Sunday, December 20, 2015

Plato – Theaetetus (2)

Theaetetus
(Theaetetōs)

Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)






3. Định nghĩa thứ nhất (D1): “Hiểu biết là Tri giác” (αἴσθησις / aísthēsis) [151e–187a]
3.1 Định nghĩa Hiểu biết là Tri giác: [151d–e]


[151e]
Theaetetus: Vâng, Socrates, sau sự khuyến khích như thế từ ông, sẽ khó cho bất cứ một ai có khuôn phép lại không gắng hết sức người ấy, để nói những gì người ấy có trong mình. Vậy tốt lắm. Đối với tôi có vẻ rằng một ai là người biết một gì đó cảm nhận những gì người ấy biết, và lối nó bày hiện ra lúc này, dù ở mức độ nào, thì hiểu biết đó chỉ đơn giản là tri giác. [1]

Sunday, December 13, 2015

Plato – Theaetetus

Theaetetus
(Theaetetōs)

Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)








Dẫn nhập của người biên tập bản tiếng Anh


Plato đã có nhiều để nói trong những đàm thoại khác về sự hiểu biết (επιστημη epistêmê), nhưng đây là thăm dò được kéo dài bền vững duy nhất của ông vào câu hỏi “hiểu biết là gì?” Do thế, nó là tài liệu khởi dựng của những gì đi đến được biết như “tri thức học”(epistemology), như một nhánh của triết học; ảnh hưởng của Theaetetus – đặc biệt với Aristotle và những nhà phái Stoics – đã ghi đậm dấu trong tri thức học Hellas (Hylạp). Theaetetus là nhà toán học nổi tiếng, một cộng sự của Plato ở trường Academy trong nhiều năm. Phần mở đầu của đàm thoại xem dường thông báo rằng công trình này đã xuất bản như để tưởng niệm Theaetetus, không lâu sau cái chết yểu mệnh của ông, đương khi thi hành nghĩa vụ quân sự, năm 369 TCN. Do đó, chúng ta có thể định thời điểm xuất bản của đàm thoại khá chính xác, khoảng vài năm sau khi Theaetetus chết. Lúc đó, Plato khoảng sáu mươi tuổi, và Aristotle, một cộng sự lâu năm nổi tiếng khác, vừa gia nhập Academy như một sinh viên (367 TCN).

Monday, November 30, 2015

Plato – Parmenides (3)


Parmenides
(Παρμενίδης)

Plato 
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)







Diễn dịch Thứ Năm [160b–163b]
(D5) Nếu cái Một là-không, sau đó cái-Một là TD và ngược-với-TD trong tương quan với những cái khác

“Cho đến giờ như thế là tốt. Nhưng kế tiếp, không phải chúng ta phải xem xét hậu quả phải là những gì, nếu cái một là không có?” – “Vâng, chúng ta phải.” – “Sau đó, giả thuyết này sẽ là gì: ‘nếu một là không (có)?’ Nó có khác gì tất cả với giả thuyết này: ‘nếu không-mộtkhông’?” – “Dĩ nhiên nó khác.” – “Có phải nó chỉ khác, hay có phải khi nói ‘nếu không-một là không’, là hoàn toàn ngược lại với khi nói, ‘nếu một là không’? – “Hoàn toàn ngược lại” – “Nếu như một ai đó đã nói rằng, ‘nếu sự lớn rộng là không’, hoặc ‘nếu sự nhỏ bé là không’, hay bất cứ sự vật việc gì khác giống như thế, điều đó không phải sẽ rõ ràng trong từng trường hợp rằng – những gì người ấy nói – là một sự vật việc gì đó khác biệt?” – “Chắc chắn – “Vì vậy, bây giờ, cũng vậy, bất cứ khi nào người ấy nói, ‘nếu một là không’, không phải điều là rõ ràng rằng – những gì người ấy nói là không – thì khác biệt với những cái khác, và có phải chúng ta nhận ra những gì người ấy muốn nói có nghĩa gì?” – “Chúng ta có,” – “Vì vậy, người ấy nói về một sự vật việc gì đó, điểm thứ nhất, có thể biết được, và điểm thứ nhì, khác biệt với những cái khác, bất cứ khi nào người ấy nói “một”, cho dù người ấy gán ghép là-có hay sự không có vào nó, vì chúng ta vẫn biết sự vật việc gì được nói là không có, và rằng nó thì khác biệt với những cái khác. Không phải thế sao?” – “Tất yếu.” [1]

Thursday, November 12, 2015

Plato – Parmenides (2)

Parmenides
(Παρμενίδης)

Plato 
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)










Diễn dịch thứ nhì [142b–155e]
(D2) Nếu cái Một là-có, sau đó cái-Một là TD (Phần/Toàn thể, Một/Nhiều, Giới hạn/Vô hạn, Giống/Không giống,Yên nghỉ/chuyển động; Ngang bằng/không ngang bằng, ...) và ngược-với-TD (ngược-với Phần/ngược-với Toàn thể; ngược-với Một/ ngược-với Nhiều; ngược-với giới hạn/ ngược-với-vô hạn; ngược-với giống/ ngược-với không-giống;...) trong tương quan với chính những cái khác

(Dẫn nhập)

 [142b]
“Bạn có muốn trở về với giả thuyết từ bắt đầu, với hy vọng có thể đưa ra ánh sáng một loại kết quả khác, khi chúng ta xem xét lại chi tiết của nó?” – “Tôi thực muốn vậy.” – “Nếu cái một (có), chúng ta đang nói, không phải hay sao, rằng chúng ta phải đồng ý về những hệ quả đưa đến cho nó, bất kể dù chúng xảy ra là những gì?” – “Vâng.” – “Hãy xem xét từ bắt đầu: nếu cái một là, có thể nào nó , nhưng không dự phần vào là-có? [1]” – “Nó không thể.” – “Như thế, cũng sẽ có là-có của cái một, và cái đó thì không cũng là một như cái một. Vì nếu nó đã là (một như cái một), nó đã không thể là là-có của cái một, và cái một cũng không thể dự phần vào nó. Về mặt ngược lại, khi nói rằng cái một , sẽ là giống như khi nói rằng một là một. Nhưng lần này đó thì không là giả thuyết, cụ thể là, những hệ quả phải là những gì, nếu một là một, nhưng nếu một . [2] Không phải vậy sao? “– “Dĩ nhiên.” – “Đó có phải vì “” chỉ định một gì đó khác hơn là “một”? – “Tất yếu.” – “Như thế, bất cứ khi nào một ai đó, để ngắn gọn, nói “một là,” có phải điều này sẽ đơn giản có nghĩa rằng cái một dự phần vào là-có?” – “Chắc chắn rồi”.

Sunday, November 1, 2015

Plato – Parmenides


Parmenides
(Παρμενίδης)

Plato 
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)








Dẫn nhập của người biên tập bản tiếng Anh


Triết gia nổi tiếng Parmenides là nhân vật trung tâm của đàm thoại này. Ông, không phải Socrates, điều khiển cuộc thảo luận triết học – nếu Plato có một “người phát ngôn” ở đây, đó là Parmenides. Socrates được miêu tả như một nhà triết học trẻ đầy hứa hẹn và rất thông minh nhanh trí – ông hoàn toàn là một thiếu niên, mới chỉ bắt đầu sự chuyên nghiệp của mình trong ngành học này – là người cần suy nghĩ với cố gắng nhiều tích cực hơn và dài lâu hơn, trước khi ông sẽ có một sự nắm vững thoả đáng về bản chất của thực tại: Socrates này là một nhà siêu hình học vừa chớm nở, không phải là nhà tư tưởng thuần túy đạo đức của Apology và những đàm thoại Socrates khác.

Sunday, January 18, 2015

Plato – Meno (3)


MENO 
(Μένων)

Plato 
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)









Socrates: Nếu như tôi đã chế ngự bạn, Meno, và không chỉ mình bản thân tôi, chúng ta sẽ không tìm hiểu xem liệu đức hạnh có thể dạy được hay không, trước khi chúng ta tìm hiểu chính đức hạnh là gì đã. Nhưng vì ngay cả bạn không cố gắng để chế ngự chính mình, ngõ hầu bạn có thể có tự do, nhưng bạn cố gắng chế ngự tôi và làm như thế, tôi sẽ đồng ý với bạn – vì tôi có thể làm gì được? Như thế, xem dường, chúng ta phải thăm dò vào trong những phẩm chất của một gì đó vốn bản chất của nó chúng ta vẫn chưa biết. Tuy nhiên, vui lòng nới lỏng sự chế ngự của bạn một chút cho tôi, và đồng ý để tìm hiểu xem không biết nó có thể dạy được hay không, bằng phương tiện của một giả thuyết. Tôi muốn nói lối những nhà hình học thường thực hiện trong những điều tra của họ. Lấy thí dụ, nếu họ được hỏi không biết một diện tích cụ thể có thể vẽ được trong dạng của một tam giác nằm bên trong một hình tròn cho sẵn hay không, một trong số họ có thể nói: “Tôi vẫn chưa biết liệu diện tích đó có thuộc tính như thế không, nhưng tôi nghĩ, vì đã có, tôi có một giả thuyết, nó để dùng cho bài toán, cụ thể là thế này: Nếu diện tích đó là thuộc loại giống như khiến khi một người ứng dụng nó như một hình chữ nhật vào đường thẳng được cho sẵn trong vòng tròn, nó thì thiếu hụt bởi một hình tương tự như chính hình mà nó được ứng dụng, khi đó tôi nghĩ rằng một kết quả trong những kết quả tương ứng lựa chọn được, trong khi những kết quả trái lại khác, nếu nó là không thể cho điều này xảy ra được [1] . Như thế, bằng cách dùng giả thuyết này, tôi sẵn sàng để nói cho bạn biết kết quả là gì về phương diện để vẽ nó trong hình tròn – đó là, không biết điều đó là có thể, hay không có thể, làm được hay không.” [2] Vì vậy, chúng ta cũng hãy nói về đức hạnh, vì chúng ta không biết, hoặc nó hay những phẩm chất mà nó sở hữu là gì, và hãy để chúng ta điều tra xem không biết nó có thể dạy được hay không dạy được, bằng phương tiện của một giả thuyết, và nói điều này: Trong số những sự vật việc hiện hữu trong hồn người, đức hạnh thuộc về loại gì, rằng nó sẽ có thể dạy được hay không? Trước tiên, nếu nó là một loại khác hơn kiến thức, có phải nó có thể dạy dỗ được hay không, hay, như chúng ta đã vừa mới nói, nhớ lại được không? Hãy để nó là có không khác biệt với chúng ta dù chúng ta dùng thật ngữ nào: nó có thể dạy dỗ được không? Hay có phải điều là đơn giản với bất kỳ một ai rằng không thể dạy được người ta bất cứ gì ngoài kiến thức? – Tôi nghĩ vậy.

Saturday, January 10, 2015

Nietzsche – Bên kia Thiện và Ác

Friedrich Nietzsche.
Jenseits von Gut und Böse.
Vorspiel einer Philosophie der Zukunft.

Beyond Good and Evil
Prelude to a Philosophy of the Future






Bên kia Thiện và Ác
Khúc Dạo đầu cho một Triết lý của Ngày mai


Mục Lục
Lời nói đầu
Phần 1    Về thành kiến của những nhà triết học
Phần 2    Tinh thần tự do
Phần 3    Đặc tính con người tôn giáo
Phần 4    Châm ngôn và Tạm-nghỉ-ở-giữa
Phần 5    Về Lịch sử Tự nhiên của Đạo đức
Phần 6    Những học giả chúng ta
Phần 7    Đức hạnh chúng ta
Phần 8    Dân chúng và Tổ quốc
Phần 9    Quí phái là gì?
Từ những đỉnh cao: Khúc cuối













Thay lời tựa

Những tiếng nói trong gió lạnh
trên đồi ngập tuyết trắng
giữa tùng bách trăm năm
vẫn đợi xuân về
“bỏ lại và qua bờ bên kia, qua bờ bên kia đi....”
(có ngày mai nào không bỏ lại ngày qua?)

LDB
(Mùa đông 2014)


Monday, January 5, 2015

Plato – Meno (2)

MENO 
(Μένων)

Plato 
(Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347 TCN)

(tiếp theo ...)






(81)
Meno: Có phải luận chứng đó, với ông xem dường không vững chắc, Socrates?
Socrates: Không, với tôi.
Meno: Ông có thể cho tôi biết tại sao?
Socrates: Tôi có thể, tôi đã nghe những người khôn ngoan, nam và nữ, nói về những truyền thuyết linh thiêng. . .
Meno: Họ đã nói gì?
Socrates: Những gì, tôi nghĩ rằng, vừa đúng thực và đẹp đẽ.
Meno: Đó là gì, và họ là ai?
Socrates: Những người nói đã là trong số những nhà tu, phái nam và phái nữ, những người có quan tâm với sự có được khả năng để cho một giải thích về những thực hành của họ [1]. Pindar cũng thế, nói về nó, và nhiều những người khác, trong số những nhà thơ đã nhận cảm hứng từ nguồn linh thiêng của chúng ta. Những gì họ nói là thế này; xem liệu bạn có nghĩ rằng họ nói sự thật hay không: Họ nói rằng hồn người thì bất tử; có khi nó đến một kết thúc, mà họ gọi chết, có khi nó được tái sinh, nhưng nó không bao giờ bị hủy diệt, và do đó một người phải sống đời của mình thật sùng tín đạo hạnh nhất đến như có thể được: