Friday, December 25, 2009

Phản-kitô - The Antichrist



Phản-kitô
Lời nguyền rủa đạo Kitô

Friedrich Nietzsche (1844 – 1900)
Der Antichrist (1895)
Fluch auf das Christenthum.




Lời người dịch bản tiếng Việt

Có thể nói gì thêm về con người tên tuổi đã gắn liền với lời cáo tri chấn động thế kỷ qua – “Gót đã chết” – “Gott ist todt”?

Với những dụ ngôn và ảo ngữ, Nietzsche viết những luận văn triết học đọc như thơ xuôi, như sấm dụ. Lên án đạo Kitô đại diện cho “tất cả những hèn yếu, thấp kém và vụng hỏng”, và toàn thể truyền thống Kitô-Dothái què quặt tác hại, Nietzsche muốn phá hết tật nguyền, để dựng lại toàn bộ văn minh phương Tây từ những giá trị đạo đức cơ bản.

Phản-kitô [1]  là tác phẩm đem tranh luận không ngừng đến những tiếp nối thế hệ người viết và đọc triết học.

Dịch từ những bản tiếng Anh, tham khảo thêm bản tiếng Pháp, vì bản thân người dịch, hắn không biết tiếng Đức.
Thử thôi, dẫu chút sai cũng chỉ như muối bỏ biển, không đổi được vị đã mặn đắng những lời sâu thẳm.

Và, không sao đi chệch được những dòng thác cuộn tràn bờ dũng mãnh của vị thiên tài phá hủy thánh tượng; của Nietzsche, đắm say cuồng nộ rồi lặng im loạn trí giữa nhân gian.

Người dịch
Lê Dọn Bàn
(Noel – 2009)

Tuesday, December 1, 2009

Michael Martin – Có phải đạo Kitô phi lý không?

Có phải đạo Kitô phi lý không?

Is Christianity Absurd?
Michael Martin









Lời người dịch

Michael Martin là một trong những khuôn mặt tiêu biểu[1] cho giới triết gia học giả vô thần hiện nay đang giảng dạy trong các trường đại học nước Mỹ. Ngoài những luận văn chuyên khoa triết lý, các sách giáo khoa, hay tham khảo cho môn Triết, Triết lý tôn giáo và Tôn giáo đối chiếu, ông cũng viết những luận văn tuy ngắn, nhưng rất giá trị, những văn bản triết lý hướng đến độc giả phổ thông – mà tôi tạm gọi là “triết học cho những người không học triết“.

Những ai muốn đào sâu các nội dung này – xin mời đọc hai tác phẩm cơ bản của ông do nhà xuất bản trường đại học Temple, Philadelphia xuất bản: Atheism: A Philosophical Justification (1990), The Case Against Christianity (1991). Đặc biệt về chủ đề đạo đức của những người vô thần đối mặt với truyền thống và huyền thoại Judaeo-Christian, ông có tác phẩm Atheism, Morality and Meaning. Tác phẩm của ông, chẳng những chỉ uyên bác thuyết phục, nhưng bảo vệ và xây dựng một triết lý và cơ sở đạo đức vô thần, đem lại phần thưởng hứng khởi thú vị cho người đọc.


Saturday, November 28, 2009

Thiên đường dậy sóng hoài nghi


Thiên đường dậy sóng hoài nghi

Problems with Heaven (1997)
Michael Martin




Lời người dịch

Ai ai cũng muốn lên thiên đường, nhưng chẳng ai muốn chết cả [1]

Câu hát đó đập vào tôi ngay lần nghe đầu tiên, cách nay đã rất lâu, nên đến giờ đã quên mất cả tên người hát, và cũng quên cả các phần sau. Một nghịch lý của các tôn giáo phương Tây: Chết và Thiên đường. Phải chết xong đã, mới thấy cánh cửa vào đất Hứa. Thế nên Thiên đường vẫn là một hoài nghi – vì chưa chết nên không thể biết thực hư, nhưng chết rồi, thực hư không thể nói, mà cho cùng, với người chết, biết còn chăng chuyện thực hư. Vậy nên, thiên đường chỉ là để cho người sống bàn bạc, mơ tưởng, và nhất là rao giảng.


Nếu chỉ là giấc mộng đêm của con người như phương Đông nhìn lên trăng, mơ chốn Thiên thai, hay Bồng lai, tiên cảnh, có sáo trúc êm, có dáng hằng tuyệt mỹ, ...nó vô hại, nên thơ, đẹp đẽ, và lại còn đầy hứng cảm nghệ thuật.

Nhưng lớn mạnh hơn mộng đêm, đến những khát khao bản năng của tranh sống ngày, là mộng ngày; ở trong không gian của những hữu hạn nên thèm ước cái không gian khác chứa đầy vô hạn, nghèo khó nên ước giàu sang, xấu xa nên ước đẹp đẽ, khổ đau nên ước hạnh phúc,… mộng ngày là khát khao bản năng nên thường chỉ tìm đến số, đến lượng để thỏa mãn đói khát, bỏ quên hay coi nhẹ giá trị phẩm chất. Thế nên chúng ta nghe kể thiên đường có vô tận những cái này, vô hạn những thứ kia, vô cùng những điều nọ. Mọi thứ đều đong bằng “bao nhiêu là…”. Con người khát quá, thèm quá, muốn quá, tự nhiên đấy thôi. Nhưng những ước ao tự nhiên và thơ ngây đó của con người đã bị những phù thuỷ tôn giáo vẽ vời thành một Thiên đường dẫn dụ. Và bức tranh mới vụng về làm sao, đầu đuôi bất nhất. (Đọc bài này của Michael Martin) Tựa những lời hứa dỗ dành con trẻ, nay thế này, mai thế khác, sau cùng có ai ngắm kỹ lại, với chút suy nghĩ thấy ngay bức tranh Thiên đường rách bươm, vá víu, chắp nối, có rất nhiều lúc vội vàng nên điều hứa sau đã trái nghịch với lời hứa hấp tấp trước. Thiên đường có lẽ chẳng có thể ví được với một bức tranh, tôi có rộng rãi quá chăng? Ở chính phương Tây này, người ta chẳng vẫn gọi nó trần trụi là một cái bánh vẽ trên trời đó sao. Là bánh thì không, nhưng có là tranh đi nữa, nhưng chấp vá, nên có bao giờ thoả được dẫu một chút mộng chân thực con người.


Friday, November 27, 2009

Bertrand Russell - Lịch sử Triết học phương Tây - (2)


Bertrand Russell

Lịch sử Triết học phương Tây


Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần I – Các triết gia trước Socrates



Chương I – Sự bừng dậy của Văn minh Hylạp

Trong xuốt lịch sử, không có gì thật ngạc nhiên và khó khăn đến thế, khi giải thích sự bừng dậy đột nhiên của văn minh tại Hylạp. Phần lớn những gì làm nên văn minh đã có mặt hàng nghìn năm ở Egypt và ở Mesopotamia, và đã từ đấy lan ra các nước láng giềng. Nhưng vẫn còn thiếu một số yếu tố cho đến khi Hylạp đem thêm. Những gì họ đạt được về mỹ thuật và văn chương thì quen thuộc với mọi người, nhưng những gì họ đã làm được trong lĩnh vực trí thức thuần tuý thì siêu việt, lại còn khác thường hơn. Họ phát minh toán học [1], và khoa học và triết học; họ đầu tiên viết sử, thay vì chỉ là các biên niên, họ bàn luận rộng rãi về bản chất thế giới và những mục đích của đời người, không bị xiềng xích tín điều thừa hưởng nào trói buộc. Những gì đã xảy ra thật xửng xốt quá sức tưởng tượng đến nỗi, đến tận gần đây, người ta hài lòng chỉ nhìn và nói một các huyền bí về thiên tài Hylạp. Tuy vậy, sự phát triển của Hylạp có thể hiểu được qua ngôn từ khoa học và cũng đáng công làm như thế.

Thần học và Phản chứng



Thần học và Phản chứng

Theology and Falsification (1950)
Antony Flew






Lời người dịch

Có thể phản chứng các tin tưởng tôn giáo như Kitô giáo không? Nếu không, tại sao và có nghĩa gì?

Bài viết ngắn này của Antony Flew, triết gia nước Anh– ra đời từ 1950– và đến nay vẫn được nhắc nhở, đọc lần đầu tại Socratic Club, Oxford. Ông trình bày: Một điều gì đó không thể chứng minh là đúng– nếu không thể định rõ các đòi hỏi tất yếu và đủ, để chứng minh ngược lại– nó là sai. Dùng luận lý của triết lý khoa học này, để chỉ ra tính chất không thể chứng minh là sai (Falsification) của các phát biểu thần học Kitô. Trên quan điểm hoài nghi vô thần, ông thấy chúng luôn luôn chạy trốn sự thật vì có lẽ chúng không chứa một sự thật nào. Vì thế, các câu như – “Gót hiện hữu”, “Gót là yêu thương”,v.v…Vì không thể chứng minh là sai, nên không thể biết có đúng không, vậy thái độ là không thể tin và quan điểm là có lẽ chúng dối trá.

Tuesday, November 10, 2009

Bertrand Russell - Lịch sử Triết học phương Tây (1)



History of Western Philosophy
Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây







Chương Dẫn Nhập

Những khái niệm [1] về đời sống và thế giới mà chúng ta gọi là “triết lý”, là sản phẩm của hai thành tố: một, thừa hưởng những khái niệm tôn giáo và đạo đức; hai, một thứ nghiên cứu có thể gọi là “khoa học”, dùng từ này với nghĩa rộng nhất của nó. Hai thành tố này có phần tỉ lệ khác nhau rất xa trong những hệ thống của mỗi triết gia, nhưng sự có mặt của cả hai, trong chừng mực ít nhiều, biểu thị đặc điểm của triết học.

“Triết học” là từ vẫn đã được dùng với nhiều nghĩa, đôi khi rộng rãi hơn, đôi khi chật hẹp hơn. Tôi đề nghị dùng nó với nghĩa rất rộng, mà giờ đây tôi sẽ gắng giải thích.


Saturday, November 7, 2009

Bertrand Russell - Yếu tính của tôn giáo

Yếu tính của tôn giáo


The essence of religion
Bertrand Russell (1872-1970)








Lời dẫn của người dịch bản tiếng Việt

Yếu tính của tôn giáo, bản in đầu tiên trong The Hibbert Journal, Oct 1912, một tạp chí ra ba tháng một kỳ, chuyên về tôn giáo, thần học và triết học, tại London, nước Anh. Người bạn tình của Russell lúc ấy là bà Ottoline Morell rất mộ đạo, nên Russell viết bài này, đưa cho bà đọc, rồi sau đó cho các hội viên hội The Heretics tại đại học Cambridge thảo luận. Ông trình bày một quan điểm về tôn giáo – của cá nhân ông – không cần đến giáo điều, giáo chủ, giáo hội, là những điều ông lên án phản lý trí, phản đạo đức điển hình trong một luận văn nổi tiếng khác về tôn giáo Tại Sao Tôi Không là người Kitô?”

Lúc ấy, có nhiều phản ứng trái ngược về bản văn. Trong thư riêng gửi Russell, Tagore thú vị cho biết nó nhắc người đọc như ông đến hai câu của Upanishad về tiểu ngã, đại ngã.

Wednesday, October 14, 2009

Bertrand Russell - Triết học cho người không học triết


Triết học cho người không học triết
Bertrand Russell

Philosophy for Laymen
trong “Unpopular Essays” của Bertrand Russell [1]



Loài người, từ thuở có các cộng đồng văn minh, đã đối đầu những vấn đề thuộc hai loại khác nhau. Một bên là vấn đề làm sao chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, tìm thu kiến thức và kỹ xảo cần thiết để tạo dụng cụ, vũ khí và đưa Tự Nhiên vào việc sản xuất các động vật và thực vật hữu ích[2]. Vấn đề này, trong thế giới tân tiến, có khoa học và kỹ thuật giải quyết, và kinh nghiệm cho thấy để giải quyết nó cho thích đáng, cần phải huấn luyện một số đông chuyên viên các ngành hạn hẹp.

Monday, September 28, 2009

Bertrand Russell - Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta không?




Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta không?
Can religion cure our troubles?

Bertrand Russell (1872– 1970)







(Đã đăng làm hai kỳ trên Dagens Nyheter, tờ nhật báo lớn nhất Stockholm, Sweden. Nov 9 và 11, 1954.)

Một tư tưởng, tín ngưỡng dù sai, xấu, lạc hậu cũng không vì thế mà thành mối nguy cho loài người, mối nguy là có những người đưa nó lên ngai vàng –  rồi sống chết bảo vệ duy trì nó – xưng tụng nó là duy nhất đúng, là chân lý vĩnh viễn – là mãi mãi giá trị –  là không thể sai lầm – không có ai khác, có gì ngoài hơn được lãnh tụ, giáo chủ, tổ chức, hội thánh. Cuồng tín giáo điều hiện thân thành tổ chức – sắt máu mọc nanh vuốt thành guồng máy đàn áp nghi ngờ, đối lập: suy tưởng diệt, sáng tạo mất, con người không còn .
Trong xã hội, có tổ chức tôn giáo hay chính trị độc tôn như thế, xã hội ấy chết, không tiến hóa nữa, còn những con người trong xã hội ấy? Con người vẫn được sinh ra, lớn lên, rồi chết đi, nhưng chưa bao giờ sống.

Đó là thông điệp của Russell trong bài này – viết rất sớm khi chiến tranh lạnh mới bắt đầu (1954), giữa Mỹ/Tây Âu –  Cộng sản, trong đó có đối kháng giữa Vatican –  Kremlin.

"Đã thành một tục lệ của những nhà lý thuyết bảo vệ đạo Kitô – là nhìn chủ nghĩa Cộng sản như một cái gì rất khác biệt với đạo Kitô. Điều này với tôi là một sai lầm hết sức sâu xa –  Chính là những sự tương tự giống nhau giữa đạo Kitô và chủ thuyết Cộng sản làm chúng xung khắc đối kỵ với nhau."

Người dịch.
Lê Dọn Bàn


Tuesday, September 1, 2009

Nhân Đọc Thơ Ức Trai


Nhân Đọc Thơ Ức Trai








斿山寺

短棹繫斜陽,
匆匆謁上方。
雲歸禪榻冷,
花落澗流香。
日暮猿聲急,
山空竹影長。
箇中真有意,
欲語忽還忘。

Friday, June 19, 2009

Bertrand Russell – Những gì tôi đã sống



Những gì tôi đã sống

(What I Have Lived For)







(Lời mở đầu tự truyện của Bertrand Russell)

Ba đam mê giản dị nhưng mãnh liệt đã chi phối đời tôi: khát khao tình yêu, săn tìm tri thức và xót thương khôn cùng những khổ đau của loài người. Những đam mê này, như những trận cuồng phong, đã thổi tôi tán loạn bay đây đó khắp hướng trên một đại dương sâu thẳm ngập tràn thống khổ, chạm những bờ thật cùng quẫn tuyệt vọng.

Tôi đã tìm tình yêu, vì trước hết, nó đem lại ngất ngây – ngất ngây quá đỗi đến nỗi tôi đã thường liều hi sinh tất cả đời còn lại cho một vài giờ lạc thú. Thứ nữa, tôi tìm tình yêu vì nó làm dịu cô đơn – cái cô đơn ghê gớm bao trùm một ý thức run lẩy bẩy đứng vịn bờ thế giới nhìn xuống một vực sâu bí hiểm giá lạnh vô sinh khí. Sau cùng tôi đã đi tìm nó, vì trong sự hợp nhất của tình yêu, tôi đã thấy, trong một huyền bí thu nhỏ, cảnh mộng trước đây vẫn mô tả về chốn tuyệt đỉnh hạnh phúc các vị thánh và các nhà thơ đã tưởng tượng ra. Đó là những gì tôi đã tìm kiếm, và dẫu rằng nó xem dường tốt đẹp quá nên đời người hiếm gặp, đây là những gì – sau cùng – tôi đã tìm thấy [1].

Sunday, June 14, 2009

Bertrand Russell - Linh hồn là gì?

Linh hồn là gì?

(What is the soul? – 1929)
Bertrand Russell (1872-1970)








Lời người dịch

Trong Why I Am Not a Christian (1927) Russell có nhắc đến sự bất tử của linh hồn là niềm tin cơ bản của những người theo Kitô, nhưng không bình luận gì thêm. Bài viết này – tôi nghĩ – là để trở lại câu hỏi còn bỏ ngỏ đó.

Tôi dịch Linh hồn là gì? để tiếp ý bài đã dịch trên.

Tuy vậy, bài luận thuyết này là một biện luận cổ điển, giới thiệu quan điểm của Russell về thuyết nhất nguyên (monism) chủ trương tâm trí và vật chất không khác, không đối lập nhau. Riêng Russell, ông đứng về phía nhất nguyên trung tính (neutral monism) – nhấn mạnh rằng thực tại, tuy hợp nhất, không tâm thần cũng không vật lý, nhưng đúng hơn là một khối kết những thực thể trung tính. Ông định nghĩa thế giới : “Thế giới bao gồm những biến cố, không phải những sự vật trường tồn một thời gian dài và có những thuộc tính thay đổi”.

Một chiều đầu xuân, dưới cơn mưa giông lộng gió, nhìn sóng dậy trắng mặt hồ xanh thẫm, để thấy thế giới là những hiện tượng, những biến cố, có đó, mất đó,...không phải những thực thể dị tính.

Một lý thú khác – khi ông viết “trên cơ sở của chính khoa vật lý, là cho đến nay cái mà chúng ta gọi là thân-xác-của-chúng ta, thực sự nó là một cấu trúc khoa học phức tạp không tương ứng với một thực tại vật chất nào cả.” Nghĩa là cái chúng ta gọi là thân thể chúng ta – nó chỉ là một ý niệm, trong thực tại vật lý, không có cái gì là thân thể cả, có da, thịt, xương, rồi tế bào, rồi những electrons, protons, những năng lượng chuyển thể dạng liên tục từ những phản ứng hoá học nhất thời... Tất cả gợi những dòng sau đây:


Thursday, May 28, 2009

Bertrand Russell - Tại Sao Tôi Không là người Kitô?

Tại Sao Tôi Không là người Kitô?
Why I Am Not a Christian

Bertrand Russell (1872-1970)
  








Lời Người Dịch


1.
Tại sao tôi Không là người Kitô (Why I am not a Christian) – được coi như bản văn triết học báng bổ Kitô nhất đã từng viết và phổ biến rộng rãi, điều sau đến từ sức lôi cuốn tự nhiên với những người đọc là những ai đã có kinh nghiệm về tôn giáo lớn và quan trọng này. Sau mở đầu bằng định nghĩa một người theo Kitô chủ yếu là phải có niềm tin vào hai đối tượng: tuyệt đối vào Gót và ít nhiều vào Christ. Russell lần lượt trình bày sự nghi ngờ và phủ nhận của ông, qua luận lý, dựa trên lý trí của khoa học và triết học. Ở phần đầu tiên, Russell phân tích một số những biện chứng luận lý về sự hiện hữu của Gót, trong đó có luận chứng vũ trụ, luận chứng luật thiên nhiên, luận chứng thiết kế và những luận chứng đạo đức. Sang phần thứ hai, ông đi vào phê phán một vài điểm quen thuộc của giáo điều Kitô, cho thấy những thiếu sót ngay từ những lời giảng và tư cách đạo đức của chính bản thân Christ – đặc biệt là sự xác quyết của vị này vào tính vĩnh cửu của trừng phạt và của hỏa ngục, hai vũ khí tinh thần khủng bố con người.

Russell cũng bày tỏ mối hoài nghi về một Jesus lịch sử, nhưng khi đặt câu hỏi để đánh giá lại tính chất đạo đức vẫn được gán cho tôn giáo này, ông dựa trên những thuật kể về nhân vật Jesus tự xưng là Christ trong Tân ước, vì nhân vật này, dù hư hay thực, những người Kitô đã lấy chân dung đó làm khuôn mẫu đạo đức tối cao cho họ. Sau cùng, từ thực tại xã hội, giới hạn trong lĩnh vực đạo đức, ông lên án tổ chức thế tục của tôn giáo này: “Tôi nói – với tất cả thận trọng rằng – đạo Kitô, như tổ chức giáo hội, đã từng và vẫn còn, là thù nghịch chính của các tiến bộ đạo đức trên toàn thế giới”.


2.
Chúng ta đều biết Bertrand Russell là một nhà lôgích và một triết gia lỗi lạc. Why I Am Not a Christian, cũng là tên gọi chung của một tuyển tập gồm những bài viết về tôn giáo của ông, Bài  luận văn này – Tại sao tôi không là người Kitô chủ yếu là một lý luận chứng minh bản chất lừa dối và độc hại của tin tưởng tôn giáo và của các hoạt động hội nhà thờ. Tính chất lừa dối và độc hại này được Russell trình bày với những lập luận và bằng chứng không thể chối cãi, không thể đưa ra lập luận hoài nghi, hay phản bác được. Bài văn có cấu trúc lôgích đơn giản, chặt chẽ:  Ông nêu hai tiền đềvà đưa ra kết luận thuận lý và vững chắc từ hai tiền đề đó:  

Tiền đề 1              Gót không có thực; những chứng minh Gót hiện hữu đều không đứng vững 
Tiền đề 2              Christ không là người khôn ngoan nhất, cũng không là người đạo đức nhất 
Kết luận               đạo Kitô là một sai lầm, lừa dối và tai hại – nên tôi không là người Kitô

Nếu có thể tóm tắt kết luận chính yếu Russell đem cho chúng ta, là như sau: con người có tín ngưỡng, theo tôn giáo, và đặc biệt tin tưởng vào Gót – hoàn toàn đến từ tình cảm hơn là lý trí. Tình cảm chủ yếu đó, Russell chỉ ra là sự sợ hãi. Thế nên, đoạn cuối, ông khuyến khích chúng ta hãy là những người tự do, đừng để đời sống và tư tưởng bị nô lệ vì sợ hãi, hãy nhìn thẳng vào thế giới quanh mình, sống với nó, vui với nó, cam chịu với nó, hay như vẫn nóichìm nổi với đời này, đừng nhìn đâu khác, đừng trông mong đời khác, thần linh khác, đừng vì những không chắc thực mà bỏ mất những gì chắc chắn thực:

Chúng ta muốn đứng thẳng, vững chãi trên chính hai chân mình, tự lập với tất cả những gì cần để sống, không phải nhờ bất cứ ai khác, nhìn thế giới với con mắt ngay thực và công bằng – những sự kiện tốt, những sự kiện xấu, những cái đẹp đẽ, và những cái không-đẹp-đẽ của nó; nhìn thế giới như nó-thực-là, và đừng sợ nó. Chinh phục thế giới bằng trí tuệ thông minh và đừng chỉ đơn thuần để sự khiếp hãi từ nó đến làm mình bị khuất phục nô lệ. Toàn thể khái niệm về Gót là một khái niệm bắt nguồn từ những thể chế chuyên quyền cổ hủ của vùng Cận Đông. Nó là một khái niệm hoàn toàn đáng khinh, không xứng với con người tự do”.

3.
Ra đời đã gần một trăm năm, thông điệp của bản văn vẫn không mất chút thời gian tính nào, và đang được làm sống lại mạnh mẽ, sôi động, hùng hồn, và được tiếp nhận sâu rộng hơn, với những khuôn mặt mới nhưng sớm quen thuộc với độc giả của thế giới văn hóa Anh ngữ hiện nay, tạm kể những giọng đang cao, tiếng đang lớn, và đang chuyển động dư luận: Richard Dawkins, Daniel Dennett, Sam Harris, và Christopher Hitchens. Tôn giáo, đặc biệt là ba tôn giáo tin-chỉ-một-gót ở phương Tây, vẫn là đề tài thời sự nỏng bỏng của ngày nay, vì chúng đã không  chìm vào bóng tối như đã tưởng, nhưng vẫn không ngừng là những động lực mạnh mẽ đi ngược, cản trở những tiến bộ là thành tựu của lý trí con người, đặc biệt tại Âu Mỹ, trong các lĩnh vực đạo đức, xã hội, giáo dục và khoa học, (và những tác hại trực tiếp của chúng vào xã hội những nước hậu thực dân ở Á Phi).  Vũ khí tinh thần của những người dẫn đầu vận động Tân Vô thần (New-Atheism) này đem xử dụng, vẫn có thể gặp thấy trong Why I am not a Christian của Russell.

Tại sao tôi Không là người Kitô là bạn gối đầu giường của rất nhiều người, nhiều thế hệ. Giọng văn có nhiều chỗ hóm hỉnh và pha chút bông đùa, nhưng trước sau là sự chân thành chia xẻ kinh nghiệm cá nhân, mong đánh thức người nghe; ông hướng chúng ta đến suy tưởng sâu xa, hơn là những xúc động phẫn khích nhất thời, dù người nghe có đồng ý hay không với dòng suy nghĩ của ông về đạo Kitô, điển hình của loại tôn giáo tin-chỉ-một Gót; nên bài nói chuyện này cũng là một bản văn triết học kinh điển cô đọng, nghiêm chỉnh đặt những vấn đề trọng đại, nêu những vấn nạn tri thức rất nổi tiếng. Russell thực sự chỉ tiếp tục một truyền thống không-tin-có-gót vốn có sẵn của triết học phương Tây, trước khi có tôn giáo loại như Kitô, từ cổ thời  Hylạp, trong Epicurus, Lucretius, đến những khuôn mặt lớn của hai thế kỷ vừa qua: David Hume, Friedrich Nietzsche, Emile Durkheim, Sigmund Freud, Karl Marx. Why I am not a Christian đã thách thức bản chất tôn giáo, nội dung tin tưởng và nền tảng thần học của đạo Kitô. Riêng Why I am not a Christian, rất ngắn, rất gọn, không dày đặc ngôn từ triết học, chỉ bằng điềm đạm lôgích của những người mà ông gọi chung là những nhà tự do tư tưởng (Freethinkers), nhưng sức công phá của nó vẫn mãnh liệt không ngừng từ đó.

Ông phá mở những cánh cửa mà sau đó không thể nào đóng lại để tiếp tục che dấu, như trước nữa. Nhờ đó, rất nhiều người đã bỏ đi ra, và ắt phải đã có đông đảo hơn nhiều, những người có dịp bước ngang qua, nhưng đã không đi vào.

Không tìm thấy một bản Việt ngữ; tôi tạm dịch bài này – gửi những người lặng lẽ đi ra và những người vô danh không-đi-vào đó.

Những người Việt, những nạn nhân sống sót của thực dân tín ngưỡng, và xâm lăng văn hóa đến từ phương Tây.

Lê Dọn Bàn
(Jun/2009)