyết Darwin ghét cay ghét đắng sự hoang phí, thừa
thãi, bất kỳ thuộc tính nổi bật phổ biến nào của một chủng loại – loại như của
tôn giáo – phải đã ban cho một vài lợi thế nào đó, hoặc nếu không thế, nó đã
không sống sót [1].
Nhưng tôi mớm
ý rằng lợi thế không nhất thiết phải góp lớn phần vào sự sống còn, hay sự
thành công tái sinh sản của cá nhân. Như chúng ta đã thấy, lợi thế có từ những
gene [2]
của virus bệnh cảm lạnh đủ giải thích sự có mặt khắp nơi của than phiền khổ não đó
trong loài người chúng ta [3]
. Và thậm chí không phải là những gene được lợi. Bất kỳ đơn vị tự-sao-chép [4]
nào cũng sẽ có lợi. Những gene chỉ là những thí dụ hiển nhiên nhất của những
đơn vị tự-sao-chép. Những ứng viên khác là virus cômputơ, và những meme – những đơn vị của di truyền văn
hoá, và chủ đề của phần sách này [5].
Chúng ta nếu sắp sửa hiểu những meme,
chúng ta trước tiên phải nhìn kỹ lưỡng hơn một chút vào chọn lọc tự nhiên xem
nó làm việc chính xác thế nào.
Trong hình thức tổng quát nhất của
nó, chọn lọc tự nhiên phải chọn giữa những đơn vị tự-sao-chép thay thế nhau được.
Một đơn vị tự-sao-chép là một mảnh của thông tin trong dạng ký hiệu mà nó làm
những bản sao chính xác của chính nó, cùng với thỉnh thoảng có những bản sao
không chính xác, hay “những đột biến” [6].
Điểm chú ý về việc này là một quan trọng theo Darwin. Những đơn vị tự-sao-chép có nhiều loại khác nhau này
khi xảy ra là tốt trong việc làm sao chép, chúng trở nên đông đảo hơn, thiệt
thòi cho những đơn vị tự-sao-chép có
thể thay thế nó, nhưng là xấu trong việc làm sao chép. Điều đó, ở mức sơ đẳng
nhất của nó, là sự chọn lọc tự nhiên. Đơn vị tự sao chép mẫu thức tiêu biểu là
một gene, một đoạn của DNA mà nó tự sao chép, nhân đôi, gần như luôn luôn với
chính xác cực độ, qua một số vô tận của những thế hệ. Câu hỏi trung tâm cho lý
thuyết meme là – không biết có hay
không những đơn vị bắt chước văn hóa mà chúng ứng xử như những đơn vị
tự-sao-chép thực sự, như những gene. Tôi không nói rằng những meme nhất thiết
phải là những tương tự gần sát của
những gene, chỉ rằng chúng càng giống những gene bao nhiêu, lý thuyết meme làm việc sẽ càng tốt hơn bấy nhiêu;
và mục đích của phần này là để hỏi
xem – không biết lý thuyết meme có thể làm việc được hay không cho trường hợp
đặc biệt của tôn giáo.
Trong thế giới của những gene, những
vụng hỏng thỉnh thoảng xảy ra trong sự tự sao chép tái tạo (gọi là những đột biến) chúng đưa đến chắc chắn
rằng ao gene chung [7]
có chứa những biến dạng thay thế của bất kỳ một gene nào có sẵn – “những allele” [8]
– do đó chúng có thể được xem như cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh cho điều gì?
Cho một khe (hở - vị trí) cá biệt của chromosome,
hay (gọi là) “locus” [9],
vốn thuộc về tập hợp đó gồm những allele.
Và chúng cạnh tranh thế nào? Không phải bằng “đánh nhau” trực tiếp phân tử-với
phân tử, nhưng bằng lối đại diện ủy quyền (proxy).
Những đại diện được ủy quyền là những “nét
phenotype” [10] của chúng –
những thứ như chiều dài của chân, hay màu của tóc: những biểu hiện của những
gene thành xương thịt trong cơ thể học, sinh lý học, sinh hóa học, hoặc tâm lý
học về hành vi ứng xử. Thông thường số phận của một gene thì buộc chặt với
những cơ thể, trong đó nó đứng (ở một vị trí) liên tục. Trong mức độ mà nó ảnh
hưởng vào những cơ thể này, nó tác động trên những cơ hội cho sự sống còn của
riêng nó trong ao gene chung. Khi những thế hệ qua đi, những gene tăng hoặc
giảm tần số trong trong ao gene chung như hậu quả của những đại diện ủy quyền phênôtype, những nét di truyền biểu hiện ra ngoài, của chúng.
Có chăng là cũng đúng thế với những meme không? Một phương diện trong đó
chúng không giống những gene là rõ ràng không có gì tương ứng với những
chromosome, hay những locus, hay
những allele, hay sự kết hợp gene từ
hai phái tính [11]. Ao meme
chung thì kém cấu trúc hơn và kém tổ chức hơn ao gene chung. Tuy nhiên, nói về
một ao meme chung thì hiển nhiên không phải là ngớ ngẩn, trong đó những meme cá
biệt có thể có một “tần số” có thể thay đổi như là hệ quả của những tác động
qua lại cạnh tranh giữa những meme có thể chọn lựa thay thế nhau.
Một vài người đã phản đối những giải
thích theo meme học, trên nhiều căn
cứ khác nhau, thường xuất phát từ sự kiện là những meme không trọn vẹn giống
những gene. Bản chất vật lý chính xác của một gene thì hiện nay đã biết (nó là
một chuỗi của DNA) trong khi của những meme thì không, và những nhà meme-học
khác nhau, người này rối mù người kia lẫn lộn, vì chuyển từ một môi trường dẫn
chuyển vật lý này sang một môi trường dẫn chuyển khác. Có phải những meme hiện
hữu chỉ trong óc? Hoặc có phải mỗi bản sao giấy và bản điện tử, tạm nói thí dụ,
của một câu thơ khôi hài sống sượng cũng có quyền được gọi là một meme? Lại nữa
sau đó, những gene tái tạo với độ trung thực rất cao, trong khi đó, nếu những
meme có tự sao chép chăng nữa, không phải là chúng làm vậy với độ chính xác
thấp?
Những vấn đề của những meme đã viện
ra này là phóng đại. Phản đối quan trọng nhất là viện ra rằng những meme được
sao chép với độ trung thực không đủ cao để thực hành công việc như những đơn vị
tự sao chép trong Darwin. Nghi ngờ là nếu “tỷ lệ đột biến” trong mỗi thế hệ đều
cao, meme sẽ đột biến chính nó ra khỏi sự hiện hữu, trước khi lựa chọn Darwin
có thể có một tác động vào tần số của nó trong ao meme chung. Nhưng vấn đề là
ảo tưởng. Hãy nghĩ đến trượng hợp của một người thợ cả nghề mộc, hoặc một người
thợ nghề đẽo đá bậc thày, chuyên mài những dụng cụ sắc nhọn thời tiền sử, khi
trưng bày một khéo léo đặc biệt cho một người học việc trẻ. Nếu người tập sự
sao chép trung thực tất cả mỗi cử động tay nghề của người thày, bạn quả sự sẽ
chờ đợi để thấy meme đột biến ra khỏi tất cả sự có thể nhận dạng trong một vài
“thế hệ” truyền nghề của thày/trò. Nhưng dĩ nhiên người tập sự không lập lại
tái tạo trung thành mọi cử động tay nghề. Làm như vậy sẽ là phi lý buồn cười.
Thay vào đó, người học trò lưu ý mục đích mà người thày đang cố gắng để đạt
đến, và bắt chước điều đó. Đóng cây đinh vào cho đến khi đầu đinh chìm phẳng,
dù nện búa xuống nhiều bao nhiêu lần cần phải nện thì cứ làm, có thể không phải
cùng một số lần nện búa như người thày đã làm. Đó là quy tắc loại giống như vậy
mà có thể truyền lại không chuyển biến qua một số vô tận những “thế hệ” bắt
chước; bất kể những chi tiết của sự thực hiện của chúng có thể khác nhau từ cá
nhân sang cá nhân, và từ trường hợp sang trường hợp. Mũi khâu khi đan bằng kim,
nút thắt trong dây buộc, hoặc lưới đánh cá, những mẫu gấp giấy origami, những khéo tay hữu ích trong
nghề mộc hoặc nghề gốm: tất cả có thể giảm thu vào thành những yếu tố tách bạch
mà thực sự có cơ hội để truyền xuống một số vô tận những thế hệ bắt chước với
không thay đổi. Những chi tiết có thể di dịch lệch lạc trong cách biểu hiện
riêng, nhưng yếu tính truyền xuống không chuyển biến, và đó là tất cả những gì
cần thiết để sự tương tự của những meme với những gene làm việc.
Trong lời nói đầu tôi viết cho The Meme Machine của Susan Blackmore [12],
tôi đã khai triển thí dụ vể một một tiến trình origami, xếp giấy để làm hình mẫu một chiếc thuyền buồm kiểu Tàu.
Đây là một công thức khá phức tạp, gồm đến ba mươi hai tác động xếp gập (hoặc
tương tự) giấy. Kết quả cuối cùng (chiếc thuyền buồm Tàu) là một đối tượng nhìn
thích mắt, khi có ít nhất là ba giai đoạn trung gian trong “phôi thai”, cụ thể
là “hai thân thuyền”, cái “hộp với hai nắp” và “khung hình” . Toàn bộ việc thực
hiện quả thực có nhắc nhở tôi về những cuốn gập và lẩn vào trong hay lộn ra
ngoài mà màng nhầy (tế bào) của một phôi thai trải qua sự biến đổi thể dạng bản
thân nó, từ blastula đến gastrula đến neurula. Tôi đã học từ bố tôi, để gấp giấy làm thuyền buồm Tàu, khi
còn là một đứa bé, độ cùng tuổi, ông đã học khéo léo này khi ở trường nội trú
của ông. Một cơn sốt làm thuyền buồm Tàu, do bà giám thị của trường khởi xướng,
đã lan tràn trong trường, thời đi học của bố tôi, như một dịch bệnh sởi, sau đó
chết đi, cũng giống như một dịch bệnh sởi. Hai mươi sáu năm sau, khi bà giám
thị đó thôi việc đã từ lâu, tôi lại đến học cùng một trường ấy. Tôi giới thiệu
lại cơn sốt (làm thuyền buồm Tàu) và nó lại lan rộng, giống như một dịch bệnh
sởi khác, và sau đó lại chết đi. Sự kiện là một khéo léo có thể truyền dạy loại
giống như thế, có thể lan rộng như một bệnh dịch, bảo với chúng ta một vài điều
gì đó quan trọng về độ trung thực cao của sự truyền đi của những meme. Chúng ta
có thể chắc chắn rằng những thuyền của những học trò thế hệ bố tôi những năm
1920 đã không có khác biệt khi so sánh tổng quát với những thuyền thế hệ tôi
những năm 1950.
Chúng ta có thể nghiên cứu hiện tượng
này một cách hệ thống hơn bằng thí nghiệm sau đây: một biến thể của trò chơi
thời thơ ấu là Thì thầm tiếng Tàu
(trẻ em Mỹ gọi nó là trò chơi Telephone). Lấy hai trăm người là những người
trước đây chưa bao giờ từng làm một thuyền buồm Tàu, và xếp họ vào hành hai
mươi đội, mỗi đội có mười người. Tập hợp mỗi người đứng đầu của hai mươi đội
quanh một cái bàn và dạy cho họ, bằng cách trình diễn, làm thuyền buồm Tàu như
thế nào. Bây giờ phái mỗi người này đi đến mỗi đội, tìm một người người thứ hai
trong đội của mình, và dạy một mình người này thôi, một lần nữa lại cũng bằng
cách trình diễn, để làm một thuyền buồm Tàu. Mỗi người “thế hệ” thứ hai sau đó
dạy cho người thứ ba trong nhóm của chính mình, và tiếp tục đều như vậy cho đến
thành viên thứ mười của mỗi đội. Giữ tất cả những thuyền được thực hiện dọc
theo cách này, và gắn nhãn cho chúng bằng đội của chúng và đánh số “thế hệ” để
xem xét sau đó.
Tôi vẫn chưa làm thí nghiệm này (dù
tôi thích làm), nhưng tôi có một dự đoán vững chắc về những gì sẽ là kết quả.
Dự đoán của tôi là không phải tất cả hai mươi đội sẽ đều thành công trong việc
truyền đi khéo léo nguyên vẹn xuống theo đường dây cho những thành viên thứ
mười của họ, nhưng rằng sẽ chỉ một con số đáng kể của họ. Trong số một vài của
những đội sẽ có những sai lầm: có thể là một nối kết yếu trong chuỗi sẽ quên
mất một vài bước quan trọng trong trình tự, và tất cả mọi người ở dưới nguồn
của sai lầm sau đó rõ ràng là sẽ thất bại. Có lẽ đội 4 theo đúng được xa đến “hai
thân thuyền” nhưng sau đó bị sai. Có lẽ thành viên thứ tám của đội 13 tạo ra
một “đột biến” một nơi nào đó giữa “hộp với hai nắp” và “khung hình”, và những
thành viên thứ chín và thứ mười trong đội của người này sau đó sao chép phiên
bản đã đột biến.
Bây giờ, thuộc những đội có khéo léo
được chuyển đạt thành công tới thế hệ thứ mười, tôi thêm một dự đoán nữa. Nếu
bạn xếp hạng những chiếc thuyền theo thứ tự của “thế hệ”, bạn sẽ không thấy một
sự suy giảm một cách hệ thống về phẩm chất với số thế hệ. Nếu, mặt khác, bạn đã
làm một thử nghiệm giống hệt trong tất cả những phương diện, ngoại trừ những khéo
léo chuyển giao đã không là xếp giấy origami, nhưng sao chép lại một bản vẽ của một chiếc thuyền buồm,
chắc chắn có thể có một sự suy giảm một cách hệ thống về sự chính xác, trong đó
mô hình từ thế hệ 1 “sống sót” sang đến thế hệ 10.
Trong phiên bản thí nghiệm dùng một bản vẽ, tất cả những bản vẽ thế hệ
10 sẽ mang một vài giống nhau nhỏ với bản vẽ thế hệ 1. Và trong mỗi đội, sự
giống nhau sẽ nhiều hoặc ít hơn xấu dần đi, khi bạn đi dần xuống những thế hệ.
Trong phiên bản thí nghiệm origami, ngược lại, những sai lầm sẽ là tất
cả-hoặc-không có: chúng sẽ là những “đột biến” tính theo số đếm [13].
Hoặc là một đội sẽ không có sai lầm và thuyền buồm thế hệ 10, về trung bình sẽ
không tệ hơn, và cũng không tốt hơn so với thuyền buồm của thế hệ 5 hoặc của
thế hệ 1; hoặc sẽ có một “đột biến” trong một vài thế hệ đặc biệt và mọi nỗ lực
trong dòng sau đó sẽ là thất bại hoàn toàn, thường tái tạo sự đột biến một cách
trung thành.
Sự khác biệt quyết định giữa hai khéo
léo là gì? Đó là khéo léo origami gồm một chuỗi của những động tác rời rạc,
không một nào trong chúng thì chính nó khó để thực hiện. Phần lớn những động
tác là những sự việc giống như “Gập cả hai bên vào trong giữa”. Một thành viên
đặc biệt trong nhóm có thể thực hiện một bước vụng về, nhưng nó sẽ rõ ràng sau
đó với thành viên tiếp theo trong dòng, là những gì người này đang cố gắng để làm. Những bước origami là “tự
thuận hợp với nhau” [14] . Chính
điều này đã làm cho chúng thành có tính “số đếm”. Đó là như người thày dạy nghề
thợ mộc của tôi, ý định người này là đóng dẹp đầu đinh cho phẳng, chìm vào mặt
gỗ, là hiển nhiên với người học việc của ông, bất kể những chi tiết về cách nện
búa. Hoặc bạn có được một bước nhất định của công thức làm origami là đúng hoặc
không đúng. Nhưng khéo léo vẽ hình, ngược lại, là một khéo léo không đếm bằng
số, không rời rạc, nhưng có tính liên tục [15].
Mọi người đều có thể vẽ cho là xong được, nhưng vài người sao chép một bản vẽ
chính xác hơn những người khác, và không ai vẽ lại nó cho toàn hảo. Độ chính
xác của bản sao cũng còn phụ thuộc nữa, vào lượng thời gian và sự cẩn thận chăm
sóc dành cho nó, và những điều này là những số lượng biến đổi liên tục. Một vài
thành viên trong nhóm, hơn nữa, sẽ làm thêm đẹp, và “cải thiện”, hơn là sao
chép chặt chẽ cho đúng mô hình có trước đó.
Từ ngữ – ít nhất khi hiểu được chúng
– là tự bình thường hóa, tự thuận hợp với nhau trong cùng một loại của cách
thức như những hoạt động origami. Trong trò chơi gốc của Thì thầm tiếng Tàu (Telephone), đứa trẻ đầu tiên được nghe kể một
câu chuyện, hoặc một câu nói, và được yêu cầu chuyển nó cho đứa trẻ kế tiếp, và
tiếp tục như vậy. Nếu câu nói là ít hơn khoảng bảy từ, bằng tiếng mẹ đẻ của tất
cả những trẻ em, có một cơ hội tốt là nó sẽ sống sót, không đột biến, xuống đến
thế hệ thứ mười. Nhưng nếu đó là một tiếng nước ngoài chúng không hiểu, như thế
những trẻ em bị buộc phải bắt chước ngữ âm hơn là từng từ một, câu nhắn gửi sẽ
không sống sót. Dạng thức của phân rã dọc xuống theo những thế hệ sau đó giống
như cho một bản vẽ, và nó sẽ trở nên bị méo mó. Khi lời nhắn gửi có ý nghĩa
trong ngôn ngữ của đám trẻ em, và không chứa bất kỳ từ lạ nào như “phenotype”
hay “allele”, nó sống sót. Thay vì bắt chước những âm thanh ngữ âm, mỗi em nhận
ra mỗi từ như một thành viên của một vốn từ vựng hữu hạn, và sẽ chọn cùng một
từ, mặc dù rất có thể phát âm với một giọng khác nhau, khi chuyển nó qua đứa
trẻ tiếp theo. Ngôn ngữ viết cũng tự bình thường hóa vì nghuệch ngoạc trên
giấy, dù chúng có thể khác nhau bao nhiêu đi nữa về chi tiết, nhưng tất cả đều
rút ra từ một bảng chữ cái hữu hạn của (tạm nói) hai mươi sáu chữ cái.
Sự kiện là những meme đôi khi có thể
cho thấy độ chính xác rất cao, do những quá trình tự bình thường hóa của loại này,
là đủ để trả lời một vài những phản đối phổ biến nhất vốn đã nêu lên về sự
tương tự meme / gene. Trong mọi trường hợp, mục đích chính của lý thuyết meme,
ở giai đoạn ban đầu này của phát triển của nó, không phải là để cung cấp một lý
thuyết toàn diện về văn hoá, trên một ngang bằng với di truyền học của Watson-Crick.
Mục đích ban đầu của tôi khi chủ trương những meme, quả thật vậy, đã là để
chống lại ấn tượng rằng gene đã là ứng dụng Darwin duy nhất có thể có được –
một ấn tượng mà The Selfish Gene nếu
không, về mặt khác đã có nguy cơ truyền đạt. Peter Richerson và Robert Boyd
nhấn mạnh điểm này trong tựa đề quyển sách giá trị và đầy thận trọng Not by Genes Alone của họ, mặc dù họ đưa
ra những lý do không chấp nhận chính từ “meme”, nhưng thích từ “những biến hình
văn hóa” [16]
hơn. Genes, Memes and Human History
của Stephen Shennan đã một phần lấy cảm hứng từ một quyển sách tuyệt vời trước
đó của Boyd và Richerson, Cuture and the
Evolutionary Process. Những quyển sách dài khác viết về những meme gồm The Electric Meme của Robert Aunger, The Selfish Meme của Kate Distin, và Virus of the Mind: The New Science of the
Meme của Richard Brodie. [17]
Nhưng Susan Blackmore, trong The Meme Machine, là người đã đẩy lý
thuyết memetic xa hơn bất cứ ai khác.
Bà liên tục hình dung một thế giới đầy những bộ óc (hoặc những nhận-chứa hoặc
truyền-dẫn khác [18], chẳng hạn
như những cômputơ hoặc những băng tần sóng radio) và những meme xô đẩy để chiếm
chỗ của chúng. Cũng như những gene trong một ao gene chung, những meme nào
thắng sẽ là những meme làm được việc tự sao chép tốt. Điều này có thể có lý do
vì chúng có mời gọi trực tiếp, giả định như meme
bất tử linh hồn đã có đối với một số người. Hoặc nó có thể là vì chúng phát
triển mạnh trong sự hiện diện của những meme khác đã trở thành rất nhiều trong ao
meme chung. Điều này đưa đến những nhóm-meme
hoặc “memeplexes” [19].
Như thường lệ với những meme, chúng ta đạt được sự hiểu biết bằng cách trở lại
gốc của sự loại suy này là những gene trong di truyền học.
Trong mục đích giáo khoa, tôi đã trình
bày và bàn về những gene như thể chúng là những đơn vị bị cô lập, hoạt động độc
lập. Nhưng dĩ nhiên chúng không độc lập với nhau, và sự kiện này tự nó cho thấy
theo hai cách. Thứ nhất, những gene cùng nhau kéo như chỉ xoắn dọc chiều dài những
chromosome, và vì vậy có khuynh hướng di truyền qua những thế hệ trong đồng
hành với những gene đặc biệt khác chiếm vị trí (loci) lân cận trong chromosome.
Chúng tôi những nhà chuyên môn, gọi đó là kiểu liên kết đó là linkage, và tôi sẽ không nói thêm nhiều
về nó vì những meme không có chromosome,
alleles hoặc sự kết hợp gene từ hai phái tính. Phương diện kia, trong đó những
gene không độc lập thì rất khác với liên kết di truyền, và ở đây có một tương
tự tốt với meme-học. Nó liên quan đến phôi học – một thực tế thường bị hiểu sai
– vốn là hoàn toàn khác biệt với di truyền học [20].
Cơ thể thì không dích-zắc cưa-ghép vào với nhau, như bức tranh nhiều màu ghép
từ nhiều mảnh, của những mảnh phenotype,
trong đó mỗi mảnh dựng lên từ một gene khác nhau. Không có ghép đối ứng một-một [21]
giữa những gene và những đơn vị của cơ thể học, hoặc hành vi. Những gene “hợp
tác” với hàng trăm những gene khác trong khi
prôgram những tiến trình phát triển mà chúng sau cùng đạt đến đỉnh cao nhất
là trong một cơ thể, trong cùng loại cách thức như những từ ngữ của một công
thức làm món ăn cộng tác trong một tiến trình xào-nấu-luộc-hầm thức ăn mà đạt
đến đỉnh cao nhất là trong một món ăn. Nó không phải là trường hợp trong đó mỗi
từ ngữ của công thức thì tương ứng với một miếng khác nhau của món ăn.
Những gene, sau đó, hợp tác trong
những tập đoàn xây dựng những cơ thể, và đó là một những nguyên tắc quan trọng
của phôi học. Là điều lôi cuốn để nói rằng chọn lọc tự nhiên ưu đãi những tập
đoàn của những gene trong một loại lựa chọn nhóm giữa những tập đoàn khác nhau
có thể thay thế nhau. Đó là sự nhầm lẫn. Điều gì thực sự xảy ra là những gene
khác của ao gene chung cấu thành một phần chính yếu của môi trường mà trong đó mỗi gene được chọn đối lại với những allele của
nó. Vì mỗi gene được chọn là để thành công trong sự hiện diện của những gene khác
– mà những gene khác cũng được lựa chọn theo một cách tương tự – những tập đoàn
của những gene đồng thuận hợp tác nổi lên
xuất hiện. Chúng ta có ở đây một vài điều gì đó giống như một thị trường tự
do hơn là một nền kinh tế hoạch định. Có một người hàng thịt và một người làm
bánh, nhưng có lẽ một khoảng trống trên thị trường cho một người làm nến. Bàn
tay vô hình của chọn lọc tự nhiên lấp đầy khoảng trống. Đó là khác biệt với
việc có một người hoạch định trung ương là người nghiêng sang ủng hộ một bộ-ba, gồm hàng thịt + hàng bánh + hàng
nến. Ý tưởng của những tập đoàn hợp tác được bàn tay vô hình lắp ráp sẽ thành
ra là trung tâm cho sự hiểu biết của chúng ta về những meme tôn giáo và chúng
làm việc thế nào.
Những loại khác nhau của tập đoàn xuất
hiện trong những ao gene chung khác nhau. Những ao gene chung của những loài động
vật ăn thịt có những gene mà chúng prôgram
những cơ quan cảm nhận khám phá con mồi, những móng vuốt bắt mồi, kiểu răng cắt
thịt, những enzym tiêu hóa thịt, và nhiều những gene khác, tất cả điều chỉnh khéo
léo để hợp tác với nhau. Đồng thời, trong những ao gene chung của những loài động
vật ăn cỏ, những tập hợp khác nhau nhưng cùng thích ứng được lẫn nhau của những
gene thì được ưa chuộng vì sự hợp tác hoạt động với nhau. Chúng ta đã quen
thuộc với ý tưởng rằng một gene thì được ưa chuộng vì sự cùng thích ứng được
lẫn nhau của những biểu hiện ra ngoài (phenotype) của nó với môi trường bên
ngoài của những chủng loại: sa mạc, hay đất rừng nhiều cây, hoặc bất cứ gì là môi
trường sống bên ngoài (thiên nhiên). Điểm bây giờ tôi muốn nêu lên là nó cũng
được ưa chuộng bởi khả năng cùng thích ứng được lẫn nhau của nó với những gene
khác trong ao gene chung đặc biệt của nó. Một gene động vật ăn thịt sẽ không sống
sót trong một ao gene chung của động vật ăn cỏ, và ngược lại. Trong cái
nhìn-theo-mắt-gen lâu dài, ao gene chung của chủng lại – tập hợp của những gene
được xáo trộn đi và xáo trộn lại bằng sự sinh sản phái tính – cấu thành môi
trường gene (di truyền), trong đó mỗi gene được lựa chọn trên khả năng của nó để
hợp tác. Mặc dù những ao meme chung ít kết hợp thành đoàn hơn và kém cấu trúc
hơn so với những ao gene chung, chúng ta vẫn có thể nói về một ao gene chung
như là một phần quan trọng của “môi trường” của mỗi meme trong nhóm meme.
Một nhóm meme là một tập hợp những meme, trong khi không nhất thiết
phải là những sống sót tốt trên bản thân chúng, chúng là những sống sót tốt
trong sự hiện diện của những thành viên khác của nhóm meme này. Trong phần
trước, tôi đã ngờ, không cho rằng những chi tiết của sự tiến hóa ngôn ngữ là được
ưu đãi bởi bất kỳ một loại nào của chọn lọc tự nhiên. Thay vào đó, tôi đoán
rằng sự tiến hóa ngôn ngữ được trôi dạt ngẫu nhiên điều hành. Điều là chỉ nhận hiểu
được rằng một vài nguyên âm hoặc phụ âm chuyển tải tốt hơn so với những phụ,
nguyên âm khác, qua những vùng đất núi cao, và do đó có thể trở thành đặc
trưng, hãy nói rằng, của tiếng Switzerland, Tibet, và những tiếng địa phương
vùng núi Andes nam Mỹ, trong khi những âm thanh khác thì phù hợp với nói thì
thầm trong rừng dày đặc, và do đó đặc tính của tiếng Pigmy và ngôn ngữ dân sống
trong rừng Amazon. Nhưng một thí dụ mà tôi trích dẫn về ngôn ngữ được lựa chọn tự
nhiên – lý thuyết rằng sự
Thay đổi lớn trong phát âm Nguyên âm có thể có một giải thích chức năng – thì
không thuộc loại này. Thay vào đó, đúng hơn nó đã có liên quan với những meme khi
đứng vào vừa vặn với quanh nó, trong những nhóm meme tương thuận với nhau. Một
nguyên âm chuyển dịch trước tiên, vì những lý do nào đó không biết – có lẽ sự
bắt chước có tính thời thượng của một cá nhân được ngưỡng mộ, hay có uy quyền mạnh
mẽ, như đã gán buộc là có nguồn gốc của sự phát âm sai tiếng Spain. Không phải
bận tâm sự Thay đổi lớn trong phát âm Nguyên âm tiếng Anh đã bắt đầu thế nào: theo lý thuyết này,
một khi có nguyên âm đầu tiên đã thay đổi, những nguyên âm khác đã phải thay
đổi theo như cùng trên một chuyến tàu, để giảm sự mơ hồ, và tiếp tục như vậy theo
dòng chảy. Trong giai đoạn thứ hai của tiến trình, những meme đã được lựa chọn
trên nền của ao meme chung đã có đó rồi, dựng lên một nhóm meme mới gồm những meme
tương thuận với nhau.
Chúng ta cuối cùng được trang bị để
chuyển sang lý thuyết meme về tôn giáo. Một vài ý tưởng tôn giáo, như một vài
gene, có thể hiện hữu vì công trạng tuyệt đối của nó [22].
Những meme này sẽ hiện hữu trong bất kỳ ao meme chung nào, bất kể những meme
khác quanh chúng. (Tôi phải lập lại điểm tối quan trọng là “công trạng” trong ý
nghĩa này có nghĩa chỉ là “có khả năng sống sót trong ao meme chung”. Nó không
mang phán đoán về giá trị nào ngoài điều đó.) Một vài ý tưởng tôn giáo hiện hữu
vì chúng thì tương thuận với những meme khác mà đã đông đảo trong ao meme chung
– như phần của một nhóm meme. Sau đây là một phần danh sách của những meme tôn
giáo mà xem ra có thể có giá trị sống còn trong ao meme chung, hoặc do “công
trạng” tuyệt đối, hoặc vì có tính tương thuận với một nhóm meme hiện có:
1. Bạn sẽ còn sống sau cái
chết của riêng bạn.
2. Nếu bạn chết như một người
chết vì đạo, bạn sẽ đi tới một phần tuyệt diệu đặc biệt của thiên đường, nơi đó
bạn sẽ vui hưởng 72 trinh nữ (tạm gạt qua, đừng vội nghĩ đến số phận bất hạnh
của những trinh nữ).
3. Những người lạc đạo, rối
đạo, nghịch đạo, và bỏ đạo đều nên bị giết chết (hoặc nếu không, bị trừng phạt,
thí dụ bằng cách cấm cửa, tống khỏi gia đình họ).
4. Tin tưởng vào Gót là một
đức hạnh tối thượng. Nếu bạn thấy tin tưởng của bạn bị dao động, hãy hết sức làm
việc mà khôi phục nó, và van xin Gót giúp sự thiếu lòng tin của bạn. (Trong
thảo luận của tôi về Đánh cuộc của Pascal, tôi đã nhắc đến giả định bất thường rằng
một điều mà Gót thực sự mong muốn nơi chúng ta là sự tin tưởng. Vào lúc đó tôi
coi nó như là một kỳ quặc. Bây giờ chúng ta có một giải thích cho nó.)
5. Tuyệt đối tin Gót (tin
tưởng mà không có bằng chứng) là một đức hạnh. Những tin tưởng của bạn càng bất
chấp những bằng chứng, bạn càng có nhiều đức hạnh. Những người tin tưởng cao
diệu tuyệt vời là người có thể đảm đương nổi để tin tưởng một vài điều gì đó
thực sự kỳ lạ, không có chứng cớ, không thể có lý lẽ chứng cớ, trong khó khăn
của không bằng chứng và thiếu lý do, là đặc biệt được khen thưởng rất lớn.
6. Tất cả mọi người, ngay cả
những ai không có tin tưởng tôn giáo, phải tôn trọng họ với một sự tôn trọng có
mức độ tự động và không tranh cãi cao hơn là tôn trọng của những loại tín
ngưỡng khác (chúng ta đã gặp điều này trong Chương 1).
7. Có một vài điều kỳ lạ
(chẳng hạn như Gót Ba ngôi, Biến đổi bản thể, nhập thể) mà chúng không có nghĩa để cho chúng ta hiểu. Thậm
chí đừng có mà cố hiểu lấy một trong những điều này. Vì nỗ lực có thể phá hủy
nó. Học cách để có được thành tựu thỏa mãn bằng cách gọi nó là một bí nhiệm.
8. Âm nhạc, nghệ thuật, và kinh
thánh đẹp đẽ là bản thân chúng là những sự vật được dùng như những gì cảm nhận
được đã tự sao chép từ những ý tưởng tôn giáo .[23]
Một vài trong danh sách trên có thể
có giá trị sống còn tuyệt đối và sẽ phát triển mạnh ở bất kỳ một nhóm meme nào.
Tuy nhiên, như với những gene, một vài những meme chỉ hiện hữu trong bối cảnh đúng
của những meme khác, dẫn đến sự xây dựng của nhóm meme có thể chọn thay thế.
Hai tôn giáo khác nhau có thể được xem như nhóm meme có thể chọn thay thế. Có
lẽ Islam tương tự với một phức hợp gene động vật ăn thịt, Phật giáo với một phức
hợp gene động vật ăn cỏ. Những ý tưởng của một tôn giáo thì không “tốt hơn”
những ý tưởng của tôn giáo khác trong bất kỳ ý nghĩa tuyệt đối nào, không nhiều
hơn như những gene động vật ăn thịt là “tốt hơn” so với những gene động vật ăn
cỏ. Những meme tôn giáo loại này không nhất thiết phải có năng khiếu tuyệt đối
cho sự sống còn; Tuy nhiên, chúng là tốt theo nghĩa là chúng phát triển mạnh
trong sự hiện diện của những meme khác của tôn giáo riêng của chúng, nhưng
không phải sự hiện diện của những meme của những tôn giáo khác. Trên mô hình
này, Catô Lamã và Islam, nói rằng, đã không nhất thiết phải do một dân tộc
riêng biệt thiết kế, nhưng đã tiến hóa một cách riêng biệt như những bộ sưu tập
có thể chọn thay thế của những meme mà chúng phát triển mạnh trong sự có mặt
của những thành viên khác trong cùng nhóm meme.
Những tôn giáo có tổ chức là đã được
con người tổ chức: những nhà chăn chiên và những thày chăn chiên trong vai cán
bộ cao cấp của hội nhà thờ, những rabbi Dothái, những imams và ayatollahs Islam.
Nhưng, để nhắc lại điểm tôi đã nói khi bàn về Martin Luther, rằng điều đó không
có nghĩa là chúng được người ta hình thành và thiết kế. Ngay cả ở nơi những tôn
giáo đã bị khai thác và thao túng cho lợi ích của những cá nhân có quyền thế,
khả năng mạnh mẽ vẫn là hình thức chi tiết của mỗi tôn giáo đã phần lớn được sự
tiến hóa vô thức định hình. Không phải bằng chọn lọc tự nhiên gene di truyền, vốn
là quá chậm để giải thích được cho sự tiến hóa và phân kỳ nhanh chóng của những
tôn giáo. Vai trò của chọn lọc tự nhiên gene di truyền trong câu chuyện là để cung
cấp cho não, với những sự ưa thích riêng tự nhiên và những tiên kiến của nó –
nền tảng chuẩn mực hardware, và software hệ thống ở tầng cơ bản, để
chúng lập thành nền tảng cho sự lựa chọn những meme. Với nền tảng này, chọn lọc
tự nhiên về meme của một vài loại dường như với tôi là cung cấp một giải thích
có thể là hữu lý cho sự tiến hóa chi tiết của những tôn giáo cụ thể. Trong nhưng
giai đoạn đầu của sự tiến hóa của một tôn giáo, trước khi nó trở thành có tổ
chức, những meme đơn giản sống sót và hiện hữu dựa trên “phẩm hạnh” của sự hấp
dẫn phổ quát của chúng với tâm lý con người. Đây là nơi mà lý thuyết meme về
tôn giáo và lý thuyết tâm lý tôn giáo là sản phẩm phụ, chồng lên nhau. Những
giai đoạn sau này, ở chỗ tôn giáo đã trở nên được tổ chức, xây dựng và khác nhau
tùy tiện với những tôn giáo khác, là khá tốt để lý thuyết về nhóm meme giải
quyết – những tập đoàn của những meme tương thuận lẫn nhau. Điều này không loại
trừ vai trò bổ sung của những thao túng với chủ ý của những nhà chăn chiên và
những người khác. Tôn giáo có thể, ít nhất là một phần, được thiết kế thông
minh, cũng như những trường phái và thời trang trong nghệ thuật.
Một tôn giáo đã được thiết kế thông
minh, gần như trong toàn bộ của nó, là Scientology,
nhưng tôi ngờ rằng nó là trường hợp đặc biệt [24].
Một ứng viên khác cho một tôn giáo hoàn toàn được thiết kế là đạo Mormon. Joseph Smith, người phát minh có
đầu óc doanh nghiệp dám làm và xảo điêu của nó, đã đi đến cùng mức để sáng tác
một quyển sách thánh hoàn toàn mới, Sách
Đạo Mormon, phát minh ra từ đầu một lịch sử nước Mỹ hoàn toàn mới và không
có thật, viết bằng tiếng Anh, cũng giả mạo, của thế kỷ XVII. Đạo Mormon, tuy
nhiên, đã tiến hóa từ khi nó đã được chế tạo trong thế kỷ XIX, và giờ đây đã
trở thành một trong những tôn giáo chính thống đáng kính của nước Mỹ – quả thực
vậy, nó tuyên bố là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất, và có
chuyện đang bàn luận về hoạt động đưa ra một ứng cử viên tổng thống Mỹ. [25]
Hầu hết những tôn giáo tiến hóa. Dù
học thuyết tiến hóa tôn giáo nào chúng ta chấp nhận, nó phải có khả năng trong
việc giải thích tốc độ đáng kinh ngạc, khi tiến trình tiến hóa tôn giáo, có
được điều kiện đúng, có thể cất cánh bay bổng với nó. Sau đây là một trường hợp
nghiên cứu.
Những Giáo
sùng bái Hàng hóa chở bằng tàu
Trong The Life of Brian, một trong những điều nhóm Monty Python đã đúng
là một giáo phái mới có thể bắt đầu cực kỳ nhanh chóng [26].
Nó có thể mọc lên hầu như qua đêm và sau đó thành kết hợp vào trong một văn
hóa, nơi nó đóng một vai trò chi phối ồn ào. “Những Giáo sùng bái Hàng hóa chở bằng tàu” [27],
ở vùng quần đảo Melanesia của Thái Bình Dương và của New Guinea, cung cấp những
thí dụ nổi tiếng nhất từ đời sống thực. Toàn bộ lịch sử của một vài những giáo
phái này, từ khởi đầu đến tàn cuộc, được gói trọn vẹn trong ký ức sống. Không
giống như giáo phái của Jesus [28],
trong đó nguồn gốc của nó thì không có chứng cớ xác nhận đáng tin cậy, chúng ta
có thể nhìn thấy toàn bộ quá trình của những sự kiện đặt ra trước mắt chúng ta
(và ngay cả ở đây, như chúng ta sẽ thấy, giờ đây một vài chi tiết đã bị mất). Nó là hết sức lý thú hấp dẫn
để đoán rằng giáo phái Kitô hầu như chắc chắn đã bắt đầu trong nhiều cách thức
rất giống như thế, và đã khởi đầu lan truyền với cùng một tốc độ nhanh
như thế.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1]
“Hãy bước nhẹ, vì bạn dẫm trên những meme của tôi”
theo tôi lấy từ câu cuối bài thơ nổi tiếng sau đây “He Wishes For The Cloths Of
Heaven” của W. B. Yeats:
(Had I the heavens' embroidered cloths,
Enwrought with golden and silver light,
The blue and the dim and the dark cloths
Of night and light and the half-light,
I would spread the cloths under your feet:
But I, being poor, have only my dreams;
I have spread my dreams under your feet;
Tread softly because you tread on my dreams.
Phải như
tôi có vải dệt bằng tơ trời,
quấn bọc
với ánh sáng của vàng và bạc,
những vải
màu xanh và màu nhạt và màu đậm,
của đêm và
của sáng và của nửa-sáng
Tôi sẽ trải
chúng dưới chân em;
Nhưng tôi,
phận nghèo, chỉ có mơ với mộng,
dưới chân
em, tôi đã trải những mộng tôi mơ;
Bước nhẹ em
ơi, vì em dẫm trên những mơ tôi mộng.
William Butler Yeats)
[2]
Gene: có nhiều định nghĩa,
ở đây, có thể đơn giản hiểu như một đơn vị của sự di truyền, từ cha mẹ sang con
cái, và gene được xem như ấn định một vài cá tính của con cái đã thấy trong cha
hoặc mẹ.
Về sinh học, chúng ta biết
tế bào (cell) là đơn vị cơ bản của cấu trúc sinh vật, mỗi tế bào thường
có một nhân (nucleus), trong nhân có một cấu trúc có dạng như hai dây
xoắn gọi là chromosome (vẫn dịch là nhiễm sắc thể), Mỗi chromosome
gồm protein và một phân tử acit deoxyribonucleic, phổ thông với tên gọi “DNA”;
những dữ liệu thông tin của sự di truyền nằm trong DNA này. Phân
tử cơ sở cho sự di truyền, DNA, chứa các mô thức để xây dựng những protein
trong cơ thể, gồm những enzym nhiều loại khác nhau. Năm 1953, James Watson,
Francis Crick và Maurice Wilkins đã xác định cấu trúc của deoxyribonucleic acid
(DNA). Nén chặt trong chromosome, DNA gồm hai
chuỗi xoắn quanh nhau, gồm các nhóm phosphate và đường xen kẽ nhau, hay double helixes, và hai dây xích được giữ
với nhau bằng những những liên kết hydrogen giữa các cặp nucleotides.
Mỗi loài động vật có số chromosomes
khác nhau. Trong con người, tổng cộng có 46 chromosomes, xếp thành 23 đôi.
Một gene là một cấu trúc đặc biệt của DNA, đóng vai trò ghi giữ và tự
sao chép dữ liệu thông tin di truyền. Một gene là một đoạn, dài hay ngắn, của
dây xoắn DNA. Trình tự xếp đặt của những nucleotides
(có bốn, đi kết đôi với nhau: - adenine (A) với thymine (T), và
guanine (G) với cytosine (C). như những bậc thang của double helix) trong
mỗi đoạn này làm thành ký hiệu của một công thức để tạo một phân tử protein đặc
biệt nào đó, những protein sau đó lại được kết hợp và cùng với những chất hóa
học khác, tạo những tế bào khác nhau nhiều loại cho cơ thể. Khi một tế bào tự
phân để lập tế bào mới, DNA cũng tự phân, bằng tự sao chép.
Sao chép
DNA: Sao chép là quá trình trong đó DNA tự làm một bản sao của chính nó. DNA
cần phải sao chép vì sự phân đôi lập tế bào mới cần thiết cho một sinh vật phát
triển hoặc tái sinh sản. Mỗi tế bào mới cần một bản sao của DNA, hay tập hợp
những mệnh lệnh hướng dẫn, để một tế bào sẽ biết mình là gì và hoạt động thế
nào. DNA phân chia ngay trước khi tế bào phân chia. Sự sao chép DNA là bán-bảo
thủ. Điều đó có nghĩa là khi nó làm cho một bản sao, một nửa của sợi cũ luôn
luôn được giữ trong sợi mới . Điều này giúp giảm số lượng những sai lầm trong
sự sao chép. DNA vẫn còn trong nhân tế bào, nhưng để những hướng dẫn của nó
chuyển thành các protein, nó phải gửi thông điệp của nó đến những ribosome, nơi
làm protein. Hóa chất sử dụng để chuyển thông tin này đi là ribonucleic acid,
gọi là mRNA (Messenger RNA)
DNA > Ghi giữ thông tin di
truyền ----> mRNA > thông dịch thông tin di truyền ----> Protein
Trong mỗi người, mỗi gene
có hai bản sao, một bản đến từ cha, một từ mẹ. Đây là một định nghĩa đã cũ,
nhưng trong phạm vi bài này – chuyển từ khái niệm gene trong sinh học sang khái niệm meme trong văn hóa – là đủ, chúng ta không cần những khái niệm chuyên
môn di truyền học thêm nữa.
[3]
[* Đặc biệt đất nước tôi, theo như hình ảnh rập
khuôn đơn giản đã thành “truyền thuyết” về quốc gia này: “Voici l’anglais avec
son sang froid habituel” (Đây là người Anh với máu lạnh thường lệ của ông).
Điều này từ Fractured French của F.S.
Pearson, cùng với viên đá quý khác chẳng hạn như “cú ân huệ” (coup de grâce).]
[4] replicators: những đơn vị tự-sao-chép; chúng
là những đơn vị cơ bản của bất kỳ tiến trình nào của chọn lọc tự nhiên (the
fundamental units of any process of natural selection). Richard Dawkins đã đầu tiên định nghĩa replicator như bất kỳ thực thể nào có những bản sao chép của nó (any entities of which
copies are made). Những chuỗi DNA (deoxyribonucleic
acid) là thí dụ hiển nhiên nhất của những đơn vị tự sao chép. Khái niệm replicator có nhiều ứng dụng khác biệt
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ sinh học, sang xã hội học, ngôn ngữ học và
triết học.
[5] meme
– một đơn vị của sự di truyền văn hoá
– Khái niệm này - đơn vị cơ bản của thông tin, tương tự như các gene, trong
lý thuyết tiến hóa về văn hóa hiện mới xuất hiện – ngày nay đã mở rộng, có thêm
những nghĩa khác, tạm kể: (1) một ý tưởng, một tin tưởng hay hệ thống những tin
tưởng, hoặc mô thức của hành vi ứng xử; chúng có thể lan truyền trong khắp một
nền văn hóa, hoặc theo chiều dọc bằng di sản văn hóa (như cha mẹ cho con cái)
hoặc theo chiều ngang bằng học tập, tiếp thụ văn hóa (qua bạn học đồng tuổi,
đồng nghiệp, phương tiện truyền thông thông tin (web), truyền thông giải trí
(cinê, tivi) (2): một ý nghĩ hay mô thức tư tưởng phổ biến mà chúng tự sao chép
qua các phương tiện văn hóa; một côde ký sinh trùng trong cômputơ, một virút
của não thức đặc biệt lan nhiễm nhanh chóng với trẻ em và gây ấn tượng mạnh,
không dễ phê bình (3) trong blogspeak,
một ý tưởng được lan truyền từ blog sang blog (4) một máy phát thông tin
internet (an internet information generator), đặc biệt là các thông tin ngẫu
nhiên hoặc không có nội dung.
Từ ngữ và khái niệm “meme’ đều do
Richard Dawkins ghép lập và khởi xướng từ trong tập sách nổi tiếng The Selfish Gene (1976) và sau đó khai
triển trong The Extended Phenotype (1892)
của ông.
Ông định nghĩa một meme là “một đơn vị của lưu truyền
văn hóa (a unit of cultural transmission - The Selfish Gene). Nói khác
đi, một meme là một ý tưởng văn hóa được giữ trong một ủng hộ, hay trú ngụ
trong một chủ nhà. Một vài thí dụ những meme quen thuộc: “một giai điệu (a li hò lờ…), ý tưởng (áo mặc không qua khỏi đầu, …), câu ngắn
được nhiều người thích lập lại (“khổ lắm,
nói mãi” (VTPhụng),…), thời trang (quần
xệ hở mông khoe hình xâm, tóc highlight),
cách thắng nước cốt dừa ăn bánh canh
bột lọc, cách pha nước mắm chanh ớt
ăn bún chả, …). Giống như những gene, những meme cũng có ‘phenotypes’ của chúng
– trong chiều hướng này, hãy nhớ tự thân meme – là genotype của nó – là thông tin thuần túy mà nó chứ đựng, thí dụ nốt
nhạc, lời bài hát, hay một qui trình làm bánh khúc; những phenotype của meme, là sự biểu hiện trong thế giới vật lý của nó – bài
hát khi hát lên, khúc nhạc khi tấu lên theo lối jazz hay soul, bánh khúc với
sôi, mỡ, nhân đậu xanh trộn bột lá khúc,…tùy người hát, tay thợ làm, và dàn
nhạc với nhạc khí khác nhau, tất cả có những khác nhau.
Vài
thuật ngữ liên hệ: meme pool : ao
meme chung – tập hợp tất cả những memes của một văn hóa hay một cá nhân trong
một văn hóa. – memetics: nành học,
nghiên cứu về meme, meme học.
[6] Mutations
[7]
gene pool:
ao gene chung – chỉ tổng số của những gene của mọi cá nhân trong một dân số có
thể cùng truyền giống sinh sản. (The total number of genes of every individual in an interbreeding population)
[8] alleles:
một trong hai, hay nhiều hơn, của những dạng có thể thay thế nhau được, của
cùng một gene, nổi lên do đột biến và thấy ở cùng một vị trí trong một chromosome.
[9] Locus: vị trí của một gene trong một chromosome.
[10] phenotype
là tập hợp những đặc tính có thể thấy được của một cơ cấu sinh vật, là những
biểu hiện ra bên ngoài của genotype
(toàn bộ tập hợp những gene trong một cơ cấu sinh vật) (genotype + environment + random variation → phenotype.)
[11] Sexual recombination: một
nửa từ số gene của mỗi bên cha mẹ được kết hợp trong đứa con, kết quả là trong
đứa con có sự kết hợp gen mới, chưa từng có trước đó ở mỗi cha hay mẹ.
[12] Susan Blackmore. The Meme Machine. New York: Oxford University Press, 1999
[13] digital – từ gốc là ngón
tay (digit) để đếm.
[14] self-normalizing: tác giả dùng với nghĩa trong lý thuyết tập hợp
những dữ kiện (set and subset of data – data normalizing)
[15] khái niệm digital (discrete) và non-digital (analogue).
[16] Cultural variants
[17] Thư mục đoạn này:
Peter J.
Richerson, Robert Boyd. Not By Genes
Alone: How Culture Transformed Human Evolution. University of Chicago
Press, 2005.
Stephen Shennan. Genes, Memes and Human History. London: Thames
and Hudson, 2002
Boyd, R.
and P. J. Richerson. Culture and the
Evolutionary Process. Chicago: University of Chicago Press, 1985.
Robert
Aunger. The Electric Meme: A New Theory
of How We Think. New York: The Free Press, 2003.
Richard Brodie. Virus of the Mind: The New Science
of the Meme. Seattle, Wash: Integral Press, 1996.
[18] Receptacles hay conduits
[19]
Memeplex - (viết tắt của meme-complex) là một bộ sưu tập hoặc
nhóm những meme, đã tiến hóa vào thành một quan hệ hỗ trợ lẫn nhau hoặc cộng
sinh. Nói đơn giản, là “một tập hợp những meme” (a set of memes) hay một tập
hợp gồm những ý tưởng mà chúng đứng chung và củng cố lẫn nhau. Nhóm meme là
tương tự gần như các bộ sưu tập cộng sinh của những gene riêng biệt tạo đã tạo
thành côde di truyền của cơ cấu sinh vật. Một ví dụ về một nhóm meme sẽ là một
tôn giáo.
[20] embryology và genetics
[21] mapping: ghép đối ứng – (vẫn dịch là ánh xạ, tôi thấy không
có nghĩa ở đây, nên dịch là ghép đối ứng) - là phép ghép, hay liên kết phần tử
của hai (hay nhiều) tập hợp, trong đó có thể ghép một-một, hay một-nhiều
(one-to-one, one-to-many -1:1, 1:M, và cả 1:0), và hai chiều hay một chiều.
Khái niệm ghép đối ứng những phần tử của
những tập hợp.
[22] tuyệt đối tác giả dùng và
tôi dịch với nghĩa toán học – như trong “trị số tuyệt đối của | –3 | = 3”
[23] [*Những trường phái và những thể loại nghệ thuật khác
nhau có thể được phân tích như những nhóm meme có thể chọn lựa thay thế lẫn
nhau được, như những nghệ sĩ sao chép ý tưởng và những mô típ từ những nghệ sĩ
trước đó, và những mô típ mới chỉ sống sót nếu chúng đan kết như lưới dệt được vào
với những mô típ khác. Thật vậy, toàn bộ ngành học hàn lâm chuyên môn về Lịch
sử nghệ thuật, với truy tìm tinh vi của nó trong biểu tượng học và nghệ thuật
tượng trưng, có thể được xem như là một nghiên cứu khai triển mở rộng và chi
tiết trong tính phức tạp meme học (memeplexity).
Những chi tiết sẽ được ưa chuộng ủng hộ hoặc không ưa chuộng bởi sự hiện diện
của những thành viên hiện có của ao meme chung, và những điều này thường sẽ bao
gồm những meme tôn giáo.]
[24] Scientology
được L. Ron Hubbard thành lập vào năm 1952, Hubbard là một người Mỹ, viết
truyện khoa học giả tưởng, và là tác giả của cuốn sách được xếp vào hạng
bán-chạy-nhất “Dianetics” (1950), qua
đó dấy động một phong trào phổ thông Tự-Nâng cao (self-enhancement), và Hội Nhà
thờ Scientology thành hình lên từ đó. Scientology
có nghĩa là “biết làm thế nào để biết”, và tuyên xưng rằng nó “tạo dựng ứng
dụng thực tế đầu tiên của con người, dùng phương pháp luận khoa học, cho những
câu hỏi tinh thần”. Scientology khẳng định nó không chỉ là một hệ thống niềm
tin, nhưng là một phương thức hành động.
[25] Đạo Mormon –
Mormonism – tên chính thức là The Church of Jesus Christ of Latter-day
Saints, hay The Church of Jesus
Christ. Những người Mormon tin hội Nhà thờ của họ là một sự phục hồi chân
chính của hội nhà thờ nếu như Jesus đã hình thành, và nhữnghội nhà thờ Kitô
khác đều đã đi lạc lối. Hội Nhà thờ Mormon được Joseph Smith (1805-1844) thành
lập. Sau đó, Brigham Young, người đã dẫn những Mormon di cư đến và thành lập Salt Lake City
giữa sa mạc, năm 1847, đã phát triển nó lớn rộng. Mormons tin rằng Gót có một
thân xác trần tục, đã kết hôn, và có thể có con. Họ cũng tin rằng con người có
thể trở thành những gót trong thế giới bên kia. Những người Mormon tập trung
mạnh mẽ vào đời sống gia đình và các giá trị truyền thống, đặc biệt những người
Mormon thực hành chế độ đa thê (như các nhân vật Abraham, Isaac, Moses, … trong
kinh Thánh) cho đến cuối thế kỷ trước mới chính thức bãi bỏ. (Brigham Young có
đến trên 50 người vợ). Số tín đồ hiện nay trên toàn thế giới khoảng 13,5 triệu.
(Người bước vào vòng vận động làm ứng viên đảng Cộng Hòa tranh cử tổng thống
Mỹ, năm 2008 là Mitt Romney)
[26] Monty
Python's Life of Brian, cũng còn có tên Life
of Brian, là một phim Anh, khôi hài, năm 1979. Do nhóm Monty Python (Graham
Chapman, John Cleese, Terry Gilliam, Eric Idle, Terry Jones and Michael Palin),
viết, đóng và đạo diễn. Phim kể câu chuyện một nhân vật Brian Cohen, một người
Dothái sinh cùng một ngày, và lại ở ngay bên cạnh nhà Jesus, và như hậu quả là
bị lẫn lộn, nhậm lầm vị Cứu thế Dothái Messiah.
[27] Cargo Cults
[28] Sau khi Jesus chết, tập hợp những
người tin theo Jesus vẫn tự và được xem như một giáo phái Dothái (a small sect
of Judaism) nhỏ, tuy đặc biệt nhưng vẫn là đạo Judaism, và giáo phái này cũng
chỉ dành riêng cho dân Dothái mà thôi, phải đến Paul, giáo phái này mới thay
đổi và bắt đầu mở rộng bằng cách thu nhận tín đồ không phải dân Dothái.