Tuesday, March 22, 2011

Sigmund Freud - Tương lai của một Ảo tưởng (3)

Tương lai của một Ảo tưởng
The Future of an Illusion
Sigmund Freud







VII

Sau khi nhìn nhận những giáo lý tôn giáo như những ảo tưởng, chúng ta lập tức đối diện với một câu hỏi thêm nữa: có thể hay không – có những tài sản văn hoá khác mà chúng ta có đánh giá cao và qua đó chúng ta để chúng cai trị đời sống của chúng ta - là có bản chất tương tự?  Phải chăng những giả định vốn chúng xác định những quy định chính trị của chúng ta cũng được gọi là những ảo tưởng? Và không phải hay sao là trường hợp những mối quan hệ giữa giới tính - trong văn minh của chúng ta – đã bị xáo trộn bởi một ảo tưởng gợi dục hoặc một số ảo tưởng giống vậy? Và một khi sự nghi ngờ của chúng ta được đánh thức, chúng ta sẽ không co lại, cũng thôi không hỏi – liệu không biết sự đoan chắc của chúng ta rằng chúng ta có thể học được điều gì đó về thực tại bên ngoài, thông qua việc sử dụng quan sát và suy luận trong công trình làm việc khoa học - không biết đoan chắc này có bất kỳ một nền tảng nào tốt hơn hay không. Không có gì giữ chúng ta khỏi hướng quan sát của chúng ta vào tự bản thân chúng ta, hoặc khỏi áp dụng tư tưởng của chúng ta đến sự phê bình với tự thân nó. Trong lĩnh vực này một số những điều tra mở ra trước chúng ta, mà kết quả của chúng không thể là gì khác hơn nhưng là quyết định cho việc xây dựng một “Weltanschauung” [1]. Hơn nữa, chúng ta phỏng đoán rằng một nỗ lực như vậy sẽ không bị phí công và rằng nó sẽ ít nhất trong phần biện chính cho nghi ngờ của chúng ta. Nhưng tác giả không có được phương tiện để thực hiện một công việc quá toàn diện như thế, ông ta cần phải giới hạn công việc của mình theo vào chỉ những ảo tưởng này mà thôi - cụ thể là, những ảo tưởng của tôn giáo.



Nhưng bây giờ, giọng nói lớn của phe chống đối của chúng ta đem chúng ta đến một dừng lại. Chúng ta được gọi đến giải thích cho việc làm sai trái của chúng ta:

“Những quan tâm về khảo cổ, không có gì phải ngờ, là đáng ca ngợi nhất, nhưng không ai định thực hiện một khai quật nếu làm vậy ông ta sẽ phá mòn nền móng những nhà ở của người sống, để rồi chúng đổ và vùi con người dưới vỡ nát của chúng. Những giáo lý của tôn giáo không phải là một đề tài để một người có thể bàn luận nhặt nhãnh giống như bất kỳ gì khác. Văn minh của chúng ta xây dựng trên chúng, và sự bảo trì của xã hội con người đặt cơ sở trên sự tin tưởng của đa số con người vào sự thật của những giáo lý này. Nếu con người được dạy rằng không có Gót toàn năng và chí công, không có trật tự linh thiêng trên toàn cầu, và không đời sống sau cái chết, họ sẽ cảm thấy được miễn tất cả những nghĩa vụ phải tuân theo những giới luật của nền văn minh. Mọi người, không có sự ức chế hay lo sợ, sẽ làm theo những bản năng vị kỷ và phi xã hội của mình, tìm cách thực tập quyền lực của mình; Hỗn loạn, vốn bị chúng ta trục xuất qua công trình đằng đẵng dài hàng ngàn năm của văn minh, sẽ trở lại. Ngay cả nếu chúng ta biết, và có thể chứng minh, rằng tôn giáo đã không nắm giữ sự thật, chúng ta phải nên che giấu sự kiện và hành xử theo cách triết lý của “Nếu thể” đã quy định, và điều này là vì lợi ích của việc bảo tồn tất cả chúng ta. Và ngoài những nguy hiểm của sự định thực hiện, nó sẽ là một sự tàn ác vô mục đích. Vô số người tìm thấy một an ủi cho mình trong những học thuyết tôn giáo, và chỉ có thể kham chịu được đời sống với sự giúp đỡ của chúng. Bạn sẽ cướp mất sự hỗ trợ của họ, mà không có bất cứ điều gì tốt hơn để đổi lại cho họ. Đã được thừa nhận rằng cho đến nay khoa học đã không thành đạt được nhiều, nhưng ngay cả khi nếu nó tiến bộ xa hơn nữa, sẽ không đủ cho con người. Con người có những nhu cầu cấp thiết thuộc loại khác, mà không bao giờ có thể được khoa học lạnh lẽo làm thỏa mãn; và đó là rất lạ lùng - thực vậy, đó là chiều cao của sự bất nhất - mà nhà tâm lý học là người đã luôn luôn nhấn mạnh vào là kiến thức thông minh đóng một phần nhỏ biết chừng nào trong hoạt động nhân sự, như khi so với đời sống của những bản năng - rằng một nhà tâm lý học như thế bây giờ lại cố gắng cướp đi của nhân loại của một hoàn-thành-ước-muốn quí giá và sẽ đề nghị đền bù cho họ điều ấy với sự nuôi dưỡng trí tuệ”.

Bao nhiêu những buộc tội cùng một lúc! Tuy nhiên tôi sẵn sàng với những phản biện cho tất cả chúng, và hơn thế nữa, tôi sẽ khẳng định quan điểm rằng văn minh đâm vào một nguy cơ lớn hơn, nếu chúng ta duy trì thái độ hiện tại của chúng ta với tôn giáo hơn là nếu chúng ta bỏ nó đi.

Tôi hầu như không biết bắt đầu trả lời của tôi ở chỗ nào. Có lẽ với sự đảm bảo rằng tự chính tôi xem dự định của tôi là hoàn toàn vô hại và không có rủi ro. Lần này, tôi không phải là người đương quá đánh giá trí tuệ. Nếu người ta là giống như đối thủ của tôi mô tả họ - và tôi không nên mâu thuẫn với họ -  vậy sau đó không có nguy hiểm của một tín đồ sùng đạo bị những lý lẽ của tôi khuất phục, và bị tước đoạt niềm tin của người ấy. Thêm nữa,  tôi đã không nói gì vốn những người khác và tài giỏi hơn đã không nói trước tôi trong một phương cách mạnh mẽ, đáng phục và đầy đủ hơn nhiều. Tên tuổi của họ đều nổi tiếng, và tôi sẽ không trích dẫn họ, vì tôi không muốn đưa ra một ấn tượng rằng tôi đang tìm cách xếp mình như một trong số họ. Tất cả gì tôi đã làm - và đây là điều duy nhất vốn là mới mẻ trong khai diễn của tôi - là thêm một số nền tảng tâm lý vào những phê phán của những người lỗi lạc trước tôi. Khó mà mong đợi được cho chính xác sự thêm thắt này sẽ sản xuất được hiệu ứng vốn đã bị từ chối với những nỗ lực trước đó. Không nghi ngờ gì, tôi có thể bị hỏi ở đây, là viết những điều này để làm gì, nếu tôi chắc chắn rằng chúng sẽ không có hiệu quả. Nhưng tôi sẽ trở lại điều này sau.

Một người mà ấn phẩm này có thể làm thương tổn là chính tôi. Tôi sẽ phải lắng nghe những quở trách khó chịu nhất về sự nông cạn, đầu óc hạn hẹp và thiếu lý tưởng hay hiểu biết của tôi đối với những lợi ích cao nhất của nhân loại. Nhưng một mặt, những khiển trách như vậy không phải là mới với tôi, và mặt khác, nếu một người đã học rồi trong thời trẻ tuổi của mình để vượt lên cao hơn những không chấp thuận của những đương thời của ông, những gì còn có thể là vấn đề với ông ta trong tuổi già của ông nữa đây, khi ông chắc chắn sẽ sớm vượt ra ngoài tầm với của tất cả đồng ý hoặc không đồng ý? Trong những thời trước đã là khác biệt. Lúc ấy, những phát biểu giống như của tôi đã mang theo chúng chắc chắn một sự tước đi kiếp sống trần gian của một người, và một hiệu quả nhanh chóng cho cơ hội để đạt được một kinh nghiệm cá nhân về thế giới bên kia. Nhưng, tôi nhắc lại, những thời đó là quá khứ, và ngày nay những bài viết như thế này không mang lại nguy hiểm nào cho tác giả hơn là cho người đọc sau đó. Nhất quá có thể xảy ra là bản dịch và phát hành sách của ông sẽ bị cấm tại một nước này hay nước khác - và dĩ nhiên, cho chính xác trong một xứ sở vốn nó đoan chắc vào trình độ văn hóa cao của nó. Nhưng nếu một người đưa vào bất kỳ một bào chữa nào tất cả đi nữa, cho sự chối bỏ những ước muốn và cho sự phục tùng vào Số phận, một người cũng phải có khả năng chịu đựng loại thương tổn này.

Câu hỏi xa hơn nữa xảy ra với tôi là không biết liệu xuất bản tác phẩm này có thể không làm hại gì hết tất cả hay không. Không với một người, tuy nhiên, nhưng với một mục đích – mục đích của phân tâm học. Bởi vì không thể phủ nhận rằng khoa phân tâm là sáng tạo của tôi, và nó đã gặp rất nhiều những ngờ vực và ác ý. Nếu bây giờ tôi bước ra với những tuyên bố gây bực mình như vậy, mọi người sẽ chỉ là quá sẵn sàng thực hiện một chuyển dịch từ con người tôi sang phân tâm học. “Bây giờ chúng ta thấy đó”,  họ sẽ nói, “phân tâm học dẫn đến chỗ nào. Mặt nạ đã rơi xuống; nó dẫn đến một sự phủ nhận về Gót, và về một lý tưởng đạo đức, như chúng ta luôn luôn đã nghi ngờ. Để giữ chúng ta khỏi khám phá này, chúng ta đã bị lừa vào nghĩ rằng phân tâm học không có Weltanschauung, và không bao giờ có thể dựng được một”. [2]

Một phản đối kịch liệt thuộc loại này sẽ thực sự là khó chịu cho tôi, bởi vì nhiều đồng nghiệp của tôi, một vài trong số họ, dù bất kỳ cách nào đi nữa, không chia sẻ thái độ của tôi về những vấn đề tôn giáo. Nhưng khoa  phân tâm học đã trải qua nhiều những bão tố rồi, và bây giờ nó phải dũng cảm với cơn bão mới này. Trong thực tế, phân tâm là một phương pháp nghiên cứu, một dụng cụ vô tư, giống như phép tính số học vi phân đã là. Nếu một nhà vật lý, với sự giúp đỡ của phép tính vi phân, đã khám phá rằng sau một thời gian nhất định nào đó, trái đất sẽ bị hủy hoại, dẫu vậy chúng ta sẽ ngần ngại gán những khuynh hướng phá hoại với chính môn số học và do đó sẽ cấm trừ nó. Không có gì mà tôi đã nói ở đây về giá trị sự thật của những tôn giáo đã cần đến sự hỗ trợ của phân tâm, nó được những người khác nói đã từ lâu, trước khi phân tâm ra đời. Nếu ứng dụng của phương pháp phân tâm làm cho có khả năng tìm thấy một luận chứng mới chống lại những chân lý của tôn giáo, mặc kệ cho tôn giáo, nhưng những người bảo vệ tôn giáo sẽ bằng cùng quyền đó, đem sử dụng phân tâm nhằm mục đích mang lại giá trị đầy đủ cho ý nghĩa tác dụng của những học thuyết tôn giáo.

Và bây giờ tiến hành với sự biện hộ của chúng ta. Tôn giáo rõ ràng đã thực hiện những dịch vụ lớn lao cho văn minh loài người. Nó đã đóng góp nhiều đối với sự thuần hóa những bản năng phi xã hội. Nhưng không đủ. Nó đã cai trị xã hội loài người nhiều hàng ngàn năm, và đã có thời gian cho thấy những gì nó có thể đạt được. Nếu nó đã thành công trong việc làm cho phần lớn nhân loại hạnh phúc, trong việc an ủi họ, trong việc làm họ cam chịu với đời sống,  và trong việc làm họ thành những cỗ xe của văn minh, không có ai sẽ mơ đến toan tính gắng thay đổi những điều kiện hiện hữu. Nhưng thay vào đó, chúng ta thấy những gì? chúng ta thấy một con số lớn đáng kinh hãị của con người không hài lòng với văn minh và bất hạnh trong nó, và cảm thấy nó như một cái ách phải rũ bỏ ra, và rằng những người này hoặc là làm mọi thứ trong quyền lực của họ để thay đổi văn minh đó, hoặc khác nữa, chừng nào thù địch của họ với nó,  họ sẽ không có dây dưa gì với văn minh, hoặc với một sự hạn chế về bản năng. Ở điểm này, sẽ có phản đối với chúng ta rằng tình trạng này của sự việc là do chính sự kiện tôn giáo đã mất đi một phần ảnh hưởng của nó đối với đám đông con người, bởi vì tác dụng đáng trách của những tiến bộ của khoa học. Chúng ta sẽ ghi chú sự thú nhận này và lý do đã đưa ra cho nó, và chúng ta sẽ sử dụng nó sau này cho những mục đích riêng của chúng ta, nhưng tự thân sự phản đối không có sức mạnh.

Là điều đáng ngờ vực - không biết liệu con người nói chung đã hạnh phúc hơn trong một thời khi những giáo lý tôn giáo nắm giữ thế lực không bị hạn chế; đạo đức hơn họ chắc chắn đã là không. Họ luôn luôn biết làm thế nào phô bày những giới luật của tôn giáo ra bên ngoài, và thế nên làm không thấy những ý định của họ. Những thày chăn chiên, mà nhiệm vụ chính là đảm bảo sự tuân phục tôn giáo, đã gặp họ nửa đường trong điều này. Sự tử tế của Gót phải đưa một tay ra kiềm chế về công lý của Ngài. Một người một khi đã tội lỗi, và sau đó một người dâng tế một hy sinh hay làm một ăn năn, và sau đó một người là lại tự do để tội lỗi một lần nữa. Phân tích nội tâm lối Nga đã đạt đến độ cao của kết luận rằng tội lỗi là không thể thiếu được cho sự vui hưởng của tất cả những phước lành của ơn huệ thần thánh, do đó, ở dưới đáy, tội lỗi là làm đẹp lòng với Gót. Không có gì là bí mật rằng những thày chăn chiên chỉ có thể giữ quần chúng phục tùng với tôn giáo bằng làm những nhượng bộ lớn dường thế như vầy, với bản chất bản năng của con người. Thế nên, đã được đồng ý: chỉ một mình Gót là mạnh mẽ và tốt đẹp, con người là yếu đuối và tội lỗi. Trong tất cả mọi thời đại, phi luân vô đạo đức đã tìm thấy hỗ trợ từ tôn giáo không kém gì hơn so với đạo đức đã nhận được [3]. Nếu những thành tựu của tôn giáo về phương diện hạnh phúc của con người, sự nhạy cảm với văn hóa[4] và sự kiểm soát đạo đức mà không tốt hơn so với thế này, câu hỏi không thể nào không nêu lên là - liệu chúng ta đã đánh giá quá đáng sự cần thiết của nó với loài người hay không, hay không biết chúng ta có khôn ngoan hay không, khi đặt nền tảng những nhu cầu văn hóa của chúng ta vào trên nó.

Chúng ta hãy cùng xem xét tình trạng không thể nhầm lẫn như ngày nay nó là. Chúng ta đã nghe thú nhận rằng tôn giáo thôi không còn có ảnh hưởng trên con người cũng như trước đây nó đã có. (Ở đây, chúng ta bàn về văn minh châu Âu Kitô). Và điều này không phải vì những hứa hẹn của nó đã ít hơn, nhưng vì người ta tìm thấy chúng ít đáng tin cậy. Chúng ta hãy cùng thừa nhận rằng lý do - mặc dù có lẽ không phải là lý do duy nhất – của thay đổi này là sự gia tăng của tinh thần khoa học trong những tầng lớp cao hơn của xã hội con người. Những phê bình đã làm héo chết đi giá trị bằng chứng của những văn bản tôn giáo, khoa học tự nhiên đã đưa lên cho thấy những sai lầm trong chúng, và nghiên cứu so sánh đã bị giáng đòn choáng váng trước sự giống nhau chết người giữa những ý tưởng tôn giáo mà chúng ta tôn kính, và những sản phẩm tinh thần của những những dân tộc và thời đại nguyên thủy.

Tinh thần khoa học mang đến một thái độ đặc biệt đối với những vấn đề của thế gian; đứng trước những vấn đề tôn giáo, nó dừng lại một chút ngập ngừng, và cuối cùng ở đó, nó cũng vượt qua ngưỡng cửa. Trong tiến trình này không có sự dừng lại, số con người - mà những kho tàng kiến thức trở nên dễ tiếp cận – càng lớn bao nhiêu, càng phổ biến rộng rãi sự rơi-rụng-tránh-xa khỏi niềm tin tôn giáo -  lúc đầu chỉ từ nhũng cạm bẫy đã lỗi thời và đáng phản đối của nó, nhưng sau đó cũng từ những định đề nền tảng của nó. Những người Mỹ là những người đã dựng lên vụ “xử án khỉ” ở Dayton [5] đã cho thấy chính họ mà thôi là đúng như thế. Ở những nơi khác, sự chuyển đổi không thể tránh khỏi thì được thực hiện bằng cách nửa chừng và không thành thật.

Những người có học thức và lao động trí não ít sợ hãi văn minh. Trong họ, sự thay thế những động cơ tôn giáo để ứng xử văn minh bằng cái khác, những động cơ thế tục, sẽ tiến hành không bị ngăn trở, hơn thế nữa, những người như vậy, trong một mức độ, bản thân họ chính là những cỗ xe của văn minh. Nhưng nó là một vấn đề khác với khối lượng lớn của đám đông ít học và bị áp bức, những người có đủ mọi lý do để là những kẻ thù của văn minh. Vì vậy, miễn là chừng nào họ không phát hiện ra rằng người ta không còn tin vào Gót nữa, mọi sự đều trôi chảy. Nhưng họ sẽ khám phá ra điều đó, không nhầm lẫn, ngay cả nếu mảnh giấy viết này của tôi không được xuất bản. Và họ đã sẵn sàng để chấp nhận những kết quả của suy nghĩ khoa học, nhưng lại với không có sự thay đổi xảy ra trong họ vốn suy nghĩ khoa học mang lại cho con người. Phải là không có một nguy hiểm ở đây hay không - khi thù địch của những đám đông này với văn minh sẽ lao mình chống lại những điểm yếu mà họ đã tìm thấy trong bà-chủ-việc của họ? Nếu lý do duy nhất khiến bạn phải không được giết hàng xóm của mình là bởi vì Gót đã cấm và sẽ nghiêm khắc trừng phạt bạn ở đời này hoặc ở đời sau – vậy sau khi bạn học được rằng không có Gót, và bạn không cần phải sợ trừng phạt của Ông, bạn chắc chắn sẽ giết hàng xóm của bạn mà không do dự, và bạn chỉ có thể ngăn cản được không làm như thế bằng sức mạnh trần tục. Thế nên, hoặc là những đám đông nguy hiểm này phải bị kéo dìm xuống thật chặt chẽ và giữ hết sức cẩn thận để khỏi có được bất kỳ cơ hội nào của trí tuệ thức tỉnh, hoặc khác đi, quan hệ giữa văn minh và tôn giáo phải trải qua một xem xét lại từ nền tảng.



VIII

Người ta có thể nghĩ rằng sẽ không có những khó khăn đặc biệt nào trong cách thực hiện đề nghị vừa kể sau này. Đúng là nó sẽ bao gồm một số lượng nhất định của sự từ bỏ, nhưng có lẽ sẽ được nhiều hơn là mất, và có thể sẽ tránh được một nguy hiểm lớn. Mọi người đều sợ hãi nó, tuy nhiên, vì nó sẽ phơi văn minh ra với một nguy hiểm lại còn lớn hơn. Khi Boniface [6] đốn ngã cái cây vốn đã được những người  Saxons tôn kính như linh thiêng, những người dự kiến đã chờ đợi một số sự kiện đáng sợ xảy ra theo sau sự phạm thánh này. Nhưng đã không có gì xảy ra, và những người Saxons đã chấp nhận đạo Kitô. 

Khi văn minh đặt ra điều răn rằng một người không được giết người hàng xóm mà ông ghét, hoặc người chặn lối (tiến thủ) của ông, hoặc người có tài sản ông thèm muốn, điều này rõ ràng đã thực hiện trong sự quan tâm về sự tồn tại của cộng đồng con người, vốn nếu không thế, đã không là thực tiễn. Bởi vì kẻ giết người sẽ thu hút về chính hắn sự báo thù của họ hàng người bị giết, và sự ganh tị ngấm ngầm từ những người khác, những người trong chính họ tự cảm thấy cũng có xu hướng nhiều như kẻ giết người đã bạo hành như thế. Thế nên, anh ta không hả hê vơi sự báo thù của mình, hay sự ăn cướp của mình được cho lâu, nhưng sẽ có tất cả những khả năng chính mình sớm bị giết. Ngay cả nếu anh ta bảo vệ mình chống lại một kẻ thù duy nhất của anh với sức mạnh phi thường và thận trọng, anh ta rồi sẽ bị ngã gục trước một kết hợp những người yếu hơn. Nếu một kết hợp thuộc loại này đã không diễn ra, việc sát hại sẽ tiếp tục không ngừng và kết quả cuối cùng sẽ là con người sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Chúng ta sẽ đến cùng một tình trạng của sự việc giữa những cá nhân như vẫn tồn tại ở Corsica giữa những gia đình, mặc dù ở nơi khác chỉ giữa những quốc gia. Bất an của đời sống, vốn nó là một mối nguy hiểm ngang bằng cho tất cả mọi người, bây giờ kết hợp con người thành một xã hội, nó ngăn cấm những cá nhân không được giết hại và dành cho chính nó quyền của cộng đồng được giết bất cứ ai là người vi phạm lệnh cấm. Ở đây, sau đó, chúng ta có công lý và trừng phạt.

Nhưng chúng ta không công bố giải thích hợp lý này về việc cấm giết người. Chúng ta khẳng định rằng lệnh cấm đã được Gót ban hành [7]. Thế nên chúng ta gánh lấy vào thân để đoán ý định của Gót, và chúng ta thấy rằng ông, cũng thế, không muốn để cho con người tiêu diệt lẫn nhau. Trong hành xử theo cách này chúng ta đầu tư vào sự nghiêm cấm văn hóa với một nghiêm trọng khá đặc biệt, nhưng đồng thời chúng ta có nguy cơ làm cho sự tuân thủ nó phụ thuộc vào niềm tin vào Gót. Nếu chúng ta bước lùi lại bước này - nếu chúng ta không gán nữa cho Gót những gì là ý định riêng của chúng ta, và nếu chúng ta tự hài lòng với đưa ra lý do xã hội – vậy sau đó, đúng nó là thật, chúng ta đã từ bỏ sự biến hình của nghiêm cấm văn hóa, nhưng chúng ta cũng tránh được hiểm nguy với nó. Nhưng chúng ta cũng đạt được một cái gì khác nữa.  Thông qua một số loại thuộc phân tán hoặc nhiễm trùng, đặc tính của thánh linh và bất khả xâm phạm -  của sự thuộc về một thế giới khác, người ta có thể nói - đã lan truyền từ một vài điều cấm lớn sang qua  tất cả mọi qui định văn hóa khác, luật lệ và pháp lệnh. Nhưng về những điều này, hào quang xem ra còn lâu mới thành hình: không chỉ thực chúng làm mất hiệu lực lẫn nhau bằng đem cho những quyết định trái ngược vào những thời điểm và những nơi khác biệt, nhưng ngoài điều này, chúng có mọi dấu hiệu của sự bất cập con người. Rất dễ dàng để nhận ra trong đó những điều mà chỉ có thể là sản phẩm của sự nhận thức thiển cận, hoặc một biểu tả từ quyền lợi ích kỷ chật hẹp, hoặc một kết luận dựa trên những tiền đề khiếm khuyết. Những lời chỉ trích mà chúng ta không thể bỏ không đem đặt ngang trước chúng, cũng giảm thiểu đến một mức độ không mong muốn sự tôn trọng của chúng ta với người khác, nhưng nhu cầu văn hóa chính đáng hơn. Bởi vì luôn luôn là một công việc khó xử để tách những gì Gót tự Ông đã yêu cầu với những gì có thể được truy nguồn đến thẩm quyền của một quốc hội toàn năng, hoặc một  cơ quan tư pháp tối cao, nó sẽ là một lợi thế không thể ngờ vực gì, nếu chúng ta bỏ Gót ra khỏi hoàn toàn, và thành thật thừa nhận nguồn gốc thuần túy con người của tất cả những quy định và những giới răn của văn minh. Cùng với sự linh thiêng giả tạo của chúng, những điều răn và luật pháp này sẽ mất đi tính chết cứng và tính bất khả chuyển của chúng. Người ta có thể hiểu rằng chúng được làm nên, không nhiều quá để cai trị họ, trái lại, như để phục vụ những lợi ích của họ, và họ sẽ chấp nhận một thái độ thân thiện hơn với chúng, và thay vì nhắm đến bãi bỏ của chúng, sẽ chỉ nhằm vào cải thiện chúng. Đây sẽ là một bước tiến quan trọng trên đường vốn dẫn đến trở thành được hòa giải với gánh nặng của văn minh.

Nhưng ở đây bào chữa của chúng ta cho gán những lý do thuần túy lý trí với những giới luật của văn minh – đó là nói rằng, vì diễn dịch chúng từ cần thiết xã hội - bị gián đoạn bởi một nghi ngờ đột ngột. chúng ta đã chọn như thí dụ của chúng ta nguồn gốc của việc cấm giết người. Nhưng giải thích của chúng ta về nó có đi đôi với sự thật lịch sử không? Chúng ta sợ là không, nó xuất hiện không gì khác ngoài một xây dựng lôgích lý trí. Với sự giúp đỡ của phân tâm học, chúng ta đã làm một nghiên cứu đích xác trên mảnh này của lịch sử văn hóa của nhân loại [8], và đặt căn bản cho chúng ta trên đó, chúng ta buộc phải nói rằng ngược lại. trong thực tế những sự việc đã xảy ra. Ngay cả trong con người ngày nay, những động cơ thuần túy lý trí có thể tác động rất yếu chống lại những xung động đam mê. Yếu hơn đến chừng nào, khi ấy chúng đã phải là trong con người thú vật của những thời đại nguyên thủy! Có lẽ hậu duệ của ông ta ngay cả bây giờ sẽ giết lẫn nhau nếu không có sự cấm cản, nếu như đã không rằng trong số những hành vi giết người đó, đã có một vụ giết người cha nguyên thủy – vốn nó gây nên một phản ứng xúc cảm không thể cưỡng lại được với những hậu quả vô cùng lớn lao. Từ đó phát sinh điều răn: Ngươi chớ giết người. Dưới chế độ xã hội thờ vật tổ [9],  điều răn này giới hạn vào con vật thế-cha, nhưng đã là sau đó, nó mở rộng ra với người khác, mặc dù ngay cả đến ngày nó không phải là đã được phổ quát tuân theo.

Nhưng, như luận chứng mà tôi không cần phải lặp lại ở đây đã cho thấy, người cha nguyên thủy đã là hình ảnh ban đầu của Gót, mô hình mà những thế hệ sau này đã tạo nặn chân dung của Gót. Do đó giải thích tôn giáo là đúng. Gót thực sự có đóng phần trong nguồn gốc của việc cấm đoán đó, nó đã là ảnh hưởng của ông, không phải bất cứ cái nhìn sâu sắc nào vào cần thiết xã hội, vốn đã tạo ra nó. Và việc chuyển dịch ý chí của con người vào Gót là hoàn toàn chính đáng. Đối với những người biết rằng họ đã giết hại cha của họ bằng bạo lực, và trong phản ứng của họ với hành động vô đạo đó, họ đã nhất định sẽ tôn trọng ý muốn của ông từ rày về sau. Vì vậy, giáo lý tôn giáo cho chúng ta biết sự thật lịch sử - mặc dù chủ quan, đó là sự thật, với một số sửa đổi và cải trang nào đó - trong khi giải thích lý trí của chúng ta phủ nhận nó.

Bây giờ chúng ta quan sát thấy cửa hàng của những ý tưởng tôn giáo bao gồm không chỉ những thỏa-mãn-ước muốn nhưng cả những hồi ức lịch sử quan trọng. Ảnh hưởng đồng thời này của quá khứ và hiện tại phải cho tôn giáo một sự giàu có quyền lực, thực sự không thể so sánh.  Nhưng có lẽ với giúp đỡ của một tương tự, thêm một khám phá nữa có thể bắt đầu sáng lên trong chúng ta. Mặc dù không phải là một kế hoạch tốt để cấy ghép những ý tưởng xa khỏi mảnh đất trong đó chúng lớn lên, nhưng đây là một sự phù hợp mà chúng ta không thể nào tránh không chỉ ra. Chúng ta biết rằng một đứa trẻ nhân loại không có thể hoàn tất phát triển của nó thành công đến giai đoạn văn minh mà không đi qua một giai đoạn thần kinh, đôi khi lớn hơn và đôi khi có tính khác biệt ít hơn. Điều này là bởi vì rất nhiều nhu cầu bản năng mà sau này sẽ là chịu thiếu thỏa mãn không thể bị dập tắt bởi hoạt động hợp lý của trí tuệ của đứa trẻ, nhưng phải được thuần hóa bởi những hành vi đàn áp, đằng sau điều này, như một quy luật, nằm những động cơ của sự lo lắng. Hầu hết những xáo động thần kinh [10] trẻ con này được vượt qua một cách tự nhiên trong quá trình lớn lên, và điều này đặc biệt đúng trong những xáo động thần kinh ám ảnh của tuổi thơ. Phần còn lại vẫn sau đó có thể dọn cho quang đãng được, bằng điều trị phân tâm. Trong cùng một cách đúng như thế, người ta có thể giả sử, loài người như một toàn bộ, trong sự phát triển của nó thông qua những thời đại, đã rơi vào những trạng thái tương tự như những xáo động thần kinh [11], và vì cùng những lý do - cụ thể là bởi vì trong những thời đại u tối không hiểu biết và yếu đuối trí tuệ của nó, sự từ bỏ bản năng không thể thiếu được cho sự tồn tại của cộng đồng con người chỉ có thể đạt được đến nó, bằng những phương tiện của những sức mạnh thuần túy tình cảm. Những kết tủa của những quá trình này giống như dồn nén vốn nó đã diễn ra trong những thời tiền sử vẫn còn gắn liền với văn minh trong những thời gian dài. Tôn giáo như vậy, sẽ là xáo động thần kinh phổ quát loại ám ảnh của nhân loại [12], giống như những xáo động thần kinh ám ảnh của trẻ em, nó phát sinh ra từ mặc cảm Oedipus [13], từ mối quan hệ với người cha. Nếu quan điểm này là đúng, nó được giả định là một quay-sang-bỏ-đi khỏi tôn giáo thì buộc phải xảy ra với tất yếu sinh tử  của một tiến trình tăng trưởng, và chúng ta tìm thấy chính mình tại chính nối tiếp này ở giữa của giai đoạn phát triển đó. Hành vi của chúng ta vì vậy phải nên mô hình theo với của một thày giáo nhạy cảm là người không phản đối một phát triển mới đương sắp xảy ra, nhưng tìm cách làm dễ dàng lối đi của nó, và giảm thiểu bạo động từ sự đột biến của nó. Sự so sánh tương đồng của chúng ta, cho chắc chắn, không làm kiệt quệ bản chất yếu tính của tôn giáo. Nếu, trên một mặt, tôn giáo mang đến với nó những hạn chế có tính ám ảnh, làm chính xác như một cá nhân có xáo động thần kinh về ám ảnh, mặt khác, nó bao gồm một hệ thống những ảo tưởng về ước mơ với một sự mơ cùng với một từ chối [14] thực tại, chẳng hạn như chúng ta tìm thấy trong một hình thức cô lập, ở không đâu khác ngoài bệnh amentia [15], trong một tình trạng lẫn lộn của ảo giác đầy sung sướng hạnh phúc. Nhưng đây chỉ là những tương đồng, bằng sự giúp đỡ thấy trong đó, chúng ta nỗ lực để hiểu một hiện tượng xã hội; bệnh lý của cá nhân không cung cấp cho chúng ta với một đối tác đầy đủ hoàn toàn hợp lệ.

Đã được lập lại nhiều lần (bởi chính tôi và đặc biệt bởi Theodor Reik [16]) chỉ ra, trong rất nhiều chi tiết quan trọng,  sự tương tự giữa tôn giáo và xáo động ám ảnh thần kinh có thể được theo dõi tường tận, và có bao nhiêu những đặc thù và những thăng trầm trong sự hình thành của tôn giáo có thể được hiểu trong ánh sáng đó. Và nó cũng tương ứng chặt chẽ với điều này là những tín hữu mộ đạo được giữ gìn với một mức độ cao chống lại nguy cơ một số bệnh thần kinh, sự chấp nhận của họ về xáo động thần kinh phổ quát đã miễn cho họ công việc xây dựng một xáo động thần kinh riêng cho cá nhân [17].

Kiến thức của chúng ta về giá trị lịch sử của những học thuyết tôn giáo nào đó làm tăng lên sự tôn trọng của chúng ta với chúng, nhưng không làm mất hiệu lực đề nghị của chúng ta là chúng nên ngừng, thôi được đưa ra như là lý do cho giới luật của văn minh. Về mặt ngược lại ! Những tàn dư xót lại của lịch sử đã giúp chúng ta nhìn những giáo lý tôn giáo, như chúng đã là, là những di tích xáo động thần kinh, và chúng ta bây giờ có thể biện luận rằng thời gian có thể đã đến, giống như nó đã trong một điều trị phân tích tâm lý, để thay thế những tác dụng của dồn nén bằng những kết quả của những hoạt động hợp lý của trí thức. Chúng ta có thể thấy trước, nhưng khó mà hối hận, rằng một tiến trình nắn lại khuôn mẫu như thế, sẽ không dừng lại ở sự từ bỏ những biến hình nghiêm trọng của những giới luật văn hóa, nhưng đó là một sự xét lại tổng quát về chúng, sẽ có kết quả trong số đó, chúng sẽ bị chấm dứt, bị diệt đi cùng. Bằng cách này, công việc được bổ nhiệm của chúng ta về hoà giải con người với văn minh sẽ đạt được đến một mức độ lớn. Chúng ta không cần phải phàn nàn về việc từ bỏ sự thật lịch sử khi chúng ta đưa ra nền tảng hợp lý trí cho những giới luật của văn minh. Những chân lý chứa đựng trong giáo lý tôn giáo, cuối cùng sau tất cả, là quá bị bóp méo và bị che dấu ngụy trang một cách hệ thống khiến đám đông nhân loại không thể nhận ra được chúng như sự thật. Trường hợp này tương tự như những gì xảy ra khi chúng ta nói với trẻ con rằng em bé mới sinh đã được con cò [18] bay đem đến. Ở đây, cũng thế, chúng ta đang nói sự thật trong y phục tượng trưng, bởi vì chúng ta biết con chim lớn ý chỉ cái gì. Nhưng trẻ con không biết điều đó. Nó nghe chỉ phần bị bóp méo của những gì chúng ta nói, và cảm thấy rằng nó đã bị dối gạt, và chúng ta biết thông thường đến đâu sự mất lòng tin của nó với những người lớn và sự lệch hướng (như ánh sáng qua thấu kính khác loại) của nó thực sự bắt đầu từ ấn tượng này. Chúng ta đã trở nên được thuyết phục rằng tốt hơn nên tránh những biểu tượng che dấu sự thật như thế trong những gì chúng ta nói với trẻ em, và không giữ lại một kiến thức với chúng về tình trạng chân thực của công việc tương xứng với mức độ trí tuệ của chúng [19].

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất
(Mar, 2011)




[1] Từ Welt: thế giới + Anschauung; quan điểm: Nhân sinh và vũ trụ quan. Một cái nhìn toàn bộ hay một triết lý của một cá nhân về đời sống và vũ trụ của con người.
[2] [Xem một vài nhận xét  ở cuối chương II của Inhibitions, Symptoms and  Anxiety (1926d), Standard Ed., 20, 95-6 ]
[3] Đây là một mẫu thuẫn trong đạo Kitô – một mặt khuyến thiện, nhưng một mặt khác cũng “tha thứ” với những “ăn năn, thú tội, xưng tội, rửa tội, cứu chuộc, ban ân sủng,..” Chúng có giá trị thực tiễn là tăng hay giữ tín đồ, nhưng bản chất là “hòa hoãn” với tội lỗi, lùi bước trước dục vọng, “nhân nhượng” với bản năng con người. Như thế, không đóng góp gì với sự kiểm soát đạo đức, giáo dục luân lý nhưng thực ra còn có thể xem là a tòng đồng lõa.

Sau nữa, lý thuyết về sự “chịu tội thay”  như sự hy sinh của Christ là một phi luân – không ai có thể “chịu tội” thay cho ai được. Nó chỉ có ý nghĩa là chịu hình phạt thay cho một ai đó, nếu có hình phạt, nhưng không thể nhận trách nhiệm tội lỗi của người phạm tội được. Đó là phi luân, vô đạo.

Nếu A giết người, hay hiếp dâm, chẳng hạn; không gì có thể làm A tránh khỏi trách nhiệm trước tội ác đó.

[4] [Bản chất của nhạy cảm với văn hóa” đã được Freud bàn luận trong phần thứ nhất của bài viết của ông về “War and Death” (1915b), Standard Ed., 14 và một thuật ngữ tương tự “sự sẵn sàng với văn hóa” xuất hiện trong chương VIII của tập Outline of Psycho-Analysis (1940a) [1938]), ibid., 23, 201.]
[5] [Một thành phố nhỏ ở Tennessee, tại đấy, năm 1925, một thày giáo môn khoa học bị truy tố ra tòa vì đã vi phạm luật của tiểu bang khi dạy – theo thuyết Darwinism - rằng “con người phát gốc từ những động vật thấp hơn”.]
[6] [ Thế kỷ VIII, Devonshire-born, “Apostle of Germany”]
[7] Thí dụ, 10 điều răn của Moses, lãnh tụ dân Do thái – nói là từ tay Gót trao cho ông.
[8] [ Cf. bài luận văn thứ IV trong Totem and Taboo (1912-13).]
[9] totemism
[10] neuroses: xáo động thần kinh:  một bệnh não thức (mental illness) tương đối nhẹ, không có nguyên nhân hữu cơ, gồm những triệu chứng căng thẳng: quá sức ngã lòng, chán nản, luôn lo lắng bất an, ứng xử thái quá mức thường, ám ảnh về bệnh tật (depression, anxiety, obsessive behavior, hypochondria), người bệnh vẫn không mất ý thức về thực tại ngoại giới. Trường hợp nặng hơn, mất ý thức về thực tại là psychosis (loạn thần kinh).

[11] [Freud trở lại với vấn đề này ở cuối của Civilization and its discontents (1930a). p. 44 dưới đây, trong bài cuối của New Introductory Lectures  (1933a) vad trong phần I của chương III của Moses and Monotheism (1939a).]
[12] the universal obsessional neurosis.

[13] Theo Freud những khát khao tính dục (sexual desires) là động lực chủ yếu thúc đẩy đời sống con người. Oedipus Complex – đã thường được quen gọi là “mặc cảm Oedipus” đến từ giả thuyết chính yếu của ông về đời sống tâm lý. Vắn tắt, giả thuyết cho rằng trong giai đoạn thành hình của đời sống tâm-lý-tính-dục (psychosexual) của con người, - bắt đầu ở tuổi thơ ấu, khoảng từ hai đến sáu – lúc ấy đứa trẻ chuyển đối tượng yêu thương từ vú mẹ (the oral phase) sang chính người mẹ, đồng thời nảy sinh tình cảm thèm muốn mẹ và thầm mong giết chết cha. Như thế, nội tâm đứa trẻ phát triển hai xúc cảm ràng buộc với cha mẹ của nó, đó là thương yêu gắn bó với người cha hay mẹ khác phái tính, và gắn bó ác cảm với cha hay mẹ cùng phái tính, đứa trẻ xem như đối thủ tình cảm của nó.
“Mặc cảm” dùng để chỉ tất cả những yếu tố của một tình huống tâm lý hết sức phức tạp khó hiểu trong những liên hệ ràng buộc tâm lý giữa ba người – cha-mẹ-con – bao gồm mọi động cơ và biểu hiện của tất cả nhận thức, xúc động và thái độ của đứa trẻ trong liên hệ tay ba này. Mặc cảm Oedipus còn bao gồm sau đó những đê đập tinh thần được thiết lập để ngăn đỡ, chống cự, đè nén những tình cảm này. Freud đã gọi mặc cảm này là “cốt lõi của những triệu chứng xáo động thần kinh” (the nucleus of the neuroses) và xa hơn thế, trí não con người vận hành trên cấu trúc trung tâm này.
Mặc cảm mang tên Oedipus Rex, vốn là tên nhân vật chính trong một bi kịch cổ Hylạp của Sophocles – bởi định mệnh oan nghiệt khôn cưỡng, O. đã giết cha và lấy mẹ của chính mình (trong mù quáng - không tự biết).
Mặc dù lý thuyết thiết yếu liên quan đến sự phát triển đời sống tâm lý của đứa trẻ, nhưng lĩnh vực ứng dụng của nó mở rộng, nó có thể áp dụng vào tâm lý người trưởng thành và psychopathology, bởi vì tư cách ứng xử của người lớn hết sức chịu tác động từ những biến cố xảy ra trong thời thơ ấu, hơn nữa, một số những phương diện của lịch sừ loài người, luân lý, và tôn giáo sẽ được sáng tỏ khi áp dụng nó vào nhân loại học văn hóa  - học con người về văn hóa - cultural anthropology.

[14] [ Xem bài viết  về “Fetishism” (1927c). p.153 đưới đây]
[15] [‘Meynert’s ametia’: một trạng thái của lẫn lộn ảo giác trầm trọng.]
[16] [Cf. Freud, ‘Obsessive Actions and Religious Practice’ (1907b) and Reik (1927).]
[17] [Freud thường nêu lên điều này trước đây: e.g. trong một câu thêm vào năm 1919 trong bài nghiên cứu về Leonard da Vinci (1910c), Standard Ed., 11, 123.]
[18] stork – loại chim chân dài, cánh dài, cổ dài thuộc loài lội nước với mỏ đen dài, thuộc gia đình Ciconiidae - giống như cò (cygogne). Ở phương Tây, trong gia đình, có tục nói dối với trẻ em – khi có một em bé mới được mẹ sinh - là em bé mới ra đời do một con cò bay đem lại, tránh đi vào giải thích chuyện sinh nở.
[19] [ Freud về sau nêu lên sự khác biệt giữa những gì ông gọi là sự thật “vật chất” và “lịch sử” ( “material” và “historical”) trong nhiều đoạn. Xem, đặc biệt, đoạn G phần II của Luận thuyết III về Moses and Monotheism (1939a). Cf. cũng trong chú thích của người biên tập về chủ đề trong chương XII (C) của the Psycho-Pathology of Everyday Life (1901b)), Standard Ed., 6, 256.]